* Tháng 8 -1908:Nguyễn Tất Thành với tên gọi Nguyễn Sinh Côn có thể được nhận vào Trường Quốc học Huế, theo thư của ông Hiệu trưởng Quốc học Sukê (Chouquet) gửi ông Khâm sứ Trung Kỳ.
* Ngày 26 - 8- 1911 :Nguyễn Tất Thành đến Đoongkéc (Dunkerque), một hải cảng của Pháp trên bờ biển Măngsơ (Manche), theo hành trình của tàu.
* Đầu tháng 8 -1914:Từ nước Anh, Nguyễn Tất Thành gửi thư cho cụ Phan Châu Trinh ở Pháp. Bức thư có đoạn:
“Kính gửi Nghi Bá đại nhơn,
“Tiếng súng đang rền vang và thây người đang phủ trên đất. Năm cường quốc đã vào vòng chiến và chín nước đang đánh nhau. Cháu chợt nhớ đến thư cách đây mấy tháng đã viết về cơn giông bão này. Định mệnh sẽ dành cho chúng ta nhiều bất ngờ và không thể nói trước được ai sẽ là người thắng.
Các nước trung lập đang còn lưỡng lự và các nước tham chiến chưa rõ được ý họ. Tình hình như vậy, ai nhúng mũi vào thì chỉ có thể đứng về phía này hoặc phía kia. Hình như người Nhật có ý nhúng tay vào. Cháu nghĩ trong vòng ba, bốn tháng nữa, số phận châu Á sẽ thay đổi và thay đổi nhiều”.
Xin gửi lời thăm Nghi Bá và em Dật. Xin trả lời cháu sớm về địa chỉ sau đây:
Nguyễn Tất Thành
Số 8 đường Xtêphen Tôttenham, Luân Đôn"
* Tháng 8 - 1919.
- Ngày 2 :Bài viết Vấn đề dân bản xứ của Nguyễn Ái Quốc, đăng trên báo L' Humanité. Bài báo nhắc lại những nội dung chính của bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Vécxây hồi tháng 6-1919, khẳng định nguyện vọng đó của nhân dân Việt Nam là chính đáng; đồng thời tố cáo, lên án chính sách cai trị, những thủ đoạn đàn áp, cướp bóc của thực dân Pháp ở Đông Dương và tin tưởng rằng nhân dân tiến bộ Pháp sẽ đồng tình, ủng hộ cuộc đấu tranh vì tự do và công lý của nhân dân Việt Nam.
- Ngày 3:Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Giăng Ajanbe (Jean Ajalbert). Toàn văn bức thư như sau:
Pari, ngày 3-8-1919
Thưa Ngài,
Được biết Ngài quan tâm đến đất nước chúng tôi, tôi xin mạn phép gửi đến Ngài:
1. Bản Yêu sách của nhân dân An Nam;
2. Một bài của báo L'Humanité viết về các yêu sách đó;
3. Một bài báo của Courrier Colonial cũng viết về đề tài đó;
4. Bản tin của Liên minh nhân quyền có đăng bài điều trần của cụ Phan Châu Trinh.
5. Địa chỉ của Ngài là do Giáo sư Gabrien Xailơ (Gabriel Seailles) vui lòng cung cấp cho chúng tôi.
Nguyễn Ái Quốc
6 Villa des Gobelins
* Tháng 8 - 1920
- Ngày 21:Nguyễn Ái Quốc ốm, phải vào nằm điều trị tại Bệnh viện Côsanh (Cochin).
- Ngày 24:Nguyễn Ái Quốc đến nhà số 6 phố Buyô (Buot) tìm người chủ gian hàng mà Phan Châu Trinh đã thuê để đặt xưởng ảnh.
-Khoảng cuối tháng 8: Nguyễn Ái Quốc tham dự cuộc mít tinh lớn do Đảng Xã hội Pháp tổ chức tại rạp xiếc Mùa Đông (Pari) để nghe Mácxen Casanh và L.O. Phơrốtxa (L.O. Frossaard), đại biểu vừa được Đảng cử đi Nga về báo cáo những vấn đề liên quan đến Quốc tế III.
* Tháng 8- 1921
- Trước ngày 4:Nguyễn Ái Quốc nhận tại nhà số 6 phố Vila đê Gôbơlanh một gói chừng 20 tờ báo Le Libertaire có đăng bài của Vinhê Đốctông mà Nguyễn Ái Quốc gợi ý viết. Bài này buộc tội chính quyền Pháp ở Đông Dương khuyến khích việc tiêu thụ rượu cồn và thuốc phiện.
- Ngày 13:Nguyễn Ái Quốc đến nhà số 6 phố Vila đê Gôbơlanh từ 6 giờ đến 18 giờ 30, thăm ông Phan Văn Trường. Sau đó đến số 167 phố Soadi họp Chi bộ Đảng Xã hội (SFIC) Quận 13.
- Ngày 14 và ngày 15:Tại số 6 Vila đê Gôbơlanh, Nguyễn Ái Quốc và Phan Châu Trinh, Phan Cao Đoan, Lê Văn Xao, Phan Cao Lục đã họp với nhau nhân có "đồng bào" của họ là Hoàng Khang đến thăm.
- Ngày 17:Nguyễn Ái Quốc viết bài Vụ âm mưu ở Đông Dương để gửi cho Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp. Tác giả kịch liệt phê phán cái gọi là "cán cân công lý" của thực dân Pháp ở Đông Dương. Núp dưới những từ "tự do", "bình đẳng", "bác ái",nhà cầm quyền Pháp câu kết với bọn quan lại người bản xứ đã tìm mọi thủ đoạn bỉ ổi để bịa đặt ra các vụ"bạo động",tương tự như các "Vụ âm mưu bônsêvích" ở chính quốc. Mục đích của bọn chúng là thông qua các "sự kiện chính trị" lừa bịp đó, sẽ được quan trên tăng thêm bổng lộc và chức quyền. Kết quả đã làm cho hàng trăm gia đình người Việt Nam tan nát, hàng nghìn người bị tù đày, bị bắn giết một cách oan uổng...
Nhưng sớm hay muộn, những âm mưu, thủ đoạn xấu xa đó sẽ bị bóc trần trước công chúng Pháp và Việt Nam. Bài viết nêu rõ quyết tâm của nhân dân Việt Nam là "sẽ kiên quyết đưa sự bất công ghê gớm và phi lý ấy ra phản đối trước tất cả những người Pháp chân chính" và"sẽ đấu tranh đòi cho công lý phải được thực hiện".
*Tháng 8- 1922
- Ngày 1:Bốn bài viết của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Le Paria, số 5.
Bài thứ nhất: Sở thích đặc biệt, bút danh NG.A.Q. Tác giả mượn lời giải thích của Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Anbe Xarô về những"Sở thích đặc biệt" của "Đức Vua Khải Định" để tố cáo sự trác táng của vị"Hoàng đế nước An Nam này".
Bài thứ hai: Khai hoá giết người, bút danh Nguyễn A.Q. Tác giả kể lại cái chết thảm thương của ông Lê Văn Tài, 50 tuổi, có 25 năm làm công cho Sở hoả xa Nam Kỳ, để tố cáo: "Trong lúc ở Mácxây, người ta triển lãm cảnh phồn thịnh giả tạo của xứ Đông Dương thì xứ An Nam đang có những người bị chết đói. Ở bên này, người ta ca tụng lòng trung thành, còn ở bên kia, người ta đang giết người!".Và đặt câu hỏi:"Như vậy nghĩa là thế nào hỡi Đấng chí tôn Khải Định và Cụ lớn Xarô?".
Bài thứ ba: Phụ nữ An Nam và sự đô hộ của Pháp, ký tên Nguyễn Ái Quốc, thuật lại vụ lính Pháp thay nhau hãm hiếp một em bé 8 tuổi và hai phụ nữ Việt Nam rồi giết hại một cách man rợ những chị em này để cướp lấy tư trang.
Nhân vụ này, tác giả lên án chế độ thực dân Pháp đối với phụ nữ Việt Nam:"Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó, đem ra đối xử với trẻ em và phụ nữ, lại càng bỉ ổi hơn nữa. Thật là một sự mỉa mai đau đớn khi thấy rằng văn minh dưới nhiều hình thức khác nhau... lại đối xử một cách hết sức bỉ ổi với người đàn bà bằng xương bằng thịt và xúc phạm một cách vô liêm sỉ tới phong hoá, trinh tiết và đời sống của họ".
- Ngày 7:Nguyễn Ái Quốc họp Chi bộ Quận 17 Đảng Cộng sản Pháp và đi bán báo Le Paria.
- Ngày 9: Thư gửi Khải Định của Nguyễn Ái Quốc, đăng trên tờ Le Journal du Peuple. Ngòi bút châm biếm sâu cay của tác giả đã vạch trần không thương xót thân phận đích thực của Hoàng thượng Khải Định trong thời gian Ngài “tham quan”ở cái nước Pháp đầy lạc thú này, sự mê muội của đấng An Nam Hoàng đế trước những cám dỗ vật chất, những lời tán tụng hèn hạ trong những bài diễn văn của mấy nhà đương cục và trong những bài báo được trả tiền trước, đã không thấy được gì về lịch sử và văn hoá nước Pháp, về nguyện vọng và tình cảm của quần chúng lao động Pháp.
Dù vậy, tác giả tin rằng:"Hoà lẫn với tiếng sóng gầm vang, những tiếng thét dữ dội của nhân dân bị áp bức ở các nước này, cũng như của nhân dân nước Ngài, sẽ xé tan bầu không khí yên tĩnh bên tai Ngài. Và nếu như Ngài có đôi chút óc tưởng tượng, Ngài sẽ thấy rằng ý chí của nhân dân - một ý chí đã được hun đúc trong nghèo đói và khổ cực - một ý chí còn mạnh hơn và dẻo dai hơn sóng cả, cuối cùng sẽ khoét hổng dần và đánh bật cái tảng đá bề ngoài có vẻ vững chắc là sự áp bức và bóc lột kia đi".
- Ngày 17:Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Dưới sự bảo hộ của... đăng trên báo L'Humanité. Bài báo đưa ra những bằng chứng về tội ác của tên Đáclơ, Công sứ tỉnh Thái Nguyên, mà theo tác giả, lẽ ra tên này "đáng phải tù ít nhất gấp ba lần 20 năm khổ sai". Vậy mà chính quyền thuộc địa lại phong hắn chức "Chánh giám khảo các trường lớn ở Hà Nội và bổ nhiệm hắn làm đổng lý văn phòng của viên Thống sứ Bắc Kỳ".Chưa hết,"Hắn đã trở thành Uỷ viên Hội đồng thành phố Sài Gòn, nghĩa là người cộng tác trực tiếp của các Ngài Xarô và Utơrây và làm chủ vận mệnh những người nhà quê ở Sài Gòn".
Tác giả nêu câu hỏi: "Ở cái thiên đường Đông Dương, người ta được phép và có thể làm bất cứ gì, có phải như thế không, Ngài toàn quyền Lông?".
- Ngày 19:Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Chủ nghĩa cộng sản và thanh niên Trung Quốc, đăng trên báo L'Humanité. Tác giả giới thiệu sơ lược các mốc phát triển của phong trào thanh niên xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc từ năm 1920 đến Đại hội Thanh niên Cộng sản toàn Trung Quốc tháng 5-1922 và những kết quả của đại hội này.
- Ngày 27:Nguyễn Ái Quốc đi dạo ở khu rừng Phôngtennơblô (Fontainebleau) với một số đảng viên cộng sản Chi bộ Quận 17.
* Tháng 8- 1923
Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Ách áp bức không từ một chủng tộc nào, đăng trên báo Le Paria, số 17.
Sau khi thuật lại đám tang của phái viên Xôviết bị bọn phát xít ám sát ở Lôdannơ (Lausanne - Thụy Sĩ) và đám tang một công nhân người Tuynidi bị cảnh sát giết ở Pari, bài báo nêu nhận xét: “Tất cả những liệt sĩ của giai cấp công nhân, người ở Lôdannơ cũng như ở Pari, những người ở Havrơ cũng như những người ở Máctiních, đều là những nạn nhân của một kẻ giết người: chủ nghĩa tư bản quốc tế. Và hương hồn của những người bị hy sinh này luôn tìm thấy nguồn an ủi cao cả nhất ở lòng tin vào sự nghiệp giải phóng những anh em của họ bị áp bức - không phân biệt chủng tộc hay xứ sở”.
Bài báo kết luận:“Sau những bài học đau đớn này, những người bị áp bức ở tất cả các nước hẳn phải hiểu đâu là những người anh em thật sự và đâu là kẻ thù của họ”.
* Tháng 8 -1924
Bài Tình hình những người lao động ở Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc, ký bút danh Un Annamite (Một người An Nam), đăng trên báo Le Paria, số 28. Nội dung bài báo là bản tham luận của tác giả đọc tại Đại hội lần thứ III Quốc tế Công hội đỏ ngày 21-7-1924 đã được tác giả sửa chữa và bổ sung thêm một số câu.
* Tháng 8- 1925
- Ngày 23:Nguyễn Ái Quốc viết bài văn vần, nhan đề Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết, kêu gọi mọi giới đồng bào kết đoàn vì sự nghiệp chung.
"Kẻ không đoàn kết cũng như chim lạc đàn
Chóng hoặc chày rồi sẽ trúng tên
Vì đơn độc sẽ làm mồi cho hiểm hoạ
Từ kết đoàn hạnh phúc sẽ sinh sôi.
...
Hãy liên kết như thể thân mình
Ngũ quan cùng với tay chân dính liền
Tách rời nhau thời không thể sống
Chỉ cùng với nhau sức lực mới sinh sôi".
- Trong tháng 8 1925:Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Viễn Đông - Varen và Đông Dương, đăng trên báo Le Paria, số 35.
Tác giả đã phân tích những mâu thuẫn trong nội bộ Đảng Xã hội Pháp trước nguy cơ chia rẽ, tình hình nghiêm trọng ở Đông Dương và quanh Đông Dương, vạch trần những tính toán của Panhlơvê (Painlevé) trong quyết định đưa Varen (Varenne) sang làm Toàn quyền Đông Dương.
* Tháng 8 -1926
- Ngày 14:Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Phong trào cách mạng ở Đông Dương, đăng trên Tập san Inprekorr, bản tiếng Pháp, số 91. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến những hành động yêu nước "lần đầu tiên người ta thấy ở Đông Dương",như phong trào phản đối việc bắt bớ và xử án cụ Phan Bội Châu đã buộc tên Toàn quyền Varen phải ân xá cho nhà lão thành cách mạng này, như cuộc biểu dương lực lượng của quần chúng yêu nước chống bọn thực dân phản động dưới danh nghĩa một cuộc đón rước Bùi Quang Chiêu - một người thuộc phái Quốc gia mới ở Pháp về, như phong trào để tang nhà chí sĩ Phan Châu Trinh diễn ra sôi nổi trong khắp cả nước bất chấp sự đe doạ và đàn áp của chính quyền thuộc địa.
Các tổ chức chính trị cũng lần lượt ra đời. Bắc Kỳ có Phục Việt, kêu gọi"Người Việt Nam không thể đội trời chung với người Pháp!... Hỡi dân tộc Việt Nam! Hãy mau mau thức tỉnh...". Nam Kỳ có Đảng Lập hiến của một nhóm trí thức Tây học chủ trương"Pháp - Việt đề huề", có tổ chức Thanh niên An Nam hoạt động tích cực, hướng tới việc thành lập đảng...
Cuối cùng, bài viết có đoạn: "Tình hình chính trị ở Đông Dương có thể tóm tắt trong lời than vãn sau đây của một tờ báo tiếng Pháp ở Bắc Kỳ: "Vụ biến động này... đã làm cho nước ta xưa nay yên ổn biết bao, đã trở thành trung tâm của những cuộc biến động và hỗn loạn".
* Khoảng đầu tháng 8-1928
Nguyễn Ái Quốc đến Uđon ( Thái Lan), Người đến Noong Bùa là nơi Việt kiều đông nhất trong tỉnh.
Ở Uđon, Người lấy tên là Chín. Mọi người tôn trọng gọi là “Thầu Chín” (ông già Chín) mặc dầu Người mới 38 tuổi.
Trong cuộc họp đầu tiên khi tới Uđon, Người báo cáo trước Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên về tình hình và triển vọng của cách mạng Việt Nam, nhấn mạnh đến phẩm chất của người cách mạng là phải biết chịu đựng gian khổ, kiên trì đấu tranh với khó khăn, tuyên truyền giác ngộ quần chúng, không ngừng rèn luyện ý chí phấn đấu.
Người chủ trương phải mở rộng tổ chức, củng cố cơ sở quần chúng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trước kia Hội hợp tác chỉ thu hút những thanh niên ở trong nước ra, nay cần kết nạp cả những kiều bào hăng hái cách mạng và tình nguyện gia nhập.
Người đề nghị đổi tên báo Đồng thanh - tờ báo của Hội thân ái xuất bản từ năm 1927, thành báo Thân ái và yêu cầu nội dung tờ báo này phải rõ ràng, bài viết phải ngắn gọn dễ hiểu, phát hành càng rộng càng tốt.
Người còn chủ trương phải làm cho người Xiêm có cảm tình hơn nữa với người Việt Nam và cách mạng Việt Nam; giáo dục kiều bào tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân bạn; khuyên mọi người học chữ Xiêm, tiếng Xiêm, đồng thời mở rộng việc vận động học chữ quốc ngữ. Với các cán bộ phụ trách, Người khuyên cố gắng tạo khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp hơn nữa.
Những ngày ở Uđon, cùng với công tác chấn chỉnh xây dựng tổ chức, Nguyễn Ái Quốc dành khá nhiều thời gian để dịch sách lý luận làm tài liệu tuyên truyền và huấn luyện cho cán bộ Việt Nam hoạt động ở Xiêm. Người đã dịch hai cuốn Nhân loại tiến hoá sử và Cộng sản A.B.C.
Các buổi tối, Người thường tổ chức nói chuyện với kiều bào. Những buổi nói chuyện đó, nhà chật ních người. Bà con rất thích đến nghe, vì “Thầu Chín”nói chuyện vừa hấp dẫn lại thiết thực, từ câu chuyện làm ăn đưa đến câu chuyện chính trị. Bà con thấy“Thầu Chín” vừa đáng kính, vừa gần gũi nên thường hỏi ý kiến về chuyện gia đình, chuyện làm ăn.
Nguyễn Ái Quốc sống như mọi người, cũng đào giếng, cũng vỡ đất làm vườn. Khi Chính phủ Xiêm cho phép mở trường học, Người đã tham gia với kiều bào gánh gạch, đào móng, đắp nền. Người vui vẻ chịu chung với các đồng chí những vất vả, kham khổ về đời sống vật chất. Bữa cơm nhiều khi chỉ có rau sam hoặc rau lang chấm muối, thậm chí chỉ có muối. Kiều bào ở gần, biết “Thầu Chín" hay hút thuốc lá, mỗi khi đi chợ đã không quên mua gửi biếu vài bao thuốc.
Thời gian ở Uđon, Nguyễn Ái Quốc đã đến Noọngkhai gặp gỡ một số cán bộ hoạt động ở Viêng Chăn sang để tìm hiểu tình hình phong trào Lào và khả năng đặt mối liên hệ với Xiêm để đẩy mạnh cuộc vận động cách mạng ở
Việt Nam.
* Khoảng cuối tháng 7 đến cuối tháng 10 -1929
Rời tỉnh Sacôn Nakhôn, Nguyễn Ái Quốc đến tỉnh Nakhôn Phanom nằm kề sát bờ sông Mê Kông cách Thủ đô Băng Cốc 735km theo đường ôtô.
Tại tỉnh Nakhôn Phanom, Nguyễn Ái Quốc đã đi tuyên truyền vận động Việt kiều ở trung tâm huyện Thà U Then, trung tâm huyện Thạt Phanom và ở thị xã Nakhôn Phanom. Nơi hoạt động lâu nhất trong thời gian Người ở Nakhôn Phanom là làng Bản Mạy, còn có tên gọi là Nà Thoọc. Người đã xây dựng phong trào Việt kiều ở Bản Mạy trở thành một trong những địa điểm quan trọng của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Sau một thời gian ở Nakhôn Phanom, Nguyễn Ái Quốc đến huyện Amnạt Charơn, còn có tên gọi là Bùng, huyện Bùng, tỉnh Ubon Ratchathani(từ năm 1993, được nâng lên cấp tỉnh gọi là tỉnh Amnạt Charơn).
Tại tỉnh Amnạt Charơn, Người hoạt động chủ yếu ở huyện Bùng.
Rời Amnạt Charơn, Nguyễn Ái Quốc đến tỉnh Ubon Ratchathani, phía đông giáp sông Mê Kông, phía nam giáp Campuchia, cách Thủ đô Băng Cốc 575km theo đường xe lửa. Người hoạt động chủ yếu ở Bản Thà thuộc tỉnh Ubon Ratchathani. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã sáng tác một bài thơ, giao cho đồng chí Nguyễn Tài ghi lại, sau đó đăng báo Thân ái:
Hợp tác nề có anh thợ Vượng
Tay nghề hay tính bướng cũng hay
Những khi đi họp hàng ngày,
Khi thì nói đổng, khi thì đòi ra.
Chị khuyên bảo thiết tha khuyên bảo,
Không nghe, coi táo bạo hung hăng.
Rằng em chỉ muốn anh bằng người ta.
Chị kiên nhẫn bẩy ba kiên nhẫn
Làm cho anh đổi giận sang hiền
Anh nghe lời vợ anh khuyên,
Hội giao công việc anh chuyên cần làm
Làm đúng đắn không ham lợi vặt,
Nói như làm thẳng thắn phân minh.
Một người trước bướng nay lành,
Cả Hội hợp tác khen anh vô cùng.
Tiếng chị Vượng khuyên chồng kết quả.
Chị em đều hỉ hả mừng vui.
Đăng lên mặt báo để rồi,
Để rồi học tập, để rồi làm gương.
Nguyễn Ái Quốc còn đến tìm hiểu phong trào của Việt kiều ở thị xã Phi Mun, thuộc tỉnh Amnạt Charơn.
Tiếp đó Nguyễn Ái Quốc đến Mục Đa Hản, là một huyện của Nakhôn Phanom(từ năm 1982 được nâng lên thành tỉnh Mục Đa Hản)giao cho cán bộ tổ chức cơ sở xây dựng một địa điểm liên lạc và chuyển tài liệu báo chí về nước.
Từ Mục Đa Hản, Nguyễn Ái Quốc có ý định đi xuyên qua đất Lào để tiếp cận với phong trào trong nước nhưng không thực hiện được. Trong báo cáo ngày 18-2-1930, gửi Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc có nhắc lại việc này:“Đã hai lần tôi cố gắng về An Nam, nhưng phải quay trở lại. Bọn mật thám và cảnh sát ở biên giới quá cẩn mật, đặc biệt là từ khi xảy ra vụ An Nam Quốc dân Đảng”.
Địa điểm cuối cùng trên đất Thái Lan mà Nguyễn Ái Quốc đã đặt chân đến là tỉnh Noọng Khai, nằm sát bờ sông Mê Kông đối diện với Thủ đô Viêng Chăn của nước Lào, cách Thủ đô Băng Cốc 616km. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc thường ở và làm việc tại chùa Xỉ Xum Xưn. Đây là nơi Nguyễn Ái Quốc hẹn các đồng chí đang sinh hoạt trong chi bộ Viêng Chăn, vượt sông Mê Kông sang làm việc./.
Còn nữa
Huyền Trang (tổng hợp)
Phần 2. Giai đoạn 1930 - 1945
* Khoảng tháng 7, tháng 8 - 1930
Tại Thượng Hải, Nguyễn Ái Quốc tham dự một cuộc họp có mặt các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Đỗ Ngọc Du (Phiếm Chu), Lưu Quốc Long để góp ý về công tác vận động binh lính. Người căn dặn: “Không nên chỉ hô hào thợ thuyền, dân cày chung chung. Không nên nói vô sản một cách cứng nhắc. Trước mắt chúng ta là phải đánh đổ thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Cho nên, phải khơi lòng yêu nước của mọi người. Đối với anh em binh lính, ta nên khêu gợi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, rồi chuyển sang khêu gợi lòng yêu nước, thương nòi. Như thế, mới đi vào lòng người ta được”.
Xem những số báo Kèn gọi lính, Nguyễn Ái Quốc nhắc nhở các đồng chí tại cuộc họp:Không nên dùng chữ khó hiểu, phải viết ngắn, gọn, rõ ràng. Sau đó, Người viết mấy bài cho báo với nội dung yêu nước, ghét thống trị Pháp dưới hình thức văn vần, văn xuôi rất ngắn gọn và dễ hiểu.
* Tháng 8- 1931
- Ngày14:Nguyễn Ái Quốc bị Toà án tối cao Hồng Kông xét xử - Phiên toà thứ hai, nhưng bị can không có mặt tại phiên toà. Luật sư Gienkin yêu cầu cho hai bị can có mặt để có thêm thông tin cần thiết, nếu cần, nhưng bị viên công tố Alabaxtơ phản đối. Ông ta đọc Lệnh trục xuất nguyên đơn trong 10 năm và kèm theo là Lệnh của Thống đốc yêu cầu nguyên đơn“phải rời Nhượng địa bằng một tàu biển được chỉ định rời Hồng Kông ngày 18 tháng 8, tàu Angiê”.
Tiếp đó, viên công tố đọc lời khai có tuyên thệ của nguyên đơn, trong đó chỉ rõ sự vi phạm luật của việc bắt và thẩm vấn Nguyễn Ái Quốc. Theo luật, người thẩm vấn chỉ có quyền hỏi một số câu hỏi nhất định, được in sẵn, nhưng cuộc thẩm vấn ở đây mang đầy tính đối chất về quá khứ nhằm ép Nguyễn Ái Quốc phạm các tội tuyên truyền cách mạng và có những hành động sai trái khác. Cuối lời khai có tuyên thệ, Nguyễn Ái Quốc tố cáo có nhân viên của chính quyền Đông Dương theo dõi Người ở trong tù, và nói thêm: “Nếu tôi bị trục xuất đến Đông Dương, tôi sẽ bị giết, dù có xét xử hay không xét xử”.
- Ngày 15:Nguyễn Ái Quốc bị Toà án tối cao Hồng Kông xét xử - Phiên toà thứ ba. Tại toà, công tố viên Alabaxtơ đọc lời khai có tuyên thệ của Tống Văn Sơ (tức Nguyễn Ái Quốc): “Tống Văn Sơ đã phủ nhận lời khai có tuyên thệ của ông do Trợ lý Thư ký Trung Hoa vụ đưa ra, bởi vì lời khai đó làm người ta hiểu rằng chỉ có duy nhất một cuộc thẩm vấn, trong khi đó ông bị thẩm vấn ba lần. Bị cáo cũng tố cáo rằng ông bị bắt ngày 6 tháng 6 chứ không phải ngày 12 tháng 6”. Tiếp theo, Alabaxtơ đọc các câu hỏi và các câu trả lời khi thẩm vấn Tống Văn Sơ do Thư ký Trung Hoa vụ biên soạn, đã cố tình làm lệch lời khai; trong đó có đoạn: “Tôi phủ nhận lời buộc tội đó. Tôi không phải là một người cộng sản, nhưng tôi là người theo chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc, theo tất cả những gì mà chúng tôi biết, có nghĩa là chiến đấu vì nhà vua và vì đất nước... Chúng tôi là một dân tộc đang chiến đấu và có khả năng tự đứng vững trên chính đôi chân của mình, nhưng cũng cần phải tìm sự viện trợ từ bên ngoài... Vì tổ chức của tôi và tôi trông cậy vào sự giúp đỡ của nước Anh nên tôi không hiểu vì sao tôi lại bị bắt...”. Trong thẩm vấn, khi viên Thư ký Trung Hoa vụ đưa ảnh của Nguyễn Ái Quốc ra hỏi: đây có phải là ảnh của Tống Văn Sơ không, Người đã trả lời: “Tôi thừa nhận rằng bức ảnh trông giống tôi và có thể là tôi, nhưng tôi không bao giờ đội cái mũ như vậy. Tôi thừa nhận bức ảnh trong hộ chiếu là của tôi (hộ chiếu này mang tên Tống Văn Sơ)... Tôi thừa nhận là tôi đã thuê căn hộ trong ngôi nhà số 186 đường Tam Kung. Tôi muốn nói rằng bạn tôi tên là Vương đã thuê căn hộ đó.
Ông Vương đã rời Hồng Kông vào tháng 4 và tôi đã tiếp quản từ ông ấy và trả tiền thuê nhà. Người bạn tên là Vương này là nhà buôn và là một người bạn cũ của tôi. Tôi biết ông ấy đã từ rất lâu. Ông ấy không phải là nhà cách mạng.
Tôi thừa nhận rằng tôi đã từng ở Thượng Hải nhưng đã cách đây nhiều năm rồi. Gần đây tôi không liên lạc gì với Thượng Hải. Không có đảng bộ nào của Đảng An Nam ở Thượng Hải...
Tôi không muốn bị trục xuất. Tôi muốn được tự do...
Tôi tha thiết đề nghị cho tôi được tự do hai hoặc ba tuần nếu tôi bị trục xuất, cốt để cho tôi có thì giờ kiến nghị tới Ngài Bộ trưởng rằng tôi muốn được phép sang Anh quốc”
- Ngày 20:Nguyễn Ái Quốc bị Toà án tối cao Hồng Kông xét xử - Phiên toà thứ tư. Viên công tố Alabaxtơ tuyên bố thừa nhận lệnh trục xuất đối với Tống Văn Sơ lần thứ nhất là sai, do nội dung thẩm vấn sai; nhưng ngay sau đó lại tuyên bố lệnh trục xuất thứ hai vừa mới được ban hành vào chiều 15-8-1931, riêng với bị cáo nam và cho phép Lý Phương Thuận được rời ghế bị cáo.
Luật sư Ph. Gienkin phản đối vì:Nếu việc giam giữ là bất hợp pháp thì không thể biến thành hợp pháp bằng cách ban hành một lệnh trục xuất mới giữa hai phiên toà.
- Ngày 24:Nguyễn Ái Quốc bị Toà án tối cao Hồng Kông xét xử - Phiên tòa thứ năm.
Nguyễn Ái Quốc được luật sư Ph. Gienkin bảo vệ bằng cách vạch rõ sự giả dối và lừa bịp, đội lốt trục xuất để giao bị cáo cho nhà cầm quyền Pháp. Ông nói:“Cả hai lệnh trục xuất trên đây đều bất hợp pháp... Giả sử lệnh thứ nhất đã được thực hiện, thì Hội đồng Thống đốc cũng không thể bắt giữ theo lệnh thứ hai vì nó hoàn toàn trái với luật hiện hành, quy định không được bắt giữ lại một người vừa mới được phóng thích theo Luật Bảo thân (Habeas Corpus) vì cùng một nguyên nhân, một vấn đề, hay một lý do”.
Sau đó, ông đọc lời khai mới có tuyên thệ của bị cáo Tống Văn Sơ trước toà: “Tôi 36 tuổi. Tôi sinh ở thành phố Đông Hưng thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Tôi đã gắn bó mật thiết với phong trào cách mạng ở Việt Nam và Đông Dương nói chung, phong trào có mục đích cao nhất là lật đổ toàn bộ quyền lực của Chính phủ Pháp ở đó và thay thế bằng một chính phủ dân tộc dưới sự lãnh đạo của người bản xứ. Tôi đã tham gia tích cực vào phong trào này trong một thời gian trước ngày tôi bị bắt ở Hồng Kông ngày 6-6-1931.
Theo những người cầm quyền của Chính phủ Pháp thì tham gia vào một phong trào như vậy là phạm tội và kẻ phạm tội phải nhận án tử hình.
... Mục đích thực sự của Chính quyền Hồng Kông khi tiến hành các thủ tục trục xuất tôi là nhằm khẳng định việc giao tôi cho Pháp ở Đông Dương để Chính phủ Pháp xử lý tôi theo tội trạng đã nói trên”.
Tiếp theo, luật sư Gienkin chất vấn:Hội đồng Hành pháp có họp được đông đủ vào thứ bảy ngày 15 tháng 8 hay không, và có cuộc họp vào ngày đó hay không, vì theo thông lệ chỉ họp vào thứ năm hàng tuần?
- Ngày 25:Nguyễn Ái Quốc bị Toà án tối cao Hồng Kông xét xử - Phiên toà thứ sáu. Nguyễn Ái Quốc được luật sư Ph. Gienkin bênh vực bằng cách yêu cầu viên công tố phải thừa nhận rằng:Tài liệu đánh máy do Ban Thư ký Trung Hoa vụ đưa ra nói rằng nguyên đơn (tức Tống Văn Sơ - T.G) khi thẩm vấn đã khai có bí danh thứ ba là Nguyễn Ái Quốc, là tài liệu giả. Cuối cùng, Công tố viên Alabaxtơ phải thừa nhận trước toà rằng:Cuộc họp của Hội đồng Hành pháp được tiến hành vào thứ năm ngày 13 tháng 8, còn lệnh trục xuất (Nguyễn Ái Quốc) đề ngày thứ bảy 15 tháng 8 (!).
- Trước ngày 28:Nguyễn Ái Quốc viết thư cho Thái tử Cường Để đang sống ở Nhật Bản nhờ Lý Phương Thuận (Lý Sâm) chuyển sau khi được trả tự do và rời khỏi Hồng Kông.
*Tháng 8 -1932
- Trước ngày 15:Nguyễn Ái Quốc vẫn yêu cầu chính quyền Hồng Kông cho mình được sang Anh theo điều khoản thoả thuận vì phải sang Trung Quốc là một mối nguy hiểm cho mình. Vì vậy xin kéo dài thời gian phải ra đi sau hai tháng nữa để chờ chính quyền Anh trả lời.
- Ngày 29:Nguyện vọng đi Anh của Nguyễn Ái Quốc không được Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Anh chấp nhận, nói rằng trong bản thoả thuận, Chính phủ Hoàng gia Anh không bị ràng buộc bởi yêu cầu này. Ông ta yêu cầu chính quyền Hồng Kông cần bảo đảm cho Nguyễn Ái Quốc đến một nơi mà không có nguy cơ bị Pháp bắt.
Các luật sư đại diện cho Tống Văn Sơ ở Luân Đôn đã phản ứng việc từ chối của Bộ Thuộc địa Anh, trước đã đồng ý nay lại không đồng ý, như vậy là vi phạm điều khoản đã thoả thuận.
* Tháng 8 -1935
- Ngày 16:Nguyễn Ái Quốc điền Bản khai đại biểu tham dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản.
1. Quê quán: Đông Dương.
2. Họ, tên, bí danh trong Đảng hiện nay: Teng Man Huon.
3. Họ, tên, bí danh trong Đại hội: Lin.
4. Dân tộc: Đông Dương.
5. Tuổi: sinh năm 1900, 35 tuổi.
6. Thành phần xuất thân: Gia đình trí thức.
7. Trình độ học vấn: Tự học.
8. Đã học trường Đảng chưa? Từ năm nào đến năm nào?: Đang học Trường Quốc tế Lênin.
9. Nghề nghiệp, đã làm bao nhiêu năm?: Thuỷ thủ, làm thuê 10 năm.
10. Phương tiện sinh sống hiện nay: Sinh viên Trường Quốc tế Lênin.
11. Đã tham gia những bộ phận nào của Quốc tế Cộng sản? Từ năm nào đến năm nào?
- Từ năm 1921 - 1930 tham gia Đảng Cộng sản Pháp.
- Từ năm 1930 đến nay là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương.
12. Có tham gia các đảng phái nào khác? Từ năm nào đến năm nào?: Không.
13. Những công tác Đảng đã và đang tham gia từ Đại hội VI Quốc tế Cộng sản?
- Từ năm 1928, tổ chức phong trào công nhân và nông dân ở Xiêm.
- Năm 1930 - 1931, tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương.
14. Có bị bắt vì hoạt động cách mạng không? Bao nhiêu năm bị tù đày?
- Năm 1931 bị bắt, bị tù 2 năm.
- Năm 1933 ra khỏi tù.
15. Đã tham gia những Đại hội, những Hội nghị quốc tế nào? (Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công đoàn...).
- Đã tham gia Đại hội V Quốc tế Cộng sản với tư cách đại biểu... và Đại hội quốc tế Công đoàn.
16. Từ nước mình hay nước ngoài đến (Liên Xô)?
- Từ nước ngoài (Trung Quốc).
17. Có là thành viên của nghị viện, cơ quan hành chính nào không?
- Không.
Ký tên: Lin.
- Sau ngày 20:Nguyễn Ái Quốc và Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản dự bữa cơm thân mật do Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Pháp M. Tôrê (M. Thorez) và Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc Vương Minh tổ chức ở ngoại ô Mátxcơva để chúc mừng Đảng Cộng sản Đông Dương đấu tranh oanh liệt, thắng lợi vẻ vang.
* Cuối tháng 7- 1940
Nguyễn Ái Quốc từ Trùng Khánh trở lại Côn Minh.
* Tháng 8 -1941
- Ngày 1:Bài Khuyên đồng bào mua báo Việt Nam độc lập của Nguyễn Ái Quốc gồm 17 câu, đăng trên báo Việt Nam độc lập, số đầu tiên .
“Báo "Độc lập" hợp thời đệ nhất,
Làm cho ta mở mắt mở tai.
Cho ta biết đó biết đây,
Ở trong việc nước, ở ngoài thế gian:
Cho ta biết kết đoàn tổ chức.
Cho ta hay sức lực của ta.
Cho ta biết chuyện gần xa.
Cho ta biết nước non ta là gì...”
- Ngày 9:Nguyễn Ái Quốc viết bài Xã luận cho báo Việt Nam độc lập. Sau khi phân tích:“Tây có hai cách làm cho ta ngu hèn, một là cách bưng mắt..., hai là cách lừa gạt”. Người chỉ rõ:“Tây cốt làm cho ta ngu hèn. Báo Việt Nam độc lập cốt làm cho dân ta hết ngu hèn, biết các việc, biết đoàn kết, đặng đánh Tây, đánh Nhật, làm cho Việt Nam độc lập, bình đẳng, tự do”.
-Ngày 21: Hai bài thơ Việt Nam độc lập và Dân cày, cùng bức tranh cổ động của Nguyễn Ái Quốc, đăng trên báo Việt Nam độc lập.
Bài Việt Nam độc lập gồm bốn câu in ngay dưới bức tranh cổ động:
"Việt Nam độc lập" thổi kèn loa.
Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già
Đoàn kết vững bền như khối sắt
Để cùng nhau cứu nước Nam ta!
Bài Dân cày gồm 18 câu, nội dung đề cập đến nỗi khổ cực của người nông dân:
“Thương ôi! những kẻ dân cày,
Chân bùn tay lấm suốt ngày gian lao”.
Và chỉ rõ, muốn phá bỏ nỗi bất bình đó, bà con nông dân phải tham gia Việt Minh, cùng toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, để:
“Mai sau thực hiện chương trình:
Việt Nam nông dã tất canh kỳ điền".
* Tháng 8 -1942
- Ngày 1:Bài thơ Nhóm lửa của Nguyễn Ái Quốc, gồm 26 câu, đăng trên báo Việt Nam độc lập. Bài thơ ví sự nghiệp cách mạng với việc nhóm lửa, phải trải qua “bước gian nan” để phát triển phong trào, bùng cháy khắp nơi. Lúc bấy giờ:
Lửa cách mạng sáng choang bờ cõi,
Chiếu lá cờ độc lập, tự do!
- Khoảng đầu tháng:Bài thơ Bài ca du kích của Nguyễn Ái Quốc, gồm 28 câu, kêu gọi các tầng lớp già, trẻ, lính, dân, đàn ông, đàn bà tham gia du kích, để cùng nhau đánh Tây, đánh Nhật:
Kẻ có súng dùng súng,
Kẻ có dao dùng dao;
Kẻ có cuốc dùng cuốc,
Người có cào dùng cào,
Thấy Tây cứ chém phứa,
Thấy Nhật cứ chặt nhào..
... Chúng nhất định thất bại
Mình sức càng dồi dào.
- Ngày 11:Bài thơ Tặng Toàn quyền Đờcu của Nguyễn Ái Quốc, đăng trên báo Việt Nam độc lập:
Non nước Rồng Tiên rõ mịt mù,
Lợi quyền phó mặc bố thằng Cu.
Đối dân Nam Việt thì lên mặt,
Gặp bọn Phù Tang 13) chỉ đội khu 14)!
Về Pháp, không cơm e chết đói,
Ở đây, hút máu béo ni-nu.
Cũng như thống chế Pêtanh vậy,
Chú cứ cu cù được mãi ru!
- Ngày 13:Buổi tối, với tên mới Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc lên đường đi Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng minh.
- Ngày 21:Bài Chơi giăng của Nguyễn Ái Quốc, gồm 16 câu, đăng trên báo Việt Nam Độc lập, số 135.
Bài thơ gồm hai thiên bát cú Đường luật, viết dưới hình thức“nhân nguyệt vấn đáp”.Thiên 1 là lời “Người hỏi trăng" vì sao“non nước tơi bời”, “nhân dân cực khổ” và “Nam Việt bao giờ thì giải phóng”. Thiên 2 là lời đáp của trăng:
"... Nước nhà giành lại nhờ tài sắt,
Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng.
Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi,
Tức là cách mệnh chóng thành công”.
- Từ ngày 19 đến 24:Hồ Chí Minh đi bộ trên đất Quảng Tây (Trung Quốc), vùng gần biên giới Việt - Trung, ngày nghỉ, đêm đi. Cùng đi có Lê Quảng Ba.
- Ngày 25:Hồ Chí Minh đến Ba Mông thuộc huyện Tĩnh Tây và trú chân ở nhà Từ Vĩ Tam, một nông dân nghèo kết nghĩa anh em. Vì chỉ còn hai ngày nữa đến Tết Trung nguyên (14-7 âm lịch) là Tết lớn của địa phương, gia đình Từ Vĩ Tam tha thiết lưu giữ, Người nán lại ở đây hai ngày.
- Ngày 26:Buổi tối, Hồ Chí Minh ăn Tết Trung nguyên với những người nông dân Trung Quốc quen biết tại nhà Từ Vĩ Tam . Bàn đến việc ai sẽ đưa đường cho Hồ Chí Minh đến Bình Mã, Dương Đào đã hăng hái nhận trách nhiệm.
- Ngày 27:Sáng sớm, Hồ Chí Minh lên đường đi Bình Mã, có Dương Đào cùng đi để dẫn đường (Lê Quảng Ba ở lại nhà Từ Vĩ Tam). Hai người đến phố Túc Vinh (huyện Thiên Bảo, Quảng Tây) thì bị quân tuần cảnh ở trụ sở của Quốc dân Đảng bắt giữ.
- Ngày 28:Từ Túc Vinh, Hồ Chí Minh cùng Dương Đào bị áp giải đến huyện Thiên Bảo.
- Ngày 29:Hồ Chí Minh bị giải từ Thiên Bảo đến huyện lỵ Tĩnh Tây và bị Quốc dân Đảng Trung Quốc giam trong nhà giam C.H.S. hơn hai tuần, ngày mang gông, đêm cùm chân.
- Ngày 30:Trong nhà giam C.H.S., Hồ Chí Minh được Vương Tích Cơ đến thăm, đem cơm. Qua Vương Tích Cơ, Người gửi được một lá thư (tiếng Việt) viết bằng bút chì cho Lê Quảng Ba để báo tin.
- Từ ngày 29 đến ngày 24- 9:Hồ Chí Minh bị giam tại nhà lao huyện Tĩnh Tây. Người viết 22 bài thơ: Bài 1:
"Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao" .
Bài 2: Khai quyển; bài 3: Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu (Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh); bài 4: Nhập Tĩnh Tây huyện ngục (Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây); bài 5 - 6 - 7: Thế lộ nan (Đường đời hiểm trở, 3 bài); bài 8 - 9: Tảo (Buổi sớm, 2 bài); bài 10: Ngọ (Buổi trưa); bài 11: Vấn thoại (Lời hỏi); bài 12: Ngọ hậu (Quá trưa); bài 13: Vãn (Chiều hôm); bài 14: Tù lương (Cơm tù); bài 15: Nạn hữu xuy địch (Người bạn tù thổi sáo); bài 16 - 17: Cước áp (Cái cùm, 2 bài); bài 18 - 19 - 20: Học dịch kỳ (Học đánh cờ, 3 bài); bài 21: Vọng nguyệt (Ngắm trăng); bài 22: Phân thuỷ (Chia nước).
* Tháng 8 -1943
Trong nhà giam Cục Chính trị Đệ tứ chiến khu, Hồ Chí Minh viết các bài thơ: Bài 124-125: Thu cảm, I-II (Cảm thu, I-II); bài 126: Nhân đỗ ngã (Nhân lúc đói bụng); bài 127: Trần khoa viên lai thám (Khoa viên họ Trần tới thăm); bài 128: Hầu chủ nhiệm ân tặng nhất bộ thư (Chủ nhiệm họ Hầu7) tặng một bộ sách); bài 129: Mông thượng lệnh chuẩn xuất lung hoạt động (Được lệnh trên cho đi lại ngoài buồng giam); bài 130: Thu dạ (Đêm thu).
* Tháng 8 -1944
- Ngày 9:Hồ Chí Minh được Tướng Trương Phát Khuê trả lại tự do và cho phép trở về Việt Nam cùng với 18 thanh niên do Người chọn.
Trước khi rời Liễu Châu, Người nói với Tướng Trương:“Tôi là một người cộng sản, nhưng điều mà tôi quan tâm hiện nay là độc lập và tự do của nước Việt Nam, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản. Tôi có một lời bảo đảm đặc biệt đối với ông rằng: Chủ nghĩa cộng sản sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam trong vòng 50 năm tới”.
Người cám ơn sự giúp đỡ của Tướng Tiêu Văn và nói:“Những gì mà tôi đã nói với ông (về Việt Nam và phong trào cách mạng Việt Nam) là sự thật 99%. Chỉ có 1% tôi chưa nói với ông mà thôi”.
- Trong tháng 8
+ Hồ Chí Minh về đến Long Châu, trú chân tại“Việt Nam dân tộc giải phóng đồng minh hội đệ nhất biện sự xứ” (Văn phòng 1, Hội đồng minh giải phóng dân tộc Việt Nam) đặt tại Đức Hưng Xa y điếm, số 82, đường Đông Quan ngoại thị trấn Long Châu. Người ở lại đây mấy hôm.
+ Tại Long Châu, Hồ Chí Minh gặp lại Tăng Thiên Tiết và được Tăng Thiên Tiết giúp đỡ ký giấy cho về Việt Nam.
* Tháng 8 -1945
- Từ ngày 1 đến ngày 6:Hồ Chí Minh tuyển lựa 200 du kích để Đội“Con Nai” huấn luyện sử dụng súng cácbin, M.A.S, tiểu liên Tômxơn, Badoca, cối và lựu đạn...
- Ngày 6:Qua điện đài của nhóm Tômát, Hồ Chí Minh biết tin Mỹ đã ném bom nguyên tử xuống Hirôsima.
- Sau ngày 6:Hồ Chí Minh chỉ thị viết nhiều thư hoả tốc, tung giao thông đặc biệt đi các hướng để thúc giục các đại biểu ở các địa phương về Tân Trào họp Hội nghị toàn quốc của Đảng.
- Khoảng ngày 10:Tại lán Nà Lừa, Hồ Chí Minh bàn với một số đồng chí về công việc chuẩn bị Hội nghị toàn quốc của Đảng. Khi Thường vụ chưa ấn định ngày, Người nói:“Nên họp ngay và cũng không nên kéo dài Hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút, tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.
- Ngày 12:Buổi tối, Hồ Chí Minh mặc dù đang yếu mệt, vẫn chăm chú theo dõi diễn biến tình hình thế giới. Qua chiếc đài thu thanh đã cũ, chạy bằng pin, Người nhận được tin của Đài tiếng nói Hoa Kỳ, phát đi từ Xan Phranxítxcô (San Francisco) loan tin:Nhật Bản gửi công hàm cho Mỹ và các nước Đồng minh, đề nghị mở cuộc đàm phán lập lại hoà bình, chấp nhận “ngừng bắn” chứ không chấp nhận “đầu hàng” không điều kiện. Người nhận định: “Có hiện tượng nguy ngập tan rã trong quân đội Nhật”.
- Ngày 13:Có tin Nhật đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật ở các nơi ngừng chiến đấu. 23 giờ, Uỷ ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa. Hồ Chí Minh chỉ thị viết nhiều thư hoả tốc, tung giao thông đặc biệt đi các địa phương và chỉ thị. Mệnh lệnh khởi nghĩa phải:Tập trung lực lượng đánh vào đô thị, đánh chặn quân Nhật rút lui; sau mỗi trận chiến đấu lập tức bổ sung và củng cố bộ đội, để lại một phần ba hoạt động trong địa phương, hai phần ba sẵn sàng đợi lệnh điều động đi nơi khác; củng cố các căn cứ bí mật, quân lương, quân giới... chuẩn bị kháng chiến một khi quân Pháp trở lại...
- Ngày 14:Theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Hội nghị toàn quốc của Đảng được triệu tập tại Tân Trào (Tuyên Quang). Hội nghị nhận định:“Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”. Hội nghị quyết định mục đích của cuộc chiến đấu là giành quyền độc lập hoàn toàn cho đất nước, thành lập chính quyền nhân dân, thi hành Mười chính sách của Việt Minh, định chính sách ngoại giao đối với Đồng minh. Hội nghị đề ra Nghị quyết chủ trương tập trung mọi lực lượng để giành chính quyền, tập trung "nhằm vào ba nguyên tắc:
a) Tập trung - tập trung lực lượng vào những việc chính.
b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy.
c) Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội".
Nghị quyết Hội nghị còn thảo luận và bàn bạc nhiều vấn đề khác như: vấn đề ngoại giao, tuyên truyền cổ động, nhiệm vụ quân sự, nhiệm vụ kinh tế, v.v..
- Ngày 15:Sau khi nhận được tin Nhật chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện, Hồ Chí Minh đề nghị Hội nghị toàn quốc của Đảng nên mau chóng kết thúc để các đại biểu khẩn trương quay ngay về các địa phương, kịp thời phát động quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị thông qua quyết nghị gồm 11 vấn đề quan trọng như: Tình hình thế giới, tình hình Đông Dương, chủ trương của ta, vấn đề ngoại giao, nhiệm vụ quân sự, vấn đề cán bộ... Hội nghị còn quyết định thành lập Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc lãnh đạo Tổng khởi nghĩa và lập Bộ Tư lệnh giải phóng quân Việt Nam.
- Sau ngày 15:Hồ Chí Minh gửi Trung uý Giôn (John) một lá thư bằng tiếng Anh với nội dung:Trung uý thân mến,Nhờ ông gửi giúp về Bộ Tổng hành dinh của ông bức điện tín như sau:
Uỷ ban dân tộc giải phóng của Mặt trận Việt Minh yêu cầu nhà cầm quyền Hoa Kỳ thông báo cho Liên hợp quốc rằng: Chúng tôi đã đứng về phía Liên hợp quốc chống lại bọn Nhật. Nay bọn Nhật đã đầu hàng. Chúng tôi yêu cầu Liên hợp quốc thực hiện lời hứa long trọng của mình là tất cả các dân tộc đều được hưởng dân chủ và độc lập. Nếu Liên hợp quốc nuốt lời hứa long trọng này và không thực hiện cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập thì chúng tôi sẽ cương quyết chiến đấu cho đến khi giành được nền độc lập hoàn toàn.
Uỷ ban dân tộc giải phóng Mặt trận Việt Minh.
- Ngày 16:Hồ Chí Minh dự Đại hội quốc dân tại Tân Trào. Đại hội đã nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh. Đại hội đã bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ban thường trực của Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam gồm năm người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền.
Người vẫn ốm, buổi chiều Người lại lên cơn sốt nên không thể đến dự buổi lễ xuất phát của Quân giải phóng.
- Ngày 17:Trước đình Tân Trào, thay mặt Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đọc lời tuyên thệ trong buổi lễ ra mắt quốc dân:“Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Uỷ ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước. Xin thề!”.
- Ngày 18:
+Hồ Chí Minh viết Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa gửi quốc dân, đồng bào. Trong thư, Người chỉ rõ: “Bốn năm trước đây, tôi có thư kêu gọi đồng bào ta đoàn kết. Vì có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được ĐỘC LẬP, TỰ DO....
Vừa đây Việt Minh lại triệu tập “Việt Nam quốc dân đại biểu Đại hội”, cử ra UỶ BAN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG VIỆT NAM để lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc lập...
Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam cũng như Chính phủ lâm thời của ta lúc này. Hãy đoàn kết chung quanh nó, làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành khắp nước.
Như vậy thì Tổ quốc ta nhất định mau được độc lập, dân tộc ta nhất định mau được tự do.
Hỡi đồng bào yêu quý!
Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ.
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”.
+ Hồ Chí Minh gửi thông điệp cho Chính phủ Pháp nêu ra đề nghị năm điểm:
1- Chính phủ Pháp công nhận Chính phủ Việt Minh.
2- Việt Minh công nhận quyền của Pháp ở Việt Nam trong vòng từ 5 đến 10 năm, sau đó Chính phủ Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam.
3- Trong 5-10 năm đó, Việt Nam hưởng quyền tự trị đối nội.
4- Chính phủ Pháp hưởng quyền ưu đãi trong kỹ nghệ và thương mại ở Việt Nam.
5- Người Pháp có thể làm cố vấn về ngoại giao.
Đồng thời, qua người Mỹ, Người nhân danh Uỷ ban giải phóng dân tộc gửi thông điệp cho các nước Đồng minh.
- Khoảng ngày 18:
+ Hồ Chí Minh gửi thư cho Sáclơ Phen. Toàn văn bức thư như sau:
“Trung uý Phen thân mến!
Chiến tranh đã kết thúc. Đấy là điều tốt cho mọi người. Tôi cảm thấy áy náy khi những người bạn Mỹ phải rời chúng tôi quá nhanh. Việc ra đi của họ khỏi đất nước này có nghĩa là mối quan hệ giữa ông và chúng tôi sẽ khó khăn hơn.
Chiến tranh đã kết thúc thắng lợi. Nhưng chúng tôi, những nước nhỏ và phụ thuộc, không có phần đóng góp hoặc đóng góp rất ít vào thắng lợi của tự do, của dân chủ. Nếu muốn đóng góp một phần xứng đáng chúng tôi phải tiếp tục chiến đấu. Tôi tin rằng ông và nhân dân Mỹ vĩ đại sẽ luôn luôn ủng hộ chúng tôi.
Tôi cũng tin rằng sớm hay muộn chúng tôi cũng sẽ đạt được mục đích của mình, bởi vì mục đích đó là chính nghĩa. Và đất nước chúng tôi sẽ độc lập. Tôi trông chờ ngày hạnh phúc được gặp ông và những người bạn Mỹ của chúng ta ở Đông Dương hay trên đất Mỹ.
Chúc ông may mắn và sức khoẻ. Tháng 8-1945. C.M HỒ”
+ Hồ Chí Minh gửi thư cho Ph. Tam. Toàn văn bức thư như sau:
“Ông Tam thân mến!
Chiến tranh đã kết thúc. Mọi thứ đều thay đổi. Nhưng tình bạn của chúng ta vẫn thế, không bao giờ thay đổi.
Nhưng ông biết đấy, chúng tôi không có phần đóng góp chiến thắng này. Để góp phần mình vào chiến công chung, chúng tôi còn phải chiến đấu gian khổ. Ông hãy tin rằng chúng tôi đã chiến đấu và sẽ chiến đấu cho tới khi chúng tôi đạt được cái mà chúng tôi mong muốn: Độc lập dân tộc.
Tôi thấy áy náy vì những người bạn Mỹ đã rời chúng tôi quá nhanh và do đó mối quan hệ giữa ông và chúng tôi trở nên khó khăn hơn. Chúng tôi sẽ không bao giờ quên ông. Ông cũng đừng quên chúng tôi nhé! Ngày mai tươi sáng chúng ta sẽ gặp nhau, chúng ta trông chờ ngày đó!
Thưa ông, người bạn được giao nhiệm vụ mua những vòng xuyến cho ông bị ốm và anh ta đã trao công việc đó cho người khác. Nhưng người này lại nhận công tác xa Hà Nội, nên anh ta đã trao công việc đó cho người thứ ba. Người này không thực hiện đúng mà chỉ mua được một số cái mà ông muốn.
Tất cả giá 440 piastres.
Tôi gửi lại ông những gì mà họ chuyển cho tôi và số tiền còn lại là 2.560 piastres. Chúc ông sức khoẻ và may mắn. Và chúc ông sớm gặp người bạn đời tốt. Hãy tin ở tôi, tôi sẽ mãi mãi như xưa.
8-1945. Thân mến. C.M Hồ”
- Khoảng trước ngày 20:Hồ Chí Minh họp với Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Thái, Hoàng Hữu Kháng và nữ đồng chí Châu. Người nói:“Bây giờ ta có chính quyền, chắc các cô, các chú cũng muốn về Hà Nội. Nhưng chưa được đâu! Lênin đã nói: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Bởi vậy, một số các cô, các chú còn ở lại địa phương đây, giúp đồng bào tổ chức cuộc sống sao cho tươi đẹp hơn, ấm no, văn minh hơn... Biết đâu, chúng ta còn trở lên đây nhờ cậy đồng bào lần nữa...”.
- Ngày 22:Sáng, Hồ Chí Minh rời Tân Trào về Hà Nội. Người đi theo đường đèo Khế, Cù Vân (nay thuộc huyện Đại Từ, Bắc Thái). Người chưa khỏi bệnh, còn mệt nhiều, có lúc phải nằm cáng.
Khoảng 20 giờ, Người tới Đại Từ. Khoảng 21 giờ, Người đi ô tô đến Thái Nguyên.
- Ngày 23:Sáng, Hồ Chí Minh đi qua huyện Đa Phúc tỉnh Phúc Yên (nay là Sóc Sơn, Hà Nội). Trên đường về Hà Nội, Người trông rất yếu, tóc đốm bạc, râu ba chòm, mặc quần áo nâu, ngồi trên ghế sau một chiếc xe nhỏ, chiếc túi vải chàm đặt trên lòng.
Chiều, Người qua đò sông Hồng ở bến Phú Xá. Trong lúc tạm nghỉ ở đình Phú Xá (bấy giờ được dùng làm chỗ tập tự vệ), Người nghe đồng chí phụ trách công tác đội của Trung ương từ nội thành ra báo cáo về dư luận của đồng bào trước tin quân Đồng minh sẽ vào Đông Dương.
Tối, Người đến nghỉ trong nhà ông Công Ngọc Kha (tức Trần Lộc) ở làng Gạ (nay là làng Phú Gia, xã Phú Thượng, huyện Từ Liêm), là một cơ sở cách mạng tin cậy.
- Ngày 25:Sáng, tại làng Gạ, Hồ Chí Minh nghe các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh từ nội thành ra báo cáo tình hình.
Chiều, Người từ làng Gạ đi ô tô vào nội thành Hà Nội. Xe qua Nhật Tân, Yên Phụ, Hàng Đậu, Hàng Giấy, Hàng Đường, Hàng Ngang, vòng đến dừng ở số nhà 35, phố Hàng Cân. Cùng đi có đồng chí Trường Chinh đã đến làng Gạ đón Người từ buổi sáng.
Theo thang gác, Người lên tầng hai nhà số 48, phố Hàng Ngang.
- Ngày 26:Buổi sáng, tại ngôi nhà số 48, phố Hàng Ngang (Hà Nội), Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng. Trong cuộc họp này, Người nhất trí với Thường vụ Trung ương Đảng về những chủ trương đối nội và đối ngoại trong tình hình mới, về việc sớm công bố danh sách thành viên Chính phủ lâm thời. Người đề nghị mở rộng hơn nữa thành phần của Chính phủ lâm thời, chuẩn bị ra Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ ra mắt nhân dân, ngày ra mắt của Chính phủ lâm thời cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hoà. Người nhấn mạnh những việc cần làm ngay trước khi quân đội Tưởng vào Đông Dương tước vũ khí của quân đội Nhật.
Buổi trưa, tại số nhà 48, phố Hàng Ngang, Hồ Chí Minh mời cơm Pátti. Người nói chuyện với Pátti đến gần 16 giờ.
- Ngày 27:Hồ Chí Minh triệu tập cuộc họp của Uỷ ban dân tộc giải phóng. Trong cuộc họp này, Người đề nghị thi hành chính sách đoàn kết rộng rãi, thành lập Chính phủ thống nhất quốc gia bao gồm cả những đại biểu các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ không đảng phái, có danh vọng.
Đề nghị của Người được mọi người tán thành.
Nhiều uỷ viên Việt Minh tự nguyện xin rút lui để nhường chỗ cho những người khác thuộc các đảng phái khác.
Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Cùng ngày, Người tiếp các bộ trưởng mới tham gia Chính phủ.
- Từ ngày 28:Từ nơi ở là ngôi nhà số 48, phố Hàng Ngang (Hà Nội), Hồ Chí Minh hằng ngày đến làm việc tại nhà số 12 phố Ngô Quyền - trụ sở của Chính phủ lâm thời. Người dành phần lớn thời gian soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.
- Ngày 29:Hồ Chí Minh gửi một tấm danh thiếp trên đó viết mấy lời ngắn gọn, mời A. Pátti đến gặp trước 12 giờ.
Vào lúc 10 giờ 30, Người tiếp A. Pátti tại số nhà 48, phố Hàng Ngang. Cùng tiếp có đồng chí Trường Chinh. Người nói với Pátti:Muốn trao đổi với ông ta về một số kế hoạch hoạt động của Chính phủ lâm thời trong những ngày sắp tới, trong đó có việc tổ chức Ngày Lễ Độc lập 2-9, giới thiệu các thành viên Chính phủ và chương trình hoạt động của Chính phủ cho mọi người dân được biết. Người cho gọi người phiên dịch đến dịch cho Pátti nghe bản dự thảo Tuyên ngôn Độc lập. Pátti vô cùng ngạc nhiên khi thấy Cụ Hồ đã đưa vào đó một số câu trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ nhưng đã đảo trật tự và thay thế một số từ, đem lại cho nó một ý nghĩa mới.
Trong cuộc gặp hai người còn trao đổi về việc quân Tưởng vào Việt Nam, về"Chương trình quốc hữu hoá"của Chính phủ đối với một số ngành kinh tế quan trọng. Hồ Chí Minh mời Pátti dự Lễ Độc lập 2-9. Pátti nhận lời nhưng cũng tỏ ý vì lý do tế nhị có thể sẽ không đến dự được.
- Trước ngày 30:Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời gửi bức công điện cho Tổng thống Mỹ Tơruman, nhờ A. Pátti chuyển giúp về Mỹ.
Nguyên văn bức điện như sau:"Để bảo đảm có kết quả cho vấn đề mà Uỷ ban Liên tịch các nước Đồng minh có nhiệm vụ phải giải quyết ở Việt Nam, yêu cầu để cho phái đoàn Mỹ được làm một thành viên của Uỷ ban nói trên và đặt quan hệ với Chính phủ chúng tôi... Chúng tôi yêu cầu cho Chính phủ chúng tôi, chính quyền duy nhất hợp pháp ở Việt Nam, và là người duy nhất đã chiến đấu chống Nhật (sic) (hoạt động quân sự do Mặt trận Việt Minh và sĩ quan Mỹ tiến hành) có quyền đại diện trong Uỷ ban đó.
Chính phủ lâm thời nước Cộng hoà Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh"
Bức điện được gửi nhằm hai mục đích:
1. Muốn có một nước thứ ba là Mỹ tham dự vô tư vào cuộc thương lượng giữa Pháp và Trung Quốc về Việt Nam, để tránh những nguy cơ có thể có cho nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam do hai nước đó tuỳ tiện nhân nhượng lẫn nhau.
2. Muốn các nước Đồng minh công nhận Chính phủ lâm thời của Hồ Chí Minh là đại diện duy nhất và hợp pháp của Việt Nam trong các vấn đề có liên quan đến chủ quyền của Việt Nam.
Pátti cho biết ông không có nhiệm vụ chính trị và quyền đại diện ngoại giao, nhưng nhận sẽ chuyển bức điện cho Đại sứ Mỹ Hurley. Bức điện được chuyển đi ngày 30-8-1945, số điện 47.
- Ngày 30:Hồ Chí Minh mời một số đồng chí đến trao đổi, góp ý kiến cho bản dự thảo Tuyên ngôn Độc lập. Sau khi đọc bản thảo cho mọi người nghe và hỏi ý kiến, Người nói: Trong đời, Người đã viết nhiều, nhưng đến bây giờ mới viết được một bản Tuyên ngôn như vậy.
- Ngày 31:Hồ Chí Minh bổ sung một số điểm vào bản thảo Tuyên ngôn Độc lập; hỏi cụ thể về tình hình chuẩn bị tổ chức cuộc mít tinh lớn ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) và nhắc nhở Ban Tổ chức một số điểm cần chú ý.
* Tháng 8- 1952
- Ngày 1: Bài viếtAi văn minh? Ai dã man?ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc, số 2133, nêu dẫn chứng về hai cách đối xử với tù binh:
+ Phía ta: Đã nhiều lần phóng thích tù binh cho họ trở về quê hương. Số còn lại được đối đãi tử tế, chứng cớ là bức thư của tập thể 100 sĩ quan Pháp bị bắt đã gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh cảm ơn chính sách khoan hồng và nhân đạo của Chính phủ và nhân dân Việt Nam.
+ Phía địch: Cả Pháp và Mỹ đều đối xử cực kỳ dã man đối với những người bị chúng bắt. Chứng cớ là vụ thảm sát 200 tù binh Trung - Triều tại trại tập trung Cự Tế (Nam Triều Tiên) ngày 11-6.
Bài báo kết luận: “Chỉ một việc đối đãi tù binh đủ thấy rõ ta là văn minh, bọn đế quốc là dã man”.
- Ngày 4: Bài viếtMáy bay “phản lực” phản Mỹ, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2135, dẫn lời báo chí Mỹ thừa nhận Mỹ đang bị một tai nạn mà chúng gọi là “bệnh dịch”: 225 sĩ quan lái máy bay “phản lực” kiên quyết không chịu lái nữa cho dù bị đi tù, bốn sĩ quan bị án tử hình vì không chịu lái máy bay ra trận ở Triều Tiên. Một trường dạy lái máy bay “phản lực” của Pháp phải đóng cửa vì không ai đến học. Người kết luận: “Vũ khí tốt mà tinh thần hèn, thì cũng vô dụng”.
- Ngày 6 : Bài viếtNhân dân Châu Á thắng lợi, ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc, số 2137, dẫn lời của một tờ báo lớn nhất, phản động nhất của Mỹ, báoĐời sống(Life) thừa nhận phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ ở châu á. Báo đó viết: “Hầu khắp châu á có những người nhằm theo một mục đích chung: Đấu tranh chống những người da trắng để lấy lại những vùng có dầu lửa và những đồng ruộng đầy lúa khoai của họ. Họ đấu tranh và họ thắng lợi”.
- Ngày 7: Hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sáu mươi và mười sáu, Lột mặt nạ, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân Dân, số 69.
+ Bài Sáu mươi và mười sáu:Nêu hai mẫu người anh hùng ở các nước tư bản: Kẻ giết người, kẻ đi cướp nước người, được coi là “Anh hùng”; còn ở nước ta Anh hùng là những người cố gắng thi đua ái quốc: Tiêu biểu như Anh hùng lao động 65 tuổi Hoàng Hanh và Chiến sĩ thi đua toàn quốc 16 tuổi Trần Thị Thanh.
+ Bài Lột mặt nạ, kể về bảy lãnh tụ công đoàn ở đảo Hônôlulu bị Chính phủ Mỹ truy tố là có xu hướng cộng sản, nhưng lại muốn mua chuộc một người trong số họ. Chúng đặt điều kiện: “Nếu anh Han chịu chia rẽ công đoàn thì Chính phủ sẽ thôi kiện”. Anh Han đã bí mật ghi âm cuộc “mặc cả” này sau đó công bố cho toàn đảo nghe. Thế là Chính phủ Mỹ bị “lột mặt nạ”.
- Ngày 12: Bài viếtMột làng tiến đến kiểu mẫu,ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc, số 2141, giới thiệu về một làng ở Thọ Xuân (Thanh Hóa). Sau khi nghiên cứu kỹ và hiểu rõ kế hoạch sản xuất và tiết kiệmcủa Chính phủ, đồng bào Thọ Xuân đã cùng nhau đặt kế hoạch thực hiện, sắp xếp lại lao động, tổ chức sản xuất hợp lý, phát triển thêm nghề phụ, động viên cả người già và trẻ em cùng tham gia phong trào sản xuất, tiết kiệm. Kết quả là:
“Một mùa gặt bằng hai mùa.
Dân no, nước mạnh tha hồ đánh Tây”.
- Ngày 13: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới Chủ tịch Pathét Lào, chúc mừng Ngày thành lập Chính phủ kháng chiến Lào và ngày bầu cử Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận dân tộc thống nhất Lào. Bức thư có đoạn: “Thắng lợi của nhân dân Lào cũng là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, là thắng lợi chung của khối liên minh Lào - Miên - Việt đoàn kết chiến đấu đánh đuổi kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ”.
- Ngày 14: Hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân Dân, số 70:
+ Bài Anh hùng và chiến sĩ trí thức, tác giả nhấn mạnh dưới chế độ dân chủ mới, những người lao động trí óc cũng như lao động chân tay đều có điều kiện phát huy và phát triển tài năng của mình. Chính phủ kháng chiến rất quý trọng những người trí thức chân chính.
+ Bài Tây mũi tẹt, vạch mặt bè lũ bù nhìn cam tâm làm chó săn, bán rẻ Tổ quốc cho Tây thực dân, vậy mà chúng còn dám huyênh hoang nào “độc lập”, nào “dân chủ”. Song, “Luật dân phép nước sẽ phanh thây cả đàn”.
- Ngày 15: Bài viếtTấm bia đẻ non, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2142, kể lại việc “một bọn Nhật gian” muốn lấy lòng Mỹ đã tổ chức quyên tiền để dựng bia ca tụng viên tướng Mỹ Mác áctơ, nguyên Tổng Tư lệnh quân đội Mỹ tại Nhật trong suốt sáu năm, kẻ đã áp bức bóc lột nhân dân Nhật tàn tệ. Kết quả sau gần hai tháng, số tiền quyên được chẳng đáng bao nhiêu so với khoản chi phí cho việc tuyên truyền tổ chức. Thật là:
“Mất tiền rồi lại mua thêm,
Chỉ làm cho dân Nhật chửi ầm, điếc cả tai”.
- Ngày 17: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với cán bộ báo chí, văn nghệ và cán bộ các ngành nghề về “cách viết”, tại Trường chỉnh Đảng Trung ương. Người nói về cách viết, đặc biệt là viết ngắn. Người nêu ra những câu hỏi cho một bài viết:Vì ai mà viết, mục đích viết làm gì, viết cái gì, lấy tài liệu đâu mà viết và cách viết thế nào?Người giới thiệu kinh nghiệm học viết của mình thời kỳ ở Pháp, từ viết báo đến viết truyện ngắn. Kết luận bài nói, Người nhấn mạnh:“Viết cũng như mọi công việc khác, phải có chí, chớ giấu dốt, nhờ tự phê bình và phê bình mà tiến bộ. Quyết tâm thì việc gì khó mấy cũng làm được”.
- Ngày 18: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tinh thần lính Mỹ,ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2145, dẫn lại những tin tức đăng trên các báo Mỹ (Thời sự, Diễn đàn), về phong trào lính Mỹ chống lệnh ra mặt trận ngày càng phát triển trong quân đội với rất nhiều hình thức phong phú.
- Ngày 18, 19 và 20: Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Hội đồng Chính phủ bàn về tình hình thế giới, tình hình chiến sự trong nước, thảo luận và quyết định một số vấn đề quan trọng như: ban hành chế độ doanh nghiệp quốc gia và chế độ quản lý dân chủ xí nghiệp, tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp và bọn Việt gian cho nông dân, việc bồi dưỡng các chiến sĩ thi đua toàn quốc và vấn đề trừng trị bọn Việt gian, phản động.
- Ngày 21: Hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân Dân, số 71:
+ Bài Kế hoạch gia đình, tác giả khuyên mỗi gia đình nên có kế hoạch để hưởng ứng phong trào sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ. Việc đó “rất hay, rất tốt, ích nước, lợi dân”.
+ Bài Mấy con số ghê tởm, tác giả giải thích vì sao nhân dân thế giới lại kịch liệt chống việc Mỹ tổ chức lại quân đội phát xít Tây Đức, và kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức chiến đấu, ủng hộ nhân dân Đức và nhân dân Nhật đấu tranh chống việc Mỹ phục hồi phát xít Đức - Nhật.
- Ngày 26: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: 12 vạn 5 nghìn binh sĩ Pháp chết và bị thương, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2151, trích dẫn những con số thiệt hại về người của Pháp trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam do chính các tướng giặc như Linarét, Xalăng, Lơtuốcnô thú nhận để cho thấy:“Tình hình giặc Pháp rất bi. Quân và dân ta cố gắng thi đua giết giặc lập công, thi đua tăng gia và tiết kiệm, thì tình hình giặc sẽ bi hơn nữa và thắng lợi nhất định về ta”.
- Ngày 29: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Sẵn tiền, sẵn lòng,
Tát biển Đông cũng cạn.
Ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2153. Thông qua những việc làm cụ thể, tác giả khẳng định nhân dân Việt Nam ta rất tin tưởng, rất hăng hái ủng hộ Đảng và Chính phủ cũng như nhân dân Liên Xô đã nhiệt tình hưởng ứng các chủ trương của Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với phong trào chống quan liêu, tham ô, lãng phínhân dân ta đã tin tưởng chắc chắn sẽ càng tin tưởng thêm.
“Nhân dân ta sẵn sức, sẵn của, sẵn lòng,
Cán bộ tận tụy và trong sạch, thì 10 việc thành công cả 10”.
- Trong tháng: Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày kế hoạch tác chiến chiến dịch Tây Bắc. Sau đó, Người chỉ rõ:Đây là lần đầu tiên ta mở chiến dịch lớn, địa hình hiểm trở; cần nắm chắc địa hình và chú trọng thực hiện đúng chính sách dân tộc, giúp đỡ đồng bào dân tộc, bộ đội phải giữ kỷ luật dân vận.
* Tháng 8- 1953
- Ngày 3: Bài viếtTiêu chuẩn đảng viên Đảng Lao động Việt Nam,ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc,số 2393, Người nêu bảy tiêu chuẩn của người đảng viên là:1. Không bóc lột người; 2. Suốt đời phụng sự nhân dân; 3. Luôn trau dồi lập trường tư tưởng của giai cấp công nhân; 4. Luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết; 5. Chấp hành tuyệt đối mọi kỷ luật của Đảng; 6. Liên hệ chặt chẽ với quần chúng; 7. Thường xuyên thật thà tự phê bình và phê bình.
- Ngày 6: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhi đồng kháng chiến,ký bút danh C.B, đăng báoNhân Dân, số 128, nêu tóm tắt câu chuyện về gương dũng cảm của em Năm, 14 tuổi ở vùng địch tạm chiếm vì chỉ biết một điều "Yêu Tổ quốc, yêu Bác Hồ", em đã mưu trí, gan dạ, tỉnh táo không mắc mưu địch và đã trở thành một chiến sĩ anh dũng, một chiến sĩ thi đua và được tặng huân chương.
- Ngày 7: Tối, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện tại lớp chỉnh huấn của các nhân sĩ và trí thức công tác tại các cơ quan trung ương. Người giải đáp một số thắc mắc mà anh chị em đặt ra; nêu khái quát tình hình trong và ngoài nước, sách lược của ta đối với thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Kết thúc bài nói, Người chỉ rõ: "Trong lúc khó khăn của dân tộc, khí tiết của người cán bộ là không sợ gì hết, không sợ kẻ địch, không sợ khó khăn gian khổ. Cái gì khó khăn, cực khổ, cán bộ phải xung phong làm trước. Muốn cho xứng đáng là người cán bộ cách mạng, mong các cô các chú phải có khí tiết ấy".
Cùng ngày, bài viếtNghĩa vụ đảng viên, ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc,số 2396, Người nêu rõ người đảng viên có những nghĩa vụ sau:Cố gắng học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao trình độ giác ngộ; giữ gìn kỷ luật của Đảng, hăng hái tham gia sinh hoạt nội bộ và công tác cách mạng, kiên quyết chấp hành chính sách và nghị quyết của Đảng, đấu tranh chống những hiện tượng trái với lợi ích của Đảng; ra sức phụng sự nhân dân, củng cố mối liên hệ giữa dân với Đảng; giữ vững kỷ luật của Đảng và các đoàn thể cách mạng, làm gương mẫu trong mọi công việc.
- Ngày 10: Bài viếtQuyền lợi đảng viên, ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc,số 2398, nêu rõ người đảng viên có những quyền lợi: quyền tự do ngôn luận (trên các báo chí và trong các cuộc hội nghị của Đảng); quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng; quyền đề nghị, thanh minh, khiếu nại trước các cơ quan Đảng (từ chi bộ đến trung ương)...
- Ngày 14: Bài viếtChế độ dân chủ tập trung của Đảng,ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc,số 2401. Bài viết nêu hệ thống tổ chức của Đảng từ chi ủy đến trung ương và chỉ rõ: Toàn thể đảng viên các cấp được tổ chức thống nhất theo một nguyên tắc nhất định: Dân chủ tập trung.Sau khi giải thích thế nào là dân chủ tập trung, Người kết luận:Muốn cho Đảng mạnh, phải mở rộng dân chủ, đồng thời thực hiện sự lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và kỷ luật.
- Ngày 16: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việc đình chiến ở Triều Tiên,ký bút danh C.B, đăng báoNhân Dân, số 130. Bài viết trích dẫn ý kiến của một Bí thư chi bộ xã về việc đình chiến ở Triều Tiên. Câu trả lời chung là: Mỹ yếu nên phải đình chiến; Triều Tiên đình chiến, Mỹ sẽ tiếp tục giúp Pháp đánh ta, song chúng nhất định sẽ thất bại. Nhiệm vụ của quân và dân ta là đoàn kết một lòng, quyết tâm đánh thắng giặc Pháp xâm lược.
- Ngày 17: Chủ tịch Hồ Chí Minh giảng bài tại lớp chỉnh Đảng Trung ương về cách viết. Người nêu lên yêu cầu hiện nay không cho phép viết dài vì vừa tốn mực, vừa đọc lâu. Trước khi viết bài phải nhớ làviết vì mục đích gì?Viết cho ai và viết cái gì? Viết để làm gì? Người trả lời:Viết để phục vụ tuyên truyền cho nhân dân phải ngắn gọn dễ hiểu; còn viết về địch phải vạch rõ tội ác của chúng để gây lòng căm thù địch. Cuối cùng, Người kết luận“viết cũng như mọi việc khác,phải có chí, chớ giấu dốt...”.
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hệ thống tổ chức của Đảng,ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc,số 2403, nêu rõ: Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Trong khoảng thời gian giữa hai kỳ Đại hội cơ quan cao nhất của Đảng là Trung ương. Trung ương cử ra Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Khi cần, Trung ương có thể triệu tập Hội nghị đại biểu toàn quốc. Những nghị quyết của Hội nghị phải do Trung ương phê chuẩn mới được thi hành. ở các xã, huyện, tỉnh, khu cũng có đại hội của cấp mình để bầu ra chi ủy, huyện ủy, tỉnh ủy... Trung ương và các cấp có thể lập ra các ban. Ban của cấp nào do ban chấp hành đảng ủy cấp ấy lãnh đạo.
- Ngày 21:bài viết của Người: Chi bộ,ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc,số 2406, nêu vai trò quan trọng của chi bộ, nó là sợi dây liên hệ giữa Đảng với quần chúng. Nhiệm vụ của chi bộ là: Luôn luôn tuyên truyền và tổ chức cho nhân dân hiểu và thực hiện chính sách của Đảng; luôn luôn chú ý đến tư tưởng và nhu cầu của nhân dân; luôn luôn quan tâm đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của nhân dân; chọn lọc và bồi dưỡng những phần tử hăng hái, giác ngộ cao, đủ tiêu chuẩn để giới thiệu cho Đảng.
- Ngày 23: Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm và nói chuyện tại lớp chỉnh huấn Quân khu I. Người nói:“Cố nhiên gia đình ai cũng có, không có không được. Nhưng mình là người cách mạng, người kháng chiến được Đảng giáo dục phải trông xa thấy rộng hơn. Mình có gia đình, gia đình to nhất là giai cấp... nếu giai cấp chưa được giải phóng hoàn toàn thì mình chưa được giải phóng hoàn toàn…
Phải cân nhắc kỹ: Hy sinh lợi ích gia đình nhỏ cho gia đình to, hay hy sinh gia đình to cho gia đình nhỏ của mình. Các cô các chú tự cân nhắc đúng thì sẽ ít thắc mắc về tiểu gia đình của mình. Phải hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung...
Người ta ai chẳng có gia đình và thương gia đình. Nhưng cũng có những người hy sinh gia đình nhỏ cho đại gia đình. Thí dụ các liệt sĩ nước ta. Cũng có người biết như thế không muốn có tiểu gia đình để toàn tâm toàn ý cho đại gia đình”.
- Ngày 24: Bài viếtChủ nghĩa xã hội, ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc,số 2408. Bài viết nêu lên năm đặc điểm của chủ nghĩa xã hội: Mọi tư liệu sản xuất đều là của chung; lực lượng sản xuất chủ yếu là công nhân và nông dân; thực hiện khẩu hiệu "Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng"; sản xuất có kế hoạch; không có sự phân biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn.
- Ngày 25: Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện tại lớp chỉnh huấn cho cán bộ, công nhân viên chức các cơ quan Khu 1. Người giải đáp một số thắc mắc của anh, chị em học viên như: Vì sao phải chỉnh huấn? Mục đích của chỉnh huấn; vấn đề quyền lợi riêng của bản thân với gia đình và Tổ quốc, quan hệ với địa chủ, bà con, vợ con ở trong thành như thế nào cho đúng? Người còn đề cập đến vấn đề tư tưởng của một số cán bộ không muốn tiếp tục đấu tranh, không an tâm công tác, xem việc này hơn việc nọ. Kết thúc bài nói chuyện, Người khẳng định: "Vậy làm bất kỳ việc gì, cố mà thi đua, giúp anh em thi đua đều là anh hùng của dân tộc, không nên nghĩ chỗ này thì tiến bộ, chỗ khác không tiến bộ. Bất kỳ làm việc gì cũng phải cố gắng, kiên quyết an tâm công tác, sẽ vẻ vang và có thể thành anh hùng được".
- Ngày 26: Bài viếtẢo mộng của Mỹ,ký bút danh C.B, đăng báoNhân Dân, số 132, viết về những ảo mộng của Mỹ. Từ ảo mộng xây dựng một quân đội đồng minh mạnh mẽ ở châu á đến ảo mộng "nguyên tử", "khinh khí", "lãnh đạo", tất cả đều bị tan vỡ trước sức đoàn kết đấu tranh của nhân dân thế giới. Bài báo kết luận: Thật đúng với tên gọi "con cọp bằng giấy" mà nhân dân thế giới đã đặt cho Mỹ.
- Từ ngày 27 đến ngày 29: Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo và thảo luận về tình hình thế giới, tình hình quân sự, vấn đề xây dựng và củng cố Tây Bắc, công tác phát động quần chúng và các vấn đề về nội chính, kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo... Phát biểu kết thúc phiên họp, Người nêu tóm tắt những kết quả của kỳ họp Hội đồng Chính phủ lần này là đã giải quyết được những vấn đề tương đối lớn như: thành lập Khu Tây Bắc, sửa đổi một số điểm về phát động quần chúng, thông qua chính sách tôn giáo, thành lập Bộ Công an..., và nhắc nhở cán bộ, ngành cần khắc phục khó khăn, phát huy tiến bộ để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
- Ngày 28: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa cộng sản,ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc,số 2411, nêu lên những đặc điểm của chủ nghĩa cộng sản: Mọi ngành sản xuất phát triển rất cao và không ngừng; tài sản là của chung toàn dân; xã hội có đời sống văn hóa cao. Thực hiện nguyên tắc:"Mọi người làm hết tài năng, ai cần dùng gì có nấy".
- Tháng 8, trong tháng: Đêm khuya, Họp Hội đồng Chính phủ xong, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm một bài thơ chữ Hán bằng bút chì trên một trang giấy nhỏ. Bài thơ như sau:
"Song ngoại nguyệt minh lung cổ thụ,
Nguyệt di thụ ảnh đáo song tiền.
Quân cơ, quốc kế thương đàm liễu,
Huề chẩm song bàng đối nguyệt miên".
Sáng hôm sau, Người đưa cho Luật sư Phan Anh xem. Luật sư xin phép dịch ngay tại chỗ:
"Ngoài sân trăng sáng lồng cây,
Trăng đua bóng ngả, bóng cài bên song.
Việc quân, việc nước bàn xong,
Bên song ôm gối, gối cùng trăng mơ.
* Tháng 8 -1954
- Ngày 4: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Những kẻ âm mưu phá hoại hòa bình, ký bút danh C.B, đăng báoNhân Dân, số 211.
Bài báo phê phán những tin tức bịa đặt của Tòa thánh Vaticăng nói rằng, nông dân công giáo ở miền Bắc bị tịch thu ruộng đất, bị tập trung vào các vùng rừng núi; hay của một số đài phát thanh và báo chí Mỹ nói rằng quân đội Việt Nam đã tấn công quân Pháp sau khi đã đình chiến, v.v..
Bài báo vạch rõ: Đó là những tin tức bịa đặt, gây chia rẽ và khiêu khích nhằm gây không khí hoang mang trong nhân dân. Và kết luận:"Quân và dân ta phải tỉnh táo để đập tan những âm mưu chia rẽ và những luận điệu khiêu khích của bọn muốn phá hoại hòa bình".
- Ngày 7: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tinh thần quốc tế của giai cấp lao động,ký bút danh C.B, đăng báoNhân Dân, số 212.
Bài báo nhắc lại sự ủng hộ của giai cấp công nhân quốc tế đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp, đặc biệt là của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước thuộc địa Pháp và cho biết: đầu tháng 7-1954, công nhân cảng Angiê (Angiêri) đã bãi công lần nữa, tin đó làm "mọi người Việt Nam yêu nước rất cảm động".
Biểu lộ tình cảm của mình, tác giả viết:
"Tinh thần quốc tế của công nhân,
Quý giá, nghìn vàng há dễ cân
Giai cấp cần lao trong bốn bể
Một lòng tương trợ với tương thân".
- Ngày 9: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cảm ơn một số vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước các nước đã gửi điện chúc mừng nhân dịp hiệp định đình chiến ở Việt Nam và Đông Dương được ký kết.
Cùng ngày, bài viếtĐạo đức Mỹ,ký bút danh Đ.X, đăng báoCứu quốc,số 2658. Sau khi trích lời của Chủ tịch Hạ nghị viện Mỹ, rằng "đạo đức là nền tảng của nước Mỹ", tác giả đã dẫn một vài ví dụ để chỉ ra sự thật của đạo đức Mỹ là như thế nào? Đó là Chánh án tòa án bang Tếchdát vừa bị bắt vì bí mật thầu nhà chứa; rồi hàng loạt những tệ nạn khác như ăn cắp, hiếp dâm, phá hoại của công... thường xảy ra trong học sinh ở Mỹ và Người đặt câu hỏi: Phải chăng đó là "Nền tảng đạo đức Mỹ?". Bài báo kết luận:"Giáo dục Mỹ đã rèn luyện thành đạo đức Mỹ như thế đó. Thế mà đế quốc Mỹ muốn làm cho toàn thế giới học theo đạo đức Mỹ. Thật là tếu!".
- Ngày 10: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Quê đâu cho bằng quê nhà,
Nhà ta ta ở, việc ta ta làm.
Ký bút danh C.B, đăng báoNhân Dân, số 213. Bài báo tố cáo thủ đoạn lừa bịp, dụ dỗ, ép buộc của thực dân Pháp và tay sai đối với một số đồng bào ở vùng do chúng kiểm soát di cư vào Nam. Bài báo cũng cho biết, một số người đã nhìn thấy sự thật, đã trở về quê hương an cư lạc nghiệp. Tác giả khuyên những người đang bị chúng mê hoặc hãy tỉnh táo suy nghĩ để khỏi rơi vào cảnh:
"Trông về trời bể mênh mang
Bà con đã cách, xóm làng đã xa
Lưu ly không cửa không nhà
Chân trời góc bể, biết là về đâu!".
- Ngày 12: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự lễ đón tiếp ủy ban quốc tế giám sát đình chiến ở Việt Nam, tổ chức tại Thái Nguyên. Trong lời phát biểu, Người đã bày tỏ nguyện vọng hòa bình của nhân dân ta và khẳng định:Nhân dân Việt Nam sẽ đưa hết lực lượng và sẽ cố gắng không ngừng để gìn giữ hòa bình và thi hành đúng đắn tất cả những điều khoản đã ghi trong hiệp định đình chiến.
Sau khi bày tỏ tình hữu nghị của nhân dân ta với nhân dân các nước ấn Độ, Ba Lan và Canađa, Người tuyên bố:"Chúng tôi xin hoàn toàn phụ trách đảm bảo sự an toàn của các vị đại biểu và của tất cả nhân viên, và chúng tôi sẽ cố gắng làm cho công tác của ủy ban được thuận lợi".Người cũng"tin chắc rằng Ủy ban quốc tế sẽ nắm vững tinh thần Hiệp định và tuyên ngôn cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ, kết hợp nó với tình hình thực tế và đứng trên lập trường công bằng chính trực mà làm tròn chức trách của Uỷ ban".
- Ngày 13: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Kinh nghiệm phát động quần chúng, ký bút danh C.B, đăng báoNhân Dân, số 214. Người phê phán những khuyết điểm nghiêm trọng trong đợt 5 cải cách ruộng đất mà các cán bộ đã phạm phải. Trong đó,"Khuyết điểm chính là không biết tuyên truyền chính sách, không biết chấp hành chính sách". Do đó mà sinh ra những khuyết điểm khác như:
+ Có đội thì nghi ngờ tất cả cán bộ địa phương...
+ Có đội thì không chịu được khổ...
+ Có đội thì bắt bớ lung tung... Cuối cùng, Người chỉ rõ:"Để giành lấy kết quả tốt, tất cả các đội cần phải thật thà kiểm thảo từng bước công tác, để sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm".
- Ngày 16: Bài viết Gió rét, bùn lầy và nước mắt,ký bút danh C.B, đăng báoNhân Dân, số 215. Trích lời một nhà tư sản Pháp, đăng trên báoThế giới ngày 10-7-1954, rằng Pháp tiếp tục lợi dụng Bảo Đại để củng cố ngụy quyền, tác giả nhận xét:"Chế độ Bảo Đại chỉ là một trò hề... Nhân dân Việt Nam đang mong muốn hòa bình. Nhưng Bảo Đại đã đưa lại cho họ cái gì?"và câu trả lời:"Bảo Đại đã đưa lại cho họ gió rét, bùn lầy và nước mắt".
- Ngày 19: Bài viết của Người: Nhân dân Pháp đối với hòa bình ở Đông Dương,ký bút danh C.B, đăng báoNhân dân, số 216. Trong bài báo, Người dẫn ra những con số thiệt hại về người và của của nước Pháp trong hơn tám năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam và chỉ rõ: Nếu với sức người sức của ấy được dành cho việc xây dựng nước Pháp thì ngày nay, chính trị và kinh tế Pháp đã không bị phụ thuộc vào Mỹ. Nhân dân Pháp cũng hiểu rất rõ điều đó nên họ đã hăng hái chống chiến tranh và họ rất vui mừng khi hòa bình ở Đông Dương đã được lập lại.
- Ngày 22: Bài viếtPhải theo đúng kỷ luật của Đảng,ký bút danh C.B, đăng báoNhân Dân, số 217. Bài báo nêu rõ mối quan hệ giữa đoàn kết và kỷ luật trong Đảng. Kỷ luật là để đảm bảo tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí của toàn Đảng và toàn dân ta. Người còn chỉ rõ:"Thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất kỷ luật, tập trung lãnh đạo là việc cực kỳ cần thiết và cực kỳ quan trọng.... Các cơ quan tuyên truyền, tổ chức, giáo dục của Đảng phải làm cho cán bộ và đảng viên nhận rõ và theo đúng kỷ luật của Đảng. Đối với mỗi công tác quan trọng, cần phải làm cho mọi người hiểu cái gì nên làm, cái gì nên tránh, thế nào là đúng, thế nào là sai kỷ luật của Đảng. Như vậy kỷ luật của Đảng sẽ được bảo đảm, công tác của Đảng sẽ được thuận lợi, nhiệm vụ của Đảng sẽ chắc chắn hoàn thành".
- Ngày 25: Bài viếtPhát động quần chúng, kinh nghiệm tốt, ký bút danh C.B, đăng báoNhân Dân, số 218. Bài báo nêu gương chị Nguyễn Thị Kim được phái về phát động quần chúng thực hiện giảm tô ở một làng công giáo và thiểu số. Do biết lắng nghe ý kiến của dân, đi sâu xét kỹ, đến từng nhà, từng xóm giải thích vận động, giải đáp thắc mắc những khó khăn của dân kịp thời, nên được bà con tin cậy và thực hiện chính sách giảm tô của Chính phủ. Bài báo kết luận“ Đồng chí Kim là một gương mẫu, mọi cán bộ đều phải noi theo”.
- Ngày 28: Bài viếtChính sách bạo lực của Mỹ đã thất bại,ký bút danh C.B, đăng báoNhân Dân, số 219. Bài báo tóm tắt kết quả điều tra củaHãng Thông tấn MỹU.P, ngày 23-5-1954, với Hội nghị Béclin và Hội nghị Giơnevơ, sự tín nhiệm của một số nước đối với Mỹ đã giảm sút. Trong khi đó, với chính sách mậu dịch của mình, Liên Xô đã làm tăng thêm lòng tin và mối quan hệ hữu nghị với nhiều nước, nhất là với các nước Bắc Âu.
Từ thực tế đó, bài báo viết: "Chính sách bạo lực của Mỹ đã thất bại".
1)Những Bộ trưởng là đảng viên cộng sản trong Chính phủ Pháp.
1)Hội nghị họp trong tháng 8-1948 (B.T).
Còn nữa
Huyền Trang (tổng hợp)
Phần 4. Giai đoạn 1955 - 1969
* Tháng 8- 1955
- Ngày 5: Bài viếtNhiễu điều phủ lấy giá gương, bút danh C.B., đăng báoNhân Dân, số 520. Trong bài, Người biểu dương tinh thần thương yêu, đùm bọc của đồng bào miền Bắc đối với đồng bào miền Nam tập kết.
- Ngày 6: Bài viết"Quốc trị thiên hạ bình", bút danh C.B., đăng báoNhân Dân, số 521. Người lên án chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm ngoan cố chống lại chủ trương lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam - Bắc. Việc đó hoàn toàn trái ngược với lời của người xưa:Quốc trị thiên hạ bình, tức là tình hình trong nước yên ổn, thế giới hoà bình.
- Ngày 7 đến ngày 12: Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám để nhận định tình hình mới, hoạch định đường lối, chủ trương trong thời kỳ mới của cuộc đấu tranh chính trị; kiện toàn tổ chức về lề lối làm việc của Trung ương.
- Ngày 9: Bài viếtLực lượng to lớn của công nhân, bút danh C.B., đăng báoNhân Dân, số 524. Trong bài, Người biểu dương những thành tích xuất sắc của công nhân, tiêu biểu là công nhân Nhà máy xe lửa Hà Nội, công nhân Mỏ Cẩm Phả, đã khắc phục khó khăn, phát huy sáng kiến, tiết kiệm trong quá trình khôi phục nhà máy, xí nghiệp.
- Ngày 11: Bài viếtNhững chuyện ngược đời, bút danh C.B., đăng báoNhân Dân, số 526. Trong bài, Người viết về sự bất công trong xã hội tư bản. ở Pháp có Hội bảo vệ gia súc cho những người giàu có. Trong khi đó có những người dân thất nghiệp chết gục trong công viên không được ai quan tâm.
Cùng ngày, dự phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn công việc chuẩn bị cho Kỳ họp thứ năm Quốc hội khoá I và chuẩn bị kỷ niệm Ngày Quốc khánh, Người đề nghị cụ thể việc phân công chuẩn bị các báo cáo và nhắc nhở Bộ Công an và Bộ Công thương cần đặc biệt chú trọng công tác bảo vệ và vấn đề lương thực ở Thủ đô trong những ngày lễ.
- Ngày 13: Khai mạc tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám, sau khi phân tích tình hình trong nước và trên thế giới từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, Người chỉ ra phương hướng nhiệm vụ của Đảng trong thời gian tới, Người nhấn mạnh:"Trong công cuộc thống nhất nước nhà, điều quan trọng nhất là phải ra sức củng cố miền Bắc và chiếu cố miền Nam.
Trong công cuộc củng cố miền Bắc, một việc quan trọng vào bậc nhất là khôi phục kinh tế...
Trong mọi công việc, củng cố miền Bắc phải gắn liền với chiếu cố miền Nam...
Để làm trọn nhiệm vụ ấy, chúng ta phải ra sức củng cố tổ chức của Đảng và chỉnh đốn lề lối làm việc của Đảng.
Nhiệm vụ của hội nghị này là đề ra chủ trương công tác cho toàn Đảng và toàn dân về mặt chính trị và kinhtế".
- Ngày 15: Bài viếtKiều bào yêu nước, bút danh C.B., đăng báoNhân Dân, số 530, Người viết về phong trào yêu nước của Việt kiều; biểu dương 200 Việt kiều ở Pháp đã ký văn bản đòi chính quyền Ngô Đình Diệm phải tôn trọngHiệp định Giơnevơ,thực hiện hiệp thương với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để thống nhất đất nước.
- Ngày 17: Bài viếtGiơnevơ, bút danh C.B., đăng báoNhân Dân, số 532. Trong bài, Người nêu lên những kết quả mà Hội nghị bốn nước lớn (Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp) đã đạt được ở Giơnevơ. Người cũng chỉ ra những thiếu sót của hội nghị: "Dù Chủ tịch Bunganin (Liên Xô) đã đề nghị giải quyết vấn đề Viễn Đông (Đài Loan và Đông Dương) và Thủ tướng Nêru cũng nhắc bốn nước thảo luận vấn đề ấy, nhưng hội nghị không thảo luận". Người kết luận, những kết quả mà hội nghị đạt được "là do chính sách hoà bình của Liên Xô và sự phấn đấu không ngừng của lực lượng hoà bình thế giới cho nên nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới phải tiếp tục đấu tranh nữa để làm cho tình hình quốc tế trở nên êm dịu hơn".
- Ngày 18: Bài viếtCông an và nhân dân, bút danh C.B., đăng báoNhân Dân, số 533. Trong bài, bằng những ví dụ rất sinh động, Người nêu lên nhiệm vụ của ngành công an; mối quan hệ khăng khít giữa công an và nhân dân. Người chỉ rõcông an muốn làm trọn nhiệm vụ của mình phải đoàn kết nhân dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực lượng rộng lớn của nhân dân... Khi nhân dân hiểu rõ nghĩa vụ công dân của mình, khi công an được nhân dân giúp sức, thì lũ gian tế không thể nào lọt lưới và trị an trật tự sẽ được hoàn toàn.
- Ngày 19: Bài viếtKỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, bút danh C.B., đăng báoNhân Dân, số 534. Trong bài, Người nêu rõ ý nghĩa sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong lịch sử nước ta. Nhấn mạnh yếu tố đại đoàn kết dân tộc là nguyên nhân quan trọng bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, Người viết:"Sự đoàn kết nhất trí giữa Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân ta trở thành một lực lượng vô cùng to lớn. Nó giúp ta vượt tất cả mọi khó khăn gian khổ. Nó rèn luyện cho chiến sĩ, cán bộ và đồng bào ta thành những người anh hùng".
- Ngày 23: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh:Triều Tiên giảm giá hàng hoá, bút danh C.B., đăng báoNhân Dân, số 538. Trong bài, Người viết về việc Chính phủ Triều Tiên giảm giá hàng, cải thiện đời sống nhân dân. Người nêu lên một số điều kiện cần thiết để giảm giá hàng hoá. Nhân dân lao động hăng hái thi đua tăng năng suất lao động; Nhà nước nắm được một số mặt hàng thiết yếu... Người kết luận:"Chính phủ ta luôn luôn lo nghĩ đến việc cải thiện đời sống cho nhân dân, song việc đó thực hiện được thế nào một phần lớn là do sức cố gắng của mọi người".
- Ngày 24: Bài viếtChính sách hoà bình của Liên Xô, bút danh T.L., đăng báoNhân Dân, số 539. Trong bài, Người đưa ra những dẫn chứng sinh động cụ thể về hoạt động quân sự của Liên Xô, của Mỹ và kết luận:Liên Xô luôn luôn chủ trương hoà bình, giải trừ quân bị, còn Mỹ miệng nói hoà bình nhưng luôn chuẩn bị chiến tranh. Vì vậy,"Chúng ta phải kiên quyết chống Mỹ để gìn giữ hoà bình".
- Ngày 28: Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ các cháu thiếu nhi trước khi các cháu lên đường sang học tập ở nước Cộng hoà dân chủ Đức.
- Ngày 30: Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp của Hội đồng Chính phủ, nghe Bộ Quốc phòng báo cáo; quyết định tuyên dương 26 Anh hùng quân đội và thảo luận về Quốc huy, Quốc kỳ, Quốc ca.
Người nhắc nhở Bộ Tuyên truyền chú ý giải thích để nhân dân hiểu rõ ý nghĩa mẫu Quốc huy mà Hội đồng Chính phủ sẽ thông qua, giải thích ý nghĩa lá cờ đỏ sao vàng.
- Ngày 31: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự lễ tuyên dương danh hiệu Anh hùng Quân đội, tổ chức tại Câu lạc bộ Quân đội.
Nói chuyện với các Anh hùng mới được tuyên dương, Người căn dặn anh chị em phải không ngừng học tập, rèn luyện và công tác, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, thực hiện đoàn kết quân dân chặt chẽ để xây dựng quân đội anh hùng làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước. Người nhấn mạnh:"Thành tích là thành tích tập thể, Anh hùng là Anh hùng tập thể, chứ không phải là thành tích và anh hùng cá nhân. Đó là vinh dự chung của toàn quân, chứ không phải riêng của cá nhân".
*Tháng 8- 1956
- Ngày 3: Bài viếtCủng cố và phát triển sự thống nhất tư tưởng của các đảng mácxít lêninnít, đăng trên báoPravđacủa Liên Xô, số ra ngày 3-8-1956.
Sau khi ca ngợi Lê-nin và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nói về quan điểm và đường lối quốc tế của Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ:"Trong cuộc đấu tranh để xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, Đảng Lao động Việt Nam bao giờ cũng thấy rõ sự nhất trí về lợi ích giữa cuộc đấu tranh để giải phóng các dân tộc khỏi ách đế quốc chủ nghĩa và cuộc đấu tranh giải phóng quần chúng lao động khỏi chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa... Trong cuộc đấu tranh để thống nhất Tổ quốc, Đảng Lao động Việt Nam không bao giờ lại tự tách mình với các đảng anh em. Đảng lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản, và khối liên minh anh em giữa tất cả những nguời đấu tranh cho sự nghiệp chung, cho việc giải phóng loài người, cho sự xây dựng một xã hội không có giai cấp, cho sự chung sống hoà bình và cho hoà bình bền vững là không gì lay chuyển nổi".
Người nhận định:"Trong tình hình hiện nay, những đặc điểm dân tộc và những điều kiện riêng biệt ở từng nước ngày càng trở thành nhân tố quan trọng trong việc vạch ra chính sách của mỗi đảng cộng sản và mỗi đảng công nhân. Đồng thời chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là cơ sở không gì lay chuyển nổi của cuộc đấu tranh chung của tất cả các đảng ấy, việc trao đổi kinh nghiệm về cuộc đấu tranh ấy vẫn giữ tất cả ý nghĩa của nó, và những vấn đề được đề ra cho đảng này hoặc đảng khác, tuyệt nhiên không phải là "việc riêng" của mỗi đảng, mà có quan hệ mật thiết đến toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế".
Sau khi phân tích tình hình thế giới và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, kết thúc bài báo, Người khẳng định:"Chúng tôi hiểu rõ nếu kẻ thù chung của chúng ta kêu gào ầm ỹ thì chỉ có nghĩa là chúng lo sợ trước những lực lượng mới và những thắng lợi mới của chúng ta. Đứng trước những âm mưu ngày càng thâm độc của thế lực phản động đế quốc chủ nghĩa, lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta phải củng cố và phát triển sự nhất trí về tư tưởng, sự đoàn kết giữa các đảng cộng sản và đảng công nhân, đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin là kho tàng quý báu chung của chúng ta, và học tập vận dụng một cách đúng đắn những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của từng nước. Chúng tôi vững tin rằng dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta nhất định thắng lợi".
Cùng ngày, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh:Đâu là cái tròng, bút danh C.B., đăng báoNhân Dân,số 882. Tác giả viết: Hồi đầu tháng 7, Phó Tổng thống Mỹ Níchxơn đi thăm các nước ở Châu Á nhằm công kích xu hướng hòa bình trung lập ở các nước vừa giành được độc lập, tuyên truyền về viện trợ của Mỹ, xuyên tạc sự giúp đỡ vô tư của Liên Xô. Người kết luận:
"Viện trợ Mỹ là cái tròng,
Cột người bị "giúp" vào vòng trầm luân".
- Ngày 5: Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp đại biểu học sinh miền Nam ra thăm miền Bắc nhân dịp kỷ niệm 2 năm ký kếtHiệp định Giơnevơ.
- Ngày 7: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng Quốc vương Lào nhân kỷ niệm Ngày Quốc khánh Vương quốc Lào.
- Ngày 10: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Khu tự trị Việt Bắc nhân ngày thành lập Khu tự trị. Người nêu rõ:“Mục đích lập Khu tự trị là để làm cho các dân tộc anh em toàn khu cùng nhau tự quản lý công việc của mình, phát huy khả năng của mình, tiến bộ mau chóng về mọi mặt”.
Người tin tưởng rằng với truyền thống cách mạng anh dũng và lòng yêu nước nồng nàn của đồng bào Việt Bắc, Khu tự trị nhất định sẽ ngày càng tiến bộ. Là một bộ phận khăng khít của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Khu tự trị Việt Bắc sẽ góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chung: “Củng cố miền Bắc, chiếu cố miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
- Ngày 11: Bài viếtNhững cán bộ gương mẫu, bút danh C.B., đăng báoNhân Dân,số 890. Người biểu dương cán bộ một địa phương đã gần gũi quần chúng, lãnh đạo thiết thực, lắng nghe và giúp đỡ quần chúng, đạt hiệu quả trong sản xuất và công tác. Đó là cách lãnh đạo của những cán bộ gương mẫu. Người đề nghị các nơi khác noi theo.
- Ngày 15:Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho hai đại biểu Quốc hội Trương Trung Phụng và Hồ Đức Thành thông báo đã nhận được thư của hai đại biểu góp ý công việc của Quốc hội. Người cho biết sẽ cùng với Ban Thường trực Quốc hội xem xét.
- Ngày 18: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào nông thôn và cán bộ nhân dịp cải cách ruộng đất ở miền Bắc căn bản hoàn thành.
Sau khi khẳng định những thắng lợi to lớn và chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất, Người nêu rõ: "Trung ương Đảng và Chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, khuyết điểm ấy và đã có kế hoạch kiên quyết sửa chữa".
Người còn nêu ra một số công việc cụ thể trong công tác sửa sai là:“Ai bị vạch sai lên thành phần địa chủ, phú nông, cần phải vạch lại cho đúng. Đảng viên, cán bộ và nhân dân, ai đã bị xử trí sai thì cần phải khôi phục đảng tịch, quyền lợi và danh dự cho họ... phải chiếu cố những địa chủ kháng chiến, ủng hộ cách mạng và địa chủ có con là bộ đội, cán bộ”.
Cuối thư, Người kêu gọi:“Toàn thể cán bộ và nhân dân hãy đoàn kết chặt chẽ chung quanh Đảng và Chính phủ, cùng nhau ra sức thi đua, làm cho nông thôn dân chủ của chúng ta ngày càng tươi vui, phồn thịnh”.
- Ngày 21: Bài viếtPhải xem trọng ý kiến của quần chúng, bút danh C.B., đăng báoNhân dân, số 900. Người nêu rõ trách nhiệm của cán bộ chính quyền và đoàn thể là phải xem trọng những ý kiến phê bình và những đề nghị của quần chúng, vì “Đó là một điều rất tốt: Nó làm cho nhân dân càng gần gũi và càng tin tưởng đoàn thể và chính quyền. Nó làm cho đoàn thể và chính quyền càng hiểu thấu nguyện vọng của quần chúng, càng thấy rõ những thiếu sót của mình để sửa chữa. Nó làm cho chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ. Nó càng chứng tỏ chế độ của ta là thật sự dân chủ”.
Người nhắc cán bộ, cơ quan, đoàn thể phải“Tuyệt đối không được áp bức phê bình. Chúng ta phải nhớ rằng cán bộ, đoàn thể cũng như chính quyền, từ trên đến dưới, đều là đày tớ của nhân dân, phải xem trọng ý kiến của nhân dân”.
- Ngày 25: Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự và khai mạc Hội nghị lần thứ 10 (mở rộng) Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (khoá II) bàn về cải cách ruộng đất và chấn chỉnh tổ chức ( từ ngày 25-8 đến ngày 5-10-1956). Trong hội nghị, Người tiếp thu ý kiến phê bình Bộ Chính trị và đề nghị:
+ Hội nghị xét sai và sửa sai cấp tốc, không được cầu toàn.
+ Trên cơ sở thi hành kỷ luật nghiêm minh mà bảo vệĐảng.
+ Phương châm tiến hành sửa sai là “lấy giáo dục làm chính, đoàn kết cán bộ, đoàn kết toàn Đảng và phải bảo vệ uy tín của lãnh đạo, của chế độ”.
Người tự phê bình một cách nghiêm túc: “Vì ta thiếu dân chủ nên nghe ít, thấy ít, nên bây giờ ta phải dân chủ. Tôi nhận trách nhiệm trong lúc sóng gió này. Tất cả Trung ương phải nghe, thấy, nghĩ, làm như thế. Bài học đau xót này sẽ thúc đẩy chúng ta”.
Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) đồng ý để đồng chí Trường Chinh thôi giữ chức Tổng Bí thư, đồng chí vẫn là Uỷ viên Bộ Chính trị và Uỷ viên Ban Bí thư Trung ương Đảng. Đồng chí Hồ Chí Minh là Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư của Đảng.
- Ngày 28: Chủ tịch Hồ Chí Minh chiêu đãi Đoàn đại biểu Chính phủ Vương quốc Lào do Hoàng thân Thủ tướng Xuvana Phuma dẫn đầu sang thăm hữu nghị nước ta. Đọc diễn văn tại buổi chiêu đãi, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:“Hai nước Việt - Lào là láng giềng và hai dân tộc ta là anh em”, “nhân dân và Chính phủ Việt Nam tuyệt đối tôn trọng Hiệp định Giơnevơ và năm nguyên tắc chung sống hoà bình của Băngđung; và tất cả mọi vấn đề giữa hai nước Việt, Lào, chúng ta đều có thể giải quyết với tinh thần láng giềng thân thiện và tình nghĩa anh em".
* Tháng 8- 1957
- Ngày 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam tới Buđapét, mở đầu chuyến thăm hữu nghị nước Cộng hòa nhân dân Hunggari.
Đáp từ tại lễ đón do Trung ương Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa và Chính phủ Hunggari tổ chức tại sân bay Buđapét, Chủ tịch Hồ Chí Minh ca ngợi tinh thần ngoan cường của nhân dân Hunggari trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu và tình cảm thắm thiết mà Đảng, Chính phủ và nhân dân Hunggari dành cho đoàn và nhân dân Việt Nam.
- Ngày 5: Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn rời Thủ đô Buđapét đi Nam Tư bằng chiếc máy bay đặc biệt của không quân Nam Tư. Chính phủ Nam Tư đã cử Thứ trưởng Bộ Ngoại giao sang Buđapét đón Người đến Thủ đô Bêôgrát, mở đầu chuyến thăm hữu nghị nước Cộng hòa nhân dân Liên bang Nam Tư.
Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Liên bang Nam Tư I.Titô và nhiều quan chức cao cấp của Nhà nước ra sân bay đón Người.
Đọc diễn văn tại sân bay, Người nêu rõ: cuộc hội đàm giữa Người và Chủ tịch I.Titô sẽ củng cố những quan hệ hữu nghị giữa hai nước Nam Tư và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Ngày 7: Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam hội đàm với Đoàn đại biểu Chính phủ Nam Tư, do Chủ tịch I.Titô dẫn đầu. Cuộc hội đàm đã diễn ra trong không khí hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau. Hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế quan trọng, về quan hệ hợp tác giữa hai nước, về việc raTuyên bố chungnhân chuyến thăm hữu nghị Nam Tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Ngày 9: Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam tới Tirana, mở đầu chuyến thăm hữu nghị nước Cộng hòa nhân dân Anbani.
Đáp từ tại lễ đón chính thức của Đảng Lao động và Chính phủ Anbani, Chủ tịch Hồ Chí Minh ca ngợi tinh thần anh dũng của nhân dân Anbani trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phátxít để giải phóng đất nước; đánh giá cao tinh thần lao động quên mình và những thành tựu mà nhân dân Anbani đã giành được trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Mong muốn tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Anbani sẽ không ngừng củng cố và phát triển.
- Ngày 12: Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn rời thành phố Xtalin trở về Thủ đô Tirana. Người ghé thăm Nông trường quốc doanh Đời mới ở Lusơnia.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự míttinh tại Quảng trường Scăngđécbéc ở Thủ đô Tirana chào mừng Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam. Phát biểu tại cuộc míttinh, Người nhiệt liệt cảm ơn sự đón tiếp nhiệt tình của nhân dân lao động Tirana cũng như toàn thể nhân dân Anbani. Người nêu rõ những cuộc hội đàm giữa đại biểu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước Cộng hòa nhân dân Anbani đã cho thấy rõ sự nhất trí hoàn toàn về quan điểm của hai bên trong những vấn đề đưa ra thảo luận.
- Ngày 13: Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn rời đất nước Anbani đi thăm Bungari. Phát biểu trong lễ đón chính thức tại sân bay Xôphia, Người cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu của nhân dân Bungari dành cho các vị khách Việt Nam.
- Ngày 17: Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn rời Thủ đô Xôphia đi Rumani. Phát biểu tại sân bay Xôphia, Người nói về những ấn tượng tốt đẹp trong những ngày thăm đất nước Bungari tươi đẹp và anh dũng. Một lần nữa, Người cảm ơn những tình cảm nồng hậu của nhân dân Bungari đã dành cho đoàn và nhân dân Việt Nam.
Đáp từ trong lễ đón chính thức của Trung ương Đảng Công nhân và Chính phủ Rumani, Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển lời chào hữu nghị, đoàn kết của Chính phủ và nhân dân Việt Nam tới các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước Rumani.
- Ngày 21: Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam rời Bucarét, kết thúc chuyến thăm hữu nghị chín nước anh em. Phát biểu tại lễ tiễn chính thức của Đảng Công nhân và Chính phủ Rumani, Người bày tỏ tình cảm lưu luyến sau chuyến thăm đất nước Rumani tươi đẹp và mến khách.
- Ngày 25: Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thăm phòng làm việc của Lênin tại điện Smônưi. Người chăm chú nghe băng ghi âm diễn văn của LêninChính quyền Xôviết là gì?; xem chiếc xe bọc thép mà tháng 4-1917, Lênin từ nước ngoài trở về đã đứng nói chuyện với công nhân; thăm chiến hạm Rạng Đông - chiến hạm đã nổ phát súng đầu tiên vào Cung điện Mùa Đông năm 1917, mở đầu cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.
- Ngày 26: Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn rời Lêningrát.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Mátxcơva hội đàm với các đồng chí lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô. Hai bên đã thảo luận các vấn đề có liên quan đến hai đảng.
- Ngày 27: Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn đáp máy bay rời Mátxcơva tới Bắc Kinh.
- Ngày 29: Tối, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự tiệc chiêu đãi của các vị lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Cùng ngày, bàiTrả lờiphỏng vấnbáo Tin tức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng báoTin tức (Liên Xô). Người đánh giá chuyến viếng thăm chín nước anh em của Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu và hữu nghị giữa các đảng, chính phủ và nhân dân các nước anh em.
- Ngày 30: 17 giờ 45, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam về đến Hà Nội, kết thúc chuyến thăm hữu nghị các nước anh em. Tại sân bay Gia Lâm (Hà Nội), trước đông đảo các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Quốc hội, các đoàn thể quần chúng và các vị khách quốc tế, Người nói: “Chúng tôi đi đến nơi, về đến chốn và đều được mạnh khỏe. Có nhiều cái tốt nhiều cái hay, xin chờ đến Ngày 2-9 nói một thể”.
Cùng ngày, bàiTrả lờiphỏng vấn của phóng viênĐài phát thanh Mátxcơva của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng báoNhân Dân,số 1270. Trong bài, Người nói lên cảm tưởng về chuyến đi thăm chín nước anh em; về những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước anh em. Trả lời câu hỏi tình hình ở Việt Nam đã được các nước chú ý như thế nào? Người nói: “Các đồng chí lãnh đạo các nước anh em đều chú ý tới tình hình Việt Nam và ủng hộ cuộc đấu tranh hòa bình của nhân dân Việt Nam để thống nhất Tổ quốc”.
* Tháng 8- 1958
- Ngày 6: Sáng, tại Phủ Chủ tịch, tiếp Đoàn báo chí Campuchia, Người thân mật nói chuyện với các vị trong Đoàn, thăm hỏi đời sống của nhân dân Campuchia và chúc tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia ngày càng chặt chẽ và phát triển.
- Ngày 8: Dự họp Bộ Chính trị tiếp tục thảo luận về tổng kết công tác cải cách ruộng đất, Người nhận định:Cương lĩnh đưa ra đúng nhưng không biết cụ thể hoá, Đảng có chủ quan, giáo điều, máy móc... Cải cách ruộng đất tuy có sai lầm nhưng cũng có thắng lợi và phải thấy được những thắng lợi này. Người tự phê bình đã“quan liêu, không sát quần chúng, không sát thực tế, chỉ xem báo cáo, tin vào người báo cáo”. Về bản tổng kết, Người nhắc nhở phải viết gọn, rõ ràng, nêu được những bài học kinh nghiệm, cách đặt vấn đề phải viết sao cho tăng thêm lòng tin tưởng phấn khởi trong Đảng, trong nhân dân, tăng cường khối đoàn kết.
Cùng ngày, bài viếtVũ khí hoá học (thuốc độc quân dụng), ký bút danh Chiến Sĩ, đăng báoQuân đội nhân dân, số 471. Bài báo nêu rõ tác hại của loại vũ khí giết người hàng loạt này đã được quân đội các nước đế quốc sử dụng từ Đại chiến thế giới lần thứ nhất đến nay và tin chắc: “Thuốc độc quân dụng là một thứ vũ khí rất nguy hiểm, nhưng không phải là không chống lại được”.
- Ngày 9: Dự Hội nghị Bộ Chính trị bàn về đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà, Người nói nhiệm vụ miền Nam là lâu dài gian khổ không phải là tiêu cực mà có ý nghĩa tích cực, chờ thời cơ.
- Ngày 13: Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Đại hội sản xuất của tỉnh Nam Định họp tại xã Yên Tiến, huyện ý Yên, là nơi giành được năng suất cao trong vụ chiêm vừa qua.
- Ngày 19: Tối, tại Câu lạc bộ Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch dự lễ mừng sinh nhật lần thứ 70 của Cụ Tôn Đức Thắng. Sau khi đọc lời chúc mừng ca ngợi quá trình đấu tranh và tấm gương đạo đức của người chiến sĩ cách mạng dân tộc, chiến sĩ cách mạng thế giới Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt nhân dân và Chính phủ trao tặng Cụ Tôn Đức Thắng Huân chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Ngày 20: Bài viếtCán bộ trí thức tham gia lao động chân tay, đăng báoNhân Dân, số 1621. Qua một số kết quả nổi bật, bài viết giới thiệu kinh nghiệm thực tế của Trung Quốc trong vấn đề cán bộ trí thức tự nguyện tham gia lao động chân tay. Tác giả khẳng định: Việc trực tiếp tham gia lao động chân tay ở nông thôn đã giúp cán bộ trí thức cải tạo, trở nên đã “hồng” lại “chuyên”. Đồng thời cán bộ trí thức lại giúp công dân tiến bộ nhảy vọt trong công việc phát triển văn hoá và cải tiến kỹ thuật.
- Ngày 21: Dự họp Bộ Chính trị bàn tiếp về tổng kết cải cách ruộng đất, phát biểu tại hội nghị, Người đề nghị phần tổng kết những bài học kinh nghiệm nên đưa vào những vấn đề chính để không loãng vấn đề.
- Ngày 22: Sáng, dự họp Bộ Chính trị bàn về vấn đề phong quân hàm, Người nhấn mạnh mục đích của đợt phong quân hàm lần này là để tạo đà phấn khởi, tăng cường đoàn kết, tránh suy tị và phải làm thế nào giảm bớt sự cách biệt giữa các sĩ quan, hạ sĩ quan, binh lính để giữ đoàn kết.
Chiều, khi Bộ Chính trị bàn vấn đề quản lý dân chủ ở xí nghiệp, Người chỉ rõ đây là vấn đề lâu dài và khó, phải làm khẩn trương nhưng không vội vã. Việc học tập kiện toàn quản lý xí nghiệp phải đi từng bước nhưng liên tục, phải đi từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn. Trung ương với địa phương phải kết hợp, Trung ương có đường lối chung và để cho địa phương có quyền phát huy sáng kiến của mình.
Về tài liệu học tập, Người đề nghị phải viết ngắn gọn, dễ hiểu, kết hợp học phải đi đôi với hành và giao vấn đề này cho Ban Bí thư phụ trách.
- Ngày 23: 10 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trường Đảng Lê Hồng Phong (Hà Nội). Phát biểu với cán bộ và học viên của trường, Người nói:“Học tập lý luận cốt là để áp dụng vào thực tế. Học đi đôi với hành, có học mới làm được việc”.
- Ngày 29: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Bộ Chính trị bàn về kế hoạch mở rộng thành phố Hà Nội. Phát biểu khai mạc Hội nghị, Người nêu rõ:“Mở rộng thành phố phải căn cứ vào thiên thời (mưa, gió, nắng...), địa lợi (địa chất, sông hồ...) và nhân hòa (lợi ích của nhân dân, của Chính phủ). Công tác quy hoạch thành phố phải hợp lý, bảo đảm được cả về kinh tế, mỹ quan và quốc phòng, phải có kế hoạch vận động quần chúng tham gia, có ban phụ trách để chịu trách nhiệm, tránh lối làm đại khái, lãng phí”.
- Ngày 31: Bài viếtHoan hô hay là hô hoán, ký bút danh T.L., đăng báoNhân Dân, số 1632. Tác giả nêu lên những phản ứng quyết liệt của các thuộc địa trong cuộc “du thuyết” của Tổng thống Đờ Gôn tới các xứ này để tuyên truyền cổ động hòng tranh thủ sự ủng hộ đối với bản Dự thảo Hiến pháp do ông ta sửa đổi.
Trong ngày, Người đến thăm khu tập thể Hội Phụ nữ thành phố Hà Nội. Sau khi đi thăm nhà bếp, Người vào Nhà trẻ chia kẹo cho các cháu và căn dặn các cô giữ trẻ “Các cháu là mầm non của Tổ quốc, là tương lai của xã hội, các cô phải trông nom, dạy dỗ các cháu chu đáo”.
*Tháng 8- 1959
- Ngày 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Liên Xô kết thúc một tháng đi thăm và nghỉ hè ở đất nước này. Trước khi lên máy bay, người gửi điện bày tỏ lòng cảm ơn Đảng Cộng sản và Chính phủ Liên Xô.
Trên đường từ Anma Ata đến thăm Tân Cương (Trung Quốc), máy bay bay qua sa mạc, rồi núi Thiên Sơn. Xúc cảm trước cảnh đẹp của dãy Thiên Sơn hùng vĩ, Người làm một bài thơ chữ Hán:
“Dao vọng Thiên San phong cảnh hảo
Tử hà bạch tuyết, bão thanh san
Triều dương sơ xuất xích như hỏa
Vạn đạo hồng quang chiếu thế gian”.
- Ngày 25: Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Bắc Kinh lên đường về nước.
Ra sân bay tiễn Người có Thủ tướng Chu Ân Lai, Phó Thủ tướng Trần Nghị cùng nhiều vị ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các cán bộ ngoại giao của Đại sứ quán Liên Xô và Đại sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh cũng có mặt.
Trên đường về Hà Nội, máy bay dừng ở Vũ Hán, Chủ tịch nghỉ qua đêm ở đây.
- Ngày 26: Sáng, từ Vũ Hán, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên máy bay về Hà Nội, kết thúc cuộc nghỉ hè hai vạn ba ngàn cây số. Ra sân bay Gia Lâm đón Người có các vị trong Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cùng nhiều vị lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ.
- Ngày 29: Chủ tịch Hồ Chí Minh đi kiểm tra tình hình chống úng của tỉnh Nam Định.
Trên đường đi, Người ghé thăm Trại chăn nuôi Kiều Thị ở huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Người căn dặn mọi người cố gắng đẩy mạnh chăn nuôi để có nhiều lợn xuất khẩu đổi lấy máy móc về xây dựng đất nước và nhắc nhở cán bộ phải quan tâm hơn đến việc ăn ở, sinh hoạt của các trại viên.
Tối, tại Câu lạc bộ Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự tiệc của Thủ tướng Chính phủ chiêu đãi các chuyên gia nước ngoài đang công tác tại Việt Nam nhân Quốc khánh 2-9.
- Cuối tháng: Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thăm và nói chuyện với lớp học chính trị của giáo viên về những nội dung cơ bản của nhà trường xã hội chủ nghĩa: nhiệm vụ của nhà trường và của các thầy cô giáo, cách dạy học và nội dung giảng dạy nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo“những công dân tiến bộ, những cán bộ tiến bộ cho dân tộc”.Để làm tròn trách nhiệm vẻ vang đó, Người căn dặn cán bộ và giáo viên phải tiến bộ kịp với thời đại, “phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào việc cải tạo xã hội”.Phải nâng cao nhận thức chính trị để có lập trường vững vàng và cách xem xét đúng đắn đối với những vấn đề quốc tế cũng như trong nước, cần chống tư tưởng bàng quan, “chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng”, “có chuyên môn mà không có chính trị giỏi thì dù học giỏi mấy dạy trẻ con cũng hỏng”.
Còn nữa
Huyền Trang (tổng hợp)