Chỉ mục bài viết

 12. Nhân kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ

Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn.

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ mười chiến thắng Điện Biên Phủ, thiên hạ đang dự đoán sẽ có một Điện Biên Phủ mới ở miền Nam Việt Nam. Người Pháp nói nhiều về điều đó, vì họ có nhiều kinh nghiệm! Họ nói: "Mỹ đang thua ở miền Nam Việt Nam và đang đi đến một Điện Biên Phủ" (AFP, 16-4-1964).

DBP phan 3 anh 2
Bác Hồ với các chiến sĩ Điện Biên tiêu biểu. Ảnh tư liệu

Năm 1954, trước ngày quân ta chiến thắng Điện Biên Phủ độ một tháng, bọn đầu sỏ thực dân Pháp vẫn ba hoa rằng "Pháp chắc sẽ thắng". Hiện nay ở miền Nam, bọn Mỹ và tay sai đã sa lầy, nhưng chúng cũng ba hoa rằng chúng sẽ không thua. Kế hoạch 18 tháng của Pháp (Nava) đã thất bại. Kế hoạch 18 tháng của Mỹ (Taylo) cũng phá sản rồi. Khi bắt đầu cuộc kháng chiến, Pháp mạnh, ta yếu. Nhưng ta càng đánh càng mạnh. Kết quả ta đã thắng, Pháp đã thua. Ngày nay ở miền Nam, Mỹ và bọn Việt gian đang ra sức cựa quậy. Nhưng đồng bào miền Nam càng đánh càng thắng và sẽ thắng hoàn toàn. Đó là những kinh nghiệm lịch sử giống nhau.

- Giữa năm 1961, tổng Giôn (hồi đó là Phó Tổng thống Mỹ) đã ca tụng Diệm là "người cha của dân tộc, dũng cảm và tinh anh!". Cuối năm 1963 cũng chính bọn Giôn lại cho Diệm là một tên độc tài thối nát và bất lực, đã cho giết chết Diệm và đưa Dương Văn Minh lên. Mồ Diệm cỏ chưa mọc, thì chúng đã hạ Dương xuống và đưa Khánh thay vào. Chúng lại ca tụng Khánh "một lãnh tụ tài năng lỗi lạc!"...

Mới được Mỹ cất nhắc, bọn Khánh - Hoàn đã cắn xé nhau kịch liệt. Báo chí Mỹ đã nói: "Nội bộ Chính phủ Khánh rất lục đục" (Nữu Ước thời báo, 6-4-1964). Và "sự chia rẽ ngày càng phát triển. Tiếng đồn đảo chính lại ầm ĩ. Tình hình càng lộn xộn và sa lầy" (Nữu Ước luận đàm, 09-4-1964).

Đế quốc Mỹ và lũ bù nhìn đang sa lầy trong hầm tối. Tháng 12-1962, mồ ma tổng Ken đã nói: "Cuộc chiến tranh chống du kích gặp rất nhiều khó khăn. Cần 10 hoặc 11 tên lính chính quy để chống lại một người du kích. Vì vậy Mỹ chưa thấy đoạn cuối cùng của đường hầm".

Đường hầm đó sẽ dẫn chúng đến chỗ diệt vong. Dư luận Mỹ và thế giới đều nói như vậy:

"Thay đổi một chế độ thối nát bằng những tên tướng cướp để chiến tranh. Mỹ nhất định sẽ thất bại" (báo Mỹ Người chiến sĩ, 10-02-1964). Vì "sự tan rã về chính trị và tinh thần đã phát triển một cách thảm hại ở Sài Gòn" (Nữu Ước luận đàm, 06-3-1964).

Các báo tư sản Anh, như tờ Thông tin hằng ngày (04-3-1964) thì viết: "Mỹ đang đứng trước một thất bại rõ ràng và nhục nhã". Các báo tư sản Pháp, như tờ Rạng đông (12-3-1964) cũng viết: "Mỹ đã gần thất bại hơn là người ta tưởng...".

