Chỉ mục bài viết

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm lo tập hợp mọi lực lượng, mọi người yêu nước, tiến bộ dưới ngọn cờ của Đảng, của dân tộc. Với tư tưởng và đạo đức trong sáng, Người kêu gọi, động viên và khuyến khích những hiền tài, trí thức, những nhà khoa học, Việt kiều yêu nước… tham gia cách mạng, vào công cuộc bảo vệ và kiến thiết đất nước, trong đó Người dành nhiều tình cảm và rất quan tâm đến đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ nước ta. Người luôn đề cao vai trò, trân trọng và động viên đội ngũ này đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người khẳng định: Cách mạngrất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức. “Do vậy, Đảng và Chính phủ rất chú ý đến việc giúp đỡ anh em trí thức cũtiến bộ, cải tạo tư tưởng, đồng thời đào tạo ratrí thức mớitừ lớp công nhân, nông dân ra. Trí thức không bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức thôi”; “… Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Chính những sự quan tâm sâu sắc đó đã dẫn đắt đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đi theo cách mạng, đem trí tuệ, tài năng và nhiệt tình cống hiến cho đất nước, dân tộc.

Sau đây chúng ta cùng đọc lại những trang viết, những câu chuyện kể, những dòng hồi ký để hiểu sâu sắc hơn những tình cảm, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và sự ngưỡng mộ, trân trọng, lòng tôn kính sâu sắc của trí thức, văn nghệ sĩ đối với Bác:

bac-ho-voi-nhung-tri-thuc
Chủ tịchHồChí Minhnói chuyện với các trí thức năm 1964. (GSTrần Hữu Tước ngồi bên trái Bác Hồ). Ảnh http://baotanglichsu.vn/

Không có nhân dân thì không có Bác

 Thật ra, trong chuyến đi thăm Việt Nam vào cuối năm 1958 ấy, những ngày đầu tôi không có ý nghĩ, hoặc đúng ra là không mơ ước được nặn tượng Bác Hồ, bởi vì tôi thấy mình chỉ là một nghệ sĩ điêu khắc bình thường, mà Bác Hồ thì bận trăm công nghìn việc, làm sao có thể được gặp Bác, nói chi đến chuyện được ở bên Người từ ngày này sang ngày khác để nặn tượng Người!

 Nhưng rồi, chính trên những chặng đường đã đi qua ở Việt Nam lúc ở Hà Nội cũng như ở Tây Bắc, ở Hòn Gai cũng như Hòa Bình, Bắc Ninh hay Nam Định - được tiếp xúc với các đồng chí và nhân dân Việt Nam, thấy rõ lòng kính yêu vô hạn của họ đối với Bác Hồ, tôi càng thôi thúc là làm sao nặn được một bức tượng về Bác Hồ.

 Mong ước của tôi lại hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của các đồng chí ở Đại sứ quán Cộng hòa dân chủ Đức tại Hà Nội. Tôi giãi bày tất cả những gì đang nung nấu trong lòng tôi và chỉ yêu cầu Đại sứ quán đề đạt gấp nguyện vọng đó lên Bác Hồ.

 Chừng một tuần sau, tôi sung sướng được Bác cho đến gặp. Tôi nhớ hôm ấy có cả đồng chí nhà thơ Tố Hữu và Đại sứ Phuytxnơ. Bác niềm nở bắt tay tôi và ân cần hỏi thăm sức khỏe, gia đình và công tác. Người hỏi cảm tưởng của tôi sau những chuyến đi địa phương và về nền mỹ thuật Việt Nam. Tôi có thể thưa với Bác biết bao nhiêu điều, song trong giờ phút ấy, đứng bên Người, tôi cảm thấy thiêng liêng và xúc động quá! Tôi chỉ xin thưa với Bác rằng tôi có nhiều cảm nghĩ rất tốt đẹp về những ngày ở Việt Nam và hiện có nguyện vọng cao nhất, duy nhất là được làm phiền Bác một thời gian để có thể đem về cho nhân dân Cộng hòa dân chủ Đức một kỷ niệm lâu bền.

Bác nhìn Đại sứ Phuytxnơ, rồi lại nhìn tôi với nụ cười đôn hậu và bảo:

 - Tôi được biết nguyện vọng của đồng chí rồi. Thế này nhé: Tôi đồng ý đáp lại yêu cầu của đồng chí. Mỗi buổi sáng, đồng chí đến chỗ tôi làm việc độ một giờ rưỡi. Có thể cho một số anh chị em Việt Nam cùng đến làm.

 Tôi xúc động cảm ơn Bác và chào Người ra về với một cảm giác lâng lâng, khó tả...

 Hai ngày sau, tôi và các đồng chí Việt Nam cùng lên chỗ Bác. Thấy chúng tôi vào, Bác tươi cười nói với các bạn đồng nghiệp Việt Nam của tôi:

 - Các chú phải cố gắng nhé. Thi đua với đồng chí Đrắcke mà làm, không thì xấu hổ đấy!

 Thật ra, mấy anh em chúng tôi đều phải cố gắng cả.

 Thoạt đầu, công việc tiến hành không được dễ dàng lắm. Tôi thấy bố trí Bác ngồi cạnh một cái bàn ở góc phòng là không thể được. Bởi vì chúng tôi sẽ khó lòng mà đi quanh Bác để nghiên cứu từng đường nét trong quá trình phác thảo, tạo hình.

 Lẽ ra phải có hai cách: Hoặc mời Bác đứng, hoặc mời Bác ngồi trên một chiếc ghế quay, thì chúng tôi mới có điều kiện nhìn Bác dưới một thứ ánh sáng cố định. Thế nhưng, làm như vậy, một phần sẽ gây phiền phức cho Bác nhiều quá, phần khác cũng phải chiếu cố lẫn nhau, không lẽ ai cũng muốn quay cả!

 Cuối cùng, tôi nêu lên yêu cầu là mời Bác ngồi ở giữa phòng, cho kê cao bàn làm việc và ghế ngồi của Bác. Các đồng chí Việt Nam tỏ vẻ e ngại. Tôi nói:

 - Các đồng chí cứ thưa với Bác rằng đó là đề nghị của tôi!

 Quả nhiên, đề nghị đó được chấp nhận. Bàn ghế của Bác được kê cao bằng một chiếc phản loại gỗ tốt. Mấy anh em nghệ sĩ Việt Nam đều phấn khởi về sự thay đổi này.

Tôi là người đã nặn tượng nhiều danh nhân như Các Mác, Gớt, Bêthôven, Humbôn... nhưng chưa bao giờ được gặp các vị ấy ở ngoài đời! Đây là lần đầu tiên tôi nặn tượng một vị lãnh tụ nổi tiếng mà chính mắt mình được trông thấy. Do ưu thế của nghề nghiệp, tôi có điều kiện ngắm nhìn rất kỹ gương mặt Bác. Do đó, đến hôm nay sau ngót 20 năm trời, tôi vẫn nhớ rõ đôi mắt sáng ngời, chòm râu bạc trắng như cước, vầng trán cao và cả những đường nhăn, những chấm mồi trên da mặt Bác. Tất cả đều toát ra vẻ hiền từ, độ lượng, bao dung của một vị cha già rất thân yêu, bình dị và hấp dẫn. Chỉ tiếc rằng tôi không thể thưa chuyện nhiều với Người, một phần do phải tập trung làm việc, một phần vì tôi không biết nói tiếng Pháp. Ở cái tuổi ngót 70, Bác ngồi yên được lâu như vậy là rất kiên trì. Tôi không hề thấy Bác tỏ ra mệt mỏi, trái lại, còn đọc báo, xem tài liệu hoặc thỉnh thoảng viết gì đó vào một cuốn sổ tay...

 Thời gian chúng tôi làm việc bên Bác tổng cộng khoảng 12 tiếng đồng hồ. Đó là 12 tiếng đồng hồ vô cùng quý báu trong đời hoạt động nghệ thuật của tôi. Hôm cuối cùng, trước khi chia tay, Bác ngồi nán lại với chúng tôi chừng 20 phút. Bác xem qua những gì chúng tôi làm được. Tôi xúc động một lần nữa bày tỏ lòng cảm ơn đối với Người, đã vì nguyện vọng của một nhà điêu khắc bình thường mà dành cho một số thời gian quý báu. Bác cười:

 - Chúng tôi phải cảm ơn đồng chí mới đúng chứ! Quan trọng là tôi có giúp ích được gì cho công việc của đồng chí không thôi!

 Về công việc đã tiến hành trong Phủ Chủ tịch, dĩ nhiên chưa kết thúc. Tôi chỉ có thể tạo dáng bằng đất nung, sau đó nhờ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội cho đúc khuôn bằng thạch cao, rồi đóng hòm thật cẩn thận để mang về nước. Ở Béclin, tôi đã cho đổ đồng được 5 bức tượng cỡ vừa. Hiện nay, một bức được đặt tại Trường đào tạo sĩ quan biên phòng Hồ Chí Minh ở ngoại ô Béclin, một bức tại Viện Hàn lâm Nghệ thuật, một bức tại Viện bảo tàng Trung ương, một bức đặt tại công viên Tờrếptô và bức nữa thì đã gửi sang Việt Nam...

Tôi không dám nói rằng có thể hài lòng về tác phẩm của mình, nhưng ít nhất với bức tượng đó, tôi cũng giữ lại được một kỷ niệm đẹp đẽ giữa bao nhiêu tình cảm chân thành nhất của mình đối với đất nước Việt Nam, đất nước của Bác Hồ.

 * HENRÍCH ĐRẮCKE* 

Nghệ sĩ điêu khắc người Đức

(Lược trích theo sáchNhững trái tim đồng chí, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1983).

Bác Hồ - Một cuộc đời vì nhân dân

… “Nếu đồng chí muốn đi theo Hồ Chủ tịch lên K thì ngày mai, 5 giờ sáng, đề nghị đồng chí đợi chúng tôi ở ngã ba T.Đ trên đường đi Tuyên Quang”.

 Tôi hết sức sung sướng và cảm động khi nhận được những dòng thông báo trên đây, do Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao gửi cho. Thế là một trong những mong ước lớn nhất của tôi sắp trở thành hiện thực. Tính từ ngày đặt chân tới Việt Nam đã hai tháng rồi còn gì! Dịp ấy, tôi được cử dẫn đầu một đoàn cán bộ Cộng hoà Dân chủ Đức gồm 5 nhà văn, nhà báo và nhà điện ảnh sang thăm đất nước các đồng chí từ tháng 11 năm 1954 đến tháng giêng năm 1955. Các bạn điện ảnh đang quyết tâm hoàn thành hai bộ phim tài liệu quý về đất nước và con người Việt Nam; còn tôi, tôi cũng phải mang về nước những gì có ích cho nhân dân ở nhà. Tôi ao ước có ngày được gặp Bác Hồ, vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của nhân dân Việt Nam, và sẽ viết một bài về Người.

 Sáng ấy, tôi dậy rất sớm, cẩn thận cất vào túi mảnh giấy có dòng thông báo quan trọng về việc đi gặp Bác Hồ và vội vã lên đường. Tại ngã ba T.Đ, tôi nhập vào đoàn xe như đã hẹn. Khi đoàn xe dừng lại trước bờ sông thì mặt trời đã nhô ra khỏi rặng tre, đỏ lựng. Tôi nhìn thấy những chiếc thuyền nan đang chờ khách tới. Tôi cùng mọi người xuống thuyền. Trong số đó có một ông cụ mặt bịt kín bằng chiếc khăn len, chỉ chừa hai mắt để nhìn. Ông cụ ngồi khuất trong một góc kín, đã bỏ chiếc khăn len ra khỏi mặt. Người phụ nữ lái thuyền và tôi cùng nhận ra ngay: Đó là Hồ Chủ tịch. Tôi thật xúc động, muốn bước tới chào Người, nhưng vì nguyên tắc bí mật, tôi chỉ ngồi im. Lần đầu tiên tôi được gặp Bác Hồ trong trường hợp như vậy đấy!

 Khi đoàn xe tạm nghỉ để ăn sáng, tôi mới dám đến gần Người. Bác Hồ mỉm cười chào tôi bằng tiếng Đức: "Mời đồng chí ngồi xuống đây!". Các đồng chí khác cũng quây quần bên Người. Bữa ăn sáng thật đơn giản: Cơm nắm với một ít trứng và cá nướng. Tôi cũng lấy thức ăn mang theo, nhưng Bác Hồ bảo ăn cùng với Người.

Thoạt tiên, Bác Hồ nói chuyện với tôi bằng tiếng Pháp. Dần dần, như nhớ lại được nhiều từ hơn, Người nói bằng tiếng Đức. Giữa một vùng quê Việt Nam hùng vĩ, được nghe Người, nhà cách mạng vĩ đại của Việt Nam, nói tiếng nói của dân tộc chúng tôi, tôi không khỏi xúc động. Và trong giây phút ấy, tôi thoáng nghĩ về quê hương, nơi hàng chục năm về trước Bác Hồ đã đặt chân tới. Người nhắc đến Vinhem Pích, vị Chủ tịch đầu tiên của Cộng hoà Dân chủ Đức, với một tình cảm đằm thắm. Người đưa mắt nhìn ra xa, rồi quay lại nói với tôi: “Phong trào công nhân Đức là cả một lực lượng mạnh!”.

 Bác Hồ chợt quay lại phía tôi, cười hiền hậu: “Ở Béclin, bia “bốc” còn ngon như trước không?”. Tôi phải bật cười và không khỏi ngạc nhiên, bởi vì, sau mấy chục năm trời, Bác Hồ vẫn còn nhớ đến loại bia mạnh có tiếng bên Đức. Người cho biết, khi ở Béclin, Người thường đến ăn tại tiệm “Asinhngo”, một tiệm ăn rẻ tiền. Thỉnh thoảng Người có mua một cốc bia “bốc” để uống.

 Tôi lặng lẽ nhìn gương mặt Bác. Đó là gương mặt của một người cha suốt đời chịu đựng hy sinh để mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân mình. Người nói như tâm sự: “Tôi ít khi được ngồi nghỉ ngơi như thế này. Đồng chí bác sĩ của tôi khuyên thỉnh thoảng nên nghỉ một chút và quả làm như vậy tốt hơn”.

Buổi chiều, Hồ Chủ tịch cho chúng tôi dừng lại ở một làng quê ven sông Hồng. Chúng tôi theo Người bước trên con đường trải nhựa, chạy ngoằn ngoèo trong xóm, lẫn trong bóng mát của những rặng chuối tiêu. Người đến thăm các gia đình trong làng. Hệt như một người cha đi vắng lâu ngày nay về thăm các con vậy. Điều gì Người cũng muốn biết: Lúa cấy ra sao, sức kéo có đủ không? bao nhiêu cháu học cấp 1, cấp 2, v.v.. Người cũng không ngần ngại lắng nghe cả những phân trần của bà con trong việc phân chia ruộng đất, trâu cày. Đó là những lời nói thật thà, cởi mở. Còn có thể tin ai hơn “Cha Hồ” - Người suốt đời chăm lo lợi ích của nông dân, công nhân, luôn luôn chia sẻ niềm vui, nỗi khổ của họ? Nhưng cái chính là họ đều thưa với vị Chủ tịch của mình về những đổi mới tốt đẹp. Họ khoe với Người về căn nhà tranh mới xây, về bát cơm đầy, về tấm áo lành lặn. Và Bác Hồ, người cha hiền từ của họ đã mỉm cười hài lòng. Người cầm tay họ, ân cần khuyên bảo điều này, điều nọ. Không ít người đã khóc vì vui sướng, xúc động.

 Xe chúng tôi đã đi được một chặng đường rồi, nhưng chúng tôi vẫn còn triền miên trong ý nghĩ về cái làng Việt Nam với những con người chân chất, hồn hậu ấy. Và tôi lại càng nghĩ nhiều đến Bác Hồ, người đã, đang và sẽ không ngừng mong cho họ một cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn…

  Nhà báo Đức

PHRANXƠ PHABE

(Lược trích theo sáchNgười là Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995).

Ba lần được chiếu phim để Bác xem

… Đêm hôm đó chiếu phimĐôngkysốttại Phủ Chủ tịch. Phim hết. Đèn bật sáng. Mọi người vỗ tay. Bác rẽ đám đông đi thẳng đến chỗ chúng tôi. Sau khi khen ngợi tinh thần phục vụ của chúng tôi, Bác nói: TruyệnĐôngkysốt,Bác xem rồi. Phim Bác cũng đã được xem. Hôm nay xem lại, nghe chú nói, Bác vẫn thấy khó hiểu.

 Quay lại phía người xem phim, Bác hỏi: Thế nào, các cô, các chú có hiểu không?

 - Dạ, truyện phim rắc rối lắm ạ. Bác quay về phía tôi, nói tiếp:

 - Khó hiểu, không phải vì chú nói kém, mà vì bản thuyết minh dịch nhiều lời quá.

Một buổi khác, tôi lại được cử đi thuyết minh phim để phục vụ các đồng chí dân tộc miền núi do Bác chiêu đãi. Lúc sắp chiếu, Bác dặn tôi: Hôm nay chú nói để bà con nông dân nghe, nhất là bà con nông dân miền núi, chú nói thế nào cho bà con hiểu được thì nói.

 Một lần nữa, tôi lại được cử đi thuyết minh phim để Bác nghe. Người xem cùng với Bác hôm đó toàn là cán bộ. Tôi nghĩ trình độ của các đồng chí đó cao, chẳng cần phải giới thiệu truyện phim trước. Khi tôi xin phép để chiếu phim, Bác ngồi gần đấy quay lại nhắc: Ấy, chú phải kể tóm tắt truyện phim. Có chỗ nào rắc rối phải giải thích để người xem hiểu… Chiếu trong nhà, tiếng lại oang oang. Bác ngồi gần nghe còn rõ, các cô các chú ngồi xa, sợ nghe không rõ tiếng thuyết minh. Phải kể truyện phim thì người xem mới nắm được hết.

Ba lần được đi chiếu phim để Bác xem, ba lần tôi đều được Bác nhắc nhở, dạy dỗ về ý thức phục vụ. Bác của chúng ta quan tâm chu đáo tới từng việc nhỏ. Và từ đấy, anh em chúng tôi ra sức viết những bản thuyết minh phim và nói sao cho giản dị, dễ hiểu như lời Bác dạy…

 QUANG KHANG

 Nhân viên chiếu phim.

(Lược trích theo sáchMuôn vàn tình thân yêu, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1975).

Bác hiểu rõ những khó khăn nghề nghiệp của chúng tôi

 … Bác Hồ của chúng ta, trong những năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, đã lăn lộn tiếp xúc với nhiều tầng lớp xã hội ở cơ sở thuộc nhiều nghề nghiệp khác nhau. Cho nên, Bác thông cảm rất mực công việc cùng những khó khăn, những yêu cầu riêng biệt của từng ngành chuyên môn. Riêng anh chị em làm công tác nhiếp ảnh, điện ảnh chúng tôi đã nhiều dịp được thấy rõ điều đó. Tôi còn nhớ mãi trường hợp xảy ra trong dịp phục vụ hội nghị thành lập Mặt trận Liên Việt.

 Hội nghị được tổ chức trong một khu rừng Việt Bắc, vào những năm kháng chiến chống Pháp. Bộ phận điện ảnh, nhiếp ảnh phục vụ hội nghị gồm có các anh Đinh Đăng Định, Lê Minh Hiền và tôi. Hội trường là một ngôi nhà tre, lợp lá cọ, rộng, thoáng, do anh em công binh cấp tốc dựng trong một thời gian ngắn. Cho đến giờ phút chót, mọi công việc chuẩn bị đều đã chu tất, riêng có ba chúng tôi vẫn bồn chồn không yên. 

 Chúng tôi đã được phổ biến kỹ càng về tầm quan trọng đặc biệt của hội nghị. Một sự kiện lịch sử lớn lao nhường ấy, tất phải được ghi hình ảnh để lưu lại về sau, đó là điều cần phải thực hiện bằng mọi cách. Nhiệm vụ đó ba anh em chúng tôi phải đảm đương. Nhưng, trong hoàn cảnh kháng chiến, máy móc cũ kỹ kém phẩm chất, đèn chụp không có, nơi họp lại ở trong nhà giữa rừng rậm, thiếu ánh sáng, làm sao có thể bảo đảm những hình ảnh tốt?

 Chúng tôi lo lắng, bàn đi bàn lại, tìm cách khắc phục khó khăn, cuối cùng đi đến kết luận: Chỉ còn cách xin được phép dỡ một phần mái phía trên chỗ Đoàn chủ tịch ngồi. Một yêu cầu mà bản thân chúng tôi cũng thấy là có phần quá mức. Nhưng vì bí quá, nên chúng tôi vẫn phải đánh bạo đề đạt ý kiến đó với các đồng chí phụ trách tổ chức hội nghị. Sau khi nghe chúng tôi trình bày mọi lẽ, các đồng chí đó cũng thấy đề nghị của chúng tôi là cần thiết cho yêu cầu nghiệp vụ để hoàn thành trách nhiệm được phân công, nhưng vẫn do dự không dám quyết định.

 - Chuyện này gay đấy, dỡ mái ngay trên đầu Đoàn chủ tịch đâu phải là chuyện có thể tự quyết định nổi được. Có lẽ phải xin ý kiến của Bác mới xong. Một đồng chí phụ trách tổ chức hội nghị nói. Chúng tôi nhìn nhau ngần ngại: Ai dè cái công việc nhỏ đó mà lại phải trình lên Vị Chủ tịch nước giải quyết! Nhưng biết làm sao được.

… Chúng tôi theo các đồng chí phụ trách lên chỗ Bác.

 Sau khi báo cáo tình hình chuẩn bị hội nghị, các đồng chí đó nêu lên một vài vấn đề tồn tại, trong đó có cái mắc mớ của chúng tôi. Bác ngồi trong khoang Nhà sàn, im lặng nghe, thỉnh thoảng gật đầu vẻ bình tĩnh quen thuộc. Nhưng ba chúng tôi thì phấp phỏng, ruột cứ như lửa đốt. Bác sẽ cho chỉ thị sao đây? Liệu chúng tôi có làm phiền Bác không?

 Nhưng cái kết thúc lại rất nhanh chóng, bất ngờ. Không cần hỏi thêm chi tiết, Bác thấy rõ ngay những khó khăn về nghề nghiệp của chúng tôi và Bác nói: Dỡ thì dỡ, nhưng làm xong phải lợp lại ngay đấy.

 ... Cuối thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tôi chuyển sang tập sự cầm máy quay. Tôi tự cho mình may mắn và hạnh phúc đặc biệt vì được bắt đầu vào nghề điện ảnh bằng những hình ảnh quay về lãnh tụ kính yêu của chúng ta. Tôi đã ghi được hình ảnh Bác ngồi đọc sách bên cửa sổ nhà sàn. 

 Hình ảnh này đã được sử dụng trong các bộ phimVài hình ảnh về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,79 mùa XuânNgười là Hồ Chí Minh.

 Sau mỗi buổi xem phim, Bác thường nói chuyện với anh chị em làm phim. Tôi còn nhớ sau khi xem phim Nổi gió, Bác còn đi dạo trong vườn trò chuyện mãi với anh chị em làm phim chúng tôi. Một hôm, sau khi chiếu một bộ phim mới xây dựng, đồng chí Phạm Tuấn Khánh, hồi đó là Giám đốc Xưởng phim Truyện kiêm Cục trưởng Cục Điện ảnh, xin Bác cho ý kiến về nội dung, hình thức cùng những ưu khuyết điểm của phim. Bác chỉ vào anh chị em cán bộ, công nhân viên phục vụ trong Phủ Chủ tịch nói: Các chú nên hỏi ý kiến quần chúng… 

Đã bốn năm rồi, tôi vẫn làm phim truyện, nhưng không bao giờ còn được mang phim của mình vào chiếu báo cáo Bác nữa. Bác đã đi xa rồi.

 Những ngày này, đang cùng một số anh chị em bắt tay xây dựng bộ phim truyện mới, có lúc tôi bỗng tưởng tượng ra những khi hoàn thành phim mang vào trình Bác, Bác sẽ lại cho chúng tôi kẹo, cả ăn tại chỗ lẫn mang phần về nhà. Bác sẽ lại đi dạo trong vườn với chúng tôi và sương xuống, anh Kỳ sẽ lại khoác áo ngoài lên đôi vai của Bác… 

 Tôi rưng rưng xúc động và lại nghĩ mình phải cố gắng hơn để xứng với công ơn của Bác, với những lần được gặp Bác, được nghe Bác căn dặn và dạy dỗ…

 NGUYỄN ĐĂNG BẢY

 Nhà nhiếp ảnh, đạo diễn điện ảnh.

(Lược trích theo sáchMuôn vàn tình thân yêu, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1975).

Bác Hồ đến thăm Trường điện ảnh

 … Ngày 20-7-1959, bộ phim truyện đầu tiênChung một dòng sôngra đời, thì mãi ba tháng sau, ngày 31-10-1959, Trường Điện ảnh mới được thành lập. Đối với các nước, có trường rồi mới có phim truyện. Hoàn cảnh của ta có khác. Ta làm phim rồi mới mở trường. Một số diễn viên tham gia đóng bộ phim truyện Chung một dòng sông đã được chọn đi học lớp đạo diễn và diễn viên đầu tiên của ta.

 Ngày đó, Trường Điện ảnh còn đặt ở ngôi nhà nhỏ số 7 phố Trần Phú (nay là Xưởng phim Hoạt hình Việt Nam). Trong không khí học tập sôi nổi, sau hơn ba tháng khai trường, vào ngày 10-2-1960, có tiếng chuông điện thoại đổ hồi. Tôi cầm ống nghe:

 - Alô! Tôi nghe đây! Trường Điện ảnh đây!

 Ở đầu dây bên kia là tiếng anh Phạm Tuấn Khánh

 - Alô! Các đồng chí chuẩn bị đón một đồng chí lãnh đạo đến thăm trường nhé!

 Tôi không thể nào ngờ người đó lại là Bác Hồ. Thực ra, nếu có biết là Bác đến, trường cũng chẳng kịp chuẩn bị gì hơn. Vả lại, đối với Bác, Bác ưa sự giản dị, không thích lễ nghi. Lúc đó, học sinh lớp đạo diễn, diễn viên đang học múa.

 Sự xuất hiện của Bác quá đột ngột và vượt quá mơ ước của anh chị em. Mọi người chạy ùa ra, vây quanh lấy xe của Bác, mừng vui đến trào nước mắt: “Bác đến! Bác đến!”.

 Chờ cho làn sóng mừng vui lắng xuống, Bác đưa mắt trìu mến nhìn khắp lượt cả lớp đạo diễn, diễn viên thân mật như người cha ở giữa đàn con. Đang giờ tập múa, nên anh chị em quần ống chẽn, áo bó sát người, các diễn viên lúc đó tuổi chỉ chừng mười bảy, mười tám, nhất là các cô còn trẻ măng, ríu rít như chim.

 Bác hỏi luôn: - Phi Nga đâu?

 Thật khó mà diễn tả được tình cảm của anh chị em lúc đó. Riêng đối với Phi Nga, lấy gì đo được hết nỗi sung sướng của chị khi được Bác ân cần nhắc đến tên. Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc bận trăm công nghìn việc, vẫn nhớ đến tên một diễn viên đóng vai Hoài trong phimChung một dòng sông, bộ phim đầu tay của nền nghệ thuật phim truyện Việt Nam.

 Lúc đó, Phi Nga đang đứng ở vòng ngoài. Ai đo được sự xúc động của người nữ diễn viên, người miền Nam tập kết này? Mọi người mới dãn ra, nhường lối cho Phi Nga đến gần Bác. Bác xoa đầu và hôn vào trán Phi Nga.

 Rồi Bác xem các học viên làm bài tập. Bác dừng lại giữa một toán khác đang tập múa balê. Anh chị em quây lấy Bác yêu cầu: “Bác cùng nhảy với chúng cháu cho vui ạ?”

Bác nhìn mọi người, cười độ lượng và hỏi: 

-  Các cháu đang tập môn gì?

- Dạ thưa Bác, giờ này chúng cháu đang tập vũ ạ. Một học viên nhanh miệng trả lời Bác. Bác cười hóm hỉnh: “Vũ” là gì nhỉ?

 Biết Bác muốn nhắc mọi người về cách nói năng sao cho dễ hiểu, một đồng chí vội thưa lại: 

 - Dạ thưa Bác, là tập múa ạ.

 Rồi Bác lại hỏi: Về chuyên môn, các cháu học như thế nào?

 Xuân Tạc trả lời Bác: 

- Sau phần lý thuyết do chuyên gia hướng dẫn, chúng cháu tập “tiểu phẩm” ạ.

 - Cháu nói cái gì? Biết mình lại lỡ lời, Xuân Tạc vội chữa lại: Dạ, thưa Bác là tập những trích đoạn ạ.

 Bác lại cười. Không khí đầm ấm, thân mật quá!

 Xuân Tạc vốn là một nông dân quê ở Hải Hưng, và đã từng đi bộ đội thời kỳ chống Pháp, nay được đi học điện ảnh, lại được gặp Bác thật vinh dự không ngờ.

 Bác xem các học viên múa. Mọi người được múa cho Bác xem, chân bước, tay cử động mà tâm trí thì dồn cả vào Bác.

 Tôi đứng cạnh Bác, báo cáo với Bác về tình hình học tập.

 Bác vừa nghe, vừa gật đầu. Sau đó Bác nói mấy câu: Bác đến thăm các cháu. Chúc các cháu học tập có kết quả. Bây giờ Bác về…

 Mọi người lại quây lấy Bác, theo Bác ra xe. Ai cũng cảm thấy sung sướng về những giây phút ngắn ngủi được sống bên Bác. Ở Bác toát ra một cái gì làm cho không khí xung quanh trở nên đầm ấm, thân mật và thoải mái lạ thường, dù là lần đầu tiên được gặp Bác.

Kể từ lúc Bác đến cho đến lúc Bác đi, mọi sự việc chỉ diễn ra trong vòng độ mười lăm phút. Nhưng với mười lăm phút quý báu đó, Bác đã để lại cho mọi người những kỷ niệm không bao giờ phai nhạt…

NGUYỄN NGỌC TRUNG

Học viên lớp đạo diễn, diễn viên.

 (Lược trích theo sáchMuôn vàn tình thân yêu, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1975).

Được vẽ và nặn tượng Bác

Từ cách mạng đến nay, tôi may mắn được gặp Bác nhiều lần, lần nào cũng để lại trong tôi nhiều kỷ niệm sâu sắc. Tôi chỉ xin kể lại một vài mẩu chuyện nhỏ:

 Năm 1958, chúng tôi xin được gặp Bác để vẽ và nặn tượng Bác. Mãi chúng tôi mới được tin lên chỗ Bác ở. Hôm ấy quả là một ngày vui đáng ghi nhớ. Cùng đi với chúng tôi có anh Diệp Minh Châu, anh Trần Văn Lắm và một nhà điêu khắc người Đức. Từ một đất nước xa xôi sang, anh bạn đồng nghiệp của chúng tôi chỉ mong mỏi được gặp và trực tiếp nặn tượng Bác.

 Được toại nguyện, anh bạn người Đức và cả chúng tôi xiết bao mừng rỡ. Có điều hôm đầu, Bác ngồi thấp mà anh bạn của chúng ta vừa cao lớn vừa đứng nặn theo tư thế và công việc của một nhà điêu khắc. Vì vậy, anh bạn luôn phải khom người. Sau buổi hôm đó, chúng tôi nghĩ ra một cách để giải quyết cái khó khăn nghề nghiệp của anh bạn.

 Chúng tôi mang bục gỗ và đặt bàn làm việc của Bác lên đấy. Ngắm nghía thấy vừa tầm nặn, chúng tôi thích thú lắm, nhất là anh bạn người Đức.

 Sáng hôm sau, chúng tôi đến thật sớm nhưng khi bước vào, chúng tôi thấy Bác đã ở đấy rồi. Một chân Bác đứng dưới đất, còn chân kia đặt lên bục. Vừa trông thấy chúng tôi Bác đã vui vẻ hỏi: Các chú có biết ngày xưa người ta xưng với vua như thế nào không? Bị hỏi bất ngờ, chúng tôi bỗng nhiên lúng túng nhìn nhau, nhưng rồi cũng mạnh dạn trả lời: Thưa Bác, người ta xưng là “tâu bệ hạ” ạ!

 Bác bèn trỏ vào cái bục, châm biếm: Thế các chú muốn Bác làm vua hay sao mà lại mang cái bệ này đến? Biết Bác đùa, chúng tôi ai nấy đều im, Bác lại nói tiếp: Các chú nên nhớ rằng Bác làm Chủ tịch, Chủ tịch cũng là đầy tớ của nhân dân, phải phục vụ nhân dân vô điều kiện.

 Chúng tôi đang lo Bác không lên bục, ngồi vào bàn làm việc. Nhưng đoán được tâm trạng đó, Bác vui vẻ bảo: Nói thế thôi chứ bây giờ Bác cũng “thượng bệ” cho các chú vui lòng...

 Đúng là Bác Hồ kính yêu của chúng ta lúc nào cũng thanh thản, ung dung. Vẽ và nặn tượng Bác cho được cái thần thái ấy quả không phải dễ. Cho đến nay chúng tôi cảm thấy tranh mình chưa thể hiện và lột tả được hết những nét riêng đáng quý đó của Bác, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

 Lúc Bác còn sống, Bác thường đến thăm các cuộc triển lãm nghệ thuật. Lúc không đi được thì Bác có thư. Thư Bác gửi cho giới họa sĩ chúng tôi năm 1951 là một văn kiện lịch sử quan trọng, là kim chỉ nam hành động quý báu và thiết thực cho giới chúng tôi nói riêng, cho ngành văn nghệ nói chung, vì đến nay mỗi khi đọc lại bức thư ấy, chúng tôi càng thấy đúng và trong sáng, vẫn thấy phải cố gắng rất nhiều nữa mới mong có thể đạt được phần nào lời khuyên dạy của Người.

 Năm 1963, Bác có đến thăm Triển lãm nghệ thuật tạo hình trưng bày ở phố Tràng Tiền. Sau khi xem, Bác có nhận xét: Các chú làm việc tốt đấy. Tranh, tượng thế là có tình người. Sau đó, Bác hỏi chúng tôi về phong trào mỹ thuật, về đội ngũ sáng tác mỹ thuật  (có bao nhiêu nữ, bao nhiêu anh chị em người dân tộc, bao nhiêu anh chị em trẻ), rồi Bác bảo: Các chú là lớp người đi trước, nên dìu dắt anh chị em lớp trẻ, có kinh nghiệm gì thì phải tận tình bày vẽ cho anh chị em. Nhưng cũng phải cẩn thận, chú ý đừng để mất khiếu sáng tạo của họ.

 Xem tranh sơn mài, Bác khuyên chúng tôi nên nghiên cứu sao cho chất liệu này giữ được bền hơn nữa. Về nghệ thuật khảm trai, Bác cũng có ý kiến: Các chú cần cố gắng duy trì loại này. Nó quý lắm. Nó là cái vốn nghệ thuật cổ truyền của cha ông ta xưa, phải phát triển nó lên.

 Trước khi rời khỏi phòng triển lãm, Bác nhắc nhở chúng tôi phải cố gắng làm tốt hơn, phải đem nghệ thuật phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Lời khuyên dạy của Bác thật là đầm ấm, mãi mãi còn in sâu trong lòng chúng ta. Chúng ta nguyện suốt đời ghi nhớ và làm theo lời dạy bảo của Người để xứng đáng với Người, với công ơn và sự quan tâm to lớn của Người.

 Hoạ sĩ TRẦN VĂN CẨN 

(Lược trích theo sáchBác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995).

Huyền Trang (tổng hợp)


 

Những  ngày sống đẹp

… Hôm nay 10-4-1952, chuẩn bị đến ngày khai mạc Đại hội Chiến sĩ thi đua toàn quân. Các chiến sĩ đang hoàn thành việc viết báo cáo thành tích.

 Chúng mình rất lo, chiến sĩ đã đến đủ cả. Anh em viết chỉ có bốn người! Mà chiến sĩ thì đông: Các đoàn Liên khu 3, Liên khu 4, Liên khu 5, các đại đoàn 304, 308, 312, 316, 351, Bình Trị Thiên, Liên khu Việt Bắc, đoàn các đơn vị trực thuộc Bộ, cộng 104 người.

30-4-1952. Tối nay khai mạc Đại hội các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc. Trước ngày tới địa điểm, mình hành quân với đoàn “người ốm và cụ già”, cùng chị Tám, anh Bẩm, cụ Đĩnh, cụ Vấn, Nguyễn Huy Tưởng...

 Ba giờ chiều, hai đoàn chiến sĩ công - nông nghiệp múa kết đoàn, do anh Ngô Gia Khảm dẫn đầu đang đến chào thăm đoàn bộ đội thì Bác đến. Bác mặc quần áo ta màu nâu sẫm, đi dép cao su đen, cổ khoác cái khăn mặt. Tóc Bác bạc, răng trắng, da hồng. Bác đi nhanh vào nhà. Mình và Mai Văn Hiến nhảy vọt qua cửa sổ lên sàn. Thấy anh em xông đến đông quá, Bác “chạy” ngay. Bọn mình đuổi theo Bác, quăng hết cả dép lại. Anh em hò reo: - Bác là của ai? - Của chúng ta!- Bác của ai? - Của chúng ta!...

 Vào hội trường, Bác phê bình tranh vẽ đồng chí Xuphanuvông chưa giống và nói cần có thêm khẩu hiệu quốc tế. Anh chị em cứ quây quanh Bác mãi đến khi Bác bảo giải tán mới chịu về.

 Trước đó, Đinh Nói và chị Chiên được Bác giữ lại hỏi chuyện giữa đường, sau về nhà mới biết là Bác. Quãng bốn giờ chiều, Bác đến thăm đoàn chiến sĩ quân đội.

 Gần tối, Bác ngồi vui với anh chị em giữa bãi cỏ. Bác mời một cụ và chị Song Kim hát chèo, Bác chữa cho từng câu hát sai. Tối nhảy tập thể, Bác gom nam nữ thanh niên lại, khuyến khích nhảy cho vui.

 Tối, vào hội trường, Bác chỉ huy vỗ tay hoan hô các chiến sĩ báo cáo. Bác đánh nhịp cho hát nữa. Bác đi ở hội trường ung dung như đi trong nhà, trong gia đình. Bác đọc diễn văn khai mạc rồi anh Thận, anh Việt, bác Thắng, anh Văn lên nói. Đại biểu chiến sĩ già nhất Đại hội, 68 tuổi và chiến sĩ gái trẻ nhất phát biểu. Bác ôm hôn em gái nhỏ và tặng lại bó hoa rừng của Bác cho ông cụ râu bạc như cước.

 01-5-1952. Gần tối, Bác "đột kích" vào hội trường, ngồi dãy ghế dài không ai biết. Bác báo tin có anh em công nhân xưởng X sắp đến thăm Đại hội, đề nghị cử ba chiến sĩ công nông binh chuẩn bị ý kiến cám ơn anh em. Rồi Bác dẫn đầu đoàn người ra đón khách, y như một chính trị viên Đại hội. 

Đoàn khách vào hội trường. Các em thiếu nhi áo quần xanh lơ, mũ calô xanh lơ, vẫy quốc kỳ và cờ các nước bạn, giơ cao biểu ngữ mừng ngày 1 tháng 5 và chân dung Hồ Chủ tịch. Trong khi các đại biểu nói, Bác ngồi xuống ôm lấy các cháu thiếu nhi, như ông bế cháu trong nhà. Cuối cùng, Bác thay mặt cả chủ và khách cám ơn lẫn nhau, rồi Bác đứng ở giữa, ra hiệu cho hai đoàn quay đằng sau, từ biệt. Cả hai đoàn đều ngoái lại nhìn Bác, ai cũng vui sướng, nghẹn ngào. Đồng chí Ngô Đinh Đàn âu yếm quạt cho Bác và cố sức bước theo Bác...

 02-5-1952.Bác đột ngột vào lán bọn mình. Bác hỏi: “Ai ở đây”. Anh Vũ Cao thưa: “Thưa Bác, mấy anh em phục vụ ạ”. Bác bảo: “Ai mà chẳng phục vụ”. Rồi Bác đi vào góc lán, nhìn quanh. Bọn mình hố quá, vì trật tự nội vụ chưa được tốt. Phải ngăn nắp hơn nữa. May mà Bác không phê bình.

 Bác luôn chủ động, tự tay cầm đèn soi cho báo cáo viên khi điện yếu. Từ sáu rưỡi đến tám rưỡi sáng, các anh Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Cao Viết Bảo báo cáo. Chiến sĩ Phạm Văn Tham ra sức hò xen vào những câu ca dao phần lớn do anh em văn nghệ viết.

Tối, Bác điều khiển Đại hội. Sau giờ giải lao, Bác gọi các vị Chủ tịch đoàn lên ghế. Bác kêu: “Cô Chiên đâu?”. Chiên từ ngoài đồi chạy vào: “Thưa Bác cháu đây ạ”.

 Chiên ngồi lên ghế Chủ tịch đoàn, oằn mình. Có lúc chị rút khăn lau mồ hôi trán. Bác vội đứng dậy tới bên Chiên, cúi xuống hỏi. Chiên bối rối lắc đầu, tỏ ý không đau. Rồi chị cố gắng cười, vỗ tay. Nhưng sau đó Bác thấy có lúc Chiên khẽ nhăn mặt, Bác buộc Chiên phải về nghỉ. Bác biết Chiên yếu nhiều vì những đòn tra tấn dã man của giặc.

03-5-1952. Sáng, chị Chiên và Giáp Văn Khương báo cáo kết quả khá. Sau khi chị Chiên báo cáo, Bác đập mạnh tay xuống bàn, nói: “Báo động! Có máy bay địch tới!”. Cả Đại hội chạy ra hầm, nhanh và trật tự. Trở vào, Bác tuyên bố là tập báo động thôi và nhận xét về công tác phòng không, cần phải chu đáo, chớ chủ quan.

 04-5-1952.Kết thúc Đại hội....

(Lược trích theo sáchBác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995).

Bác đến Đại hội Nhà báo

… Những người viết báo chúng tôi thường may mắn được nhiều dịp gặp Bác. Riêng tôi ghi nhớ sâu sắc nhất là lần Bác đến nói chuyện tại Đại hội Nhà báo lần thứ hai.

 Bác đến, thể hiện sự chăm sóc của lãnh tụ đối với cán bộ và còn là sự quan tâm của một người viết báo lão luyện đối với lớp người sau. Chúng tôi hồ hởi đợi chờ. Hàng ngày ở toà soạn, chúng tôi thỉnh thoảng được nghe các đồng chí ở văn phòng Phủ Chủ tịch cho biết là Bác đã đọc bài báo này, bài thơ nọ và có ý kiến nhận xét rất cặn kẽ về những bài ấy. Có lần báoLao độngchúng tôi đăng một bài thơ vui trong mục “Nói thật không mất lòng” phê bình một công trường đã để nhà tắm nữ bị bên nam phá vách thôn tính, chị em làm việc xong không có nơi tắm nữa. Bài thơ đó đã được Bác đọc và chuyển đến các đồng chí lãnh đạo công trường. Hôm sau đi công tác lên Thái Nguyên, tôi đã thấy nhà tắm của công trường ấy được sửa sang tử tế, có giờ giấc phục vụ công nhân nam nữ chu đáo. Còn nhiều chuyện tương tự như vậy ở báo này hoặc báo khác mà chúng tôi gặp nhau thường hay truyền miệng cho nhau nghe. Mỗi lần như vậy chúng tôi thường thè lưỡi bảo nhau: May mà bài báo ấy đúng sự thật không thì chết!

 Bác quan tâm đến báo chí như vậy cho nên lần này Bác đến Đại hội chắc chắn là có nhiều chuyện thú vị lắm! Một số anh em chúng tôi bàn mảnh: Chuẩn bị mà nghe ông Cụ “điểm báo”!

 Sau khi chúng tôi nghe đồng chí Trường Chinh nói chuyện rất bổ ích thì Bác đến. Ngay từ phút đầu, Bác đã đem đến Đại hội không khí sôi nổi và tươi vui. Có thể nói hội trường hôm ấy vang lên tiếng cười thoả thuê từ đầu buổi đến cuối buổi. Riêng tôi, và một số bạn khác, chúng tôi cười đến chảy nước mắt. Hôm ấy, Bác vui lạ. Bước lên bục nói chuyện, Bác để chồng báo xuống và giơ hai tay ra hiệu ngồi xuống rồi Bác nói rất dí dỏm:  Mời toàn thể “an tọa”!

 Bác nhấn chữ “an toạ” cho vui, nhưng thực ra tôi hiểu là Bác có ý bảo rằng những người viết báo là sính dùng danh từ như vậy. Chắc mọi người cũng hiểu thế, cho nên nghe Bác nói cả hội trường ròn vang tiếng cười.

 Bác bảo mọi việc đồng chí Trường Chinh và anh Hoàng Tùng đã nói đầy đủ, Bác chỉ nói về nghiệp vụ thôi. Chúng tôi chăm chú nghe Bác nói về kinh nghiệm của Bác hồi viết báo ở Pháp, chuyện Bác dày công luyện tập khi viết một bài từ ngắn đến dài, rồi từ dài đến ngắn v.v..

 Nhận xét về báo chí của ta, Bác khen là đã đạt được thành tích rất đáng kể. Bác vui vẻ giới thiệu tỉ mỉ một số nhược điểm, khuyết điểm của các báo trong việc trình bày, trong văn phong, chạy tít đưa ảnh… Mấy phút im lặng. Bác lấy ra một tập báo Bác mang theo đã đánh dấu sẵn. Chúng tôi hồi hộp đợi chờ, lo lắng, không biết báo mình, bài mình có được nêu lên không? Bác cầm một tờ báo hàng tuần có in ảnh một nữ công nhân đang ngồi. Ảnh cỡ lớn, chiếm toàn bộ trang nhất, Bác giơ cao cho mọi người xem rồi hỏi: "Cô này đang ngồi làm gì đây?"

 Chúng tôi cũng chịu. Chỉ biết đó là một cô công nhân cũng khá xinh, để trang nhất cũng đẹp. Thế là Bác chỉ cho biết dùng một chiếc ảnh trên báo phải hết sức chú trọng nội dung, không được dễ dãi.

 Quay sang một tờ báo khác, Bác nói: Các chú là nhiều danh từ lắm! Thế “không phận” là gì? - Thưa Bác, là… là vùng trời ạ! - Thế gọi là vùng trời có phải ai cũng dễ hiểu hơn là dùng chữ “không phận” không? - Thưa Bác, dạ đúng như vậy ạ! Bác cười, khoả tay cho ngồi xuống. Bác nói thêm: Các nhà báo phải có trách nhiệm đừng để cho tiếng mẹ đẻ chúng ta mỗi ngày một mai một đi. Bác lại lấy dẫn chứng: Chúng ta có hai chữ “vẻ vang” rất hay, lại không dùng, chỉ thích dùng chữ “vinh quang”. Nhiều người làm thơ lại gọi là quang vinh cho nó hợp vần.

 Bác lại lấy những tờ khác. Trên trang nhất tờ báo hàng ngày ấy có đưa tin về hai đoàn đại biểu trong phe xã hội chủ nghĩa cùng một ngày đến thăm nước ta. Bác chỉ vào đấy và phân tích: Như thế này là các chú bên trọng bên khinh. Hai đoàn đến cùng ngày tại sao lại đưa đoàn này lên trên, in chữ to, còn đoàn kia in chữ nhỏ, sắp ở dưới!

 Thật là sáng mắt! Bác còn chỉ rõ những chỗ sai lầm làm lộ bí mật về tài nguyên của quốc gia trong việc tuyên truyền trên báo. Đối với các báo chưa chú ý đầy đủ đến đối tượng của mình phục vụ, cũng được Bác nhắc nhở nghiêm khắc. Đến phần “điểm báo” địa phương. Bác kể cho nghe một câu chuyện mà không ai nhịn cười được. Nhân ngày sinh nhật Bác, tờ báo ở địa phương nọ có đăng thư của đồng bào chúc mừng Bác. Có đồng bào muốn chúc Bác mạnh khoẻ sống lâu, lại viết là “chúc Bác bách niên giai lão”. Tờ báo ấy đăng nguyên văn như vậy.

 Bác cười và nhắc lại với mọi người: Họ chúc Bác “bách niên giai lão” mà báo cũng đăng đấy!

 Cái câu chúc mừng dành riêng cho cô dâu chú rể trong buổi thành hôn ấy, bỗng lại dành chúc thọ Bác làm mọi người càng cười dai dẳng. Thật chết cho cái bệnh sính chữ nghĩa.

 Những lần học nghiệp vụ, chúng tôi rất chú trọng học tập cách viết của Bác. Trong trang sử của Hội những người viết báo Việt Nam, chúng ta vô cùng sung sướng được có Bác - người viết báo lỗi lạc số một từ trước và hiện nay…

 (Lược trích theo sáchChúng ta có Bác Hồ, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1999).

Nhớ lại những ngày làm bộ phim

“Vài hình ảnh về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”

 … Nói được một vài nét về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, đó là yêu cầu nội dung bộ phim mà mấy anh em chúng tôi phải thực hiện nhân ngày mừng thọ Bác bảy mươi tuổi (19-5-1960).

 Cách đây hơn mười năm, khi chúng tôi được làm phim về Bác, chắc chắn Bác sẽ không tán thành nếu như bộ phim đó không do Trung ương quyết định. Bác không muốn nhắc tới mình, mặc dù công lao của Bác đối với giai cấp, đối với nhân dân như trời biển. Hôm anh em tới quay cảnh Bộ Chính trị họp, vì hồi hộp, lúng túng không biết bố trí ra sao, thì Bác đã chủ động “đạo diễn” cho anh em quay phim. Đoạn đầu của bộ phim nhờ có Bác giúp đỡ đã thể hiện được tốt đẹp.

Tôi được đoàn làm phim trao nhiệm vụ nghiên cứu tập biên bản điều tra của Sở mật thám Pháp, theo dõi hoạt động của người thanh niên Việt Nam Nguyễn Ái Quốc những năm ở Pháp. Đó là một tài liệu đặc biệt hiếm có. Những dòng chữ khô khốc của thứ văn chương sen đầm đó đã làm dấy lên trong lòng tôi niềm xúc động thương cảm vô hạn bởi lịch sử đã đặt vận mệnh của cả dân tộc lên đôi vai mảnh dẻ của Người.

 Cuộc đời hoạt động của Bác Hồ vô cùng phong phú và vĩ đại. Bộ phim chỉ nói được một phần, cũng vì vậy, chúng tôi chỉ dám đặt tên phim làVài hình ảnh về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Được Trung ương hết lòng giúp đỡ, bộ phim đã hoàn thành kịp thời. Đó là một điều vui mừng lớn của chúng tôi.

 Khi xong phim, được mang phim vào chiếu trong Phủ Chủ tịch, mỗi người chúng tôi vừa sung sướng, vừa hồi hộp. Mọi lần mang những thước phim khác vào chiếu để Bác xem, ai cũng có tâm trạng như vậy. Huống chi lần này lại chiếu một bộ phim nói về Bác. Buổi chiếu được tổ chức ngay ở ngoài sân. Đúng 19 giờ, Bác tới. Không khí trang nghiêm hẳn lên. Bác tươi cười hỏi: “Các chú có muốn nghe hát không?”. Tất cả trả lời: “Có ạ!”. Bác liền chỉ tay vào một đồng chí nữ danh ca hôm đó cùng ngồi xem và bảo chị hát cho mọi người nghe. Chị liền đứng dậy hát một bài dân ca miền Nam. Sau tràng vỗ tay tán thưởng của mọi người, Bác lại quay sang hỏi: “Các chú có muốn nghe một bài hát nữa không?”. Tiếng trả lời “Có ạ” lại vang lên. Bác trả lời rất vui: “Thế thì để đến lần sau”. Mọi người cười rộ trong tình cha con thoải mái và thân mật quá. Bác cũng cười theo.

 Phim bắt đầu chiếu. Hầu như suốt buổi chiếu tôi chỉ đăm đăm nhìn Bác. Bác xem rất chăm chú. Thốt nhiên, Bác đưa tay chấm mắt. Tôi giật mình xao xuyến nhìn vội lên màn ảnh. Bác xúc động vì hình ảnh về một địa phương xa xôi, nơi Bác để nhiều kỷ niệm, hay về hình ảnh một đồng chí quốc tế ngày nay không còn nữa…

 Phim chiếu xong. Dường như đoán biết ý chúng tôi mong chờ ý kiến Bác. Bác chỉ tay vào chỗ mọi người ngồi xem bảo: “Các chú hỏi ý kiến quần chúng đi đã”.

 Từ ngày đó tới nay, ý định được làm một bộ phim nữa về Bác nung nấu trong tôi. Nhưng đến nay, Bác đã vĩnh biệt chúng ta! Nghĩ tới Bác, tới công ơn của Bác, ý định trên của tôi càng thêm da diết. Đời đời ơn Bác, tôi sẽ ra sức làm phim cho hay hơn, cho tốt hơn, trong đó ước mơ của tôi là được làm những thước phim về Bác kính yêu…

(Lược trích theo sáchMuôn vàn tình thân yêu,Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1975).

Hai thế hệ trí thức đi theo con đường của Bác

Mùa Xuân Bính Thân 1956, Hà Nội đón cái Tết thứ hai từ khi Đảng và Bác Hồ về Thủ đô sau 9 năm kháng chiến gian khổ. Nhưng Xuân Bính Thân 1956 cũng là mùa Xuân báo trước dã tâm vi phạm Hiệp định Giơnevơ, phá hoại tổng tuyển cử, thống nhất Tổ quốc của kẻ thù. Dường như tiên đoán được những điều đó, nhân dân Thủ đô đón Xuân nhưng vẫn nhớ đến miền Nam, muốn bày tỏ tình cảm với Bác Hồ và thể hiện quyết tâm sản xuất xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh làm hậu phương vững chắc và sẵn sàng chi viện cho miền Nam thành đồng Tổ quốc. Trong số hàng trăm lá thư của các tầng lớp nhân dân Thủ đô gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam hiện đang lưu giữ, có một bức thư của một học sinh lớp Nhì C mà sau này trở thành một trong những nhà khoa học danh tiếng của nước nhà. Với lòng kính yêu Bác Hồ, với lời lẽ ngây thơ, nội dung bức thư đó như sau:

 “Kính gửi Bác Hồ, cháu là Tôn Thất Bách học sinh lớp Nhì C Trường Tiểu học Nguyễn Du. Hôm nay nhân ngày Tết cháu viết thư lên Bác. Cháu chúc Bác khoẻ mạnh để lãnh đạo toàn dân và cuối cùng cháu xin hứa với Bác cố gắng học tập chăm chỉ, giúp đỡ các bạn học sinh cùng tiến bộ để cùng vào Đội như cháu và để trở thành đội viên gương mẫu”.

 Phát huy truyền thống gia đình, vâng lời Bác Hồ dạy, giữ đúng lời hứa với Bác và quyết tâm đi theo con đường Bác Hồ đã chọn, cậu học sinh lớp Nhì C năm ấy, con trai của Giáo sư Tôn Thất Tùng, người vinh dự được Bác Hồ đặt tên, nay là Giáo sư Tôn Thất Bách, Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội, Giám đốc Bệnh viện Việt - Đức, Đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện sĩ Y khoa.

 Tùng, Bách, phải chăng ý của Bác là mong trí thức Việt Nam mãi mãi tươi xanh, vững vàng như cây bách, cây tùng.

 (Lược trích theo sáchMãi mãi đi theo con đường của Bác Hồ, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1999).

Bác Hồ với hai nghệ sĩ quân đội

... Nghệ sĩ Kim Ngọc - một giọng ca vàng của Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị - đã nhiều lần được gặp Bác Hồ. Một lần, chị và hai diễn viên Thuỳ Chi, Xuân Đức được vào hát cho Bác nghe. Hát xong, lúc trở về, Bác chia kẹo cho từng người và thơm lên trán mỗi người. Bác nói: “Các cháu chỉ được thơm một cái thôi, Bác còn để dành cho các chiến sĩ của Bác”.

 Năm 1957, Đoàn Ca múa quân đội sang biểu diễn ở Triều Tiên đúng dịp Bác đang thăm nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên. Bác đến để thăm hỏi và động viên đoàn. Năm 1959, nghệ sĩ Kim Ngọc sinh cháu đầu lòng, thật là một tin vui cho gia đình nghệ sĩ. Sau khi sinh cháu, chị lại được gặp Bác. Vì vừa sinh con nên sức còn yếu, có lúc thấy giọng hát chị đuối dần.

 Bác nói với chị: “Cháu vừa sinh nở, người gầy lắm, phải chú ý bồi dưỡng cho mau lại sức”. Chị thưa với Bác là do sức khoẻ kém nên tiếng hát không được như trước. Bác lại bảo: “Thế thì cháu phải đi học thêm về ca nhạc dân tộc… chân không đến đất, cật không đến trời, thì không ứng dụng được đâu...”. Vâng lời Bác, sau đó chị đã xin đi học một lớp dân ca và nhờ đó sức hát lại lên.

Nghệ sĩ Tường Vi - một giọng ca được nhiều người yêu mến - cũng có hạnh phúc được gặp Bác nhiều lần, không phải chỉ gặp Bác mỗi khi vào biểu diễn phục vụ chiến sĩ ở tuyến lửa, ở nơi xa về. Những lần ấy Bác đều gọi vào và cho quà. Bác thường hỏi: “Nơi các cháu đi qua, đồng bào có bị đói không” và “Đơn vị các cháu đến, bộ đội có bị ghẻ không?”. Nghe câu hỏi của Bác, chị càng thấm thía sự quan tâm của Bác đối với mọi người...

 Nhưng lần ấy, Bác hỏi một câu mà nghệ sĩ Tường Vi và mấy bà mẹ trẻ là diễn viên của Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị không thể ngờ tới: “Thế các cháu đi diễn dài ngày thì gửi con cho ai?”. Câu hỏi ấy làm cho các chị cảm động đến ứa nước mắt.

 Nghệ sĩ Tường Vi kể một câu chuyện rất riêng của mình. Đó là lần chị sinh cháu đầu lòng, không may cháu bị mất. Chị đau buồn quá đến phát ốm. Không rõ ai đã nói chuyện này với Bác, Bác cho gọi chị vào. Được Bác gọi, chị mừng quá, vội vào ngay. Bác nhìn chị hồi lâu rồi bảo: “Thôi, “thua keo này, bày keo khác”. Trông cháu thiếu máu quá, nghỉ hát, bồi dưỡng đã…”.

 Lần gặp Bác này, chị càng cảm nhận sâu sắc một điều: Bác quan tâm đến mọi người, đặc biệt là đối với các bà mẹ và trẻ em.

 Nghệ sĩ Tường Vi cũng kể đôi lời về “năng khiếu văn nghệ” của Bác. Một lần chị hát bài Phi đội ta xuất kích - một bài hát do chị sáng tác. Hát xong, Bác bảo: “Có một chỗ cao quá, bộ đội không hát được đâu. Lần sau, cháu phải chú ý sáng tác sao cho mọi người cùng hát được”.

 Bác lại bảo chị hát một bài hát nước ngoài, chị hát bài dân ca Nga. Bác gõ nhịp và hát theo, thì ra Bác cũng thuộc bài hát này. Và, theo nghệ sĩ Tường Vi, chị còn thấy Bác nhảy rất đẹp trong buổi liên hoan đón Tổng thống Xucácnô sang thăm Việt Nam...

 (Lược trích theo sáchMênh mông tình thương Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2002).

Một lần gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh

… Cà phê tỏa hương thơm ngào ngạt, đồng chí Hồ Chí Minh tỏ vẻ hài lòng:

- Các đồng chí thứ lỗi cho: Tôi không xin phép trước được mời các đồng chí uống cà phê - Người nói, lẫn lộn tiếng Nga và tiếng Pháp.

Đồng chí Hồ Chí Minh cám ơn, nhận món quà của Antôcônxki, cám ơn cả tôi, như Người nói, vì tôi đã bỏ công mang cho Người cuốn sách, nhưng với những lời của tôi về Người như về một nhà thơ thì Người dứt khoát không tán thành. Đồng chí Hồ Chí Minh cứ thuyết phục tôi rằng Người không phải là nhà thơ, làm như tôi chưa hề đọc thơ Người hoặc không nhớ những vần thơ ấy. 

Chuyện trò với đồng chí Hồ Chí Minh thật thoải mái, như thể anh đã quen biết Người suốt đời rồi. Từ thơ ca câu chuyện chuyển sang các đề tài của văn học nói chung. Nhân tiện phải nói là đồng chí Hồ Chí Minh bắt từng người chúng tôi phải hứa rằng thế nào chúng tôi cũng phải viết về Việt Nam. 

- Thì hôm nay là ngày cuối cùng của các đồng chí ở đất nước chúng tôi, có đúng không? Nghĩa là, các đồng chí nhìn thấy đất nước chúng tôi. Và thấy nhân dân chúng tôi. Ấy đấy, bây giờ các đồng chí viết đi! Đừng bỏ qua ngóc ngách gay cấn nào hết, đừng im lặng làm ngơ chuyện gì hết. Chúng tôi quả sống vẫn còn rất nghèo, điều đó không thể không đập vào mắt các đồng chí. Các đồng chí cứ viết cả về điều đó, đừng ngại. Nói thật, đó là sự giúp đỡ tốt nhất của bạn bè. Văn học của chúng tôi, nghệ thuật của chúng tôi cũng luôn luôn tìm tòi những con đường để làm sao có thể kể một cách chân thực hơn và chân thành hơn cho nhân dân nghe về những mối lo âu và những suy nghĩ của nhân dân. Tất nhiên, ở chúng tôi cũng còn có những người trong giới văn học và nghệ thuật mà điều này còn chưa thấm tới tâm can của họ, biết làm sao được, - nhưng tôi muốn nói tới tuyệt đại đa số - và là điều quyết định! - phần lớn các nhà văn và các nhà công tác nghệ thuật của chúng tôi. Mà đó thực sự là những con người tiên tiến, những con người gắn bó với nhân dân chặt chẽ. Các bạn có gặp các nhà văn của chúng tôi không?

- Có ạ. Với Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, nữ thi sĩ Hằng Phương. Tiếc là nhiều người khác lúc này không có mặt ở Hà Nội.

- Sao lại đáng tiếc? Ngược lại, họ đi khắp đất nước là rất tốt. Và đến đây hóa ra là Chủ tịch biết gần như về tất cả mọi chi tiết công việc mỗi nhà văn đang làm. - Như tôi biết, Người nói, chính Tô Hoài, người mà các bạn đã gặp, hàng năm đều đi đến các vùng dân tộc ít người ở miền núi, nơi anh ấy đã chiến đấu và tổ chức các đội du kích, cái đó cũng rất tốt. Hằng Phương, các bạn cũng đã làm quen với nữ thi sĩ ấy, trong thời gian cải cách ruộng đất đã về nông thôn và ở đó cùng lao động với nông dân. Do đó, thơ của cô ấy, như các bạn hiểu đấy, chỉ hay hơn mà thôi. Và Nguyễn Đình Thi bao giờ cũng sát bên nhân dân. Cả nhà thơ xuất sắc Tố Hữu của chúng tôi cũng vậy. Và như vậy là đúng, phải như vậy, chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó, nhân dân cũng sẽ quên anh ta. Khi chúng tôi nói với các nhà hoạt động văn học nghệ thuật điều đó, bằng chính cái đó chúng tôi kêu gọi làm giàu cho họ chứ không phải là cho văn học và nghệ thuật nghèo đi. Chỉ có bọn thực dân Pháp âm mưu làm sa đọa những người Việt Nam có học, mà số người ấy mới ít ỏi làm sao! Chúng nói rằng nhân dân chỉ cần thứ văn hóa loại hai. Và vì thế chúng gửi sách sang đây không phải V.Huygô và A.Phrăngxơ mà là Klôt Farrê và sách của cái ông... tên ông ta là gì nhỉ, à hiện nay đang là Bộ trưởng...

 Chủ tịch nheo mắt cười mai mỉa: Bộ trưởng Bộ Văn hóa... của Đờ Gôn... à à Manrô... chúng rất quảng cáo ông ta. Và phim ảnh cũng vậy. Kể ra, thì họ phải ganh đua với ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với Việt Nam, ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc tất nhiên lớn hơn nhiều. Còn bây giờ giới trí thức sáng tác của chúng tôi đang đi theo con đường đúng duy nhất: Xây dựng một nền văn học và nghệ thuật xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức.

Đồng chí Hồ Chí Minh lặng đi trong giây lát, suy nghĩ. 

Sau đó Người nói tiếp: Có điều các bạn chớ hiểu là tôi cho rằng chúng tôi cần phải dứt bỏ văn hóa nào đó, dù là văn hóa Pháp đi nữa. Ngược lại, tôi muốn nói điều khác, nói đến việc phải mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới, mà đặc biệt hiện nay là văn hóa Xôviết chúng tôi thiếu, nhưng đồng thời phải tránh nguy cơ trở thành những kẻ bắt chước. Không thể lấy từ nghệ thuật của dân tộc khác, chỉ riêng mặt nào đó - chẳng hạn, tính ước lệ nổi tiếng của văn học Trung Quốc, cái đó sẽ chẳng hay ho gì. Văn hóa của các dân tộc khác cần phải nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hóa của chính mình. 

... Một lần nữa, Chủ tịch bắt chúng tôi hứa trở về sẽ viết về những điều đã thấy ở Việt Nam: Viết về mọi cái! Nếu các bạn thích cảnh trí lạ, mà các bạn thấy, hãy viết cả về nó, đó cũng là Tổ quốc của chúng tôi...

          Nhà thơ Liên Xô RUF BERSATXKI      

(Lược trích theo sáchNgười là Hồ Chí Minh,Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội,  1995).

Trí thức Sài Gòn giữ vững lời thề

… Tháng 9-1948, trên đường đi công tác ở ngoại ô Sài Gòn, tôi gặp lại anh Huỳnh Tấn Phát. Anh từ nội thành ra để trao đổi tình hình hoạt động của anh em Đảng Dân chủ trong giới trí thức tư sản. Anh nói: Anh chị em Đảng Dân chủ hoạt động tận tụy, có hiệu quả và giới trí thức tư sản thì đa số vẫn giữ vững lời thề độc lập của Thanh niên Tiền phong tại vườn ông Thượng, tháng 8-1945. Hàng chục trí thức cao cấp như tiến sĩ, bác sĩ, nha sĩ Nguyễn Xuân Bái; Michel Văn Vĩ, Phó giám đốc Ngân hàng Pháp - Hoa; dược sĩ Trần Kim Quan; kỹ sư Nguyễn Văn Đức; thương gia Phạm Văn Lạng… đều một lòng ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân, gây ra nỗi thất vọng, phẫn nộ của Pháp và tay sai. Chính vì vậy, bọn tay sai Pháp lên tiếng xỏ xiên, nói họ là những trí thức “trùm chăn”, “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”, ăn lương của Pháp mà nói và làm theo Việt Minh.

 Năm 1949 và 1950, họ đã công khai ký vào 2 bản tuyên ngôn gửi cho Cao ủy Pháp Balalaert và đại tướng Revers - Tổng thanh tra quân đội Pháp ở Đông Dương. Hai bản tuyên ngôn mang hàng trăm chữ ký của trí thức tư sản có uy tín tại Sài Gòn, mạnh dạn lên án cuộc tái chiếm của Pháp và yêu cầu Chính phủ Pháp phải đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh, để lập lại hòa bình. Thái độ “trùm chăn” của họ là bất hợp tác với ngoại xâm, gián tiếp vạch tội bọn ngụy quyền bù nhìn. Thái độ ấy có tác dụng lớn đến tinh thần nhân dân Sài Gòn, đặc biệt là giới trí thức trẻ và các quan chức đàn em của các vị. Các cụ luôn có những cuộc họp bí mật bàn bạc về tình hình đất nước và động viên con em không hợp tác với địch.

 Những khi vùng chiến khu tạm yên ắng thì chúng tôi tổ chức mời các cụ bí mật vào tham quan bưng biền, xem điện ảnh và ca múa kịch, nhạc kháng chiến; thăm Đài phát thanh Tiếng nói Nam Bộ mà hằng đêm các cụ đón nghe tin tức qua giọng trìu mến của hai phát thanh viên. Trong một lần đi như thế, cụ Michel Văn Vĩ vui mừng nói: “Tôi đã được bí mật kết nạp vào Đảng Dân chủ Việt Nam tại Sài Gòn, mang bí danh Huỳnh Đàn”. 

 Trường hợp cụ Nguyễn Xuân Bái cũng khá đặc biệt. Khi Mỹ tìm mọi cách o ép con trai cụ là tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh ra làm Phó Thủ tướng của chính quyền Sài Gòn, thì cụ Bái vẫn xin ý kiến của các đồng chí lãnh đạo kháng chiến. Trong khi giữ chức Phó Thủ tướng, tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh đã kiên quyết không làm gì tổn hại đến cách mạng và dân tộc.

 Sau này, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời, các vị trí thức yêu nước có hành động mà anh chị em gọi là “tốc chăn” trái ngược với “trùm chăn”. Đó là việc thành lập một tổ chức chính trị: “Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình” và cử một đoàn đại biểu vào chiến khu, do cụ Trịnh Đình Thảo đứng đầu. Với sự tham gia của các lực lượng này, Mặt trận thống nhất dân tộc được mở rộng và tăng cường sức mạnh đoàn kết. Bên cạnh lực lượng công - nông - trí thức hùng hậu lại có lực lượng trí thức tư sản điền chủ yêu nước thuộc nhiều xu hướng khác nhau.

 Chỉ có dưới ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh - tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc ta mới thực hiện được sự đại đoàn kết rộng rãi như thế.

 Giới sử học nước ngoài coi hiện tượng “trùm chăn” và “tốc chăn” của lớp người tiêu biểu cho giới thượng lưu Sài Gòn là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử.

 (Lược trích theo sáchMãi mãi đi theo con đường của Bác Hồ, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1999).

 Huyền Trang (tổng hợp)


 

Những câu chuyện kể về tình cảm, sự quan tâm của

Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ

Việt Nam và quốc tế (Phần 4)

 Kỷ niệm với Cụ Hồ

30-4-1947.Sáng mai dậy, tập thể thao, cuốc đất làm vườn rau và tắm suối. Trong người khoẻ quá. Ở đây khí hậu hình như tốt, mỗi lần đi về, nghỉ vài hôm lại thấy khoẻ người và sung sức lại. Ham làm việc và ăn ngủ ngon.

Ăn cơm xong, 10 giờ cùng với Tiến1đi ra Minh Khai để tìm người liên lạc đưa đến địa điểm Hội đồng Chính phủ.

 Phải đi non mười cây số mới đến địa điểm. Gặp các ông Bộ trưởng và Thứ trưởng cùng cụ Bùi2đã nằm chờ sẵn ở đây. Mừng rỡ quá, trong rừng sâu, mỗi người chiếm một góc núi, nay gặp nhau chung một chỗ, ai nấy đều tỏ sự vui mừng. Có đôi người phải đi chừng 20 hay 30 cây số mới đến và phải đi từ hôm qua.

 Gần tối, trong lúc chúng mình đang ăn cơm, thì Hồ Chủ tịch đến trong bộ quần áo bí mật của Cụ. Lần này thì Cụ lưng mang một gùi, vai mang súng, người mặc bộ quần áo nâu, đội mũ như bộ đội, mặt che đậy hết nửa, mới trông như người đi săn trong rừng sâu, không ai tài nào nhận ra được. Bắt tay vui vẻ tất cả mọi người, rồi giản dị hơn ai hết, Cụ bảo lấy thêm một chén một đũa để Cụ cùng ngồi ăn chung trong lúc mâm cơm đã gần tàn. Chúng mình nhiều người ngồi nán lại để kéo dài bữa cơm và tiếp chuyện với Cụ. Cụ và hai người phục vụ phải đi hàng mấy chục cây số mới đến đây. Có lẽ Cụ đi mất hàng ngày đường.

 7 giờ bắt đầu hội đồng. Ai nấy ngồi xếp vây quanh mấy chiếc chiếu trải dài. Giữa để mấy ngọn đèn dầu, chúng mình có cảm tưởng như ngồi trong một sòng xóc đĩa. Ai nấy nhìn nhau cười, Cụ cũng cười.

 Hội đồng hôm nay có hai tin buồn: Cái chết của Cụ Huỳnh3và Nam4.

 Cụ nói qua lịch sử chiến đấu của hai chiến sĩ trong Chính phủ sau khi tất cả đều đứng mặc niệm một phút. Mọi người đều cảm động trước cái chết đau thương của hai người trong lúc quốc dân đương cần nhân tài để đảm đương việc nước. Cụ Chủ tịch nói với một giọng rất đau đớn như Cụ đã mất một người anh và một người con.

 Sau đó, Cụ báo cáo tình hình chính trị chung ngoài nước và trong nước. 

Thủ tướng Chính phủ Nam Dương quần đảo5có gửi điện cho Cụ hoan nghênh tinh thần chiến đấu của dân tộc Việt Nam, tỏ thiện cảm đối với ta và yêu cầu trao đổi giữa Chính phủ ta và Nam Dương đại biểu chính thức để nối sự bang giao giữa hai nước. Chính phủ đồng ý và đã cử Phạm Ngọc Thạch.

 Đại biểu Hồng thập tự quốc tế đã gặp đại biểu Hồng thập tự ta là Tôn Thất Tùng hai lần và hình như lãnh sự hai nước Anh và Mỹ tỏ ý chờ đợi ngoại giao ta để trao mật thơ gì nhưng không gặp, họ có ý mong chờ lần khác. Cụ phái Giám6gặp họ lần này và đồng ý gặp đại biểu Hồng thập tự quốc tế vì họ tha thiết yêu cầu gặp Cụ nhưng Cụ không tiếp được.

 Theo quyết nghị chung, mỗi người cần nghĩ kỹ vấn đề sẽ thương lượng với Pháp. Viết ra rồi gửi cho Cụ trước kỳ Hội đồng sau, định vào ngày 15-5.

 Cử người thay cụ Huỳnh và Nam, Hội đồng đã chuẩn y cử ông Tôn Đức Thắng và Trần Duy Hưng.

 Có vài người đề cử chính mình đảm đương Bộ Nội vụ, nhưng Bộ Tài chính lúc này phải đảm đương nhiều việc quan hệ quá, chúng mình khó dời Bộ ấy cho ai trong lúc này.

 Ngoài ra có một ít vấn đề lặt vặt, rồi đến báo cáo về quốc phòng của Giáp7.

 Bộ Tài chính kỳ này phải làm mấy việc: Kiểm điểm công việc của Thuế quan Bắc Cạn, thu thuế rẫy cho Mán và định lại phụ cấp chức vụ cho các nhân viên mới.

 Đến 3 giờ khuya, Cụ cho ăn cháo gà như mọi lần khác từ ngày Chính phủ phải họp ban đêm. Tất cả đều phải ngủ lại, mai sáng mới ai về góc núi ấy.

 Phác thảo thư gửi cho Hội Phụ nữ:

 Tin cho các chị biết, Cụ già chúng ta mạnh khoẻ hơn hết. Nói đến chuyện cải trang của Cụ thì rất thần tình. Đố ai biết là ai? Nhiều lúc chúng tôi ngồi với nhau trong một địa điểm giữa rừng, đương tụm năm tụm ba tán chuyện thì thào với nhau để chờ Cụ thì đột nhiên một người đi săn ở đâu lại, đeo súng, mang ba lô cẩn thận, đội mũ tròn theo kiểu nhà binh, bộ râu che kín, chẳng ai nhìn ai, thì ra Cụ đã đến, cười và bắt tay từng người một. Các chị có tưởng tượng sức dẻo dai của Cụ! Đi bộ hàng hai ba chục cây số, khi xe hơi bị sa lầy, nai lưng xuống đẩy như tất cả mọi người. Thế đủ biết. Dầu sao, mấy cái răng khuyết của Cụ cũng là một đặc điểm đặc biệt, khiến cứ mỗi lần Cụ cười người ta cứ tưởng nhớ đến bao nhiêu khổ hạnh của Cụ, bao nhiêu lần lăn lóc trên trường chiến đấu, mà ngày nay một làn nhăn trên trán, một răng khuyết là một tiêu biểu hùng hồn.

 Kể các chị nghe một vài công việc làm của Cụ về sau này nhé. Công việc chung thì nhiều lắm, nhưng đặc biệt và có lẽ người ta thích nhất là những lời tuyên bố trên báo của Cụ về cái chết của Guffet8và Debe9kẻ thù số một của dân Việt Nam. Người ta phê bình bài văn của Khổng Minh tế Chu Du ngày xưa cũng không khôn khéo và “cay” bằng, các chị đã xem bài ấy chưa? Tìm mà xem.

 Một nhân vật đem biếu Cụ một cây baton làm bằng xương rắn. Khớp xương rắn tự nhiên xếp thành hình nhiều chữ “nhân” chắp lại. Một phiên Hội đồng Chính phủ, Cụ đem tặng cụ Bùi cây baton quý báu ấy với câu nói vừa giản dị vừa ý nghĩa: “Khi đỡ tay tới cây gậy này, cụ sẽ luôn luôn nghĩ đến nhân dân”. Các chị xem, khéo léo và ngộ nghĩnh biết bao nhiêu! Sau khi nhận cây gậy ấy chắc cụ Bùi, mặc dầu đau yếu và tật bệnh, không bao giờ nghĩ đến sự ngần ngại trong bước đường chiến đấu gian lao này.

Nhưng còn đối với chúng tôi, thì chẳng bao giờ Cụ tặng cho cái gì cả. May ra thỉnh thoảng Cụ thết một bữa cháo gà sau khi thức một đêm sáng trắng khi họp Hội đồng Chính phủ.

 Còn nhiều việc nhưng hãy tạm gác để kỳ sau.

 Tôi vẫn được mạnh và luôn vui sướng với cảnh núi rừng. Đêm nào cũng nghe thấy tiếng hươu nai. Thú vị chán.

Vẫn cứ còn thì giờ để nhìn trăng và nhìn mây.

 Mỗi lần thấy chim bay về Nam lại tưởng tượng, hình như miền Nam đối với chúng tôi có gì quyến luyến lạ.

 Chào các chị và chúc các chị mạnh và cố mà “tự túc”.

 7-2-1948.

 Hôm nay nhằm ngày 28 Tết.

 … Chúng mình, sau khi leo bao nhiêu đèo, qua bao nhiêu suối, mới đến chỗ ở của Cụ. Tại đây đã sẵn có các anh Nhân, Thọ, Hai, Việt, Cù Vân. Cụ vẫn khoẻ mạnh và tiếp chúng mình với bao niềm nở, vui vẻ. Vì trời hôm nay mưa to, đường sá lầy lội, gần tối chúng mình mới đến, một bếp lửa đỏ sẵn sàng để chúng mình sưởi cho đỡ rét. Cuộc họp hôm nay cũng đến 20 người, văn có, võ có, kể cũng vui. Trước khi ngồi vào tiệc, Hồ Chủ tịch đưa một ít vấn đề để anh em có mặt tham gia ý kiến, và giải quyết, rồi công việc ai người ấy làm.

 Bữa cơm thân mật, đoàn kết trong rừng của Hồ Chủ tịch thết đãi trong dịp Tết, thanh đạm mà mặn mà, một quang cảnh Tết trong lúc súng nổ bốn phương, ngồi vào tiệc chúng mình cảm thấy bao nhiêu thú vị. Câu chuyện, tiếng cười kéo dài mãi đến 8-9 giờ tối mới xong. Rồi một số từ giã ra về, còn số khác ở lại nghỉ đợi qua ngày mai. Chúng mình và ít anh nữa tiếp tục chuyện trò với Hồ Chủ tịch đến về khuya mới đi nghỉ. Cụ kể chuyện lúc ở Tầu, khi ở châu Âu, những ngày bị đế quốc Anh, Pháp bắt giam chỗ này chỗ kia với một vài câu chuyện Tết ở đất khách quê người. Cụ đã cho chúng mình một ít kinh nghiệm trong đời vận động bí mật ở ngoại quốc…

… 

10-2-1948- ATK. Mồng một Tết.

 Từ 4 giờ khuya, sau khi nghe một hồi trống, dân chúng quanh vùng đều la ó vang, những tiếng đi cầy, đi cuốc, đi đốn cây, chặt lá, v.v. và v.v. cả những việc làm hằng ngày đều đem ra nói lên, hình như cảnh cáo với năm mới!... Lúc đó chúng mình nghe không hiểu là việc gì. Thậm chí nghe những tiếng “chạy máy bay, chạy máy bay” inh ỏi… Sau hỏi các vị phụ lão mới biết là theo tục lệ dân phải nói ra như thế để khỏi phải kiêng cữ gì nữa. Qua đầu năm ai làm gì thì làm, không phải lo chọn ngày, chọn giờ gì nữa. Phong tục kể cũng lạ.

 Sáng mồng một Tết, ăn sáng xong, các anh Cả, Lê, Hưng, Mỹ, Dần và mình lên ngựa đi thăm cụ Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn và cụ Vi Văn Định. Một bầy ngựa rong ruổi trong cảnh rừng núi, qua đèo, qua suối, qua bao nhiêu trạm liên lạc, đến nơi vào khoảng 12 giờ trưa.

 Trong một gian nhà lá, bốn phía che rất kín cây lá um tùm, cụ Bùi và cụ Vi tiếp chúng mình trong lúc các cụ đương giữa bữa bánh chưng, giò chả. Vui mừng quá, các cụ không ngờ chúng mình băng ngàn băng suối đến thăm các cụ, trong quang cảnh ấy. Anh Tạo, đại biểu Quốc hội Nam Bộ, Hưng đại biểu Bắc Bộ, chúng mình là đại biểu Trung Bộ, anh Cả đại biểu Tổng bộ Việt Minh và Liên Việt, Mỹ văn phòng Cụ Chủ tịch và Lê công an Việt Nam, kể ra cuộc đi thăm cũng có vẻ long trọng lắm.

Cùng hai cụ ra chụp ảnh làm kỷ niệm. Sau khi uống vài cốc nước và ăn mứt của các cụ đãi, chúng mình mời cụ Vi ra dạy cho một ít kinh nghiệm về việc cưỡi ngựa và nuôi ngựa. Cụ Vi thật là người rất sành về môn ấy.

 2 giờ mới từ giã các cụ ra đi.

Theo chương trình đã định trước, từ 12 giờ trưa đến thăm cụ Phan Kế Toại tại Bộ Nội vụ, nhưng vì không rõ  đường và tính sai nên mãi đến 3 giờ mới đến Bộ Nội vụ.

Một cảnh tượng làm cho chúng mình ngạc nhiên là khi gần đến cơ quan, một tiếng súng nổ báo hiệu rồi tiếng đì đùng nổ ran liên tiếp, giống hệt như tiếng pháo. Một cổng chào đã dựng sẵn cách cơ quan 50 thước, ông Phạm Khắc Hoè, Đổng lý văn phòng ra đón chúng mình. Vào cơ quan gặp cụ Phan và các nhân viên đông đúc, thanh niên nam nữ đủ mặt, vây quanh chúng mình giữa mấy đống lớn đốt cháy bừng bừng và tiếng nứa nổ làm chúng mình đã tưởng là tiếng pháo. Quang cảnh thật là “Tết” trăm phần trăm. 

Một phòng tiếp khách cũng trang hoàng sẵn sàng, rất nhiều cành hoa đặt dưới ngọn cờ đỏ sao vàng bao phủ ảnh của Hồ Chủ tịch. Anh Hoè đọc bài thơ chúc Tết, có rót rượu, có dâng hoa. Chúng mình hai Bộ trưởng và đại biểu Tổng bộ Việt Minh, mỗi người được tặng một bó hoa mào gà tươi thắm, rồi một bài thơ có câu hát “Tiến quân ca” tất cả mọi người đều đứng dậy cất giọng hát bài “Quốc ca”. Kể cũng tinh thần lắm!

Chén rượu vang, vài miếng bánh chưng, mứt, trà, kể cũng khá đầy đủ…

Quang cảnh trong bữa tiệc vừa vui vừa có ý nghĩa, vì anh em công an luôn luôn dùng tên các cuộc chiến thắng của bộ đội ta như “Sông Lô”, “Bông Lau” để tặng nhau. Giữa bữa tiệc, bài hát đưa ra khi hùng hồn, khi du dương uyển chuyển. Anh em có nói chúc mừng chúng mình và nhờ đưa lời chúc lên Hồ Chủ tịch và Chính phủ… 

1. Tên một cán bộ trợ lý của đồng chí Lê Văn Hiến.

2. Bùi Bằng Đoàn. 

3. Huỳnh Thúc Kháng. 

4. Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ. 

5. Nay là Inđônêxia (BT).

6. Hoàng Minh Giám. 

7. Võ Nguyên Giáp.

8. Guffet: Tướng Pháp. 

9. Debe: Đại tá Pháp.

(Lược trích theo sáchMãi mãi đi theo con đường của Bác Hồ, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 1999).

Bốn mươi ngày cùng về với Bác

… Mùa Thu năm 1946, tôi và ba đồng chí nữa được vinh dự theo Bác về nước trên chiếc tàu Đumông Đuyếcvin, một chiếc tàu chiến của hải quân Pháp. Bốn mươi ngày lênh đênh trên mặt biển, được sống thân mật, gần  gũi Bác, đã để lại trong tâm trí tôi nhiều kỷ niệm sâu sắc. Rất tiếc rằng lúc bấy giờ tôi không ghi nhật ký và đến nay đã hai mươi năm rồi, thời gian và trí nhớ không cho phép cho tôi ôn lại đầy đủ, chi tiết những sự việc cụ thể trong những ngày được sống gần Bác.

Tuy nhiên, đối với tôi, bốn mươi ngày đi theo Bác là cả một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời, là một trường đại học lớn của tôi.

Lúc ở bên Pháp, tôi chỉ là một kỹ sư yêu nghề hàng ngày mải mê với học tập, nghiên cứu, hiểu biết rất ít về phong trào cách mạng trong nước (thực ra có một phần bởi chính sách lừa bịp của thực dân đế quốc). Tôi có biết về Bác qua quyển:Bản án chế độ thực dân Pháp (Le procès de la colonisation fran-caise)của Bác và những mẩu chuyện ngắn về Bác do các cụ cùng thời với Bác kể lại, còn cả cuộc đời dài hoạt động của Bác ở nước khác, tôi hầu như không biết mấy. Những ngày đi theo Bác, tôi mới hiểu biết thêm về Bác, người đã dắt dẫn, rèn luyện và đào tạo tôi trở thành người trí thức chân chính, người cán bộ cách mạng.

Trên chuyến xe lửa từ Pari đi Mácxây, chuẩn bị lên tàu. Bác nói với chúng tôi: Nước ta còn nghèo vì tám mươi năm bị đế quốc bóc lột, chiếm đóng. Đồng bào Nam Bộ giờ đây còn đổ máu. Chúng ta còn gian khổ chiến đấu nhiều, chứ chưa được sung sướng ngay đâu. Các chú về nước chính là để phục vụ Tổ quốc, phục vụ đồng bào... Lời nói ngắn ngủi và cảm động đó như mãi mãi khắc ghi trong lòng tôi.

Lên tàu, chúng tôi chung sống với Bác thân mật, ấm cúng như trong một gia đình mà Bác vừa là người cha, vừa là người phụ trách hướng dẫn các buổi sinh hoạt của chúng tôi. Đều đặn mỗi ngày ba buổi: Sáng, chiều, tối, chúng tôi hội họp quây quần bên cạnh Bác, nghe Bác kể chuyện về tình hình thế giới, tình hình cách mạng trong nước, nhất là từ năm 1940 đến ngày Cách mạng Tháng Tám thắng lợi.

Chúng tôi chăm chú theo dõi từng lời, từng ý và đề ra những thắc mắc của mình, Bác lại nêu lên để cho chúng tôi trao đổi thảo luận và cuối cùng Bác nhận xét, phân tích, giải đáp. Các buổi sinh hoạt nhẹ nhàng, thoả mái, với lời lẽ đơn giản dễ hiểu của Bác là những buổi giáo dục thật là sinh động và có sức hấp dẫn lạ thường. Bác đi từ sự việc nhỏ đến lớn, từ nhận thức lý luận liên hệ đến thực tiễn, từ tình hình thế giới dắt dẫn chúng tôi về với cách mạng trong nước, về với nhiệm vụ cụ thể của mình.

Trên đường về nước, tàu chúng tôi đi ven theo địa giới các nước Châu Âu, Châu Phi, Châu Á. Cứ mỗi lần qua một nước là Bác vừa chỉ, vừa kể cho chúng tôi biết tình hình cụ thể của mỗi nước đó. Khi tàu ghé lại một vài bến cảng ở châu Phi, Bác bảo chúng tôi chú ý xem xét, quan sát cuộc sống lao động vất vả đầy kham khổ của nhân dân các nước dưới chính sách thực dân hà khắc của đế quốc Pháp, đế quốc Anh. Những lời giáo dục của Bác kết hợp với những hiện tượng cụ thể, những điều tai nghe mắt thấy đã có tác dụng nâng cao nhận thức của chúng tôi về lịch sử phát triển của cách mạng thế giới và trong nước, đã dẫn dắt chúng tôi nhìn thấy rõ ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Đặc biệt đối với chúng tôi là những trí thức ở nước ngoài mới về, sắp sửa bước vào cuộc đấu tranh gian khổ, Bác chú ý đi sâu vào tâm tình, khơi gợi lòng yêu nước, củng cố niềm tin ở bản thân, tin ở tập thể, ở cách mạng nhất định thắng lợi. Bác nói với chúng tôi: Ở nhà không có gì đâu, nước ta thiếu máy móc, nguyên liệu, thiếu cả thợ lành nghề, tiền của ta lại ít. Song, nước ta giàu về rừng núi, sông biển, đồng bào ta giàu về quyết tâm, dũng cảm và sáng tạo. Các chú về phải chịu thương chịu khó làm ăn, đưa những cái đã học ở nước ngoài về áp dụng thiết thực vào trong nước, giúp đỡ và hướng dẫn anh em trong nước cùng làm. Như vậy các chú có làm được không?

Lời nói thân yêu của Bác đã cảm hoá và chinh phục trái tim của chúng tôi.

Đối với chúng tôi, đối với quần chúng thì Bác hết lòng tin yêu, nhưng đối với sức mạnh của kẻ thù thì Bác tỏ ra không hề nao núng. Tôi còn nhớ lúc đi tàu, thỉnh thoảng có những hôm, tên đại tá chỉ huy tàu tổ chức các cuộc tập trận. Giữa biển cả mênh mông, tiếng súng đại bác, súng phòng không, súng máy các loại thi đua nhau gầm thét, khói mịt mù, nước biển tung toé ngoài khơi xa. Thoạt tiên trong chúng tôi cũng có những người hồi hộp, nhưng riêng Bác vẫn điềm nhiên, ung dung hút thuốc lá, đứng nhìn xem và mỉm cười bảo chúng tôi: Đấy, người ta thử kiểm tra tinh thần các chú. Các chú sợ không?

Nhân đó, Bác chỉ cho chúng tôi thấy: Bọn đế quốc thường hay phô trương, khoe khoang về sức mạnh vật chất, còn nhân dân cách mạng tuy nghèo, nhưng hàng triệu người đoàn kết thành một khối, có tinh thần dũng cảm và mưu trí, nhất định đánh bại được bọn chúng. Lòng Bác mênh mông như biển cả, âu yếm như mẹ hiền, Bác luôn ân cần chăm sóc chúng tôi. Buổi sáng, Bác đánh thức chúng tôi dậy, nhắc nhở việc thu xếp trật tự, hành lý gọn gàng.

Ngoài những buổi sinh hoạt, Bác đôn đốc chúng tôi tranh thủ đi sát anh em thủy thủ, gây cảm tình với quần chúng. Đây là một vấn đề khó khăn cho tôi trong buổi đầu. Tôi chưa quen công tác vận động quần chúng, hơn nữa phải gần gũi những người lính nước ngoài thì lại càng phức tạp, lúng túng hơn. Tôi báo cáo xin ý kiến Bác.

 Bác vui vẻ ân cần chỉ dẫn cách thức làm quen, đi sát anh em thủy thủ, phương pháp đi từ thăm hỏi tình hình sức khoẻ, gia đình, công việc làm ăn, đời sống đến việc khơi gợi lòng yêu nước, tính dân tộc, rồi tiến đến gây cảm tình của họ đối với nhân dân ta. Đối với Bác, công tác vận động quần chúng trở thành quen thuộc và tự nhiên. Đến bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, ở khách sạn, ở trên xe lửa, tàu thủy, nhà ga,... từ em bé, cụ già, người gác cổng đến những người trí thức, quan chức khác, Bác cũng có thể gần gũi, bắt tay, trò chuyện lịch thiệp.

 Một món quà nhỏ, một bó hoa người ta biếu Bác, Bác cũng vui vẻ đem phân chia, thân mật tặng lại cho các cụ già, các em thiếu nhi Pháp. Những cử chỉ chân thành và mến thương của Bác đã làm cho anh em thuỷ thủ thật lòng kính yêu Bác như cha. Họ nói: Chúng tôi đã đi khắp nơi, nhưng chưa thấy được một vị lãnh đạo có đạo đức lớn lao như vậy. Trong khi đó thì bọn chỉ huy trên tàu lại run sợ, lo lắng, lúng túng nhưng không tìm ra được cách đối phó.

 Cuộc đời đấu tranh không mệt mỏi, toàn tâm toàn ý vì dân, vì nước của Bác đã chung đúc mọi tinh hoa phong phú của dân tộc, từ lời ăn tiếng nói đến đạo đức của con người. Tôi đã học qua một số trường đại học, tôi đã có dịp tiếp xúc làm việc với một số giáo sư nổi tiếng, nhưng tôi chưa bao giờ được gặp một người thầy vĩ đại, có một hiểu biết rộng rãi, uyên thâm, có một phương pháp giảng dạy dễ hiểu, sâu sắc như Bác.

 Tàu Đumông Đuyếcvin là một chiếc tàu chiến đã cũ, chạy lừ đừ chậm chạp. Lúc bấy giờ, tình hình ở nước nhà đang căng thẳng, ai nấy đều sốt ruột mong về sớm, nhưng giờ đây nghĩ lại, đối với chúng tôi, đó là một dịp may hiếm có để được kéo dài những ngày chung sống với Bác.

 Ngày 20-10-1946, tàu cập bến Hải Phòng. Cán bộ và nhân dân khắp nơi nô nức, vui mừng đón Bác. Lòng tôi tràn ngập niềm vui sướng và cảm động khi trở lại đặt chân lên mảnh đất của Tổ quốc thân yêu. Đất nước giờ đây đã đổi mới. Nhân dân lao động đang hưởng một cuộc đời độc lập, tự do. Không còn những cảnh lầm than nô lệ, bị áp bức như trước kia nữa. Giờ đây, tôi trở về với Tổ quốc, cùng đi với Bác, được chứng kiến cuộc đón rước nồng hậu của đồng bào ruột thịt.

Tôi suy nghĩ phải làm gì để đền đáp lại niềm vinh dự to lớn mà Bác và nhân dân đã dành cho chúng tôi. Sáng hôm sau, tôi đến gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp. Mới bắt tay, đồng chí đã nói với tôi một câu ngắn ngủi và cảm động: Ở nhà chờ đợi anh, rất mừng là được tin anh về cùng với Bác.

Trước đôi mắt sáng và kiên nghị của đồng chí, tôi băn khoăn lo lắng trước nhiệm vụ nặng nề sẽ phải đảm nhiệm. Nhưng nhớ những lời dạy bảo, động viên của Bác lúc ở trên tàu, tôi thấy tự tin ở mình, ở tập thể và tôi đã đáp lời đồng chí: Cảm ơn anh tin tưởng. Tôi sẽ cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng…

 Về đến nhà chẳng được bao lâu thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Bác giao cho tôi phụ trách công tác trong ngành quân giới. Bác bảo tôi: “Đây là một nhiệm vụ quan trọng và nặng nề. Chú cố gắng cộng tác với anh em, ra sức xây dựng ngành quân giới, phục vụ cho bộ đội. Đó là một việc có ý nghĩa rất lớn đối với dân, với nước”. Và cũng từ đó, tôi mang tên là Trần Đại Nghĩa.

 Bắt tay vào nhiệm vụ, tôi càng thấy thấm thía hơn những lời dạy của Bác.

Ngày đầu kháng chiến, những khó khăn dồn dập đến. Các cơ sở phải rút vào rừng núi: Máy móc, nguyên liệu chưa có bao nhiêu. Tất cả phải dựa vào sức mình.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác: “Thà chết chứ không trở lại cuộc đời nô lệ! Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!”, nhân dân ta muôn người như một, đứng dậy chống quân thù. Chí căm thù sâu sắc và sức mạnh vĩ đại của quần chúng dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, của Bác đã động viên, giúp đỡ chúng tôi vượt qua mọi khó khăn, thiếu thốn. Tôi cùng anh em say sưa nghiên cứu, sản xuất và đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân ngành quân giới.

 Hình ảnh hy sinh chiến đấu của anh em bộ đội ngoài chiến trường, của anh Ngô Gia Khảm và các đồng chí khác càng như thúc giục tôi quyết tâm đem hết sức mình cải tiến các bản vẽ, tính toán các số liệu, tiến hành nghiên cứu thiết kế các loại vũ khí thích hợp ở chiến trường trong từng giai đoạn. Nhớ lời Bác, bên cạnh công tác nghiên cứu, tôi không quên việc giúp đỡ, hướng dẫn anh em trong ngành những hiểu biết cần thiết về lý luận như: lý thuyết về pháo binh, về hoá chất, về tính năng vũ khí, cách sử dụng, sửa chữa, bảo quản. Ngày đêm, tôi miệt mài trong công tác, mải mê với con tính, với bản vẽ, có khi quên cả một số sinh hoạt cần thiết như ăn, ngủ, tắm, cắt tóc,... và tại Đại hội liên hoan Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, tôi được Bác tuyên dương công trạng và tập thể bầu là Anh hùng Lao động.

 Vinh dự to lớn đó thuộc về anh em cán bộ công nhân ngành quân giới, thuộc về nhân dân lao động, trong đó tôi nhờ sự chỉ bảo dìu dắt của Bác, đã đóng góp một phần. 

 Những lời dạy của Bác như một bức cẩm nang quyết định mọi thắng lợi trong công tác của tôi.

 (Lược trích theo sáchChúng ta có Bác Hồ, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 1999).

Mỗi lời nói của Bác là một bài học rất mới

            Người phụ trách kiểm duyệt sách báo trong vài ngày đầu sau khi ta giành chính quyền là đồng chí Như Phong. Nhưng vì anh Phong rất bận công tác biên tập báo Cứu quốc, cho nên tôi thay. Tôi không biết sử dụng nhân viên kiểm duyệt cũ thế nào, vì chưa từng làm lãnh đạo nên tất cả các việc, một mình tôi cáng hết. 

Một hôm, tôi nhận được điện thoại gọi tôi sang bên Cụ, trình với Cụ về công tác kiểm duyệt (Cụ là tiếng ngày ấy ta gọi Bác Hồ). Tôi vừa mừng vừa lo. Hôm sau, tôi ăn mặc thật chỉnh tề, sang bên Phủ Chủ tịch. Lâu ngày rồi, vì 25 năm đã trôi qua, tôi không nhớ tất cả và nhớ từng câu Bác hỏi, từng lời tôi thưa. Nhưng có nhiều câu Bác nói thì chắc rằng không bao giờ tôi quên. Vì nó là những bài học làm người, những bài học rất mới. Mới là vì không có gì là cao xa.

 Nói đến công việc của tôi hàng ngày, Bác khen tôi chịu khó, một mình mà cáng được cả công việc của hơn hai chục người. Tôi đương tủm tỉm vì được Bác khen, thì Bác bảo: Sao không chia việc cho người ta làm? Không ai là người vô dụng đâu. Mình làm cho họ thành vô dụng, thì nhàn cư, họ sẽ vi bất thiện đấy.

 Bác hỏi tôi, mỗi ngày đọc năm báo hàng ngày và một ít bài của hàng tuần, thì có đọc kỹ không? Còn ai dám nói với Bác là đọc kỹ! Tôi đáp chắc còn nhiều thiếu sót lắm. Bác lại hỏi:

 - Có đọc quảng cáo không?

 - Thưa không ạ.

 Bác lắc đầu:

 - Phải đọc hết.

 Đến lề lối làm việc của tôi, tức là đọc các bản in rập, thấy có chữ nào, câu nào hại cho đường lối chính trị, thì xoá đi và ký tên ở cạnh, Bác ân cần căn dặn tôi: Kiểm duyệt với báo chí phải thân với nhau. Người ta đã đặt hết tâm trí mới viết ra bài, cũng như đẻ được một đứa con. Nay mình thấy cái mặt, cái tay đứa bé có vết hoặc có ghẻ, thì mình phải bảo người ta chữa, và chữa như thế nào. Chính quyền là của nhân dân, cơ quan ngôn luận cũng là của nhân dân. Chính quyền phải giúp ngôn luận tiến bộ. Chú phải gần gũi các báo để hướng dẫn họ.

 Tôi nghĩ, rồi thưa thật rằng việc này khó quá. Tôi không gặp người viết bao giờ. Và cũng vì bận quá nên không thể gặp gỡ riêng ai được. Và một lo ngại nữa là tôi sợ trình độ của tôi kém quá, không thể làm nổi.

 Nghe thấy vậy, Bác mở từng tờ báo để ở trên bàn. Tôi thấy nhiều bài và cả quảng cáo nữa, có những nét gạch bằng bút chì xanh và bút chì đỏ. Bác bảo gạch bằng bút chì xanh là lỗi về chính trị, gạch đỏ là lỗi về chữ nghĩa, ví dụ lỗi chính tả, lỗi mẹo luật, lỗi đặt câu, ý ngắn mà lời quá dài, văn cầu kỳ không đúng chỗ, hoặc có chữ khó hiểu.

 Bác lấy tờ Quốc gia làm thí dụ. Tôi thấy nhiều gạch xanh đỏ quá. Tôi nói:

 - Thưa Cụ, cháu ngại nhất là phải đọc tờ này, vì bài kém, in cũng kém.

 - Thế mới càng phải đọc chứ.

 Câu nói làm tôi sửng sốt.

 Những ngày này, đất nước ta vừa phải chịu những sóng gió từ bên ngoài vừa phải lo diệt giặc đói, diệt giặc dốt ở trong nước. Bác là người đứng mũi chịu sào trước cơn phong ba bão táp này, Bác để thì giờ nào mà đọc tất cả các báo, lại đọc kỹ hơn cả tôi là người có nhiệm vụ phải đọc, để Bác chú ý không những đến lầm lỗi về chính trị, mà cả đến lầm lỗi về câu, về chữ?

 Nghe Bác nói về câu và chữ, tôi càng phải suy nghĩ. Bác ở nước ngoài mấy chục năm, đã từng viết bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, thế mà sao Bác không quên tiếng mẹ đẻ, còn thạo hơn cả những người chỉ ở trong nước và sinh nhai bằng chữ nghĩa của nhà.

 Sau hôm đó, cứ hàng tháng, Bác lại triệu tập chúng tôi một lần vào Phủ Chủ tịch. Ngoài đường lối chính trị, Bác luôn luôn khuyên chúng tôi phải viết cho dễ hiểu. Bác bảo viết để người kém hiểu được hãy nên viết. Phải viết ngắn, gọn. Trong một tờ báo, bài ngắn bao giờ cũng được đọc trước tiên.

 Một lần, trái với thường lệ, Bác không triệu tập chúng tôi vào ngày làm việc, buổi chiều, mà lại vào ngày chủ nhật, buổi sáng? Thì ra Bác định cho chúng tôi ăn sáng với Bác. Buổi ấy, Bác vui lắm. Đối với báo Cứu quốc là báo của Mặt trận, và nhất là đối với anh kiểm duyệt, thay mặt chính quyền, không những Bác không nghiêm như những lần trước, mà Bác còn cho hai người này ăn thêm nửa chiếc bánh của Bác. Bác bảo không phải Bác thiên vị, mà là Bác đền cho hai chú vẫn bị Bác phê bình gay gắt.

 Giữa lúc chúng tôi đương cười vui, thì Bác hỏi tới báo Quốc gia và cầm cốc cà phê của Bác, sẻ cho anh ta một phần:

 - Thưởng cho chú để chú cố gắng!

 Câu nói toát ra tấm lòng thương mênh mông vô hạn đối với một người còn yếu kém về trình độ.

 ... Mỗi lần được họp với Bác, chúng tôi đều thấy sáng về chính trị và lớn dần về nghề, cả nghề viết báo lẫn nghề viết văn. Mỗi lời nói của Bác là một bài học rất mới…

 (Lược trích theo sáchNgười là Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995).

Giờ phút thấy mình hạnh phúc nhất 

… Tính lại trên năm chục năm trong nghề, tôi cũng được nhiều lần sung sướng đến rớm nước mắt. Nhớ nhất là lần chúng tôi lặn lội lên Tây Nguyên diễn cho cả ngàn bộ đội xem tuồngChị Ngộcủa Nguyễn Lai trước khi hạ đồn Măng Đen. Tôi trong vai ông Bằng, bà Liễu trong vai chị Ngộ. Cứ mỗi lớp chúng tôi bước ra sân khấu là toàn thể bộ đội vỗ tay như sấm dậy rồi lại hô vang như tiếng gào thét của núi rừng: Hãy trả thù cho chị Ngộ!... Còn lần nữa, đó là lần được diễn cho Bác Hồ và các đồng chí Trung ương xem.

 Tôi không ngờ cái nghề diễn tuồng mà trước kia bị xem là “xướng ca vô loài” lại được Bác Hồ và các đồng chí Trung ương ngồi xem trân trọng đến thế. Ngày còn ở miền Nam, tôi chỉ ước ao được nhìn thấy Bác là thỏa nguyện lắm rồi. Ấy thế mà bữa đó, Bác còn bước lên sân khấu bắt tay anh chị em chúng tôi, lại ân cần dặn dò:

 - Nghệ thuật của cha ông để lại hay lắm, tốt lắm! Phải giữ gìn cho được. Nhưng chớ có gieo vừng ra ngô!

 Ngoài những lần đó ra, điều làm cho chúng tôi sung sướng nhất là nhờ sự dìu dắt của Đảng chúng tôi đã làm cho nhân dân yêu thích tuồng và quý trọng nó...

(Lược trích theo sáchBác Hồ với văn nghệ sĩ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1995).

Cây đàn của Bác

Hội trường Câu lạc bộ Quân đội chưa hôm nào đông người đến dự như hôm ấy. Chúng tôi sắp mở màn một chương trình đặc biệt để chào mừng Đoàn văn công quân đội Liên Xô sang thăm nước ta. Thực ra thì chương trình biểu diễn của chúng tôi cũng không có gì mới so với những đêm biểu diễn gần đây. Nhưng cái mới lại ở phía khán giả: lần đầu tiên từ sau hoà bình lập lại, một đoàn nghệ thuật nước bạn đến thăm ta. Tâm lý chung của chúng tôi, cả diễn viên lẫn khán giả quân đội đều muốn biết các đồng chí bạn đánh giá, hưởng ứng nền nghệ thuật dân tộc còn non trẻ của ta như thế nào.

 Riêng tôi, tôi rất hồi hộp. Tuy tôi đã biết đàn từ hai chục năm nay, ba tôi dạy tôi đàn từ năm lên 10 tuổi, năm tôi 15 tuổi đã biết cắp đàn đi kiếm cơm thiên hạ, nhưng từ khi mất một cánh tay, tập đàn ghi ta bằng một tay đến giờ, tôi chưa tham gia buổi biểu diễn nào quan trọng như buổi này.

 Sau buổi diễn, tôi chưa kịp đứng dậy chào thì một tràng vỗ tay đã rộ lên, nhất là ở hàng ghế các đồng chí bạn. Tiếng vỗ tay đòi tôi phải đàn lại lần thứ hai. Lần thứ hai vừa dứt thì lại tiếp một tràng vỗ tay nữa không kém nhiệt tình. Theo lệnh của Đoàn trưởng, tôi đàn thêm lần thứ ba, rồi lại phải đàn lại lần nữa…

 Lần nào tôi cũng cố gắng đàn cho trọn vẹn, nhưng hầu như không có lần nào tôi thật hài lòng với mình cả. Hình như tôi chưa tự tin lắm ở mình. Đáng lẽ phải tập trung tư tưởng để thể hiện đúng tình cảm bài nhạc thì hình như tôi lại quá quan tâm đến vấn đề thành công hay thất bại nhiều hơn. Đến hết lần thứ tư, Đoàn trưởng ra lệnh đóng màn. Nhưng lá màn sân khấu chưa kịp buông xuống thì các đồng chí bạn đã đứng cả dậy, chạy lên sân khấu ôm lấy tôi thân thiết, xúc động.

Tôi lúng túng ngước lên bắt gặp đôi mắt của một đồng chí bạn long lanh ướt. Tôi bàng hoàng cả người, gần mười lăm năm sống với sân khấu, chưa bao giờ tôi gặp một đối tượng khán giả nào hoan nghênh mình nhiệt tình đến thế, mặc dầu tôi biểu diễn hãy còn nhiều thiếu sót.

 Đồng chí đoàn trưởng bạn đã kéo tôi xuống ngồi cạnh cho đến hết buổi biểu diễn. Sáng hôm sau tôi tỉnh dậy, đầu óc còn chưa bình thường thì một tin mừng đột ngột đến với tôi. Tin vui như một luồng ánh sáng cực mạnh rọi tới làm tôi bàng hoàng cả người: Tôi được Bác gọi lên hỏi chuyện. Các đồng chí cùng đơn vị cũng rất mừng cho tôi được gặp Bác. Các đồng chí xúm lại mặc cho tôi bộ quân phục mới nhất, cắt tóc cho tôi, ngắm vuốt cho tôi từng tý. Hình như qua sự chăm sóc cho tôi, các đồng chí cảm thấy mình cũng có phần được đi gặp Bác.

 Gần 7 giờ sáng, một chiếc commăngca đến đón tôi đi. Chiếc xe đi trong phố đông người mà tôi tưởng như đi trong giấc mộng. Bác hỏi tôi về tình hình tập kết, về sức khoẻ ba má tôi. Lần đầu tiên gặp Bác mà sao tôi cảm thấy Bác gần gũi thân thiết lạ thường. Bác bảo: Hôm qua cháu phục vụ các đồng chí Liên Xô được hoan nghênh lắm nên hôm nay Bác gọi đến để hỏi chuyện.

 Bác nói thêm: Cháu về thăm Bác hôm nay như về thăm gia đình, cứ nói chuyện tự nhiên, không phải bỡ ngỡ gì.

 Đến lúc Bác nắn nắn cánh tay còn lại của tôi như người cha lâu ngày mới gặp muốn xem con ốm, mập ra sao thì tự nhiên nước mắt tôi trào ra, không ghìm lại được nữa. Bác ân cần và nhân hậu hơn cả một người cha: Cháu bị thương từ hồi nào? Cháu tập đàn một tay thế có gian khổ không?

 Bác bảo tôi cứ kể chuyện thoải mái, Bác sẵn sàng nghe chuyện tôi cả sáng nay. Thú thực, lúc được Bác cho gọi, tôi cứ tưởng mình chỉ được gặp Bác độ mươi phút là cùng và trong khoảng thời gian quý báu ấy, tôi sẽ được nghe Bác dạy bảo là chủ yếu. Tôi có ngờ đâu thì giờ của một vị Chủ tịch nước quý như vậy Người lại bỏ cả ra một buổi sáng để hỏi chuyện tôi, một diễn viên nhạc bình thường như bao nhiêu anh chị em diễn viên khác.

Trước sự quan tâm của Bác, trước cặp mắt dịu dàng khuyến khích của Bác, những e dè đầu tiên của tôi vụt tiêu tan. Bác chăm chú nghe, đôi mắt đầy thông cảm. Đến những cảnh khổ tôi phải chịu, mắt Bác long lanh chớp chớp. Qua đôi mắt ấy, tôi biết Bác đã hiểu hết tình cảnh và tâm tư nguyện vọng của nhân dân miền Nam dù rằng trong những ngày gay go gian khổ, Bác chưa vào thăm được.

Bác nghe chuyện tôi cả buổi sáng hôm ấy, Bác giữ tôi lại ăn cơm với Bác.

Khi tôi xin phép Bác ra về để Bác đi nghỉ, Bác hỏi tôi: Bây giờ cháu tập đàn còn khó khăn gì không? Tôi báo cáo với Bác là do tôi gẩy đàn ở trên cần đàn nên tiếng không vang được, tôi đang hy vọng đoàn sẽ sắm cho cái máy tăng âm.

Bác gật đầu và bảo tôi chiều lại đến đàn cho Bác nghe, Bác muốn nghe riêng những bài tôi sẽ đàn tối nay. Tối nay là tối Bác thết tiệc Đoàn nghệ thuật quân đội Liên Xô. Buổi chiều, theo lệnh Bác, tôi và anh Phan Nhung đàn cò cùng em Thiện, một em bé miền Nam có giọng hát hay, đến chỗ Bác.

 Chúng tôi đến thì đã thấy Bác để sẵn cho chúng tôi cây đàn ghita có cắm điện và bộ phận tăng âm. Chúng tôi hát và đàn để Bác nghe. Sau đó Bác bảo tôi đàn riêng với cây đàn mới có cắm điện. Tiếng đàn rung lên vang khắp căn phòng. Tôi sung sướng được đàn riêng để Bác nghe.

 Sau buổi phục vụ, Bác khen tôi có chí rồi Bác thưởng cho tôi cây đàn và chiếc máy tăng âm mà tôi ao ước từ lâu. Tôi sung sướng cắp cây đàn Bác cho, anh Phan Nhung xách chiếc máy tăng âm. Tuy không nói ra nhưng tôi đã thầm hứa với Bác: Suốt đời, cháu sẽ cố gắng để xứng đáng được sử dụng, gìn giữ những vật quý Bác cho này.

 Khi chúng tôi ra về để chuẩn bị cho buổi tiếp xúc tối nay. Bác dặn chúng tôi:

 - Các cháu được các đồng chí Liên Xô rất yêu mến vì các cháu thay mặt cho quân đội ta, cho nhân dân ta. Người ta càng yêu các cháu bao nhiêu, người ta lại càng yêu quân đội ta, nhân dân ta bấy nhiêu cho nên các cháu phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Dọc đường về, từng lời từng ý Bác dặn cứ vang lên trong tâm trí tôi, và đến lúc đó tôi mới thấm thía ý nghĩa của từng câu Bác dặn: “Các cháu được các đồng chí Liên Xô rất yêu mến vì các cháu thay mặt cho quân đội ta, cho nhân dân ta…”. Tôi chợt giải đáp được cái ngỡ ngàng khó hiểu tối qua của tôi khi được các đồng chí Liên Xô hoan nghênh quá mức. Các đồng chí Liên Xô đã nhìn thấy qua trường hợp tôi một dân tộc yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, nhưng khi cần thiết phải cầm vũ khí để bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ lý tưởng của mình thì dân tộc ấy sẵn sàng hy sinh tất cả.

 Suốt 14 năm qua, cây đàn và bộ máy tăng âm Bác cho, cánh tay phải Bác chắp lại cho tôi, lúc nào cũng ở bên tôi qua hàng ngàn đêm biểu diễn. Tôi nguyện sẽ đem cả cuộc đời làm nghệ thuật của tôi để thực hiện những ước mơ cao đẹp mà Người đã dẫn dắt tôi đi từ một phần tư thế kỷ này…

 (Lược trích theo sáchChúng ta có Bác Hồ,Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 1999).

Còn nữa

Huyền Trang (tổng hợp)

Bài viết khác: