14. Vai trò của đồng chí Nguyễn Ái Quốc với Hội nghị thành lập Đảng
Sau cuộc hội nghị hợp nhất không thành, An Nam Cộng sản Đảng thấy rằng, nếu không có một tổ chức thật mạnh mẽ thì cũng khó mà bàn chuyện hợp nhất một cách đường hoàng với Đông Dương Cộng sản Đảng. Vì vậy, nếu từ trước đến nay chưa bao giờ tự xưng là một đảng mà chỉ gọi là Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng ở nơi này hay nơi kia, thì nay đã phải thành lập một Ban lãnh đạo chung, đóng trụ sở ở ngay Sài Gòn và lấy tên là ''Ban lâm thời chỉ đạo'' các chi bộ An Nam Cộng sản Đảng.
“Ban lâm thời chỉ đạo” đặt ở trong nước cũng chỉ chỉ đạo các tổ chức ở trong nước. Các đồng chí ở Hương Cảng vẫn tổ chức một chi bộ đặc biệt của An Nam Cộng sản Đảng, nhưng không chịu sự chỉ đạo của ''Ban lâm thời chỉ đạo'', trái lại, còn chỉ đạo mọi mặt cho Ban đó, nhất là về đường lối, chủ trương; phụ trách xuất bản tờ báo Đỏ để tuyên truyền và chủ trì nội san lý luận lấy tên là Bônsơvích đối đáp lại những lý luận của Đông Dương Cộng sản Đảng. Còn ''Ban lâm thời chỉ đạo thì chỉ đạo công việc thường ngày, lúc khó khăn thì lại viết thư hỏi ý kiến các đồng chí chi bộ Hương Cảng và thường xuyên báo cáo tình hình với chi bộ ấy.
Tình hình hai bên công kích lẫn nhau để tranh giành tổ chức quần chúng, tranh giành ảnh hưởng với nhau vẫn đang căng thẳng. Chúng tôi đang lo buồn cho sự đoàn kết nhất trí của những người cộng sản, thì một tin mừng lớn bất ngờ đến: Đồng chí Vương - tức Nguyễn Ái Quốc đã trở về Trung Quốc, gặp các đồng chí An Nam Cộng sản Đảng ở Hương Cảng và gửi thư về nước triệu tập các nhóm An Nam và Đông Dương Cộng sản Đảng lập tức cử đại biểu ra Hương Cảng bàn việc hợp nhất.
“Ban lâm thời chỉ đạo'' cử đồng chí Việt - tức Châu Văn Liêm và tôi đi Hương Cảng bàn việc hợp nhất. Chúng tôi rất vui sướng vì sẽ được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người mà chúng tôi biết tiếng từ lâu nhưng chưa từng được gặp mặt.
Chúng tôi nghĩ, dẫu việc hợp nhất có không thành như lần vừa rồi đi chăng nữa, chúng tôi cũng sẽ có được một cơ hội để trình bày với đồng chí Vương, với đại biểu của Quốc tế Cộng sản tất cả những vướng mắc trong lòng. Từ lâu, chúng tôi vẫn ao ước có một người mà ai cũng phải thừa nhận 1à vô tư là hiểu biết sâu rộng về cách mạng hơn hẳn chúng tôi, để nhận xét và giúp chúng tôi giải quyết mọi vấn đề phức tạp. Người đó chính là đồng chí Vương.
Trong khi đi đường, chúng tôi cứ băn khoăn lo rằng, nhóm Đông Dương Cộng sản Đảng không cử đại biểu ra thì việc lại không thành, và công đi Hương Cảng của chúng tôi cũng trở thành công dã tràng. Một mặt, tôi vẫn tin rằng, các đồng chí đó nhất định phải cử đại biểu ra, vì ý muốn hợp nhất là ý muốn chung của những người cộng sản, từ lâu các đồng chí đó vẫn mong được Quốc tế Cộng sản thừa nhận, nay có đại biểu của Quốc tế Cộng sản đến, tất nhiên các đồng chí đó phải tìm gặp cho kỳ được, vả lại, đường giao thông liên lạc giữa Hải Phòng và Hương Cảng vẫn còn an toàn, chưa hề bị lộ, việc đi lại không khó khăn.
Chúng tôi đến Hương Cảng vào dịp Tết Canh Ngọ.
Trước tiên, chúng tôi gặp đồng chí Lương (tức Hồ Tùng Mậu), được biết rằng Đông Dương Cộng sản Đảng đã cử đại biểu đến rồi, hiện đang gặp đồng chí Vương; thái độ của hai đại biểu rất hòa nhã, vui vẻ, tỏ ý thiết tha với vấn đề hợp nhất, đồng chí Lương tin chắc rằng với năng lực và uy tín của một người như đồng chí Vương, mọi việc nhất định sẽ đi đến kết quả mỹ mãn. Tin tức đồng chí Lương đưa đến làm chúng tôi rất yên tâm và phấn khởi chờ ngày hội họp.
Buổi gặp gỡ thứ nhất của đại biểu hai nhóm cộng sản đã được đồng chí Đỗ (tức Lê Hồng Sơn) bố trí tại một căn nhà nhỏ hẹp ở xóm thợ thuyền gần Cửu Long thành. Tại đây, lần đầu tiên chúng tôi được gặp đồng chí Vương. Đồng chí Vương tuyên bố. Quốc tế Cộng sản đã biết có nhiều nhóm cộng sản được tự động tổ chức ra ở Việt Nam và hiện đang xung đột nhau. Sự xung đột ấy rõ ràng là không có lợi cho cách mạng, vì vậy đồng chí được Quốc tế Cộng sản phái về điều tra nắm rõ tình hình và bàn việc thống nhất các nhóm cộng sản thành một tổ chức duy nhất - đó là mục đích của cuộc họp.
Sau lời tuyên bố của đồng chí Vương thì đến lượt chúng tôi phát biểu ý kiến. Những ý kiến đầu tiên của hai nhóm đại biểu cũng chỉ luẩn quẩn ở chỗ muốn đưa đồng chí Vương đến chỗ là quan tòa phán quyết những đúng sai của chúng tôi. Đồng chí Vương liền gạt đi và nói đại khái như sau:
Bây giờ không nói chuyện cũ để xem ai phải, ai trái nữa. Thực ra nhóm nào cũng có cái đúng, cũng có cái sai, nhưng mục đích của cuộc họp này không phải là để chỉ trích lẫn nhau, để kết luận ai đúng, ai sai - thì giờ và công tác cách mạng trước mắt không cho phép chúng ta làm chuyện đó - mà mục đích duy nhất của cuộc họp này là hợp nhất tất cả các tổ chức cộng sản trong nước và nước ngoài thành một Đảng Cộng sản thống nhất và vững mạnh, chiến đấu cho lợi ích chung của cách mạng - và đó cũng là ý muốn của Quốc tế Cộng sản. Nếu những người cộng sản chúng ta thấy làm như thế là đúng, tán thành làm như thế, thì không nên nhắc nhiều đến chuyện cũ, hãy xếp lại mọi xích mích, mà nên để nhiều thì giờ bàn những chuyện phải làm hiện nay và sắp tới.
Tất cả chúng tôi đều thấy rằng ý kiến của đồng chí Vương lúc bấy giờ là đúng, nên mặc dù chúng tôi còn muốn nói nhiều nữa, chúng tôi đồng ý với nhau là trước hết hãy bàn chuyện hợp nhất.
Tuy vậy, khi bàn cụ thể phải tổ chức hợp nhất như thế nào thì lại phát sinh ý kiến tranh chấp xung đột nhau, chỉ trích lẫn nhau như bảo bên này tổ chức quá phức tạp, bảo bên kia tổ chức vô nguyên tắc, hẹp hòi.. Cuộc bàn cãi trở thành gay go.
Đồng chí Vương lại giải thích thuyết phục, đại ý như sau:
Hai nhóm cộng sản có quá trình và cách thức tổ chức không giống nhau, mỗi nhóm có cái phức tạp đặc biệt của nó cho nên không thể sáp nhập nhóm nào vào nhóm nào được, cũng không thể hỗn hợp ngay hai nhóm lại với nhau. Hơn nữa, ngoài hai nhóm ''Đông Dương'' và ''An Nam'' có mặt ở đây còn có thể có nhiều nhóm cộng sản nữa mà ta chưa liên lạc được, hoặc giả có nhưng nhóm người, những cá nhân tán thành chủ nghĩa cộng sản, nhưng chưa chịu lấy danh nghĩa cộng sản vì thấy có những tổ chức tự xưng là cộng sản mà còn công kích lẫn nhau, họ chưa hiểu ra thế nào... Muốn thu hút hết thảy những người, những nhóm người tình nguyện chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản vào một tổ chức cộng sản thống nhất thì bây giờ phải thành lập một Đảng Cộng sản mới, theo đúng đường lối, chủ trương của Quốc tế Cộng sản, có chính cương mới, điều lệ mới, sách lược mới. Bất cứ cá nhân nào, nhóm người nào tán thành điều lệ, chính cương, sách lược của Đảng, tình nguyện gia nhập Đảng thì sẽ được kết nạp. Tổ chức này không mang những thành kiến cũ giữa nhóm này với nhóm kia. Chúng ta cũng sẽ không phải lo ngại quá nhiều về chuyện sẽ có một số phần tử phức tạp chui vào Đảng, vì Đảng Cộng sản là đảng đấu tranh, những cuộc tranh đấu sẽ đào thải những phần tử phức tạp, chẳng khác gì một cái sàng sàng gạo, những hạt gạo xấu và sạn cát sẽ dần dần lọt xuống hết và cuối cùng chỉ còn những hạt gạo tốt. Đồng chí Vương vừa nói đến đoạn này vừa đưa hai tay ra làm động tác một người sàng gạo rất vui vẻ.
Tất cả chúng tôi đều im lặng, không ai nói vào đâu được. Thế là một vấn đề gay go được giải quyết trong cuộc họp.
Bây giờ đến việc đặt tên cho tổ chức cộng sản mới. Các đại biểu nhóm ''Đông Dương'' đề nghị giữ lại cái tên ''Đông Dương Cộng sản Đảng''. Các đại biểu nhóm ''An Nam'' không đồng ý như vậy, cho rằng đó là cái tên của một nhóm cộng sản cũ rồi, không nên dùng lại làm gì. Chỉ có đặt tên cho tổ chức mà cuộc thảo luận cũng sôi nổi và gay go.
Đồng chí Vương đã chuẩn bị ý kiến từ trước (có lẽ đồng chí đã dự đoán trước những vấn đề sẽ xảy ra trong cuộc họp), để cho đại biểu hai nhóm nói hết ý kiến rồi mới điềm tĩnh đưa ý kiến của mình ra phân tích như sau:
Đông Dương là cái tên chỉ những nước ở trên bán đảo giữa Ấn Độ và Trung Quốc, như thế gồm có Miến Điện, Xiêm La, Mã Lai, Miên, Lào và ba kỳ của nước chúng ta; cho nên thường người ta muốn chỉ Miên, Lào và nước chúng ta thì dùng cái tên “Đông Dương thuộc Pháp'' (Indochine Francaise); nhưng không ai dại gì mà dùng cái tên “Đảng Cộng sản Đông Dương thuộc Pháp''.
An Nam 1à cái tên người Trung Quốc vẫn quen dùng từ lâu để gọi nước ta; nhưng hiện tại đối với người Pháp và thế giới, trên bản đồ, An Nam chỉ là Trung Kỳ.
Rốt lại chỉ có cái tên Việt Nam là đúng hơn hết và thích hợp nhất. Đối với người Trung Quốc, cái tên Việt Nam cũng quen chẳng kém gì cái tên An Nam; đối với thế giới thì dần dần người ta cũng quen. Nước ta đang bị bọn đế quốc chiếm cứ, nhân dân ta phải có nhiều hành động quật khởi thì rồi người ta mới biết đến tên tuổi được. Cái tên ''Đảng Cộng sản Việt Nam'' không còn lẫn vào đâu được mọi người sẽ không còn nghĩ đến một tổ chức cũ nào cả.
Cuối cùng, đồng chí Vương nói: Dầu sao cái tên Đảng vẫn không phải quan trọng hàng đầu, mà quan trọng hàng đầu chính là đường lối, chính sách, chủ trương và thành phần của Đảng. Nhưng vì rằng mọi người dự cuộc họp đều tha thiết tìm cho Đảng một cái tên thật thích hợp, nên sau ý kiến đưa ra của đại biểu quốc tế, các đại biểu hãy suy nghĩ thêm xem có tìm ra một cái tên nào tốt hơn không, và hôm sau sẽ tiếp tục bàn bạc.
Thực ra thì chẳng ai trong chúng tôi có ý kiến gì khác nữa. Chúng tôi sung sướng đến nhẹ nhõm cả người. Chúng tôi vô cùng cảm ơn đồng chí Vương đã làm cho chúng tôi được thoả lòng. Đảng mới, tên mới, tất cả đều thống nhất theo tinh thần mới. Có thể nói, mọi người đều được mà chẳng ai mất gì. Đồng chí Vương đã đem lại cho chúng tôi nhiều quá, nhiều gấp mấy lần những điều mà chúng tôi mong ước.
Đêm ấy về nhà, chúng tôi không ngủ được vì quá vui sướng.
Các cuộc họp tiếp sau đó đều được tiến hành trong không khí thân ái, đoàn kết. Nội dung chủ yếu của các cuộc họp này là bàn: phải thảo luận những văn kiện gì, phân công người thảo văn kiện, đồng thời cũng bàn kế hoạch về nước phải làm gì, quyền hạn, nhiệm vụ của mỗi người, nếu gặp khó khăn thì giải quyết ra sao ...
Văn kiện quan trọng nhất là ''Lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam'' đối với mọi tầng lớp nhân dân thay cho bản tuyên ngôn thành lập Đảng thống nhất. Lời kêu gọi phải viết sao cho chẳng những hiệu triệu được các tầng lớp nhân dân mà còn hiệu triệu được các tổ chức cách mạng nhân vật cách mạng ở trong nước và nước ngoài. Chúng tôi nhất trí đề nghị đồng chí Vương đảm đương nhiệm vụ quan trọng này. Chúng tôi chú ý đến từng lời, từng chữ trong bản kêu gọi, coi đó là trung tâm của mọi văn kiện. Cái tên ''Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam'' đã làm chúng tôi rất vừa lòng. Trong khi các nhóm cộng sản mới xuất hiện đang công kích lẫn nhau làm cho mọi người hoang mang, ngờ vực, thì cái tên Nguyễn Ái Quốc gắn liền với Quốc tế Cộng sản và ''Đảng Cộng sản Việt Nam'' thật sự là hợp thời và cần thiết, nó bảo đảm cho sự tin tưởng của mọi người, đây là một phong trào cộng sản chân chính, do những người cộng sản Việt Nam lãnh đạo, được Quốc tế Cộng sản thừa nhận, và trong đó, có vai trò của một con người tiêu biểu mà ai cũng biết tên tuổi.
Ngoài ra, chúng tôi phân công nhau thảo ra Điều lệ, Chính cương, Sách lược tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, thảo Điều lệ của các Hội quần chúng như Thanh niên đoàn, Công hội, Nông hội, Hội Binh lính, Hội Học sinh, Hội Phụ nữ, Cứu tế đỏ, Phản đế đồng minh... Để thảo những văn kiện này, chúng tôi tham khảo các nghị quyết của Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VI. Chúng tôi thấy Quốc tế Cộng sản đề ra ba cuộc cách mạng cho các nước trên thế giới có trình độ phát triển không đồng đều nhau, và ở nhưng nước như Trung Quốc, Việt Nam thì cần tiến hành cuộc cách mạng tư sản dân quyền, nên đã căn cứ vào đường lối cách mạng tư sản dân quyền mà thảo ra Chính cương, Sách lược tóm tắt của Đảng, đồng thời cũng có thêm bớt những điểm này điểm kia cho phù hợp với hòan cảnh Việt Nam theo sự hiểu biết của chúng tôi hồi đó.
(Theo Nguyễn Thiệu, cán bộ lão thành cách mạng - một trong những đại biểu tham dự Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam)
15. Tôi đã có được niềm vinh dự và nguồn hạnh phúc lớn lao đó
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của nhân dân ta - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, người khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tức nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, người sáng lập lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, người chiến sĩ cộng sản quốc tế mẫu mực, người bạn thân thiết của các dân tộc đang đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới - một vĩ nhân của nhân loại trong thế kỷ XX.
Được gặp Người là ước vọng, niềm vinh dự và nguồn hạnh phúc lớn lao của mọi người Việt Nam yêu nước.
Tôi là một trong số những người đã có được niềm vinh dự và nguồn hạnh phúc lớn lao đó.
Lần đầu tiên, tôi cùng các thầy cô giáo và sinh viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội được đón Người tại chính trường mình. Hôm đó là ngày mồng l Tết Nguyên đán năm 1958 - ngày Tết cổ truyền của dân tộc ta.
Chuyến thăm không báo trước, không ''tiền hô, hậu ủng'' của Bác giống như một người ông, người, cha đến ''xông nhà'' và chúc Tết con cháu đúng vào ngày đầu Xuân làm cho chúng tôi, lãnh đạo cũng như cán bộ, công nhân viên và sinh viên khá bất ngờ và lúng túng.
Nơi Bác đến đầu tiên là khu ở của sinh viên. Hầu hết sinh viên ở lại ăn Tết tại trường hôm đó là con em đồng bào miền Nam tập kết. Do đêm trước đón giao thừa quá khuya và thao thức nhớ nhà nên ở nhiều phòng, sinh viên vẫn đang say sưa giấc nồng. Tiếp đến, Bác xuống kiểm tra bếp ăn tập thể.
May thay, bếp núc gọn gàng, bữa cơm đầu năm đã được chuẩn bị khá tươm tất. Bác khen tinh thần phục vụ của các anh chị cấp dưỡng.
Tin Bác đến thăm lay động toàn trường. Mọi người đổ xô ra đón và quây quần quanh Bác. Sau mấy lời chúc Tết, Bác căn dặn chúng tôi:
“Giáo dục phải kết hợp với lao động sản xuất; lý luận phải gắn liền với thực tiễn; học phải đi đôi với hành; nhà trường phải gắn liền với xã hội''.
Lời căn dặn đó của Bác đã trở thành phương châm giáo dục của Nhà nước ta sau này.
Bác cũng không quên nhắc nhở cán bộ, sinh viên cần gọn gàng, ngăn nắp. Đặc biệt, đối với sinh viên, con em đồng bào miền Nam, Bác nhấn mạnh: Phải học tập tốt hơn, rèn luyện tốt hơn và sẵn sàng trở lại miền Nam khi Tổ quốc cần.
Lần thứ hai trường chúng tôi được đón Bác là ngày 17-6-1960 khi Bác cùng Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Anbani đến thăm trường.
Điều làm tất cả chúng tôi khá bất ngờ là phong cách dung dị và dân dã của một vị lãnh tụ tối cao. Tranh thủ lúc Đoàn bạn vào thăm phòng triển lãm của trường, Bác đã dành cho thầy trò chúng tôi những giây phút đầm ấm, thân thương. Bác ngồi bệt ngay tại bậc lên xuống nhà triển lãm và vẫy gọi chúng tôi đến quây quần quanh Người. Bác hỏi tình hình nhà trường. Bác rất vui khi biết qua 2 năm kể từ khi Bác đến thăm lần thứ nhất, nhà trường đã có nhiều tiến bộ, Bác khen trường đã bồi dưỡng, đưa được nhiều công nhân, nông dân, con em dân tộc thiểu số và các chiến sĩ quân đội vào học đại học. Nhưng Bác lưu ý: Số các cháu gái vào Đại học Bách khoa còn ít. Các chú phụ trách nhà trường cần phải chú ý hơn đến tình hình này.
Bác căn dặn chúng tôi: ''Học để phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Thầy trò cần thi đua dạy tốt học tốt''.
Cuộc vận động ''dạy tốt học tốt'' trong ngành Giáo dục của chúng ta ra đời bắt đầu từ ngày hôm đó.
Lần thứ ba Bác đế thăm trường là ngày 03-02-1962 cùng Đoàn đại biểu Nhà nước Lào do Hoàng thân Xuvanna Phuma dẫn đầu. Kỷ niệm sâu sắc tôi về chuyến thăm lần này của Bác là: Khi đã vào hội trường, đứng trên Đoàn Chủ tịch, Bác vẫy hai tay ra hiệu nhiều lần cho mọi người ngồi xuống. Nhưng tất cả đều đứng và hô vang: ''Hồ Chủ tịch muôn năm, muôn năm!”. Tiếng hô không ngớt và kéo dài chừng 5 phút. Khi mọi người đã yên vị, Bác nói vui: ''Các cô, các chú, các cháu giảng dạy tốt, học tập tốt, công tác tốt thì hãy hô: Bác Hồ muôn năm!... Yêu Bác, quý Bác, các cô, các chú, các cháu hãy thi đua dạy tốt, học tốt và lao động tốt''.
Song, những kỷ niệm sâu sắc nhất mà tôi muốn kể trong bài viết này chính là những lần được gặp Bác tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng ta diễn ra từ ngày 05 đến ngày 10-9-1960 tại Thủ đô Hà Nội.
Hồi đó, tôi đang là cán bộ giảng dạy tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Bỗng một hôm, vào cuối tháng 6, tôi được lãnh đạo nhà trường gọi lên thông báo quyết định phải bàn giao ngay công việc và cho nghỉ phép một tuần để sau đó đi nhận công tác đặc biệt. Anh em cán bộ giảng dạy trong bộ môn tôi đoán già, đoán non nhưng cuối cùng đành chịu, chẳng ai biết công tác đặc biệt đó là gì.
Hết thời gian nghỉ phép, tôi khoác ba lô, đáp xe đến địa điểm đã quy định trong giấy triệu tập. Đó là khu nhà số 8 và số 10 đường Chu Văn An - Hà Nội hiện nay.
Qua ít ngày ổn định tổ chức và học tập nội quy mọi người chúng tôi mới vỡ lẽ ra là mình được triệu tập đi phục vụ Đại hội III của Đảng.
Sau đó, tất cả được chuyển về Trường Tuyên huấn Trung ương để học tập chính trị nhằm xác định thái độ phục vụ và bắt tay vào công việc được phản công. Và cũng chính từ ngày chuyển về đây, mọi học viên thực hiện lệnh cấm trại, ''nội bất xuất, ngoại bất nhập'' nhằm bảo đảm bí mật tuyệt đối.
Mọi việc chỉ được phép tiến hành trong phạm vi của nhà trường. Không điện thoại, không thư từ, tạm thời cắt đứt mọi quan hệ cá nhân với thế giới bên ngoài, cắt tóc tại chỗ, mua sắm tại chỗ, v.v..
Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước lần lượt đến lên lớp cho chúng tôi về tình hình thế giới và trong nước. Trong số những báo cáo viên đến lớp có đồng chí Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Bộ Công an nói về an ninh quốc phòng và âm mưu của địch chống phá ta; đồng chí ''Sao Đỏ'' tức Nguyễn Lương Bằng, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Liên bang Xô viết giới thiêu về thành tựu mọi mặt của Liên Xô và phong cách tiếp đón, thái độ phục vụ khách quốc tế cũng như một số thủ tục, nghi lễ ngoại giao. Đại sứ nước ta tại Trung Quốc nói về quan hệ ta - bạn và sự giúp đỡ vô tư và hào hiệp của bạn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đồng chí Ung Văn Khiêm, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trình bày tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, v.v..
Chúng tôi sáng lên lớp, chiều thảo luận, tốt viết thu hoạch. Gần một tháng miệt mài nghiên cứu và học tập đã trôi qua. Bỗng sáng đó Bác đến. Đi cùng với Bác là anh Lê Văn Lương, Trưởng ban Tổ chức Đại hội III của Đảng.
Vẫn bộ áo nâu sồng quen thuộc và đôi dép “Bình Trị Thiên khói lửa'', Bác hòa vào giữa đám đông con cháu trong những tiếng hô vang như sấm dậy và những tràng vỗ tay không ngớt. Bác khen chúng tôi học tập tốt. Bác mong chúng tôi phục vụ Đại hội thật tốt vì Đại hội này là Đại hội của một nửa đất nước được giải phóng với số đại biểu đông nhất, cả đại biểu trong nước cũng như đại biểu nước ngoài. Đại hội sẽ tổng kết 30 năm xây dựng Đảng và quyết định những vấn đề trọng đại nhất của đất nước là đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hòan thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước. Bác nhắc nhở anh chị em phục vụ các đại biểu nói chung, đại biểu khách nước ngoài nói riêng phải hết sức chu đáo, trọng thị, nhưng thân tình. Bác nói: Mới ra khỏi chiến tranh, đất nước ta còn nghèo nhưng là nghèo về cơ sở vật chất, chứ không nghèo về tình cảm. Ta lại chưa quen đón khách quốc tế. Lấy cái giàu về tình cảm bù cho cái nghèo về vật chất và thiếu kinh nghiệm về lễ tân, Bác chắc chắn bạn sẽ thông cảm với ta.
Học tập chính trị xong, tôi được Ban Tổ chức quyết định cùng anh Đậu Ngọc Xuân và anh Trịnh Ngọc Thái 7 phụ trách bộ phận phiên dịch các văn kiện Đại hội. Anh Đậu Ngọc Xuân phụ trách phần chuyên môn, anh Trịnh Ngọc Thái lo khâu tổ chức và tư tưởng còn tôi nhỏ tuổi hơn được phân công lo khâu hậu cần.
Vì lo khâu hậu cần, nên tôi thường được họp với Ban Tổ chức Đại hội. Và vì vậy, có nhiều dịp được gặp Bác Hồ.
Bộ phận phiên dịch văn kiện chúng tôi được chia thành 5 tổ: Tổ dịch tiếng Pháp, tổ dịch tiếng Anh, tổ dịch tiếng Trung, tổ dịch tiếng Nga và tổ dịch tiếng Tây Ban Nha. Trừ hai tổ tiếng Pháp và tiếng Anh gồm đa phần là những chuyên gia về tiếng Anh, tiếng Pháp đầu đàn như các giáo sư Phạm Huy Thông, Hoàng Xuân Nhị, Nguyên Văn Chất, v.v., còn các tổ tiếng Nga, tiếng Trung và tiếng Tây Ban Nha thì hầu hết là lớp trẻ, thâm niên trong nghề còn ít. Vì vậy, Trung ương đã mời và bổ sung cho những tổ này một số chuyên gia phiên dịch người Nga, người Trung Quốc và Cuba thạo tiếng Việt.
Vất vả nhất và mệt nhất đối với đội ngũ phiên dịch viết chúng tôi là những ngày gần Đại hội và trong thời gian tiến hành Đại hội. Vì đến lúc đó các đoàn đại biểu nước ngoài mới đến, mới có bài để dịch. Nhiều đoàn lại không đưa ngay, chờ nghe diễn văn khai mạc của chủ nhà, nghe tham luận của các đảng bạn mới hoàn chỉnh bài phát biểu của đoàn mình và chỉ đưa cho bộ phận phiên dịch Đại hội vào giờ chót, nghĩa là nếu phát biểu sáng hôm sau thì chiều hôm trước mới đưa. Thế là guồng máy phiên dịch làm việc trắng đêm. Dịch từ tiếng nước bạn sang tiếng Việt và từ tiếng Việt các tổ phiên dịch chuyển sang các thứ tiếng khác. Mà không phải một đêm. Sự việc đó diễn ra trong suốt những ngày Đại hội.
Hình như thông cảm với những khó khăn của phiên dịch viết, đêm mồng 6-9, một ngày sau hôm khai mạc Đại hội, Bác bất chợt đến thăm bộ phận chúng tôi. Cùng đi có các anh Lê Văn Lương, Ung Văn Khiêm và Tố Hữu. Hôm đó, Bác rất vui. Câu đầu tiên là Bác khen các bản dịch chính xác, diễn đạt sát ý, văn phong tốt. Bác thưởng cho các anh mỗi người một điếu thuốc thơm. Bỗng Bác quay sang phía Giáo sư Phạm Huy Thông và nói vui: “Đúng chú này ''mũi nhòm mồm'' thật nên Trung ương viết: Trong kế hoạch 5 năm 1961-1965 sẽ xây dựng 400 nhà máy, xí nghiệp thì chú lại dịch sang là xây dựng 400 nhà bếp (tiếng Pháp USINE là nhà máy, do đánh máy nhầm thành CUISNE là nhà bếp). Mọi người cười vui.
Bác lại hỏi lại anh Lương:
- Thế tiêu chuẩn ăn hằng ngày của các cô chú dịch viết là bao nhiêu? - Thưa Bác là 5 ký gạo - Anh Lương thưa.
- Còn đại biểu Đại hội?
- Thưa Bác là 10 ký.
Bác góp ý với anh Lương:
- Chính sách của chú như vậy là chưa xã hội chủ nghĩa, chưa thực hiện đúng nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Các đại biểu Đại hội ngày họp, đêm nghỉ. Còn các cô chú bộ phận phiên dịch văn kiện phải làm ngày, làm đêm mà lại chỉ được hưởng bằng một nửa tiêu chuẩn đại biểu Đại hội là không công bằng. Bác đề nghị chú cần sửa ngay.
Và thế là hôm sau, ba bữa ăn chính của bộ phận phiên dịch được cải thiện. Ngoài ba bữa chính, anh Lương còn chỉ thị cho bộ phận hậu cần bổ sung thêm suất ''bồi dưỡng ca đêm'' vào lúc 12 giờ khuya (thời đó tính tiêu chuẩn bằng gạo. Mỗi ký gạo là 4 hào. Tiêu chuẩn đại biểu chính thức là l0 ký tức 4 đồng).
Một kỷ niệm sâu sắc, một bài học để đời về tôn trọng phụ nữ mãi mãi in đậm trong tôi. Đó là việc Bác chụp ảnh với các đoàn đại biểu quốc tế, đại biểu trong nước và cán bộ, nhân viên phục vụ. Để tranh thủ thời gian, các đoàn cần tập hợp đội hình trước để đến khi Bác đến là có thể chụp được ngay. Tôi được phân công sắp xếp khối phiên dịch. Khi bố trí, tôi đã có ý định trước là dành một chỗ khá rộng để Bác đến thì mình có thể ngồi cạnh. Nhưng sự việc lại không như ý muốn. Khi đến, Bác nhắc tôi và một đồng chí khác ngồi lại hàng sau rồi mời hai cô phiên dịch người Nga lên ngồi cạnh Bác.
Đến lượt đoàn đại biểu các dân tộc được chụp chung với Bác. Do nhiều đồng chí lần đầu được gần Bác nên Bác vừa tới, anh em bỏ hàng ngũ đã sắp xếp sẵn, chạy ồ đến vây quanh Bác. Anh Chu Văn Tấn lúc đó là trưởng đoàn rất lúng túng. Anh Lê Văn Lương gọi tôi đến giúp một tay ổn định trật tự xong, tôi chạy đi thì Bác gọi lại và bảo anh Tấn nhích lại gần Bác để tôi ngồi cạnh anh.
Chụp xong, Bác hỏi tôi:
- Cháu dân tộc nào?
- Thưa Bác, cháu dân tộc Kinh - Tôi thưa.
Bác ồ lên một tiếng:
- Bác tưởng cháu là dân tộc thiểu số. Sao da cháu nâu vậy?
- Thưa Bác, mấy hôm nay cháu phải chạy việc nhiều nên da bắt nắng.
- Thế cháu làm việc ở đâu, đã có gia đình chưa?
- Thưa Bác cháu dạy ở Trường Đại học Bách khoa và đang có người yêu.
Bác rất vui và quay sang bảo anh Lương cho tôi 2 giấy mời để tối hôm đó đưa người yêu đi dự Đại hội của nhân dân Thủ đô chào mừng thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được tổ chức tại Sân vận động Hàng Đẫy.
45 năm đã trôi qua kể từ Đại hội III của Đảng ta, 36 năm Bác đã đi xa. Nhưng hình ảnh Bác, những điều Bác căn dặn và những tình cảm mà Bác dành riêng cho tôi, cho vợ chồng tôi mãi mãi là ngọn đuốc thiêng chỉ đường dẫn lối cho gia đình tôi đến bến bờ hạnh phúc.
Chúng tôi mãi mãi đội ơn Người và luôn luôn làm theo Di chúc của Người.
(Theo Nguyễn Túc, nguyên Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam)
Thanh Huyền (tổng hợp)