- Để hòng cứu vãn tình hình tuyệt vọng đó, hôm 21-2-1964 tổng Giôn đe dọa "Bắc tiến". Hồi tháng 3, Mặt - nạ (Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ) sang Sài Gòn hứa "tổng viện trợ" cho bọn Khánh - Hoàn. Bọn này thì hứa với Mỹ "tổng động viên" để đẩy mạnh chiến tranh, đồng thời chúng đi cầu cứu với bọn Phumi ở Lào và bọn Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan! Đến tháng 4, Định rút (Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ) cũng khẩn khoản yêu cầu bảy nước khác trong "Khối Đông - Nam Á" giúp vào cuộc chiến tranh "bẩn thỉu thối tha và tuyệt vọng" ở miền Nam Việt Nam. Nhưng Pháp đã cự tuyệt và Thủ tướng Pháp đã nói: “Không thể nào có thắng lợi quân sự ở miền Nam Việt Nam". Ngoại trưởng Pakixtan thì nói Chính phủ Đại Hồi không đồng ý với việc "Bắc tiến". Còn năm nước nữa thì chỉ hứa một cách miễn cưỡng.

Sau khi tổng Giôn ba hoa "Bắc tiến", thì Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác đập lại ngay và đòi Mỹ phải rút khỏi miền Nam, việc của miền Nam phải do nhân dân miền Nam tự quyết định lấy.

Nhân dân và Chính phủ ta thì nghiêm khắc cảnh cáo đế quốc Mỹ và bè lũ Khánh - Hoàn rằng: Nếu chúng điên cuồng mà xâm phạm đến miền Bắc thì chúng sẽ bị chôn vùi.

Chợt thấy mình hớ hênh lỡ miệng, hôm 15-3-1964, tổng Giôn đã thề hết thành hoàng thổ công rằng y tuyệt đối không có âm mưu "Bắc tiến".

- Cuộc chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây ra, chẳng những làm thiệt hại đến đồng bào miền Nam ta, mà cũng làm cho nhân dân Hoa Kỳ chết người hại của. Bởi vậy, không những đồng bào ta mà nhân dân Hoa Kỳ cũng chống đế quốc Mỹ.

Từ tháng 4-1962 hơn 60 vị nhân sĩ Mỹ nổi tiếng do giáo sư Pôlinh dẫn đầu, đã kịch liệt phản đối cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Kế đến 15.000 lãnh tụ các tôn giáo ở Mỹ, nhiều đoàn thể công nhân, phụ nữ và thanh niên Mỹ đã thông qua nghị quyết hoặc tổ chức biểu tình chống chiến tranh.

Tháng 4 vừa rồi, các sinh viên Trường đại học Hêvơpho đã gửi thuốc men ủng hộ Mặt trận Giải phóng miền Nam. Hôm 25-4, 87 sinh viên ở 12 trường đại học Mỹ đã tuyên bố:

"Nếu phải đi lính, họ kiên quyết không sang miền Nam Việt Nam, vì cuộc chiến tranh ở đó là nhằm đàn áp phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc".

Thậm chí trong tầng lớp thống trị Mỹ cũng có người kịch liệt chống chiến tranh ở miền Nam, như các thượng nghị sĩ Moxơ, Gruninh, Gioócđan... Ông Moxơ tuyên bố: "Chiến tranh ở Nam Việt là phi pháp... Chính phủ Mỹ lừa bịp nhân dân rằng chiến tranh đó là vì tự do... Sự thật đó là cuộc chiến tranh của Mỹ tiến hành bởi một chính phủ bù nhìn do Mỹ nặn ra... Đó là một trang lịch sử nhục nhã cho nước Mỹ... Phải chấm dứt việc đẩy thanh niên Mỹ đi chết ở Nam Việt một cách vô lý... và bàn tay của Chính phủ Mỹ đã vấy máu... Nhân dân Mỹ chống cuộc chiến tranh đó. Nếu có cuộc trưng cầu dân ý, thì cứ năm người Mỹ sẽ có bốn người bỏ phiếu chống cuộc chiến tranh đó của Mỹ...".

- Nhân dân miền Nam biết ơn những người Mỹ tiến bộ; đồng thời ra sức giáng vào đầu bọn đế quốc Mỹ và lũ bù nhìn những vố thật đau.

Tờ báo tư sản Tây Đức Nhân dân (27-3-1964) viết: "Mỹ chỉ có một khả năng là ủng hộ một chế độ độc tài quân phiệt... và việc đó chắc chắn sẽ đưa đến một Điện Biên Phủ".

Thật vậy! Lịch sử trong vài mươi năm nay đã chứng tỏ rằng: Lũ đế quốc thực dân dù có binh hùng tướng mạnh đến mấy, chung quy cũng thất bại. Đế quốc Mỹ đã thất bại ở Trung Quốc, ở Triều Tiên, ở Cuba, thực dân Pháp đã thất bại ở Việt Nam và ở Angiêri. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ nhất định cũng sẽ thất bại. Ông U Than (Tổng thư ký Hội Liên hợp quốc) nói rất đúng: "Biện pháp quân sự đã không giải quyết được vấn đề Việt Nam hồi năm 1954. Không có lẽ gì biện pháp quân sự lại đưa đến kết quả mười năm sau" (các báo phương Tây ngày 29-4-1964).

Dù cuộc kháng chiến phải lâu dài, gian khổ, song nhân dân miền Nam nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng. Thắng lợi vì có chính nghĩa. Thắng lợi vì triệu người một lòng, đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận giải phóng miền Nam, kiên quyết chiến đấu vì độc lập tự do, vì thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi vì có các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa ủng hộ và được nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới (kể cả nhân dân Mỹ) đồng tình.

Vì vậy, dù lúc đầu chỉ có những vũ khí thô sơ, đồng bào miền Nam càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng thắng.

Hãy lấy năm 1963 làm ví dụ:

Bắt đầu từ tháng 01-1963, nhân dân miền Nam thắng to ở Ấp Bắc. Rồi liên tiếp thu được nhiều thắng lợi suốt cả năm và kết thúc năm ngoái bằng trận tiêu diệt tiểu đoàn "Cọp đen" (hôm 31-12-1963). Trong cả năm đó, nhân dân miền Nam:

- Đã tiêu diệt hơn 80.000 binh sĩ địch (trong số đó có độ 1.000 tên Mỹ),

- Đã bắn rơi và bắn hỏng hơn 690 chiếc máy bay (phần nhiều là máy bay lên thẳng),

- Đánh đắm 120 tàu quân sự lớn và nhỏ,

- Phá huỷ 32 đầu xe lửa và 343 toa,

- Lấy được của địch hơn 10.000 súng các loại.

Với tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Điện Biên Phủ, từ nay về sau nhân dân miền Nam chắc sẽ thắng lợi hơn nữa. Muốn tránh một thất bại như ở Điện Biên Phủ và muốn khỏi mất thể diện, thì đế quốc Mỹ chỉ có một cách là chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược, rút ngay quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, để nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết lấy vấn đề nội bộ của mình và thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, Campuchia và Lào.

CHIẾN SĨ

(Báo Nhân dân, số 3690, ngày 07-5-196412)

13. Lời ghi trong Sổ lưu niệm của Nhà bảo tàng Điện Biên Phủ

“Trước đây 10 năm, chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ, anh dũng của quân và dân nước ta chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại; cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công.

Ngày 7 tháng 5 năm 1964

                                                                      HỒ CHÍ MINH”

(In trong sách Những bài nói và viết của Hồ Chủ tịch với các dân tộc Tây Bắc, Ban Tuyên giáo Khu Tây Bắc xuất bản, 1970, tr.5813)

14. "Uy danh lừng lẫy khắp nǎm

Sân bay Biên Hòa vừa là một sân bay “bí mật nhất”, vừa là một trong ba sân bay to nhất của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Chung quanh sân bay dầy đặc mấy lớp dây thép gai có điện. Ngoài thì có bãi mìn. Ngoài nữa là những “ấp chiến lược”. Bên trong có nhiều tháp canh. Mấy tiểu đoàn lính Mỹ và lính ngụy cùng chó ngao ngày đêm canh gác. Bọn Mỹ cho đó là một sân bay tuyệt đối vững chắc, trời cũng không làm gì được”.

Thế mà đêm 31-10-1964, trường bay đó đã bị một đội du kích miền Nam đánh tan tành. Thắng lợi đó đã vang ầm thế giới. Bạn ta thì phấn khởi vui mừng. Bọn Mỹ thì hoang mang kinh sợ. Thí dụ:

- Báo Sao đỏ Liên Xô viết: “Đã đến lúc Mỹ phải chấm dứt ngay cuộc chiến tranh bẩn thỉu và rút hết lực lượng xâm lược ra khỏi miền Nam Việt Nam”. Các báo Trung Quốc đều nhiệt liệt hoan hô thắng trận Biên Hòa và viết: “Ở Nam Việt Nam, việc Mỹ thất bại nhất định không thể tránh khỏi”. Báo Anmana ở Irắc viết: “Du kích đánh vào sân bay Mỹ ở Biên Hòa chứng tỏ rằng không lực lượng nào ngǎn được bước tiến của cách mạng Nam Việt Nam”.

- Các báo phương Tây thì mỉa mai Mỹ. Báo Anh viết: Trận Biên Hòa “đối với Mỹ là một đòn rất đau về quân sự cũng như về chính trị… Đó là một hành động đốt râu chú Sam…”. “Đó là một vố sấm sét giáng vào uy tín Mỹ”. Báo Pháp Lơ Phigarô viết: “Biên Hòa gần Sài Gòn mà du kích đã đánh được, thì họ có thể đánh bất cứ nơi nào”. Báo Nhân đạo viết: “Thắng trận của du kích ở Biên Hòa đã chứng tỏ rằng dù bọn đế quốc dùng cách gì cũng không thể thành công trong cuộc chiến tranh xâm lược của chúng, chứng cớ ấy càng hùng hồn vì ở Nam Việt Nam là một cuộc đọ sức giữa một đế quốc rất mạnh với một xứ bé nhỏ nhưng mà anh dũng”.

- Dư luận Mỹ thì rất bi. Báo thì viết: “Đó là một cuộc tập kích cực kỳ tai hại cho Mỹ”. Báo thì viết: “Trận này làm cho Mỹ mất cả mặt. Nếu ở vào địa vị tổng Giôn, Taylo, v.v. thì chúng tôi phải đỏ mặt tía tai”. Báo thì viết: “Việt cộng đã giành được một thắng lợi đột xuất… Người Mỹ chúng ta ở đó còn làm được việc quái gì nữa!…”. Thời báo Nữu ước viết: “Du kích đánh vào sân bay Biên Hòa nhanh chóng và trúng đích một cách làm cho người ta phải kinh ngạc. Cuộc chiến tranh chống Việt cộng bây giờ tuyệt vọng hơn bao giờ hết… Dù Mỹ bỏ vào bao nhiêu sức người và tiền bạc cũng không ngǎn được thế đang tiến lên của Việt cộng”. Luận đàm Nữu Ước viết: “Người Mỹ chúng ta hiện đang bị thất bại nhiều hơn bao giờ hết”.

Những lời thú nhận của tướng tá và chính khách Mỹ cũng thú vị. Ví dụ: Tên Tổng tư lệnh Mỹ ở Sài Gòn nói: “Du kích đã dùng súng cối Mỹ bắn lại quân đội Mỹ và máy bay Mỹ!”. Níchxơn, cựu Phó Tổng thống Mỹ, thì thú nhận rằng: “Cuộc thất bại ở Biên Hòa là một tai họa to nhất cho Mỹ từ sau cuộc thất bại to lớn ở cảng Trân Châu” (cảng Trân Châu là một cǎn cứ to nhất của hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương bị Nhật Bản đánh chiếm cuối nǎm 1941).

Cuộc thắng lợi ở Biên Hòa rất lừng lẫy mà cũng rất giản đơn.

Chín chiến sĩ Quân giải phóng mò đến gần sân bay Mỹ 800 thước, bắn độ 100 phát súng cối của Mỹ vào sân bay, sau 15 phút thì rút lui an toàn vô sự.

Kết quả là bắn tan 21 máy bay phản lực và 8 máy bay loại khác. Phá huỷ 1 đài quan sát, 2 kho chứa dầu, 4 trại lính, 18 nhà sĩ quan. Giết 4 và làm bị thương 72 tên Mỹ.

Về số Mỹ chết và bị thương, một thượng nghị sĩ Mỹ là Thớtmơn tuyên bố rằng: “Đến ba, bốn trǎm Mỹ chết và bị thương, nhưng Chính phủ Mỹ đã che giấu sự thật”.

Nếu cộng kết quả chiến đấu trong chín tháng đầu nǎm nay với cuộc thắng lợi Biên Hòa, thì càng thấy thắng lợi này to lớn. Trong chín tháng đầu nǎm, đồng bào miền Nam đã:

Tiêu diệt 83.000 địch (trong số đó có 625 “cố vấn” Mỹ).

Thu được 11.770 súng các loại,

Bắn rơi và bắn hỏng 660 máy bay,

Phá hủy hơn 3.100 “ấp chiến lược”,

Giải phóng thêm 174 vạn đồng bào khỏi ách kìm kẹp,

Giác ngộ 58.000 binh sĩ ngụy bỏ hàng ngũ địch.

Trước trận Biên Hòa, dư luận Hoa Kỳ đã thấy tình trạng bi và bí của Mỹ. Như báo Tin tức Mỹ và thế giới đã viết: “Mỹ đang sụp đổ ở Nam Việt Nam cũng như đã sụp đổ ở Trung Quốc trước đây… Mỗi ngày Mỹ càng đến gần thất bại thảm hại… Phải chǎng Mỹ đang nhanh chóng nhận lấy một Điện Biên Phủ ở Nam Việt Nam”.

Chắc bà con còn nhớ rằng hồi tháng 3-1954, du kích ta phá 60 máy bay Pháp ở Cát Bi và 25 chiếc ở Gia Lâm, để báo hiệu cho cuộc đại thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Rất có thể trận thắng ở sân bay Biên Hòa báo hiệu một Điện Biên Phủ ở miền Nam, như tờ báo Mỹ đã nói.

Nếu muốn tránh thất bại nhục nhã như ở Điện Biên Phủ thì Mỹ chỉ có một cách là chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam, rút ngay quân đội của chúng về nước mẹ, để nhân dân miền Nam giải quyết công việc nội bộ của họ, như Hiệp định Giơnevơ đã quy định.

Đồng bào miền Nam ngày càng đánh mạnh, càng mạnh càng thắng, nhưng không vì thắng mà kiêu, không chủ quan khinh địch và tin chắc rằng cuối cùng thắng lợi nhất định về tay ta. Vậy có thơ rằng:

Uy danh lừng lẫy khắp nǎm châu,

Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu,

Thành đồng trống thắng lay Lầu trắng,

Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu!

CHIẾN SĨ”

(Báo Nhân Dân, số 3878, ngày 12-11-196414)

15. "Hai ngày kỷ niệm vẻ vang

Mồng 07-5, kỷ niệm đại thắng Điện Biên Phủ của nhân dân ta.

Mồng 09-5, kỷ niệm đại thắng của Liên Xô cùng các đồng minh đánh tan lực lượng phát xít Đức - Ý - Nhật.

Hơn 20 năm trước đây, tên trùm ác quỷ phát xít Hítle cùng với Mútxôlôni) và bọn quân phiệt Nhật đã gây ra cuộc đại Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Lúc đầu bọn Hítle "khạc ra lửa, thở ra sấm", chỉ trong mấy tháng quân phát xít Đức đã đánh bại l0 nước châu Âu và nước Anh cũng bị chúng uy hiếp nghiêm trọng.

Chúng vơ vét và tập trung sức của, sức người của các nước đó để tiến công Liên Xô vào giữa năm 1941.

Hítle có 214 Sư đoàn và 7 Lữ đoàn bộ binh, thì hắn đã dùng trên mật trận Liên Xô 152 Sư đoàn và 2 Lữ đoàn cùng 48 sư đoàn của các nước chư hầu. Có khi Hítle đã tung ra 239 sư đoàn trong một lúc.

Liên Xô đã phải chịu gánh nặng nhất trong cuộc chiến tranh.

Năm đầu, Liên Xô đã gặp những khó khăn không thể tưởng tượng được Lêningrát bị vây kín. Xtalingrát và nhiều thành phố lớn khác bị giặc phá tan tành...

Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản, quân và dân Liên Xô đã quết tâm hy sinh tất cả để đánh thắng và đã thắng to. Cuối cùng, 507 sư đoàn phát xít đã bị Hồng quân tiêu diệt hoặc làm tan rã. Hồng quân đã giết, làm bị thương và bắt làm tù binh ngót 10 triệu binh sĩ phát xít.

Tổng thống Mỹ Rudơven đã nói rằng: "Riêng người Nga đã tiêu diệt quân lính Đức và phá hoại vũ khí Đức nhiều hơn cả 25 nước đồng minh cộng lại".

Người ghét cay ghét đắng cộng sản là Thủ tướng Anh Sớcsin cũng phải nhận rằng: "Đó là người Nga họ đã đập bẹp các guồng máy quân sự của phát xít Đức".

Sau mấy năm trời chúng đã làm cho 30 triệu người bỏ mạng trong chiến tranh, quân phiệt Nhật đã phải đầu hàng, Mútxôlôni đã bị treo cổ, Hítle đã uống thuốc độc chết. Đó là kết cục tất nhiên của những bọn hiếu chiến. Ngày nay, bọn đế quốc Mỹ đang đi theo vết xe này.

Thắng lợi của Liên Xô đã tạo điều kiện cho một số nước Châu Á và Châu Âu xây dựng nên chế độ xã hội chủ nghĩa.

Cuối năm 1946, thực dân Pháp gây chiến với ta. Chúng hòng cướp nước ta một lần nữa. Chúng cho rằng chúng mạnh hơn ta gấp trăm nghìn lần, chóng là nửa năm, chầy là 18 tháng, chúng sẽ nuốt chửng nước ta. Nhưng chúng đã lầm to.

Về lực lượng vật chất, thì Pháp mạnh hơn ta thật. Chúng có xe tăng, đại bác, tàu chiến, máy bay. Lại có những đội quân liều lĩnh, những tên tướng nổi tiếng như Lơcléc, Tátxinhi...

Ta thì hầu như hai bàn tay không, cái gì cũng thiếu. Lúc đó những người nhát gan đã nói:"Ta đánh nhau với Pháp, khác nào châu chấu đấu với ông voi!". Nhưng về tinh thần và chính trị, thì ta mạnh gấp trăm gấp nghìn thực dân Pháp. Ta có chính nghĩa. Ta có lòng nồng nàn yêu nước và sức đoàn kết chặt chẽ của toàn dân. Ta có sự lãnh đạo khôn khéo của Đảng.

Nắm chắc điều kiện thắng lợi đó, Đảng ta đã nêu lên khẩu hiệu: "Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, ta nhất định thắng, địch nhất định thua". Quả nhiên, ta càng đánh càng mạnh, địch càng đánh càng hèn. Sau tám, chín năm kháng chiến cực kỳ gian khổ và vô cùng anh dũng, ta đã thu được đại thắng Điện Biên.

Tính tất cả mấy năm đánh nhau, số địch bị giết, bị thương và bị bắt là:

Binh sĩ thực dân Pháp chính cống:              70.900 tên,

Binh sĩ Âu - Phi:                                         72.000 tên,

Binh sĩ ngụy quân:                                      419.000 tên.

Kinh nghiệm đó cho phép ông Moxơ, Thượng nghị sĩ Mỹ, đoán rằng, phái thêm mấy vạn tên lính Mỹ sang đất Việt, thì sẽ có mấy nghìn tên trở về Mỹ trong những chiếc quan tài.

Hiện nay về mọi mặt, ta đã mạnh hơn trước nhiều. Ta lại có các nước anh em giúp đỡ, nhân dân khắp thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, ủng hộ và đồng tình. Ta nhất định thắng.

Đế quốc Mỹ miệng thì nói "đàm phán không điều kiện", nhưng vẫn điên cuồng đẩy mạnh chiến tranh và đưa thêm quân đội vào miền Nam, vẫn tiếp tục ném bom phá phách miền Bắc. Dù sao, chúng nhất định sẽ thất bại như thực dân Pháp đã thất bại.

Trước mắt đế quốc Mỹ chỉ có hai con đường: Một là tự động chấm dứt ngay chiến tranh và rút khỏi miền Nam một cách "lịch sự". Hai là ngoan cố bị động chờ quân và dân miền Nam tống cổ chúng về nước mẹ Hoa Kỳ.

CHIẾN SĨ”

(Báo Nhân Dân, số 4053, ngày 09-5-196515)

Thu Hiền (tổng hợp)

Hết

--------------

Chú thích:
12, 13, 14, 15. Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 14, tr.315-319, tr.320, tr.412-415, tr.541-543.

Bài viết khác: