163. Nguồn sức mạnh (tiếp theo)
Ngay sau khi Bác đến thăm, theo chỉ thị của Đảng ủy quân chủng, Cục Chính trị quân chủng đã hướng dẫn các đơn vị phát động toàn thể cán bộ, chiến sĩ học tập và làm theo lời dạy của Bác, thi đua lập công, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Bản chỉ thị nêu rõ những yêu cầu của đợt phát động:
1. Nâng cao quyết tâm chiến đấu; kiên định vững vàng phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dũng cảm chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
2. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo tác chiến "Đánh thắng trận đầu, đánh tiêu diệt, đánh chắc thắng", phát huy quân sự dân chủ, tăng cường rèn luyện năng lực chỉ huy, trình độ kỹ thuật để bắn trúng ngay từ loạt đạn đầu, bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay địch, tiết kiệm đạn, trước mắt nhanh chóng đưa số máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc lên 400 chiếc.
3. Phát huy dân chủ, đề cao kỷ luật, tăng cường đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu, lập công tập thể. Nhiều đơn vị đã thảo luận quán triệt lời Bác dạy, đề ra chỉ tiêu phấn đấu, sôi nổi phát động thi đua học và làm theo lời dạy của Bác. Đặc biệt đối với bộ đội tên lửa, lúc này đang khẩn trương chuẩn bị ra quân đánh thắng trận đầu, tin Bác đến thăm và những lời dạy của Bác đã trở thành niềm cổ vũ hết sức lớn lao. Nghị quyết của Đảng ủy Trung đoàn nhấn mạnh quyết tâm đánh thắng trận đầu, bằng quả đạn đầu, bắn rơi tại chỗ. Lúc này trên những quả đồi ở Trung Hà thuộc huyện Ba Vì, mặt đất đang rung chuyển bởi hàng trăm xe pháo, bệ phóng. Một đội quân lớn đang được tập trung ở đây với đầy đủ các loại hỏa lực, tầng cao, tầng trung, tầng thấp: Hai tiểu đoàn tên lửa 63, 64, ba Trung đoàn pháo cao xạ, gần mười Đại đội súng máy cao xạ 14,5 mm, hàng nghìn tay súng của dân quân tự vệ...
Có thể nói đây là lần đầu tiên, bộ đội phòng không chúng tôi tổ chức một trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn như vậy, gồm cả ba binh chủng tên lửa, cao xạ, rađa, có cả lực lượng phòng không địa phương tham gia. Lời dạy của Bác như còn văng vẳng bên tai, chúng tôi thật sự cảm thấy như Bác đang căn dặn riêng mỗi người chúng tôi trước khi bước vào trận đánh này.
Chúng tôi đặc biệt quan tâm chỉ đạo sâu vào hai vấn đề: Đánh thắng trận đầu và lập công tập thể. Đối với một đơn vị mới ra quân, trận đầu bao giờ cũng hết sức quan trọng. Hơn nữa đây là trận đầu của binh chủng tên lửa mới được thành lập. Trong trận ra quân đầu tiên của bộ đội tên lửa đó, thực hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Bác, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, với nhân dân địa phương Hà Tây, chúng tôi đã lập được chiến công vang dội, bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay Mỹ thứ 400 trên miền Bắc. Cả hai Tiểu đoàn tên lửa 63, 64 thuộc Đoàn Sông Đà được Bác ký lệnh tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và đồng chí Lã Đình Chi, sĩ quan điều khiển đầu tiên của Tiểu đoàn 63 được Bác tặng thưởng một Huy hiệu của Người.
Vinh dự cho tôi hồi đó được là người chỉ huy bộ đội tên lửa trong trận ra quân đầu tiên này. Cho đến hôm nay tôi vẫn còn giữ lại hầu như nguyên vẹn những ấn tượng sâu sắc và đẹp đẽ về trận đánh lịch sử mà hồi đó, chúng tôi gọi là trận đánh thực hiện lời Bác dạy. Ở cương vị chỉ huy, tôi không thể nào quên sự chờ đợi căng thẳng trước trận đánh của buổi chiều ngày 24-7-1965, vì đã bước sang ngày thứ tư chúng tôi chờ địch rồi. Không khí trên những quả đồi thuộc vùng Trung Hà, Ba Vì như bị dồn nén lại, nóng bức, ngột ngạt. Tin khí tượng cho biết sắp có một cơn giông to. Liệu địch có đến không? Cả một đội quân lớn được tập trung ở đây lẽ nào để rồi lặng lẽ rút đi không được nổ súng. Buổi trưa hôm đó, chúng tôi nhận được tin: Hồi 10 giờ sáng, các đơn vị bảo vệ vùng Lâm Thao đã bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 398 và 399. Đơn vị nào sẽ bắn rơi chiếc máy bay thứ 400? Sự chờ đợi trong Sở chỉ huy càng thêm căng thẳng.
15 giờ. Tôi nhận được báo cáo: Một tốp F.4, độ cao 7.000 m, đang bay vào khu vực trận địa. Đánh hay không đánh? Theo phương án tác chiến, để bảo đảm đánh thắng trận đầu, trận này ta chỉ đánh hai đối tượng. Tốt nhất là U2, loại máy bay trinh sát tầng cao có người lái, vì loại này đường bay ổn định, dễ làm mồi cho tên lửa. Thứ đến là loại cường kích đang tiếp cận mục tiêu với đường bay ổn định. Còn đây là loại F.4, tiêm kích, rất cơ động, khó đánh trúng. Mà trận này thì nhất định phải đánh thắng. Nghị quyết của Đảng ủy đơn vị đã nêu rõ: "Chỉ được đánh thắng, không được để lỡ thời cơ, không được để địch chủ động đánh trước". Nhưng nếu lần này không đánh thì không biết đến bao giờ tạo ra được một thời cơ mới nữa. Chờ đợi đã ba ngày rồi, trời lại sắp đổ mưa. Bây giờ vấn đề là quyết tâm. Lướt nhanh trong óc, tôi soát lại toàn bộ công tác chuẩn bị. Vũ khí, khí tài rất tốt. Các đồng chí tiểu đoàn kỹ thuật đã thức nhiều đêm để chuẩn bị chu đáo cho từng quả đạn. Quyết tâm của bộ đội rất cao sau khi được học tập lời dạy của Bác. Còn về địch, chúng đang bay vào thế kia, chứng tỏ chúng ta vẫn đang giành được yếu tố bí mật, bất ngờ. Như vậy quyết tâm đánh là hoàn toàn có cơ sở. Bác dạy: "Có quyết tâm cao thì làm gì cũng được”. Và trận đánh đã thắng lợi giòn giã. Sau này, khi nhớ lại những giây phút đó, chúng tôi vẫn nghĩ chính bài học quyết tâm mà Bác dạy đã cho chúng tôi sức mạnh để làm nên thắng lợi to lớn đó. Ngay sau trận thắng, một sự kiện khác cũng làm chúng tôi không thể nào quên. Trận đánh vừa kết thúc, thì trời đổ mưa như trút. Cả trận địa bỗng chốc biến thành một bãi lầy.
Theo phương án tác chiến, đánh xong là phải rút ngay. Những bệ phóng, những xe đặc chủng nặng nề, cồng kềnh đều bị lún ngập trong bùn, hàng tiếng đồng hồ không nhích lên được. Cán bộ, chiến sĩ đã thấm mệt sau mấy ngày căng thẳng chờ địch. Một lần nữa bài học quyết tâm của Bác lại được nêu lên. Tư lệnh Phùng Thế Tài, Chính ủy Đặng Tính cũng xắn quần quá gối lặn lội với anh em trong mưa gió và bùn lầy. Một xe xích không kéo nổi một bệ, thì đấu hai xe xích, vẫn không kéo nổi thì đấu ba xe.
Một cuộc vật lộn giữa con người và thiên nhiên diễn ra quyết liệt. Và cuối cùng, cán bộ, chiến sĩ Đoàn Tên lửa Sông Đà đã thắng một trận thứ hai. Trước khi trời sáng, toàn bộ khí tài đã được rút ra khỏi trận địa, chuẩn bị cho những trận đánh mới.
Ngay sau trận thắng đầu tiên ngày 24-7-1965, Bác đã dành thời gian trực tiếp nghe đồng chí Tư lệnh Quân chủng báo cáo. Nghe xong, Bác tỏ ý hài lòng. Về nhiệm vụ chiến đấu tới, Bác chỉ thị một số điểm và nhấn mạnh hai điều là phải bảo đảm bí mật, bất ngờ và đoàn kết lập công tập thể.
Trong thư khen nhân dịp quân và dân miền Bắc bắn rơi 400 máy bay giặc Mỹ, Bác động viên mọi người tiếp tục nêu cao: "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, lập nhiều thành tích to lớn hơn nữa". Thực hiện phương án tác chiến được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh thông qua từ trước, những bộ khí tài tên lửa giả làm bằng cót được triển khai ở trận địa cũ để nhử địch đến. Một lực lượng phòng không lớn, gồm hơn 120 khẩu pháo các cỡ, có lực lượng của dân quân tự vệ ba huyện Bất Bạt, Quảng Oai, Tùng Thiện, phối hợp bố trí suốt từ Trung Hà qua Phú Mỹ đến Ba Trại chờ đón đánh địch. Khẩu hiệu: "Thi đua làm theo lời Bác", "Bắn rơi địch tại chỗ ngay từ loạt đạn đầu, bắt sống giặc lái", "Đã có quyết tâm, phải đánh giỏi, đánh tiêu diệt" xuất hiện ở khắp nơi, trên vành mũ, trên hầm pháo. Ở khẩu đội 6, Đại đội 1 Đoàn Tam Đảo, các chiến sĩ còn nắn nót kẻ hai câu thơ lên lá chắn pháo:
Lời Bác ghi nhớ trong lòng
Chúng cháu quyết lập công lẫy lừng.
Và trận đánh lớn tiếp theo đã diễn ra đúng như phương án. Ngày 27-7-1965, hơn 40 lần chiếc phản lực Mỹ bay rất thấp, điên cuồng lao tới đánh phá trận địa "Ra Cót" - tức những trận địa giả, để trả thù cho chiếc F4 bị bắn rơi ngày 24-7-1965. Chúng bị đánh trả một đòn như trời giáng. Năm chiếc bị rơi, thêm một số giặc lái bị bắt. Bị một đòn choáng váng, kẻ địch càng thêm lúng túng. Lầu Năm góc đã vạch một vòng tròn bán kính 60 km, lấy Hà Nội làm tâm, cấm các máy bay Mỹ không được bén mảng tới.
Phát huy thắng lợi, các tiểu đoàn tên lửa được lệnh lên đường tìm địch mà đánh, tiếp tục gây cho chúng những bất ngờ mới, đẩy địch vào thế bị động, liên tiếp giành thắng lợi vẻ vang.
Đêm 11-8-1965, trên vùng trời Ninh Bình, bằng ba quả đạn, Tiểu đoàn 61 diệt gọn một tốp A.4E, có một chiếc rơi tại chỗ, giặc lái nhảy dù xuống rừng Cúc Phương. Ngày 24-8-1965, từ những trận địa ở nông trường Đồng Giao, chỉ trong vòng 30 phút, Tiểu đoàn 63 tiêu diệt ba máy bay địch, bắt sống hai tên giặc lái. Ngày 26-8-1965, trên vùng trời Yên Bái, Tiểu đoàn 64 lại lập công xuất sắc, tiêu diệt hai chiếc F.105 của địch.
Sau những chiến thắng liên tiếp trên bầu trời Hà Tây, Ninh Bình, Yên Bái, bộ đội tên lửa phòng không lần đầu tiên được Bác đến thăm. Tiểu đoàn 61 vinh dự được thay mặt toàn đơn vị đón Bác. Trong lúc máy bay Mỹ đang leo thang đánh phá, đưa bom đạn đến sát Thủ đô Hà Nội, mà Bác vẫn xuống tận trận địa làm cho các chiến sĩ vô cùng xúc động. Đồng chí Tư lệnh Phùng Thế Tài dẫn Bác đi thăm trận địa và báo cáo với Bác quá trình xây dựng, chiến đấu của bộ đội tên lửa. Bác đi thăm một lượt các khu vực trận địa. Thấy những chiếc lán bạt của bộ đội dưới các rặng cây vừa kín đáo, vừa mát mẻ, đẹp mắt, Bác tỏ ý hài lòng. Sau đó, Bác đến nơi bộ đội đã tập hợp chờ nghe Bác nói chuyện. Tiểu đoàn trưởng Hồ Sĩ Hưu, người vừa chỉ huy trận đánh xuất sắc ở Ninh Bình, lúng túng vì quá xúc động chưa kịp báo cáo thì Bác đã hô:
- Chào! Rồi Bác cười thân mật:
- Các chú không biết chào đấy nhé. Giờ Bác hô tiếp để các chú làm theo: Ngồi xuống!
Cả Tiểu đoàn phấn khởi tuân theo lệnh Bác. Thế là buổi nói chuyện của Bác được bắt đầu trong không khí chan hòa, không còn sự ngăn cách giữa lãnh đạo và quần chúng. Mở đầu buổi nói chuyện, Bác khen ngợi thành tích mà bộ đội tên lửa vừa qua đã đạt được:
- Hôm nay, Bác đến thăm các chú, thấy chú nào cũng vui vẻ, khỏe mạnh, Bác rất mừng. Bác vừa nghe chú Tài báo cáo các chú đã hạ được 12 máy bay Mỹ. Như thế là tốt. Nếu ta phấn đấu làm sao bắn ít đạn hơn mà lại rơi được nhiều máy bay hơn nữa thì càng ưu điểm. Tiếp đó, Bác nói:
- Hiện nay, chúng ta đang kháng chiến lần thứ hai. Chúng ta đang đánh giặc Mỹ, tên trùm đế quốc hung hãn, xảo quyệt, nhưng chúng ta nhất định sẽ chiến thắng. Chúng ta phải tin tưởng sâu sắc ở Đảng, không được ngại gian khổ, sốt ruột. Chúng ta được sự giúp đỡ nhiệt tình của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Chúng ta lại được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tất cả các nước. Đế quốc Mỹ đánh ta, nhưng nhân dân Mỹ lại ủng hộ ta. Về phía ta, chúng ta quyết tâm, chúng ta có Đảng sáng suốt lãnh đạo và lực lượng to lớn của nhân dân ta. Hồi Cách mạng Tháng Tám, chúng ta chỉ có 5.000 đảng viên thôi, nhưng Đảng nói: Cách mạng nhất định thắng lợi. Có đúng không các chú?.
Bộ đội đồng thanh đáp:
- Đúng ạ!
Trong kháng chiến trước đây, lực lượng thực dân Pháp rất mạnh. Nhưng lúc đó Đảng bảo: Kháng chiến nhất định thắng lợi. Có đúng là thắng không? Bộ đội lại đồng thanh đáp: Đúng ạ! Đúng ạ! Lần này Đảng cũng bảo: Ta quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược thì nhất định ta cũng đánh thắng. Chúng ta phải tin tưởng sâu sắc ở Đảng, đồng thời mỗi chúng ta cũng không được sợ khổ, sợ khó. Các chú cần đề cao ý thức lập công tập thể, thắng lợi không được tranh công, khó khăn không được đổ lỗi. Thắng lợi là thắng lợi của các lực lượng vũ trang và của toàn dân. Khi có khuyết điểm, tốt nhất là mình nên nhận trước để sửa chữa. Mặt khác, Bác dặn các chú phải hết sức quý trọng sức người, sức của của nhân dân. Nếu bất đắc dĩ phải chặt cây, chặt tre của đồng bào thì phải bàn bạc cùng chi bộ địa phương, trả tiền cho sòng phẳng. Một điều quan trọng nữa là phải giữ gìn bí mật quân sự. Các chú phải dặn dò nhân dân giữ gìn bí mật cho mình. Bác nhắc lại chúng ta phải có quyết tâm cao, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ. Trong chiến tranh, nhất định có khó khăn, gian khổ, nhưng so với khó khăn, gian khổ của đồng bào miền Nam đã và đang trải qua thì còn chưa thấm vào đâu. Lúc chiến đấu phải dũng cảm, thắng không kiêu, bại không nản. Chúng ta phải có quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, như vậy mới xứng đáng với lòng tin tưởng của Đảng, của nhân dân và của các nước anh em. Tóm lại phải đoàn kết, quyết tâm. Có đoàn kết mới có thể khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi được. Cuối cùng, Bác chúc các chú mạnh khỏe, hăng hái cố gắng học tập và thu được nhiều thắng lợi.
Hôm ấy, không phải chỉ có riêng cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 61 được đón Bác, mà các tiểu đoàn bạn đều được cử đại biểu thay mặt anh em đến để đón Bác và nghe Bác dạy bảo. Những cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của binh chủng kỹ thuật hiện đại, dưới sự hướng dẫn của đồng chí Phạm Hồng Liên, Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn, ngồi sát bên nhau, sung sướng, tự hào, chăm chú lắng nghe như nuốt lấy từng lời dạy quý báu của Bác.
Cho đến hôm nay, gần 30 năm đã trôi qua, lòng tôi vẫn bồi hồi xúc động khi nhớ lại những ngày tháng đáng ghi nhớ đó.
Đối với chúng tôi, mỗi lần kỷ niệm ngày đánh thắng trận đầu của bộ đội tên lửa, đồng thời cũng là kỷ niệm ngày Bác Hồ đến thăm binh chủng, trong câu chuyện thân mật của các buổi họp mặt từ cơ quan đến đơn vị, gồm đủ các thế hệ, từ đồng chí Trung đoàn trưởng chỉ huy trận đánh đầu tiên, đến đồng chí trắc thủ trẻ tuổi, mới nhập ngũ, chúng tôi ai nấy đều bùi ngùi tưởng nhớ tới Bác vô cùng kính yêu.
Một năm sau ngày Bác đến thăm, Tiểu đoàn 61, Đoàn Tên lửa Sông Đà, đã trở thành đơn vị anh hùng với những trận đánh xuất sắc như trận ngày 7-3-1966, bằng một quả đạn diệt hai máy bay địch trên vùng trời quê hương Bác; trận ngày 19-7-1966, đáp lời kêu gọi thiêng liêng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Bác ngày 17-7-1966, bắn rơi tại chỗ một chiếc phản lực F.8 ngay trên bầu trời Hà Nội. Cũng chỉ hơn một năm sau ngày Bác đến thăm, đồng chí Nguyễn Tuyên, người đầu tiên của bộ đội tên lửa được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tiếp đó là các đồng chí Nguyễn Xuân Đài, sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 61, Nguyễn Văn Thực, sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 63, Phạm Trương Uy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 64, đều thuộc Đoàn Tên lửa Sông Đà, lần lượt được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tính đến nay, toàn binh chủng tên lửa có đến năm Trung đoàn, tám Tiểu đoàn, 12 cán bộ, chiến sĩ được tặng danh hiệu cao quý đó. Và binh chủng tên lửa, ngay sau trận "Điện Biên Phủ trên không" lịch sử cũng đã được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Tết năm 1966 (Tết Bính Ngọ), chúng tôi lại được vinh dự đón Bác tại trận địa trực ban chiến đấu. Buổi sáng mồng 1 Tết năm ấy mưa phùn nặng hạt nhưng khí trời ấm áp. Trung đội súng máy tự hành đóng quân trên bờ đê Mai Lĩnh đang làm nhiệm vụ trực ban chiến đấu thì được Bác đến thăm.
Bác hỏi bộ đội tình hình trực ban chiến đấu, mỗi ngày trực mấy tiếng? Mỗi đêm trực mấy tiếng? Ăn có no không? Áo mặc có đủ ấm không? Có vải bạt che mưa không?
Mưa vẫn rơi, phủ ướt cả hai vai áo, đọng thành từng giọt trên vành mũ của Bác. Cứ đứng giữa trời mưa Xuân như thế, Bác nói chuyện với đơn vị. Bác hỏi tuổi quân của vài chiến sĩ, hỏi trình độ văn hóa học đến lớp mấy. Bác khuyên dù bận trực ban chiến đấu cũng phải có gắng mà học tập để tiến bộ mãi. Bác bảo: "Muốn đánh thắng không quân giặc Mỹ thì các chú phải học cho thật giỏi về mọi mặt”.
Bác rút trong túi ra một tập thiếp chúc Tết tặng mỗi chiến sĩ một tờ, rồi Bác lại lấy kẹo chia cho từng người. Các chiến sĩ sung sướng, cảm động. Bác tiếp tục nói chuyện với các chiến sĩ thân mật như người ông căn dặn đàn cháu yêu quý của mình. Cuối cùng, Bác giới thiệu đồng chí Tố Hữu cùng đi với Bác, đọc thơ chúc Tết bộ đội: Giặc Mỹ cứ đem mày đến đây/ Chúng ta pháo đã sẵn trong tay/ Lúa ta vẫn tốt, cây ra lộc/ Xuân vẫn về cho ong bướm bay.
Những lời căn dặn đầu Xuân năm đó của Bác nhắc nhở chúng tôi một năm chiến đấu mới quyết liệt sẽ diễn ra trên toàn chiến trường và ngay cả trên miền Bắc trước những bước leo thang cực kỳ nghiêm trọng của đế quốc Mỹ. Chúng đã ném bom vào kho xăng dầu Thượng Lý ở Hải Phòng, kho xăng dầu Đức Giang ở Hà Nội, bắn tên lửa vào vài địa điểm trong nội thành. Được Bác dạy bảo và rèn luyện, bộ đội phòng không chúng tôi không hề nao núng trước thử thách mới hết sức thâm độc và hung bạo của kẻ thù. Tuy nhiên, do còn có thiếu sót về công tác nắm địch, do trình độ kỹ thuật, chiến thuật còn chưa đáp ứng được với tình hình mới, nên hiệu suất chiến đấu của bộ đội phòng không lúc bấy giờ chưa được cao. Chúng tôi nghiêm khắc tự kiểm điểm. Đồng chí Phùng Thế Tài lên báo cáo với Bác nhưng Bác rất độ lượng. Bác bảo kẻ địch đã thay đổi thủ đoạn, do vậy ta phải thường xuyên rút kinh nghiệm để đánh tốt hơn.
Trong dịp này, bộ đội phòng không chúng tôi có hai đơn vị: Đại đội 6 và Đại đội 12 thuộc đoàn thông tin Sóng Điện đóng quân ở chùa Trầm được Bác đến thăm vào ngày 13-7-1966. Thật là quý báu biết bao, cứ mỗi lần đến thăm bộ đội phòng không, Bác không những truyền cho chúng tôi quyết tâm, lòng tin sắt đá vào thắng lợi, bồi dưỡng tư tưởng, đường lối quân sự của Đảng mà còn rèn luyện chúng tôi về đạo đức, tác phong, đến cả từng lời ăn tiếng nói. Ví như Bác bảo không nên nói phi cơ mà nói máy bay, không nên gọi phi công của ta mà nên nói người lái của ta, không nên gọi phi công Mỹ mà gọi là giặc lái Mỹ. Hôm đến thăm đoàn Xung Kích, Bác khen màu sơn trên xe AM vừa đẹp vừa ngụy trang tốt, chứ đừng nên chặt cây mà ngụy trang. Về chuyện chặt cây còn một chi tiết rất đáng nhớ. Do yêu cầu chiến đấu, chúng tôi phải bố trí một số pháo ngay trên đường Thanh Niên. Để đảm bảo hướng bắn, các cán bộ tham mưu đề nghị chặt một số cây hai bên đường. Biết tin này, Bác đã có ý kiến với quân chủng, cố tìm mọi cách để khắc phục chứ không nên chặt cây làm mất vẻ đẹp của con đường.
Trong hai năm 1966-1967, cuộc chiến tranh phá hoại diễn ra ác liệt, Bác đã hai lần đến thăm bộ đội phòng không tại trận địa trực ban chiến đấu. Đại đội 6, Đoàn Tam Đảo được vinh dự đón Bác ngay tại mâm pháo, được Bác tận tay chia thuốc lá cho từng người. Đó là buổi sáng 25-9-1966. Cùng đi với Bác có đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và đồng chí Chính ủy quân chủng Đặng Tính. Tại hầm pháo khẩu đội 5, Bác hỏi han tỉ mỉ các chiến sĩ: "Ăn có đủ no không? Hằng ngày bữa cơm có thịt không?”. Tiếp đó Bác hỏi tình hình sinh hoạt, trực ban chiến đấu: "Mỗi ngày các chú trực ban mấy giờ? Ngủ mấy giờ?".
Chúng tôi thấy trên nét mặt của Bác thoáng vẻ băn khoăn khi nghe các chiến sĩ báo cáo phải trực ban chiến đấu mỗi ngày bốn phiên, mỗi phiên hai tiếng giữa những ngày mùa hè nóng nực. Bác quay sang trao đổi với đồng chí Văn Tiến Dũng và đồng chí Đặng Tính điều gì đó, rồi tiếp tục căn dặn bộ đội:
- Các chú phải thường xuyên rèn luyện nhiều hơn nữa để đánh thắng trong mọi điều kiện. Khi nào các chú bắn rơi máy bay Mỹ báo cáo ngay với Bác.
Bác Hồ thường xuyên nhắc nhở cán bộ các cấp trong quân chủng phải thực sự quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của chiến sĩ. Bác còn lấy tiền nhuận bút của mình mua đường, sữa gửi cho bộ đội phòng không - không quân, những chiến sĩ đang suốt ngày đêm canh giữ bầu trời Tổ quốc. Tấm lòng thương yêu bao la của Bác đã thực sự tăng thêm sức mạnh cho bộ đội phòng không cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân đánh thắng những bước leo thang chiến tranh của địch.
Năm 1967, kể từ tháng Tư, giặc Mỹ liên tiếp mở nhiều đợt đánh phá bằng không quân với quy mô lớn vào trung tâm Hà Nội. Đối với bộ đội phòng không chúng tôi, đặc biệt là đối với cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 361, Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, đầu mối giao thông... mà trong từng trái tim của mỗi người còn là một điều thiêng liêng hơn, to lớn hơn. Đó chính là vì ở đây có Trung ương Đảng, có Bác Hồ kính yêu đang ngày đêm sống và làm việc. Không thể nào quên những trận đánh hào hùng trên bầu trời Hà Nội đúng vào ngày kỷ niệm sinh nhật Bác, ngày 19-5-1967. Ngay tối hôm trước ngày kỷ niệm, cán bộ chiến sĩ sư đoàn hầu như thao thức không ngủ, rộn ràng chuẩn bị cho trận đánh lập công mừng thọ Bác. Chúng tôi vẫn biết rằng, tình cảm của Bác đối với lực lượng vũ trang nhân dân thật bao la. Bởi vì Bác là người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang. Người chăm chút cho tất cả mọi đứa con, nhưng riêng đối với bộ đội phòng không chúng tôi cảm thấy như được nhận sự quan tâm đặc biệt của Bác. Có đến tất cả 12 lần, bộ đội phòng không chúng tôi được Bác đến thăm và dạy bảo. Bác đến tận trận địa cao xạ, trận địa tên lửa, Sở chỉ huy... vào những ngày hè nóng lửa và cả những lúc gió rét, mưa dầm. Kể từ những ngày mới thành lập, trải qua 10 năm xây dựng hòa bình, và đặc biệt là trong những năm chiến đấu quyết liệt chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, lúc nào chúng tôi cũng cảm thấy như có Bác thường xuyên ở bên cạnh. Lá cờ "Quyết chiến quyết thắng", cờ thưởng luân lưu của Bác ở mặt trận Điện Biên Phủ, lá cờ "Học tập khá nhất", phần thưởng của Bác đối với bộ đội phòng không trong những năm xây dựng hòa bình, và lá cờ "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" trong những năm chống chiến tranh phá hoại, chính là những cái mốc quan trọng mà Bác đề ra cho chúng tôi phấn đấu vươn lên giành thắng lợi. Những ngày chúng tôi phải trực tiếp đương đầu quyết liệt nhất với không quân đế quốc Mỹ, Bác đã cho phép chúng tôi được đặt một đường dây điện thoại trực tiếp từ Sở chỉ huy đến thẳng chỗ Bác, để thường xuyên báo cáo với Bác về tình hình chiến đấu một cách nhanh nhất. Các đồng chí Phùng Thế Tài, Đặng Tính thường được Bác gọi lên. Bác hỏi cặn kẽ về âm mưu, thủ đoạn của địch, về tình hình bộ đội, những khó khăn cần giải quyết để đánh thắng. Năm 1967, khi bộ đội tên lửa có khó khăn trước những thủ đoạn đánh phá của địch, Bác đã dành thời gian trực tiếp nghe quân chủng báo cáo và cho ý kiến giải quyết kịp thời.
Nghe tin bộ đội tên lửa lần đầu tiên bắn rơi chiếc máy bay không người lái tầng cao, Bác đã dành thời gian xuống tận nơi xem xét. Thường sau những trận đánh lớn, mặc dù đã được Cục Tác chiến báo cáo kết quả, Bác vẫn cho gọi chỉ huy quân chủng lên để trực tiếp nghe tình hình cụ thể. Sự quan tâm chăm sóc, giáo dục của Bác với bộ đội phòng không thật vô bờ bến. Đó là "Nguồn sức mạnh” như lời đồng chí Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng phòng không - không quân đã khẳng định, để chúng tôi lập nên mọi chiến công.
Vinh dự càng lớn thì trách nhiệm càng cao. Bộ đội phòng không chúng tôi luôn luôn tâm niệm một điều: Phải luôn xứng đáng với sự quan tâm, chăm sóc của Bác. Như đã thành thường lệ, mỗi lần chúng tôi đánh thắng, Bác lại gửi thư khen. Thư nào Bác cũng căn dặn chúng tôi không được chủ quan khinh địch mà phải luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác. Bác luôn nhắc nhở quân chủng phải báo cáo những gương chiến đấu dũng cảm và công tác tốt để Bác gửi tặng huy hiệu của Người, còn đối với tập thể có công thì Bác gửi tặng lẵng hoa. Có lần quân chủng chưa kịp báo cáo, nhưng xem tờ Tin phòng không - không quân thấy gương chiến đấu dũng cảm của Chính trị viên Mai Văn Hợi, Bác đã lấy bút đánh dấu và ghi vào bên cạnh: "Tặng một Huy hiệu”. Tính đến cuối năm 1969 đã có 12 đồng chí được tặng huy hiệu Bác Hồ. Có những đồng chí thuộc đơn vị chiến đấu như Lã Đình Chi, Mai Văn Hợi, có đồng chí thuộc thành phần phục vụ như Cao Tiến Tân, chiến sĩ nuôi quân Đại đội 5, đoàn Tam Đảo, đồng chí Trần Hiền Thúy, chiến sĩ nữ báo vụ kiêm đánh dấu đường bay, đoàn Ba Bể... Không thể nào quên không khí tưng bừng, náo nức của những buổi lễ đón nhận lẵng hoa và huy hiệu của Bác trong những năm chiến đấu ác liệt đó. Đối với bộ đội phòng không chúng tôi, đó là những ngày hội thực sự, như được tiếp thêm nguồn sức mạnh đánh thắng kẻ thù. Bác thường đến thăm chúng tôi phần nhiều vào dịp đầu Xuân. Trong mười hai lần Bác đến thăm bộ đội phòng không, có đến sáu lần vào dịp Tết. Vào mùa Xuân cuối cùng của cuộc đời mình, Tết Kỷ Dậu năm 1969, Bác đã dành cho bộ đội phòng không một buổi đến thăm lịch sử.
Đến thăm quân chủng lần này, một quân chủng mà Bác đã dành cho sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt, Bác đã cho phép triệu tập đầy đủ các thành phần gồm đại biểu tất cả các đơn vị, các anh hùng, chiến sĩ thi đua, chiến sĩ quyết thắng. Hội trường quân chủng sáng mồng 1 Tết năm ấy thật đầm ấm, rộn ràng. Cùng đến chúc Tết với Bác có đồng chí Nguyễn Lương Bằng và đồng chí Văn Tiến Dũng. Bên cạnh niềm vui ngày Xuân đón Bác hôm đó còn có sự lo lắng của tất cả mọi người. Nhìn thấy Bác gầy hơn, yếu hơn mọi năm, bước chân không còn được nhanh nhẹn như trước, chúng tôi ai nấy lòng đều se lại. Nhưng chính Bác thì vẫn rất vui tươi, tâm hồn, tình cảm của Bác vẫn tràn đầy sức Xuân.
Bác ân cần thăm hỏi và chúc Tết mọi người. Bác nhắc nhở thành tích bắn rơi máy bay Mỹ là công lao của cả tập thể. Bác khen các đồng chí anh hùng, chiến sĩ thi đua lập công hạ được nhiều máy bay giặc nhưng Bác không quên các chiến sĩ nuôi quân, các bác sĩ, y tá, các chiến sĩ thông tin. Đồng chí Vũ Thị Huệ, chiến sĩ thông tin, các đồng chí Tạ Thị Nhung, Dương Công Lược, chiến sĩ nuôi quân, một bác sĩ và một y tá nữa được Bác gọi lên bắt tay. Khi Trung đoàn tên lửa 238 biếu Bác con lợn tăng gia được trong hoàn cảnh chiến đấu khẩn trương, Bác rất cảm động. Bác khen đơn vị tăng gia giỏi và nói vui: "Các chú biếu Bác, Bác rất cảm ơn, nhưng nếu Bác nhận thì người ta sẽ bảo Bác tham. Bây giờ Bác có ý kiến thế này: Đơn vị đem bán con lợn cho đơn vị ngoài này, rồi dùng tiền đó làm vốn tiếp tục nuôi con khác". Mọi người vui vẻ hưởng ứng gợi ý của Bác... Đặc biệt lời dạy của Bác trong buổi sáng mùa Xuân Kỷ Dậu đó có ý nghĩa sâu sắc với bộ đội phòng không - không quân: "Phải luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, không tin được Mỹ đâu, chúng nó xảo quyệt lắm, chúng là bọn đế quốc xâm lược. Phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu để khi nó giở quẻ thì mình đập lại được ngay".
Lời dạy quý báu đó của Bác đã giúp chúng tôi đánh trả kẻ địch có hiệu quả, khi đế quốc Mỹ phản bội lời cam kết, mở lại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc ngày 06-4-1972. Hồi đó, Sư đoàn 363B phòng không đã nổ những phát súng đầu tiên vào bọn không quân Mỹ, đánh thắng một trận xuất sắc trên vùng trời Quảng Bình, bắn rơi năm máy bay của chúng, có ba chiếc rơi tại chỗ, bắt sống giặc lái. Và khi bè lũ Níchxơn, Kítxinhgiơ tung màn khói "Hòa bình trong tầm tay", rồi lật lọng giở quẻ bất ngờ dùng B.52 mở cuộc tập kích chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng, bộ đội phòng không đã chủ động đánh trả kịp thời.
Ngay đêm đầu tiên, đêm 18-12-1972, chúng đã bị ta giáng một đòn phủ đầu đích đáng, ba chiếc bị bắn rơi có hai chiếc rơi tại chỗ, hàng chục giặc lái bị chết và bị bắt sống. Lời dạy của Bác mùa Xuân Kỷ Dậu năm 1969 là lời dạy cuối cùng của Bác Hồ đối với bộ đội phòng không. Bởi có ai ngờ chỉ hơn sáu tháng sau Bác đã vĩnh viễn đi xa. Bác qua đời, đó là nỗi đau thương, mất mát vô cùng to lớn của cả dân tộc, đất nước, của toàn thể lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có bộ đội phòng không. Bộ đội phòng không có vinh dự được cử đồng chí Nguyễn Tuyên, Anh hùng quân đội, thay mặt quân chủng đứng túc trực bên linh cữu Bác ở Hội trường Ba Đình. Cũng trong thời gian đó, toàn quân chủng được lệnh sẵn sàng chiến đấu cao nhất để bảo vệ an toàn cho tuần lễ tang Bác. Ngày 06-9-1969, đúng giữa những ngày đau thương đó, giặc Mỹ đã láo xược cho một máy bay không người lái xâm phạm vùng trời miền Bắc, xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng nhất của nhân dân ta đối với Bác. Biến đau thương thành sức mạnh, chỉ bằng một quả đạn, Tiểu đoàn 51 Trung đoàn tên lửa 267 đã bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay đó chỉ cách trận địa của mình chưa đầy 300 m. Chúng tôi gọi trận đánh đó là trận đánh "Kết vòng hoa viếng Bác". Bác không còn nữa nhưng những lời dạy của Bác vẫn là mệnh lệnh, là phương châm chiến đấu và rèn luyện của bộ đội phòng không. Những lời dạy đó vẫn là kim chỉ nam, là nguồn sức mạnh, là niềm tin để bộ đội phòng không chúng tôi có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ bầu trời Tổ quốc. Và chúng tôi, cán bộ, chiến sĩ bộ đội phòng không nguyện mãi mãi xứng đáng với Người.
(Trung tướng Trần Nhẫn, trích trong "Bác Hồ - nguồn sức mạnh của bộ đội Phòng không")
Tâm Trang (tổng hợp)