Phần 1. Giai đoạn 1890-1929
Năm 1904
Tháng 4, ngày 13: Nguyễn Tất Thành chịu tang bà ngoại (theo âm lịch là ngày 28 tháng 2 năm Giáp Thìn). Đây là cái tang lớn của cả gia đình. Sở dĩ ông Nguyễn Sinh Sắc học hành và đỗ đạt được chủ yếu nhờ sự quan tâm, giúp đỡ của gia đình vợ. Bà ngoại cũng đã dành cho Thành và những người cháu sớm mồ côi mẹ lòng yêu thương sâu sắc.
Tháng 4, sau ngày 13: Sau khi bà ngoại mất, Nguyễn Tất Thành theo cha từ Võ Liệt trở về Kim Liên để có điều kiện lui tới Hoàng Trù chăm lo hương khói cho gia đình bên ngoại. Nguyễn Tất Thành được phụ thân gửi đến học một thời gian ngắn với thầy Trần Thân ở làng Ngọc Đình, cạnh làng Kim Liên.
Trong năm 1912:Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của hãng Sácgiơ Rêuyni đi vòng quanh châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông… Đến đâu anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Một trong những cảnh tượng ấy anh đã trông thấy ở Đaca (Dacar) như sau:"Đến Đaca, bể nổi sóng rất dữ. Tàu không thể vào bờ. Cũng không thể thả canô xuống vì sóng rất to. Để liên lạc với tàu, bọn Pháp trên bờ bắt những người da đen phải bơi ra chiếc tàu. Một, hai, ba, bốn người da đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi”.
Cảnh đó làm cho Nguyễn Tất Thành hết sức đau xót, anh khóc. Hỏi tại sao, anh buồn rầu trả lời: “Những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người Pháp thực dân rất hung ác và vô nhân đạo. Ở đâu chúng nó cũng thế. Ở ta, tôi cũng thấy những chuyện như thế xảy ra ở Phan Rang. Bọn Pháp cười sặc sụa trong khi đồng bào ta chết đuối vì chúng nó. Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu”.
Năm 1915
Tháng 4, ngày 16: Nguyễn Tất Thành ký tên Pôn Thành (Paul Thành), từ Anh viết thư cho Toàn quyền Đông Dương, qua lãnh sự Anh tại Sài Gòn, nhờ chuyển cho cha mình, nhưng bức thư không đến người nhận vì không tìm được địa chỉ.
Năm 1920
Tháng 4, ngày 14: Nguyễn Ái Quốc gặp ông Bácđê (Bardet), Thư ký Hội liên minh nhân quyền tại số 6, phố Xơ Rôdali (Soeur Rosalie). Cùng ngày, anh nhận được nhiều thư gửi từ Anh, Cuba, Bắc Mỹ và Đông Dương.
Tháng 4, trước ngày 29: Mấy hôm liền, Nguyễn Ái Quốc tiếp ông Bạch Thái Tòng, thợ chụp ảnh ở Xoátxông (Soissons) đến gặp để mượn sách.
Năm 1921
Tháng 4, ngày 1: Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Mười trường học - 1.500 đại lý rượu, đăng trên báo La Vie Ouvriève, số 100. Bài báo kịch liệt lên án chính quyền thuộc Pháp đã đầu độc nhân dân Việt Nam bằng rượu cồn và thuốc phiện.
Bằng những con số thống kê, Nguyễn Ái Quốc so sánh ở Việt Nam cứ trên 1.000 thôn xã mới có 10 trường học, nhưng lại có tới 1.500 đại lý rượu. Hằng năm, nhân dân Việt Nam phải tiêu thụ trên 20 triệu lít rượu cồn và hàng chục tấn thuốc phiện cho "mẫu quốc", khiến đời sống của họ ngày càng xơ xác, tiêu điều.
Tháng 4, ngày 3: Nguyễn Ái Quốc tiếp Tạ Đình Cao, Võ Văn Toàn, Lê Bá Sao và một người Thuỵ Điển tên là Gioannixơn (Joannisson) tại số 6 phố Vila đê Gôbơlanh.
Tháng 4, ngày 8: Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Những kẻ bại trận ở Đông Dương, đăng trên báo La Vie Ouvrière, số 101. Tác giả tố cáo âm mưu của chính quyền "nước Mẹ" muốn bắt "những kẻ lao động An Nam" phải"đóng góp" để trả thay cho chúng những khoản nợ nần, thua thiệt trong chiến tranh, "vì dù sao nước Pháp, chính quốc, đã cứu Đông Dương thoát khỏi sự tham lam của nước Đức".
Nhân danh hàng nghìn người An Nam đã bỏ thây ở nước Pháp trong chiến tranh, tác giả "cám ơn" lời tuyên bố của ông Xarô tốt bụng, vì dân An Nam "biết rất rõ chính chiến thắng trên sông Mácnơ đã ngăn cản quân xung kích Đức tiến về sông Mê Kông, để truyền bá trên ruộng đồng chúng tôi chế độ dã man của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc Phổ. Nếu không có ngài và người thay mặt đáng kính của chúng tôi, ông Utơrây, chúng tôi sẽ mất cái tự do thân yêu được say sưa bằng rượu cồn và cái bình đẳng quý giá được đầu độc bằng thuốc phiện; không có ngài, giai cấp vô sản bản xứ không còn được nhồi nhét vào tai những bài diễn văn hay ho và những lời hứa tốt đẹp được ngài ban cho một cách hữu ái; không có ngài...".
Tháng 4, ngày 18: Hồi 12 giờ 30, Nguyễn Ái Quốc, Tạ Văn Căn và Duyên rời nhà số 6 phố Vila đê Gôbơlanh, đi dự cuộc họp của Liên hiệp công đoàn quận Xen (Seine) tổ chức vào hồi 14 giờ.
18 giờ, ba người ra về. 19 giờ 30, Nguyễn Ái Quốc và Tạ Văn Căn tiễn Duyên ra ga Óocxay (Orsay) đi Caxtrơ (Castres).
Tháng 4, ngày 30: Nguyễn Ái Quốc nhận khoảng 10 tờ báo Le Libertaire số 118, ba tờ đã được chuyển đi. Cùng ngày, Nguyễn Ái Quốc còn nhận được Tạp chí La Revue Communiste (Tạp chí Cộng sản).
Trong tháng 4-1921: Nguyễn Ái Quốc viết bài Đông Dương, đăng trên La Revue Communiste, số 14, tháng 4-1921. Nguyễn Ái Quốc đã phê bình một số Đảng Cộng sản ở các "cường quốc thực dân" chưa quan tâm đến vấn đề cách mạng ở các nước thuộc địa và chưa nghiên cứu vấn đề này một cách nghiêm túc. Về tình hình Đông Dương, theo tác giả: "Nói rằng Đông Dương gồm hai mươi triệu người bị bóc lột, hiện nay đã chín muồi cho một cuộc cách mạng là sai, nhưng nói rằng Đông Dương không muốn cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ như các ông chủ của chúng ta thường vẫn nghĩ như thế, thì lại càng sai hơn nữa".
Người Đông Dương, mặc dù bị thực dân Pháp ra sức đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác, tác giả vẫn khẳng định: "Không: Người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ Ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương".
"Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo là những người thầy duy nhất của họ. Nếu những người xã hội chủ nghĩa lơ là việc giáo dục, thì giai cấp tư sản thực dân và bản xứ - bọn quan lại - cứ phụ trách giáo dục bằng phương pháp của chúng. Người Đông Dương tiến bộ một cách rất màu nhiệm và khi thời cơ cho phép họ sẽ biết tỏ ra xứng đáng với những người thầy của họ".
Kết thúc bài báo, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy thời cơ đó mau đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi".
Năm 1922
Tháng 4, ngày 1: Báo Le Paria do Nguyễn Ái Quốc - một trong những người sáng lập, ra số đầu tiên. Tờ báo được in trên khổ giấy 36 x 50cm. Phía trên, bên cạnh tên chính của tờ báo bằng chữ Pháp: Le Paria còn có tên báo bằng chữ Arập ở bên trái và chữ Hán ở bên phải: Lao động báo. Tiêu đề của báo là Diễn đàn của các dân tộc thuộc địa. Địa chỉ của tờ báo: Số 16 phố Giắccơ Calô (Jacques Calot), Pari VI.
Số 1 có đăng Lời kêu gọi, nêu rõ mục đích tôn chỉ của tờ báo: Báo Le Paria ra đời do sự thông cảm chung của các đồng chí ở Bắc Phi, Trung Phi và Tây Phi thuộc Pháp, ở Mađagátxca, ở Đông Dương, Ăngti và Guyannơ.
Báo Le Paria tố cáo sự lạm quyền về chính trị, độc đoán về hành chính, bóc lột về kinh tế mà nhân dân trên các lãnh thổ rộng lớn ở hải ngoại là nạn nhân. Báo kêu gọi họ đoàn kết lại để đấu tranh cho sự tiến bộ về vật chất và tinh thần của chính họ, hô hào họ tổ chức lại nhằm mục đích giải phóng những người bị áp bức khỏi những lực lượng thống trị, thực hiện tình yêu thương và hữu ái.
"Báo Le Paria là vũ khí để chiến đấu. Sứ mạng của nó đã rõ ràng: Giải phóng con người".
Trên trang nhất số báo này có đăng thông báo về đề tài Sân khấu Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc trình bày trong chương trình sinh hoạt tháng 4-1922 của Câu lạc bộ Phôbua.
Tháng 4, ngày 30: Nguyễn Ái Quốc đã dự một buổi biểu tình của cộng sản tại vùng Cơlisi (Clichy).
Năm 1923
Tháng 4, đầu tháng: Nguyễn Ái Quốc đăng quảng cáo nghề làm ảnh của mình trên báo La Vie Ouvrière. Nội dung như sau:
“Xin giới thiệu với độc giả và bè bạn:
Mọi loại ảnh cũ, hoặc trích trong báo chí, v.v. đều có thể chụp lại, làm thành như ảnh mới, ảnh kỹ thuật.
Giá từ 20 phrăng, do Nguyễn Ái Quốc số 3 đường Mácsê đê Patơriácsơ".
Tháng 4, ngày 2: Nguyễn Ái Quốc họp với Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Ái, Nguyễn Văn Hai, ông Lê Đức Long và ba người Việt Nam khác do ông Ái mời đến tại số 6 Vila đê Gôbơlanh để bàn vấn đề thành lập một hội, lấy tên là Hội Thân ái. Cuộc họp đặt vấn đề cần nhanh chóng lập Hội Thân ái và trao đổi ý kiến về vấn đề chọn người làm chủ tịch. Hội Thân ái được thành lập xong vào cuối tháng 4-1923, Chủ tịch hội là Trần Tiến Nam, Phó Chủ tịch là Lê Đức Long.
Tháng 4, ngày 4: Nguyễn Ái Quốc, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Văn Ái đã họp tại trụ sở Hội liên hiệp thuộc địa, số 3 đường Mácsê đê Patơriácsơ. Nguyễn Ái Quốc đã trình bày về tình hình tài chính của tờ báo Le Paria bị hụt mất 1.500 phrăng, trong đó một phần là phải trả cho nhà in.
Nguyễn Ái Quốc nêu ý kiến rằng tờ báo phải sống bằng bất cứ giá nào, vì nếu tờ báo bị chết trong lúc này sẽ làm thiệt hại lớn đến công việc tuyên truyền, mà lúc này hơn lúc nào hết đang cần để nhân dân vô sản thế giới chống bọn đi bóc lột. Nguyễn Ái Quốc còn đề nghị tổ chức một buổi quảng cáo cho tờ báo.
Tháng 4, ngày 13: Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Chủ nghĩa quân phiệt thực dân, đăng trên báo La Vie Ouvrière.
Bài báo nêu những dẫn chứng cụ thể về thủ đoạn bắt lính cực kỳ dã man ở thuộc địa, để khẳng định: “Sự tàn ác của bọn bắt lính ở các thuộc địa tinh vi tới mức thậm chí người Pháp ở chính quốc cũng không thể hình dung được một cái gì giống như thế”. Và, đó “là một trong những nguyên nhân thúc đẩy” những người dân bản xứ đứng lên bạo động, chống lại chủ nghĩa quân phiệt thực dân.
Tháng 4, ngày 16: Nguyễn Ái Quốc nhận được giấy mời dự Đại hội thường kỳ lần thứ 7 Hội những người bạn phương Đông của Pháp, sẽ họp vào 14 giờ 30 ngày 22-4-1923 tại Bảo tàng Ghimê (Guimet).
Tháng 4, ngày 27: Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Những kẻ tham tàn đăng trên báo La vie Ouvrière, chỉ trích ông Anbe Xarô vì ông Xarô nói rằng: “Chúng ta là những thực dân tốt và người bản xứ rất bằng lòng, rất bằng lòng chúng ta”.
Sau khi dẫn ra những cuộc khởi nghĩa ở Đông Dương, ở Angiêri và ở châu Úc, Nguyễn Ái Quốc đã công bố những con số mà Chính phủ Pháp đã phải chi phí cho các quân nhân của họ ở thuộc địa: “183.859.000 phrăng để nuôi 1.617 sĩ quan, 12.277 lính châu Âu, 49.999 lính người bản xứ”.
Trong tháng 4-1923: Bài viết của Nguyễn Ái Quốc, ký tên N., nhan đề Tinh hoa của xứ Đông Dương, đăng trên báo Le Paria, số 13.
Tác giả kể lại chuyện: Trong đám tang Toàn quyền Lông, một ông tiến sĩ luật học kiêm tiến sĩ khoa chính trị học và kinh tế học nọ, tòng sự tại Tòa biện lý Sài Gòn và một ông kỹ sư kia là Chủ tịch Hội những người Đông Dương đã thành tâm than khóc và tán dương địa vị, công lao, đức độ của Lông bằng những lời lẽ rất chi là mỹ miều. Bài báo mỉa mai: "Từ sự việc trên, tôi đi đến kết luận rằng: Nếu quả thực tất cả những người An Nam đều cũng luồn cúi sát đất như hai đứa con này của guồng máy cai trị thì quả thực là dân này xứng đáng với cái số phận được cho”.
Năm 1924
Tháng 4, ngày 2: Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Chủ nghĩa đế quốc Pháp dám làm những gì?, đăng trên Tập san Inprekorr, bản tiếng Pháp, số 20.
Qua việc nhà cầm quyền thực dân Pháp trục xuất những người yêu nước Ấn Độ, và câu chuyện về cái chết thê thảm của hơn một nghìn người dân Tripôli (Tripolie) gồm ông già, bà lão, đàn ông, đàn bà, trẻ em muốn nhưng không được phép vào lánh nạn ở Tuynidi, một xứ thuộc địa của Pháp, bài báo vạch trần tội ác ghê tởm của đế quốc Pháp trong việc đồng loã với đế quốc Anh, đế quốc Ý tiêu diệt những người yêu nước bản xứ. Bài viết rút ra kết luận: "Chủ nghĩa đế quốc Pháp quả là không hề ngần ngại nhúng tay vào những tội ác bỉ ổi nhất".
Tháng 4, ngày 11: Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Bức thư ký tên Nguyễn.
Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét: "Những thuộc địa của Pháp nói chung và xứ Đông Dương nói riêng ít được biết đến trong giới vô sản và cộng sản. Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp rất ít được thông tin về những gì xảy ra tại những thuộc địa đó". Cho nên "nếu chúng ta muốn hoạt động một cách có ích về vấn đề thuộc địa thì nhất thiết phải bắt liên lạc với các thuộc địa đó".
Trong thư, Nguyễn Ái Quốc cho rằng chuyến về Việt Nam qua Trung Quốc của mình "sẽ là một chuyến đi điều tra và nghiên cứu", và dự định sẽ làm những việc:
- Thiết lập những quan hệ Đông Dương và Quốc tế Cộng sản.
- Thông báo cho Quốc tế Cộng sản về tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của thuộc địa này.
- Bắt liên lạc với các tổ chức chính trị ở xứ đó.
- Cố gắng tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền.
Để hoàn thành nhiệm vụ này, Nguyễn Ái Quốc viết trong thư: "Trước hết tôi phải đi Trung Quốc. Tiếp đó hướng sự hoạt động theo những khả năng sẽ xuất hiện". Người còn dự trù một khoản kinh phí hằng tháng cần thiết cho sự ăn ở và công tác, và "hy vọng rằng những điều trên sẽ có thể dùng làm cơ sở để các đồng chí thảo luận về việc cử tôi đi Viễn Đông".
Trong thư Nguyễn Ái Quốc cũng tỏ ý không hài lòng về trường hợp của mình. Lúc tới Mátxcơva tháng 7-1923, nhiệm vụ của Nguyễn Ái Quốc đã được quyết định: Sau ba tháng lưu lại ở đây, Nguyễn Ái Quốc sẽ đi Trung Quốc để tìm cách liên lạc với Đông Dương. Vậy mà, "bây giờ đã là tháng thứ chín tôi lưu lại và là tháng thứ sáu tôi chờ đợi", và"việc lên đường của tôi vẫn chưa được quyết định".
Tháng 4, ngày 14: Nguyễn Ái Quốc có quyết định của Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản do đồng chí Pêtơrốp ký nhận vào làm cán bộ ngoài biên chế của ban với mức lương tháng là 6 trécnôvéc (tương đương 60 rúp).
Tháng 4, ngày 30: Nguyễn Ái Quốc nhận được thư mời tham dự lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động tổ chức tại Quảng trường Đỏ, Mátxcơva. Toàn văn bức thư như sau:
Quốc tế Cộng sản Ban Chấp hành |
Vô sản tất cả các nước Đoàn kết lại Mátxcơva, ngày 30 tháng 4 năm 1924 |
Kính gửi: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc
Theo đề nghị của Thành uỷ Mátxcơva Đảng Cộng sản Nga, Ban Bí thư Quốc tế Cộng sản mời đồng chí ngày mai, 1 tháng 5, từ 12 giờ đến 2 giờ chiều có mặt tại Hồng trường để nói chuyện với những người biểu tình.
Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Quốc tế Cộng sản
V. Côlarốp
Kèm theo thư mời là thẻ đi lại do Bộ Tư lệnh bộ đội bảo vệ Thủ đô Mátxcơva ký.
GIẤY PHÉP ĐƯỢC ĐI LẠI KHẮP NƠI
"Thẻ đi lại công tác, cấp cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc, được quyền đi lại trên Quảng trường Đỏ trong ngày biểu dương lực lượng 1 tháng 5".
Năm 1925
Tháng 4, ngày 8: Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Lối cai trị của người Anh, đăng trên Tập san Inprekorr, bản tiếng Pháp, số 33. Tác giả nêu những nhận xét về chính sách xâm lược mới của chủ nghĩa đế quốc Anh ở Trung Quốc, Ấn Độ và Xuđăng (Soudan) sau khi Đảng Bảo thủ trở lại nắm chính quyền.
Tháng 4, ngày 9: Nguyễn Ái Quốc, với bút danh L.T, viết thư trả lời ông H (Thượng Huyền), góp ý kiến nhận xét về tập Cách mệnh của ông theo yêu cầu của tác giả. Nhận xét về tình hình tác phẩm, sau khi cho rằng tác giả đã dùng nhiều điển tích, lối hành văn cầu kỳ, lạm dụng từ ngữ Trung Quốc, v.v., Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên một số quan điểm của mình về cách viết, rằng: "Dùng điển tích là tốt, nhưng nếu lạm dụng sẽ làm cho độc giả khó chịu. Bởi vì tính chất cao xa, thâm thuý của các điển tích thường cũng hay bao hàm những ý nghĩa mơ hồ có thể làm cho người ta hiểu lầm", rằng: "Một tác phẩm văn chương không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, khi nó trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được, và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như là một tác phẩm hay và biên soạn tốt", rằng "Một lối hành văn giản dị, chính xác hơn hẳn cái lối hành văn rườm rà, hoa mỹ", rằng "Nếu tác phẩm của ông lại định dùng để tuyên truyền thì đó phải là một tác phẩm ai đọc cũng hiểu được. Một tác phẩm hành văn hay mà khó hiểu thì chẳng có ích gì"...
Về nội dung tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét có tính chất phê phán quan điểm của ông H về cách mạng, về việc ông lên án những hành động của Chính phủ Pháp, về nguyên nhân "cách mệnh của chúng ta" không thành công, về chủ trương "một cuộc cách mệnh hoà bình". Tóm lại, viết về cách mệnh, "Ông không nói 1) Phải làm gì trước cách mệnh, 2) Phải làm gì trong cách mệnh, 3) và phải làm gì sau cách mệnh.
Ông chưa bàn đến lực lượng mà người Pháp có thể sử dụng (ở nước ta) và cũng chưa bàn đến lực lượng của ta.
Ông đã nhầm lẫn tẩy chay với cách mệnh và ngược lại".
Cuối thư, Nguyễn Ái Quốc viết:
"Tôi đã nói thẳng những ý kiến của tôi về bài viết của ông; và cũng nhân cơ hội này, nêu lên một số vấn đề để thảo luận; mong rằng có thể rút ra từ đó một cái gì để mở rộng thêm kiến thức của tôi. Xin thành thực và nhiệt liệt hoan nghênh tài cao trí lớn của ông. Bất cứ một người lao động nào, dù thông minh đến đâu, đôi lúc cũng có thể sai lầm. Chỉ có những kẻ ngồi không mới không sai lầm mà thôi. Nhưng làm việc mà có sai lầm còn hơn là sợ sai lầm mà khoanh tay ngồi không!".
Năm 1926
Tháng 4, ngày 4: Ký bút danh Mộng Liên, Nguyễn Ái Quốc viết bài Về sự bất công gửi báo Thanh niên đăng trên mục Dành cho phụ nữ.
Tác giả đã dẫn lời của Khổng Tử, Mạnh Tử, cách ví von của người Trung Quốc và câu nói cửa miệng của người Việt Nam về thân phận của người phụ nữ đã bị hạ thấp tột bậc và không được hưởng chút quyền gì trong xã hội và trong gia đình. Và đặt ra một câu hỏi lớn:
"Hỡi chị em! Vì sao chị em lại phải chịu sự áp bức bất công này?".
Năm 1928
Tháng 4, ngày 12: Từ Béclin, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản trình bày về hoàn cảnh hiện tại của mình. Bức thư có đoạn viết: “Không thể công tác ở Pháp, ở Đức vô ích, nhưng cần thiết ở Đông Dương, nên tôi đã xin lại lên đường về xứ sở này. Trong những thư gửi cho các đồng chí, tôi đã lập một ngân sách công tác và một ngân sách đi đường.
Khi đồng chí Đôriô qua Béclin, đồng chí đã hứa sẽ quan tâm đến vấn đề của tôi. Tôi đã nói với đồng chí ấy là nếu không được kinh phí công tác, miễn là đồng chí cho tôi tiền đi đường, thì dù thế nào tôi cũng sẽ đi, bởi vì đã một năm tôi lang thang từ nước này sang nước khác trong khi có nhiều việc phải làm ở Đông Dương.
Nhưng cho tới nay tôi chưa nhận được chỉ thị của các đồng chí, cả câu trả lời của đồng chí Đôriô.
Hiện nay, tôi ở trong hoàn cảnh khó khăn không chịu nổi:
1) Chờ đợi vô thời hạn (tôi chờ chỉ thị đã 4 tháng).
2) Không có gì để sống vì rằng MOPR không thể giúp tôi một cách vô hạn, ngay cả cho 18 đồng mác mỗi tuần (số tiền đối với tôi không đủ sống nhưng quá nặng cho tổ chức).
Vậy tôi xin các đồng chí cho tôi càng sớm càng tốt những chỉ thị chính xác về điều mà tôi phải làm và bao giờ thì tôi có thể lên đường”.
Cùng ngày, Nguyễn Ái Quốc còn gửi thư cho một cán bộ của Quốc tế Cộng sản.
Toàn văn bức thư như sau:
“Đồng chí thân mến,
Tôi gửi cho đồng chí một bản sao bức thư gửi cho Ban Phương Đông để đồng chí được biết. Đồng thời tôi rất cám ơn về việc đồng chí quan tâm đến vấn đề của tôi và nhanh chóng trả lời tôi. Đồng chí có thể hình dung nổi tôi đang sống trong một tình trạng tinh thần và vật chất như thế nào không: biết là có nhiều công việc nhưng không thể làm gì được, ăn không ngồi rồi, không có tiền, sống ngày nào hay ngày ấy mà không được phép hoạt động, v.v..
Ngay cả khi những sự vận động của đồng chí không có kết quả, đồng chí cũng viết cho tôi một chữ Uỷ ban Trung ương KPD) để tôi liệu quyết định. Hôm nay là ngày 12-4, tôi hy vọng nhận được tin tức của đồng chí vào ngày 24 tới. Tôi tin cậy ở đồng chí và gửi đến đồng chí lời chào cộng sản anh em.
Nguyễn Ái Quốc”.
Tháng 4, ngày 14: Bài viết của Nguyễn Ái Quốc, ký bút danh Wang, nhan đề Phong trào công nhân ở Ấn Độ, đăng trên Tập san Inprekorr, bản tiếng Pháp số 37 và bản tiếng Đức số 35.
Về tình hình phát triển của giai cấp công nhân Ấn Độ, bài báo cho biết: Đầu những năm 20, tuy có sự gia tăng về số lượng, song phần lớn giai cấp công nhân Ấn Độ chưa được tổ chức và số đông nghiệp đoàn chịu ảnh hưởng cải lương của Đảng Lao động Anh. Từ nửa sau những năm 20, dấu hiệu chứng tỏ bước phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân Ấn Độ rất rõ nét, đình công liên tiếp nổ ra không riêng ở một ngành mà ở nhiều ngành, yêu sách kinh tế đã kết hợp chặt chẽ với yêu cầu chính trị… Nguyên nhân của sự chuyển biến đó, như bài báo đã chỉ rõ: “Mặc dù có tình trạng vô tổ chức của thợ thuyền và thái độ hèn nhát của những người theo chủ nghĩa cải lương, sự nghèo khổ làm cho vô sản Ấn Độ cấp tiến hơn”.
Tháng 4, ngày 18: Bài viết của Nguyễn Ái Quốc, ký bút danh Wang, nhan đề Nông dân Ấn Độ, đăng trên Tập san Inprekorr, bản tiếng Pháp số 38, bản tiếng Anh số 23, bản tiếng Đức số 42.
Tác giả viết về tình cảnh khốn cùng của nông dân Ấn Độ dưới ách áp bức bóc lột của bọn địa chủ Anh, địa chủ bản xứ, bọn cho vay nặng lãi, bọn bao thầu thuế… là những đồng minh trung thành và chỗ dựa vững chắc cho chủ nghĩa đế quốc Anh.
Hàng triệu nông dân Ấn Độ đã bị chết đói, làng xóm xác xơ. Từng đoàn người kéo nhau đi lang thang, hoặc lũ lượt dồn về các thành phố, hình thành lớp “vô sản áo rách”, sống vất vưởng bằng nghề hành khất. Mặc dù vậy, tác giả vẫn tin tưởng:
"Tuy không có tổ chức hoặc tổ chức còn lỏng lẻo - người nông dân nghèo khổ thúc bách - thường nổi dậy chống kẻ bóc lột".
Tháng 4, ngày 25: Nguyễn Ái Quốc được Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ra quyết định đồng ý để Người trở về Đông Dương theo nguyện vọng.
Bản quyết định ghi: “Theo nguyện vọng của đồng chí (Nguyễn Ái Quốc – B.T), đồng chí có thể trở về Đông Dương; chi phí chuyến đi cũng như thời gian ba tháng lưu lại do Đảng Cộng sản Pháp chịu”.
Tháng 4, ngày 28: Nguyễn Ái Quốc nhận được thư của Badin (Basil) báo tin đã nhận được thư viết ngày 17-4-1928 của Nguyễn Ái Quốc và thông báo rằng Ban Phương Đông đã quyết định gửi cho Nguyễn Ái Quốc tiền đi đường và một phần trợ cấp cho ba tháng đầu.
Năm 1929
Khoảng đầu năm
Từ Uđon, Nguyễn Ái Quốc đến Sacôn, nơi có đông Việt kiều hơn ở Uđon và các tổ chức cách mạng cũng ra đời từ lâu.
Ở Sacôn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục củng cố và xây dựng cơ sở cách mạng để mở rộng phong trào. Ngoài việc dịch sách và huấn luyện thanh niên, hằng ngày Người tổ chức cho cán bộ học tập và nghiên cứu về tình hình thế giới, tình hình trong nước, về chủ nghĩa Mác - Lênin, chú ý nhiều hơn việc giáo dục cán bộ về công tác quần chúng và công tác bí mật.
Kiều bào ở đây, một số theo đạo Thiên Chúa, một số theo đạo Phật, một số thờ Đức thánh Trần, nói chung còn chậm tiến và mê tín. Thấy bà con đau ốm lại chữa bệnh bằng cúng bái, Nguyễn Ái Quốc vận động lập tủ thuốc chung và mời thầy thuốc đến khám bệnh. Người viết bài ca Trần Hưng Đạo theo thể song thất lục bát, kể rõ sự tích đánh giặc cứu nước của vị anh hùng dân tộc để giáo dục lòng yêu nước cho kiều bào. Bài ca có đoạn:
Diên Hồng thề trước thánh minh
Lòng dân đã quyết hy sinh rành rành
Nếu ai muốn đến giành đất Việt,
Đưa dân ta ra giết sạch trơn,
Một người dân Việt hãy đương còn,
Thì non sông Việt vẫn non sông nhà.
Người còn viết nhiều vở kịch thường lấy đề tài lịch sử, bày cho bà con cách diễn kịch và đôi khi cũng tham gia diễn.
Một thời gian dài Nguyễn Ái Quốc ở ngay tại hiệu thuốc của Đặng Văn Cáp và đã tranh thủ học nghề thuốc, nắm được những hiểu biết cơ bản về thuốc và chữa bệnh. Có lần đã bốc thuốc cho một cán bộ bị ốm và người này đã khỏi bệnh. Người còn tìm ra cây hy thiêm mọc trong vùng, chữa được chứng bệnh phong thấp.
Thỉnh thoảng, Người cùng với một số cán bộ, cũng khăn gói tay đẫy đi buôn để gây quỹ cho tổ chức.
Huyền Trang (Tổng hợp)
Còn nữa
Năm 1930
- Tháng 4, ngày 5: Nguyễn Ái Quốc viết Thư gửi đồng chí ZAO và các học sinh Việt Nam đang học ở Liên Xô. Sau khi thông báo “trong nước bây giờ đã có Đảng thống nhất vững vàng, không còn những tệ chia lìa ấu trĩ như trước nữa”, Người báo tin sẽ có các đại biểu là công nhân sang Liên Xô dự Đại hội Quốc tế Lao động. Người yêu cầu đồng chí ZAO “phụ trách phần dịch cho các đại biểu đó” và gợi ý những việc phải làm để giúp các đại biểu hoàn thành nhiệm vụ.
Người còn căn dặn: “Tất cả anh em học sinh, nhất là người phụ trách, đối với đại biểu lao động phải tỏ tình rất thân mật. Chớ để người ta trông thấy sự phân biệt trí thức và vô sản”. Người yêu cầu: “Làm sao cho anh em đại biểu hiểu, hăng hái, và yêu mến Xô-Nga, lại có cảm tình với anh em lao động các nước”. Và nhắc lại sau Đại hội phải gửi thư về báo cáo qua Ban Phương Đông.
- Tháng 4, ngày 10: Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Quốc tế Cộng sản báo cáo tình hình về những ngày đầu đến Xiêm, về việc lập Hội Thân ái... Phần lớn báo cáo nói về việc hợp nhất Đảng, xây dựng cương lĩnh, vấn đề chiến lược, chiến thuật theo đường lối của Quốc tế Cộng sản, về việc lập ra một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời gồm bảy người chính thức và bảy người dự khuyết...
- Tháng 4, cuối tháng: Nguyễn Ái Quốc đến Đông - Bắc nước Xiêm (Thái Lan). Người báo tin cho một số đồng chí ở đây biết các nhóm cộng sản ở Việt Nam đã thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây Người còn làm nhiệm vụ do Quốc tế Cộng sản giao.
- Tháng 4, khoảng cuối tháng:
+ Nguyễn Ái Quốc đến Malaixia làm nhiệm vụ do Quốc tế Cộng sản giao.
+ Tại Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc gặp đồng chí Trần Phú từ Liên Xô trở lại Trung Quốc. Người thông báo cho đồng chí Trần Phú về việc hợp nhất Đảng tháng 2-1930 và đã báo cáo với Chi nhánh Ban Phương Đông ở Thượng Hải, các đồng chí đã nhất trí. Sau đó, phân công đồng chí Trần Phú về Bắc, còn đồng chí Ngô Đức Trì về Sài Gòn.
Năm 1931
- Tháng 4, ngày 20: Nguyễn Ái Quốc viết Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, ký tên Nguyễn Ái Quốc. Trong thư, Người phê bình về cuộc Hội nghị Xứ uỷ Trung và Bắc trong “Cách khai hội”, “Cách thảo luận”, trong “Vấn đề công tác”, “Vấn đề tên Đảng”, “Lực lượng của Đảng”. Người đề nghị Đảng phải sửa chữa những thiếu sót đó, phải có chương trình hành động cụ thể cho từng huyện và từng tỉnh, cho mỗi đồng chí trong mỗi tổ chức, và yêu cầu “Tất cả mọi đảng viên và tất cả các chi bộ phải thảo luận Chỉ thị của Quốc tế thứ ba và Nghị quyết của Trung ương”.
Thư có kèm theo một bảng thống kê số lượng đảng viên, chi bộ, thanh niên, công hội, nông hội, phụ nữ trong 13 tỉnh và huyện. Qua bảng thống kê này, Người chỉ ra “năm nơi có Nông hội rất yếu”, ở Trung (tức Trung Kỳ) chưa có chỗ nào tổ chức được công nhân nông nghiệp, ở Bắc (tức Bắc Kỳ) “chỉ có hai tỉnh là có Công hội”...
- Tháng 4, ngày 23: Nguyễn Ái Quốc viết Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (đầu thư đề ngày 23-4-1931, cuối thư đề ngày 24-4-1931 và không ký tên người viết). Trong thư, Người thông báo về những cán bộ được cử về nước theo đường dây liên lạc, nhắc nhở công tác bảo vệ Đảng, giữ gìn bí mật, duy trì chế độ báo cáo giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế Cộng sản và đề nghị Trung ương ghi nhận nhiệm vụ của mình đã được Ban Phương Đông xác định. Kèm theo thư là một “miếng giấy nhỏ” của Đoàn Thanh niên Cộng sản Quốc tế.
Mùa Xuân, trước tháng 6 năm 1934: Vào một ngày Xuân, trong bộ quần áo dài Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc bước lên một chiếc tàu hàng Xôviết ở Thượng Hải để đi Liên Xô. Sau mấy ngày, tàu cập cảng Vlađivôxtốc (Liên Xô).
Mùa Hè 1936
- Nguyễn Ái Quốc cùng với một số đồng chí trong Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản chuẩn bị cho các đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, Tú Hưu về nước qua đường Pháp - Hồng Kông - Việt Nam. Người dặn kỹ kinh nghiệm, mật hiệu liên lạc khi đến Hồng Kông... Người còn dặn mấy ý kiến chuyển tới đồng chí Duy (tức Lê Hồng Phong) ở Thượng Hải: Trung ương Đảng phải chuyển về trong nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào; không thoả hiệp với bọn tơrốtxkít; lập Mặt trận Dân tộc dân chủ rộng rãi chống phát-xít, chống chiến tranh đế quốc...
- Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị kế hoạch xin về nước. Người dự định sang Béclin rồi sang Pháp, và từ Pháp đi tàu về Đông Dương... Nếu gặp khó khăn thì đến Thượng Hải, nơi Quốc tế Cộng sản đã lập lại các cơ sở liên lạc của mình, rồi tìm đường về Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc được Vụ Tổ chức Cán bộ của Quốc tế Cộng sản mời đến làm tờ khai lý lịch, hộ chiếu, giấy đi đường... Song, chuyến đi này phải huỷ bỏ vì tình hình thay đổi.
Trong khi chờ đợi một dịp khác, Nguyễn Ái Quốc vào làm việc tại Viện Nghiên cứu Các vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt trụ sở tại nhà số 25, đại lộ Tvécxkôi ở Mátxcơva.
Khoảng giữa năm 1937
- Nguyễn Ái Quốc (Lin) dự kỳ thi học kỳ I năm học 1937-1938 của lớp nghiên cứu sinh Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Các môn duy vật biện chứng, lịch sử cổ đại và lịch sử trung đại đạt trung bình, môn lịch sử hiện đại đạt điểm xuất sắc.
- Nguyễn Ái Quốc (Lin) là một trong hai nghiên cứu sinh không đăng ký đi nghỉ hè một tháng theo kế hoạch của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa dành cho các nghiên cứu sinh.
Năm 1939
- Tháng 4, ngày 9: Bài viết Thư từ Trung Quốc khởi đầu bằng dòng chữ “Quế Lâm, cuối tháng 2”, ký tên P.C. Lin của Nguyễn Ái Quốc, in trên báo Notre Voix. Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra sự thống nhất và hợp tác bước đầu của hai Đảng chính trị lớn ở Trung Quốc lúc bấy giờ là Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng trong Mặt trận dân tộc chống Nhật. Mặt khác, Nguyễn Ái Quốc cũng lên án khuynh hướng thất bại chủ nghĩa và đầu hàng Nhật, mà đại biểu của nó là Uông Vệ Tinh - cựu Chủ tịch Hội đồng chính trị quốc gia nước Trung Hoa.
Người giới thiệu kết quả của kỳ họp lần thứ ba của Hội đồng chính trị quốc gia Trung Quốc: “vạch ra và thảo luận 86 dự án và kiến nghị, trong đó có 19 dự án và kiến nghị thuộc những vấn đề về quân sự, 18 về kinh tế và tài chính, 17 về giáo dục nhân dân, 3 về ngoại giao, 28 về nội trị, 3 về những vấn đề khác”.
- Tháng 4, ngày 16: Bài viết Thư từ Trung Quốc khởi đầu bằng dòng chữ “Quế Lâm, đầu tháng 3”, ký tên P.C. Lin của Nguyễn Ái Quốc in trên báo Notre Voix.
Nguyễn Ái Quốc trích dẫn từ bản tin Những con số hùng hồn về những thiệt hại, tổn thất của bọn xâm lược Nhật Bản “trên mặt trận du kích” ở Trung Quốc. Trong phần kết, Người viết: “Nhưng nếu bọn Nhật muốn quân du kích đánh giặc như những “người văn minh” bằng cách dùng giáo mác và súng trường để chọi với xe tăng và đại bác thì chúng có thể cứ chờ đó. Chúng tôi không đến nỗi ngu ngốc như thế!”.
- Tháng 4, ngày 20: Nguyễn Ái Quốc viết Thư gửi một đồng chí ở Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, ký tên Lin, để bổ sung thêm một vài điều mà trong thư trước quên chưa nói. Đó là mối quan hệ với tờ Notre Voix, tờ báo có “những thông tin khá hay” về những tờ báo cánh tả, về Đảng Xã hội, về hoạt động của “đại biểu đảng viên xã hội người bản xứ ở Hội đồng thành phố Hà Nội”, về “sự đàn áp xảy ra ở khắp nơi, đặc biệt là ở Trung Kỳ, chống những... phần tử cánh tả, những công nhân và những nông dân hoạt động", về sự hoạt động của bọn phản động. Qua đó, Người nhận định: “Tôi có cảm tưởng rằng phong trào của mặt trận thống nhất ở xứ này không mạnh lắm. Trái lại, những phần tử cánh tả hoạt động khá mạnh”. Người cũng thông báo đã “góp phần nhỏ bé(...) vào cuộc đấu tranh chống Nhật Bản bằng cách thỉnh thoảng gửi những bài tuyên truyền cho các báo nước ngoài và công tác ở Bát lộ quân”.
- Tháng 4, ngày 30: Bài viết Chủ nghĩa anh hùng của công nhân Trung Quốc trong chiến tranh chống Nhật, ký tên P.C. Lin, của Nguyễn Ái Quốc, in trên báoNotre Voix. Nguyễn Ái Quốc giới thiệu những hoạt động đầu tiên của công nhân mỏ Hân Định khi bọn Nhật đến khai thác “miếng mồi béo bở” này. “Công nhân mỏ biến thành du kích” và đó là“gánh nặng” đối với kẻ xâm chiếm. Vì vậy, Người mở đầu bài viết bằng một khẳng định: “Trong chiến tranh chống Nhật, công nhân Trung Quốc là những người yêu nước ưu tú nhất”. Nông dân cũng là lực lượng kháng Nhật mạnh mẽ. Cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc làm cho “Bọn Nhật ngày càng trở nên mệt mỏi”. Từ những cuộc đấu tranh riêng rẽ của nông dân, công nhân đã “hình thành nên một phong trào mạnh mẽ của du kích vùng mỏ... Như vậy là bùng nổ cuộc chiến tranh công khai thật sự giữa bọn Nhật và anh em công nhân ở Hân Định".
Cuộc chiến tranh chống Nhật của công nhân Trung Quốc được cả hai vợ chồng kỹ sư người Đức ủng hộ. Cuộc chiến đấu này không chỉ khẳng định phẩm chất “yêu nước ưu tú nhất” của công nhân Trung Quốc mà còn vì nền văn minh chung của nhân loại nữa.
Năm 1940
- Tháng 4:
+ Nguyễn Ái Quốc đi thăm một số cơ sở cách mạng dọc đường xe lửa Vân Nam - Hồ Kiều. Người lấy giấy chứng nhận của tổ chức quần chúng “Việt Nam hưởng ứng Trung Quốc kháng địch hậu viện hội”. Đây là tổ chức được nhà đương cục Trung Quốc công nhận hoạt động hợp pháp. Lấy danh nghĩa kiểm tra công tác Hội, Người đến ga Nghi Lương, Khai Viễn, Chỉ Thôn (Xì Xuyên)... Phùng Chí Kiên cùng đi với Người.
+ Tại Chỉ Thôn (huyện Mông Tự, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đến cơ sở của Hoàng Quang Bình (lúc này làm nghề cắt tóc). Người cùng đồng chí Kiên nghỉ tại gác xép của nhà đồng chí Bình. Sau khi nghe báo cáo tình hình, Người cùng đồng chí Kiên mở lớp huấn luyện cho chi bộ ở đây. Người còn khuyên đồng chí Bình nên năng giặt sạch vải choàng để có nhiều công nhân đến cắt tóc.
+ Với bí danh “ông Trần”, Nguyễn Ái Quốc tham gia lễ cầu hồn cho hai chục Việt kiều ở Bích Sắc Trại bị bom Nhật giết hại. Tại ngôi đền do ông Tự Thanh trông coi, dành cho đồng bào ở Chỉ Thôn, “ông Trần” đã ứng khẩu đọc bài sớ:
Nam mô Phật tổ Như Lai
Chúng sinh nheo nhóc dưới trời Tây phương
Trăm tầng áp bức thảm thương
Thân gầy như củi, xác nhường thây ma
Thù nhà nợ nước đôi đường
Đã vì người chết càng thương giống nòi
Đừng tin vào số mệnh trời
Mà do quân Nhật giết người gây nên
Hồn ơi, hồn có linh thiêng
Hãy cùng người sống báo đền nước non
Người còn khóc thì nước phải còn.
Năm 1941
- Tháng 3 - tháng 4: Nguyễn Ái Quốc nhiều lần vượt qua biên giới sang Tĩnh Tây. Người thường ở trong nhà bố con ông Trương Đình Duy, Trương Kỳ Siêu ở Long Lâm. Người thường cải trang làm một thầy địa lý (phong thuỷ).
- Cuối tháng 4: Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ cho Vũ Anh triệu tập Hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng để rút kinh nghiệm tổ chức thí điểm Mặt trận Việt Minh tại Cao Bằng.
Năm 1942
- Tháng 4, ngày 1: Bài Ca sợi chỉ của Nguyễn Ái Quốc, đăng trên báo Việt Nam Độc lập. Bài ca gồm 20 câu lục bát, nội dung kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết hợp lực trong Mặt trận Việt Minh.
"Hỡi ai con cháu Hồng Bàng,
Chúng ta phải biết kết đoàn mau mau.
Yêu nhau xin nhớ lời nhau,
Việt Minh hội ấy mau mau phải vào".
- Tháng 4, ngày 21: Bài thơ Hòn đá của Nguyễn Ái Quốc, đăng trên báo Việt Nam Độc lập. Bằng thể thơ ba chữ, dùng hình ảnh chung sức vần hòn đá, Nguyễn Ái Quốc nhắc nhở mọi người phải bền sức, đồng lòng đánh đuổi Pháp, Nhật.
Đánh Nhật, Pháp.
Giành tự do,
Là việc khó,
Là việc to.
Nếu chúng ta
Biết đồng lòng
Thì việc đó
Quyết thành công.
Năm 1943
- Từ tháng 2 đến tháng 4: Tại nhà giam của Cục Chính trị Đệ tứ chiến khu Quốc dân Đảng Trung Quốc, Hồ Chí Minh viết các bài thơ: Bài 109: Đáo Đệ tứ chiến khu Chính trị bộ (Đến Cục Chính trị Chiến khu IV); bài 110: Chính trị bộ cấm bế thất (Nhà giam của Cục Chính trị); bài 111: Mông ưu đãi (Được ưu đãi); bài 112: Triêu cảnh (Cảnh buổi sớm).
- Tháng 4: Trong nhà giam của Cục Chính trị Đệ tứ chiến khu, Hồ Chí Minh viết các bài thơ: Bài 113: Thanh minh (Tiết thanh minh); bài 114: Vãn cảnh(Cảnh chiều hôm); bài 115: Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên (Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng); bài 116: Hạn chế (Bị hạn chế); bài 117: Dương Đào bệnh trọng (Dương Đào ốm nặng); bài 118: Bất miên dạ (Đêm không ngủ); bài 119: Cửu vũ (Mưa lâu); bài 120: Tích quang âm (Tiếc ngày giờ).
Năm 1945
Tháng 4: Sau khi tiếp xúc với Tướng Sênôn và OSS, Hồ Chí Minh đáp máy bay đi Bách Sắc (Quảng Tây) gặp Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội. Tại Bách Sắc, Người gặp lại Tướng Trương Phát Khuê.
Tháng 4, trước ngày 12: Tại Bách Sắc, Hồ Chí Minh tìm cách chấn chỉnh lại tổ chức Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội. Người dự định tổ chức một cuộc đại hội mới, có thêm năm đại biểu Việt Minh ở Đông Hưng tới, trong số này có Hoàng Quốc Việt, Đặng Việt Châu và Dương Đức Hiền.
Đại hội này không thành vì các đảng phái khác không dự.
- Tháng 4, ngày 15: Hồ Chí Minh chọn 20 thanh niên mang theo giấy thông hành đến để hộ tống Ph.Tam và Mácxin vượt biên giới về Việt Nam.
- Tháng 4, cuối tháng: Một buổi chiều tối, Hồ Chí Minh được bố trí gặp A. Pátti tại một quán trà trong làng Chiu-Chou Chieh, cách Tĩnh Tây khoảng 10 km. Cùng dự có Lê Tùng Sơn.
Người đã nói cho A. Pátti biết về tình hình nạn đói ở Việt Nam, về quan điểm của Pháp, Trung Quốc, Anh với vấn đề Việt Nam và Việt Minh sẵn sàng hợp tác với người Mỹ khi nào người Mỹ thấy thích hợp. Người còn thông báo về việc chuẩn bị cho một chính phủ Việt Nam dân chủ độc lập.
Khi được hỏi về những nơi đóng quân của Bộ Chỉ huy Việt Minh và những chi tiết về tổ chức này, Người trả lời: “Việt Minh không phải là một đơn vị mà là một bộ phận của nhân dân Việt Nam, là những tổ chức của công nhân, nông dân hoạt động tại các địa phương và có thể liên lạc được từ Sài Gòn đến Cao Bằng”.
Cuộc trao đổi kéo dài tới quá nửa đêm mới kết thúc.
- Tháng 4, cuối tháng: Hồ Chí Minh về nước. Hồ Chí Minh viết cho Sáclơ Phen lá thư đầu tiên. Trong thư, Người phàn nàn là OSS đã gửi tới những người bây giờ đã hợp tác với người Pháp thân Visi (Vichy), những người chống Việt Nam hơn là chống Nhật. Và Người đặt câu hỏi: Vậy chính sách của Mỹ thực sự là gì vậy?
Cũng trong thư này, Người đề nghị cho gửi một số thanh niên sang để được huấn luyện sử dụng điện đài.
- Một số việc khác trong tháng 4-1945:
+ Hồ Chí Minh trong bộ quần áo chàm người Nùng, tay chống gậy, cùng một đồng chí trẻ đến chiếc lán ở hang Pác Tẻng (chân núi đá Lam Sơn) của gia đình Hoàng Đức Triều (An Định). Người được giới thiệu với gia đình là “đồng chí ông Ké”.
+ Hồ Chí Minh (bí danh ông Ké) thường họp với Hoàng Quốc Việt, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng, Đặng Viết Châu, Dương Đức Hiền... trong một ngôi nhà vắng chủ rộng rãi gần chân núi đá. Có hôm họp trên những mỏm đá mọc ở đầu nguồn Pác Ngườm. Có lần các đồng chí còn lấy mảnh vải ra đo và bàn về tỷ lệ chiều dài, chiều rộng của lá cờ đỏ sao vàng năm cánh.
Năm 1946
Ngày 1/4/1946: 8 giờ 15, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ nghe báo cáo và bàn về vấn đề đàm phán giữa hai Bộ Tham mưu Việt - Pháp; việc binh sỹ Việt Nam ở Thượng Hải yêu cầu về nước, việc phản đối Pháp và Mỹ đặt đường hàng không Niu Oóc - Hà Nội, Pari - Hà Nội mà không hỏi ý kiến Chính phủ ta.
Ngày 3/4/1946: 8 giờ 15, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp Hội đồng Chính phủ nghe báo cáo về vấn đề Ngân hàng Đông Dương phát hành giấy bạc 100 đồng và đình chỉ việc đổi giấy bạc 500 đồng. Hội đồng quyết định nếu phát hành giấy bạc 500 đồng phải được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam. Hội đồng không tán thành việc ký khoản ước tạm thời về thư tín và hàng không giữa Trung Hoa và Việt Nam.
Ngày 4/4/1946: 8 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội đồng Chính phủ họp bất thường để thông báo việc Người gặp Đô đốc Đác-giăng-li-ơ và sau hai lần sửa chữa, phía Pháp đã chịu thảo một thông báo gần đúng với ý của ta; việc đại diện Chính phủ Pháp J.Xanhtơny yêu cầu mở cuộc thương thuyết trù bị giữa Việt Nam và Pháp ở Đà Lạt.
Ngày 5/4/1946: 8 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp Hội đồng Chính phủ nghe báo cáo và bàn về việc thống nhất quân đội, đào tạo quân đội, tiếp tế quân nhu, việc ra Sắc lệnh cấm dùng giấy bạc của Ngân hàng Đông Dương phát hành sau ngày 6 tháng 3, việc tổ chức Ngày Đại hội Thanh niên, v.v..
Ngày 8/4/1946: 8 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp Hội đồng Chính phủ nghe thư của ông J.Xanh-tơ-ny yêu cầu cho lập nhiều trụ sở để giải quyết các vấn đề liên quan tới Pháp; bàn việc thương thuyết với Pháp để bảo vệ tính mệnh, tài sản của người Việt Nam ở Lào và tình hình quân sự.
Ngày 9/4/1946: 8 giờ, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đại biểu các khu tự vệ thành Hà Nội. Người khen ngợi anh em tự vệ đã hăng hái tham gia nhiều công việc giúp đỡ nhân dân và Chính phủ, đồng thời nêu một số nhược điểm trong công tác của các đội tự vệ, nhắc nhở anh em cẩn thận trong việc dùng súng, kiên trì và không được chán nản, cần ôn hoà và có kỷ luật. Người nhấn mạnh câu: “Một sự nhịn là chín sự lành”, và nêu rõ ba nhiệm vụ của tự vệ lúc này là:
1. Củng cố và phát triển tổ chức.
2. Nghiên cứu chính trị để nhận rõ đường lối. "Hiểu rõ đường lối chính trị thì công tác đúng".
3. Quân sự hoá sinh hoạt đoàn thể tự vệ, nghĩa là hoạt động phải có quy củ.
14 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đến Trường Thể dục ở đường Cột Cờ để viếng các binh sỹ và Trưởng quan Trung Quốc tử trận hay vì bệnh tật, tai nạn mà bỏ mình. Buổi lễ do tướng Lư Hán chủ trì. Vòng hoa của Người mang dòng chữ: “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Chính phủ kính hiếu”.
Ngày 10/4/1946: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thơ tặng các cháu nhi đồng toàn quốc:
“Bác mong các cháu cho ngoan,
Mai sau gìn giữ giang san Lạc - Hồng.
Sao cho nổi tiếng Tiên - Rồng,
Sao cho tỏ mặt nhi đồng Việt Nam”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 48, về việc thiết lập trong toàn cõi Việt Nam một Đảm phụ đặc biệt gọi là Đảm phụ Quốc phòng thu trong niên khoá 1946. Đảm phụ Quốc phòng thu của các công dân Việt Nam từ đúng 18 tuổi trở lên đến đúng 65 tuổi, bất phân nam nữ, trừ những trường hợp được miễn (như người nghèo khổ hoặc tàn tật không kế sinh nhai; các chiến sỹ tại ngũ trong quân đội Việt Nam; cha mẹ, vợ chồng các liệt sỹ hoặc tử sỹ, các thương binh).
Ngày 11/4/1946: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Điền chủ Nông gia Việt Nam, kêu gọi nên lập các Hợp tác xã nông nghiệp vì đó "là một tổ chức có lợi to cho nhà nông", "là một cách làm cho nhà nông đoàn kết, làm cho nhà nông thịnh vượng", "giúp cho nhà nông đạt đến mục đích, đã ích quốc lại lợi dân". Bức thư có đoạn:
“Việt Nam ta là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn.
Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có hợp tác xã”.
Ngày 13/4/1946: Lúc 20 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thăm lớp Bình dân học vụ tại khu 21 Trường Hoài Đức, phố Hàng Trống (Hà Nội). Người xem sách vở, ân cần hỏi thăm anh chị em giáo viên và học viên. Sau đó, Người gặp Trưởng khu 21, hỏi về tình hình Bình dân học vụ và khen ngợi giáo viên đã tận tâm dạy học không lương và nói: “Anh chị em giáo viên Bình dân học vụ là những người vô danh anh hùng, anh hùng không tên tuổi, không ai biết đến”.
Ngày 15/4/1946: 10 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp Hội đồng Chính phủ để tiếp Phái đoàn Quốc hội Việt Nam được cử sang Pari chào Quốc hội Pháp; nghe báo cáo về quân sự; về Phái đoàn ta đi Trùng Khánh và vấn đề cho các hợp tác xã vay tiền để sản xuất nông nghiệp.
16 giờ, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Phái đoàn đi dự Hội nghị trù bị Việt - Pháp tại Đà Lạt, dặn dò mọi việc trước khi Đoàn lên đường vào ngày 16-4-1946.
Người dặn phải chuẩn bị thận trọng về mọi mặt vì Hội nghị này sẽ có ảnh hưởng lớn về sau.
Người nêu những nguyên tắc của Chính phủ đề ra:
1. Hết sức đoàn kết từ ý kiến đến hành động.
2. Hết sức cẩn thận.
3. Giữ bí mật.
4. Trước lúc tuyên ngôn gì với đại biểu Pháp, phải thảo luận trước.
5. Sau khi thảo luận với đại biểu Pháp một vấn đề gì, lúc về phải cùng nhau kiểm thảo lại để xem lẽ mình thắng hay bại ở chỗ nào.
6. Mỗi khi thảo luận nên chia làm ba nhóm: xung phong, hậu thuẫn và trù bị. "Phải có người đấm, người xoa".
7. Mình chỉ xướng ra những vấn đề quan trọng. Ngoài ra để đại biểu Pháp nêu vấn đề.
8. Khi gặp vấn đề gì hai bên chưa thoả thuận được với nhau thì để nó tách ra, chứ đừng nói để hỏi ý kiến Chính phủ, vì nếu làm như vậy thì sẽ thắt Chính phủ vào việc đàm phán này.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: "Cần căn cứ vào Hiệp định sơ bộ để đi đến cộng tác thực thà với Pháp".
Ngày 16/4/1946: 5 giờ 30 sáng, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng ông Huỳnh Thúc Kháng tiễn Phái đoàn đi dự Hội nghị trù bị Đà Lạt. Sau đó, Người gặp Phái đoàn Quốc hội Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, chuẩn bị sang Pháp. Người căn dặn: “... Phái đoàn có ba việc cần phải làm là đoàn kết, cẩn thận, làm cho người Pháp hiểu ta để gây tình hữu nghị giữa hai dân tộc”.
Ngày 17/4/1946: 8 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp Hội đồng Chính phủ nghe báo cáo về việc 600 quân Pháp từ Hải Phòng kéo lên Hà Nội đêm 15 tháng 4 mà không cho phía Việt Nam biết trước và việc lính Pháp gây rối ở Ga Hà Nội làm cho nhiều người bị thương. Sau đó Hội đồng bàn về vấn đề quản lý việc nấu rượu, vấn đề giấy bạc của Ngân hàng Đông Dương và vấn đề ngoại giao với Pháp.
Ngày 19/4/1946: 8 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn về Dự án Ngân sách lương thực của quân đội, vấn đề lập Nha Dân tộc thiểu số và vấn đề tài chính.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Đại hội Các dân tộc thiểu số miền Nam tổ chức tại Plâycu. Thư có đoạn:
“Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê, Xêđăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau... Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta”.
Ngày 22/4/1946: 8 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp Hội đồng Chính phủ thông báo một số tin thu thập được qua các báo, trong đó báo Trung Hoa nói về việc nghiên cứu một Hiệp định Thương mại Hoa - Việt - Pháp, báo của ta đính chính lại là Hiệp định Thương mại Hoa - Việt và đề nghị Bộ Kinh tế sẽ chuẩn bị việc này, Bộ Canh nông sẽ lập ngay Nha Kiều vụ. Hội đồng còn nghe báo cáo về việc xung đột giữa quân đội Trung Hoa và quân đội Pháp chiều ngày 21 tháng 4, công việc của Phái bộ Đà Lạt đã làm và bàn về dự án Sắc lệnh tổ chức Quân sự Uỷ viên hội.
Ngày 24/4/1946: 8 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ nghe thông báo về tin phía Pháp bắt ông Phạm Ngọc Thạch trong Phái đoàn ta ở Hội nghị trù bị Đà Lạt, việc quân đội Pháp định đóng ở Điện Biên Phủ, việc quân đội Trung Hoa thoả thuận tỷ giá giữa tiền Quan Kim và tiền Đông Dương và thông qua danh sách các thẩm phán do Bộ Tư pháp đề cử.
Trước ngày 25/4/1946: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp phóng viên Hãng Thông tấn Pháp AFP. Người kêu gọi người Pháp phải thi hành đúng Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3 và tuyên bố: “Nước Việt Nam, một quốc gia không thể nhận những quyết nghị của một Chính phủ chỉ huy như chế độ toàn quyền Đông Dương cũ”.
Ngày 26/4/1946: 8 giờ 30, tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thông báo cho Hội đồng biết tướng Gioăng đi công cán ở Trung Hoa, ngày 25 tới Hà Nội, có đến thăm Người và Chính phủ Việt Nam. Sau đó, Hội đồng nghe báo cáo về tình hình phái đoàn ta ở Đà Lạt, tình hình nhân sự của Bộ Giáo dục, tình hình kinh tế, xã hội, ngoại giao, về tổ chức văn phòng các Bộ.
Ngày 27/4/1946: Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp hai phái viên Hãng Vô tuyến điện Pari đến xin thu thanh ý kiến của Người và ba bài hát: Tiến quân ca, Diệt phát xít, Hồ Chí Minh muôn năm để gửi về Pháp. Người nói: “Tôi gửi lời chào thân ái dân tộc Pháp. Mặc dầu có những trở lực hiện thời, tôi tin rằng sự hợp tác dân tộc Pháp và Việt sẽ đi đến kết quả vì hai dân tộc cùng theo đuổi lý tưởng chung: Tự do, Bình đẳng, Bác ái”.
Ngày 28: 10 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng ông Huỳnh Thúc Kháng, ông Lê Văn Hiến và một số vị khác về Thái Bình sự Lễ khánh thành đê Mỹ Lộc và Hưng Nhân.
Ngày 29/4/1946: 8 giờ 30, tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thông báo việc Hội giúp binh sỹ bị nạn ở Huế mời Người ra làm Hội trưởng danh dự và các Bộ trưởng làm Hội viên danh dự của Hội. Hội đồng tán thành. Người đề nghị Chính phủ thông tư cho các địa phương nên tỏ lòng biết ơn đối với các chiến sỹ. Sau đó, Hội đồng bàn vấn đề tha chính trị phạm, vấn đề gặt chiêm và chống phá rừng và đề nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi công nhân Việt Nam nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1-5.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 56, về việc bãi bỏ Đạo dụ số 69 ngày 31-10-1941 và quy định công nhân các công sở, tư sở, xí nghiệp trong toàn quốc đều được nghỉ việc Ngày Quốc tế Lao động 1-5 và được hưởng lương như ngày làm việc. Những quy định cụ thể về cách trả lương những trường hợp không thể ngừng nghỉ ngày đó được ghi rõ trong các điều 3,4,5 của Sắc lệnh này.
Năm 1947
Ngày 2/4/1947: Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nơi ở mới: Làng Xảo, xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Lúc đầu, Người ở tạm trong nhà dân, sau ra ở trong một chiếc lán mái lợp lá, vách che liếp do các đồng chí phục vụ làm.
Từ ngày 3 đến ngày 6/4/1947: Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng, bàn việc cụ thể hoá đường lối kháng chiến, rút kinh nghiệm những tháng đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc.
Ngày 4/4/1947: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Vũ Đình Huỳnh thông báo lại một số ý kiến của Giám mục Lê Hữu Từ trong thư gửi cho Người. Người căn dặn: "Nhiệm vụ của chú ở đó là để cùng với cụ Từ, dàn xếp việc xích mích giữa đồng bào lương giáo, để thực hiện đoàn kết kháng chiến. Vì vậy, chú cần phải khôn khéo và cẩn thận, từ lời nói cho đến việc làm". Và yêu cầu "Bất kỳ thế nào, chú phải lập tức đi gặp cụ Từ, và giải thích rõ ràng, làm cho hết sự hiểu lầm đó".
Ngày 7/4/1947: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam nhắc phải làm gấp việc di chuyển các Bộ, và dặn: "Đường khó đi. Dù có xe hơi cũng không chắc đi được. Vậy, tốt nhất là dùng xe bò, xe ngựa". "Phải giải thích cho các bộ trưởng hiểu: Chịu khó mấy hôm mà an toàn, hơn là cầu yên và chờ nước đến chân mới nhảy, và dặn họ giải thích với gia quyến họ". "Phải cử người thạo việc đi theo để lúc gặp việc khó khăn, biết cách giải quyết và biết nâng đỡ tinh thần của đàn bà, trẻ con". Người còn viết thư gửi ông Lê Văn Hiến, yêu cầu khẩn trương di chuyển cơ quan và máy móc lên Việt Bắc để chủ động đề phòng quân Pháp tấn công.
Ngày 8/4/1947: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, nhắc nhở "một khuyết điểm chính trị rất to", đó là "trên đường Tuyên - Thái, xe cộ (vừa xe ngựa, xe ôtô) rất bừa bãi, không camouflé2 hoặc có cũng rất sơ sài. Như thế là dễ làm mồi cho phi cơ địch, dễ mất xe mất đồ đạc. Hai là địch dễ biết ta đi phương hướng nào". Người đề nghị"phải ra lệnh cho công an, tự vệ, hễ thấy bất kỳ thứ xe gì, không cải trang thì giữ lại bắt cải trang cẩn thận, rồi mới cho đi".
Ngày 9/4/1947: 17 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam báo tin quân địch chuẩn bị tấn công và chỉ thị "nhân viên và tài liệu Chính phủ phải dời ngay vào nơi an toàn. Lúc dời phải rất bí mật, chỉ một số người rất ít, rất cần thiết ở lại, nhưng cũng phải chuẩn bị sẵn sàng". Người đề nghị ông Nam báo ngay cho ông Lê Văn Hiến biết tin này.
Ngày 19/4/1947: Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp của Hội đồng Chính phủ bắt đầu từ 20 giờ 30. Cuộc họp kéo dài tới 2 giờ sáng hôm sau. Trọng tâm thảo luận là vấn đề ngoại giao. Kết thúc phiên họp, Người yêu cầu tất cả các vị Bộ trưởng nhanh chóng thu xếp chuyển vào an toàn khu ngay, càng sớm càng tốt.
Ngày 29/4/1947: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào cả nước sau ngày Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng mất. Người ca ngợi nhân cách, đức độ, lòng yêu nước thương dân của cụ Huỳnh và kêu gọi toàn thể đồng bào hãy bày tỏ lòng tiếc thương đối với cụ bằng cách "càng đoàn kết chặt chẽ, càng hăng hái kháng chiến", bằng cách "theo gương dũng cảm, nối chí quật cường của cụ", bằng cách "hoàn thành sự nghiệp cứu nước, cứu dân mà cụ đã ra sức đeo đuổi suốt đời".
Ngày 30/4/1947: Hội đồng Chính phủ họp. Các thành viên ngồi trên mấy chiếc chiếu trải dài, giữa để mấy ngọn đèn dầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp. Cuộc họp bắt đầu lúc 19 giờ và kết thúc hồi 3 giờ sáng hôm sau (1-5) để bàn các việc:
- Cử người thay cụ Huỳnh Thúc Kháng và ông Hoàng Hữu Nam (vừa mới mất).
- Vấn đề trao đổi đại diện ngoại giao theo đề nghị của Chính phủ Inđônêxia.
- Việc thả tù binh và trao trả cho phía Pháp các cha cố người nước ngoài.
- Nghe báo cáo của các Bộ Quốc phòng và Tài chính.
Mở đầu phiên họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị mọi người đứng dậy mặc niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng và ông Hoàng Hữu Nam. Người nói về thân thế và sự nghiệp cách mạng của hai vị. Sau đó, Chủ tịch báo cáo trước Hội đồng Chính phủ về tình hình chung trong nước và quốc tế.
Năm 1948
Trước ngày 4/4/1948: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị Dân quân toàn quốc, biểu dương những ưu điểm và thành tích của phong trào chiến tranh du kích, đồng thời nêu những khuyết điểm "cần phải sửa chữa ngay" về nhận thức, tổ chức và huấn luyện.
Người đề ra bảy nhiệm vụ cụ thể, cũng là bảy nguyên tắc tổ chức và hoạt động, mà dân quân du kích phải thực hiện để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình.
Ngày 5/4/1948: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết 12 điều răn gửi anh chị em bộ đội, cơ quan Chính phủ và các đoàn thể, yêu cầu mọi người ai cũng cần phải nhớ và thực hành khi tiếp xúc hoặc sống chung với dân. 12 điều răn gồm 6 điều không nên và 6 điều nên làm, sau cùng là Bài thơ cổ động:
Mười hai điều trên,
Ai làm chả được.
Hễ người yêu nước,
Nhất quyết không quên.
Tập thành thói quen,
Muôn người như một.
Quân tốt dân tốt,
Muôn sự đều nên.
Gốc có vững cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.
Ngày 13/4/1948: Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn việc giúp đỡ Bình - Trị - Thiên, công tác bảo vệ nội bộ, vấn đề khen thưởng, việc chuẩn bị kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến và một số vấn đề về kinh tế, nội vụ, quốc phòng, giáo dục, y tế, thi đua... Chiều, do cơn sốt tái phát, Người không dự họp được.
Ngày 15/4/1948: Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 178/SL, cho phép ông Burgi Anselm - kiều dân Thuỵ Sĩ, được nhập quốc tịch Việt Nam và lấy tên là Nguyễn Chiến Sĩ.
Ngày 20/4/1948: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị Tổng bộ Việt Minh. Trong thư, Người nêu lại một số bài học kinh nghiệm thành công của Việt Minh trong chính sách đối nội, đối ngoại, lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù, đào tạo cán bộ, chính sách đại đoàn kết... Đồng thời, Người chỉ ra những khuyết điểm cần chú ý khắc phục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Ngày 21/4/1948: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tới gia đình cố Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng bức điện dưới đây:
"Gửi gia đình Huỳnh Bộ trưởng,
Nhân ngày giỗ đầu cố Bộ trưởng, thay mặt Chính phủ, tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn Cụ và xin gửi gia đình Cụ lời chào thân ái và quyết thắng.
Ngày 21 tháng 4 năm 1948
Hồ Chí Minh".
Trong tháng 4/1948:
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Quân sự tập san. Bức thư viết:
"Nghiên cứu mà không thực hành là nghiên cứu suông.
Thực hành mà không nghiên cứu thì thường hay bị mù quáng.
Vậy cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ, dồi dào thêm".
Người còn căn dặn: "Muốn trở nên người quân nhân mới, xứng đáng với cái vinh hạnh đứng trong quân đội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thì mỗi chiến sỹ, từ trên đến dưới, các cấp bậc đều phải nghiên cứu, học tập, luôn luôn cầu tiến bộ".
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị kiến trúc sư. Bức thư có đoạn:
"Trong 4 điều quan trọng cho dân sinh: Ở và đi là hai vấn đề cũng cần thiết như ăn và mặc. Vì vậy kiến trúc là một việc rất quan hệ. Tôi mong Hội nghị sẽ đi tới những kế hoạch thiết thực với tình thế hiện nay và những chương trình kiến thiết hợp với tương lai... đặc biệt là vấn đề nhà ở tại thôn quê, tìm ra những kiểu nhà giản dị và cao ráo sáng sủa và rẻ tiền".
Năm 1949
Ngày 1/4/1949: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội đồng Chính phủ, thảo luận thông qua chương trình kinh tế liên Bộ, kế hoạch quân sự và việc thay đổi nhân sự. Cùng ngày, Người gửi thư cảm ơn Công đoàn vận tải sông Thao đã gửi biếu Người một áo trấn thủ rất đẹp. Người căn dặn: Vận tải là một việc quan trọng cho Chính phủ và nhân dân. Rất mong mọi người ra sức cố gắng và thành công.
Ngày 6/4/1949: Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Lũng Tầu chuyển đến Khâu Lấu, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang).
Ngày 15/4/1949: Bài Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng, ký bút danh L.T. của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng trên báo Sự thật. Đề cập đến vấn đề phê bình, Người phê phán quan niệm cho rằng việc phê bình công khai sẽ làm mất uy tín, mất thể diện của người được phê bình và có thể sẽ bị địch lợi dụng. Theo Người, nghĩ như thế là "ốm mà sợ thuốc", là không hiểu ý nghĩa và sức mạnh của phê bình. Bài viết có đoạn: "Một đoàn thể hoặc chính quyền mà che giấu khuyết điểm của cán bộ mình, là một đoàn thể hoặc chính quyền yếu ớt, thoái bộ. Đoàn thể và chính quyền có can đảm vạch rõ khuyết điểm của cán bộ mình, có phương pháp sửa chữa cho cán bộ, thì oai tín chẳng những không giảm bớt, mà lại thêm cao.
Cán bộ nào không dám công khai thừa nhận khuyết điểm của mình, e sợ lời phê bình của đồng sự và của nhân dân, không có can đảm sửa chữa khuyết điểm thì những người đó không xứng đáng là cán bộ.
Việc phê bình phải từ trên xuống và từ dưới lên. Cấp trên phê bình, chưa đủ. Đồng chí, đồng sự phê bình, chưa đủ. Phải hoan nghênh quần chúng phê bình nữa, thì sự phê bình mới hoàn toàn".
Trước ngày 20/4/1949: Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời điện phỏng vấn của báo Tribune. Về câu hỏi "Khi Việt Nam đã hoàn toàn độc lập thì sẽ đối với người Pháp thế nào?", Người tuyên bố: "Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn. Song nhân dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt những người Pháp quân phiệt. Nói cho rõ hơn là: Cũng như những nước độc lập khác cự tuyệt quân đội ngoại quốc đóng trên đất nước mình, nhân dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt quân đội Pháp đóng ở Việt Nam".
Trước ngày 21/4/1949: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng Nhà in Vui Sống một cuốn lịch kèm theo lá thư:
"Gửi anh em Nhà in Vui Sống.
Lịch này là thắng lợi phẩm của anh em du kích Thủ đô biếu tôi. Tôi gửi tặng anh em. Giải thưởng này rất có ý nghĩa: Mỗi ngày anh em nhớ đến chiến sỹ đang xung phong giết giặc trước mặt trận. Mỗi ngày anh em phải tiến bộ, phải tranh cho được một thắng lợi để góp vào thắng lợi chung của kháng chiến và kiến quốc.
Chào thân ái và quyết thắng
Hồ Chí Minh".
Ngày 27/4/1949: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn nhân Lễ tốt nghiệp khóa 4 của nhà trường. Người căn dặn:
"Các chú học rồi. Bây giờ phải hành. Trong lúc hành phải học thêm mãi.
Nhiệm vụ của các chú là: Giúp đẩy mạnh cuộc cầm cự và chuẩn bị tổng phản công.
Mong các chú hăng hái thi đua làm tròn nhiệm vụ. Và muốn làm tròn nhiệm vụ thì ngoài kỹ thuật, còn phải giữ vững đạo đức của quân nhân là: trí, nhân, tín, dũng, liêm".
Ngày 30/4/1949: Nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động (1-5), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc mừng đồng bào và chiến sỹ.
Sau khi phân tích ý nghĩa ngày 1-5 ở nước ta, Người nêu những nhiệm vụ chính của mọi tầng lớp nhân dân (binh, sĩ, nông, công, thương) trong giai đoạn mới: Giai đoạn đẩy mạnh cầm cự, tích cực chuẩn bị tổng phản công.
Trong tháng 4/4/1949
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Quân nhân học báo. Bức thư có đoạn: "Quân nhân phải biết võ, phải biết văn. Võ là như tay phải, văn là như tay trái của quân nhân. Biết võ, biết văn, mới là quân nhân hoàn toàn. Muốn biết thì phải thi đua học". Người căn dặn:
"Học không bao giờ cùng.
Học mãi để tiến bộ mãi.
Càng tiến bộ, càng thấy phải học thêm".
+ Trong tháng, Người còn gửi thư tới đồng bào vùng Hà Nội, nhờ Uỷ ban kháng chiến hành chính Hà Nội chuyển. Bức thư có đoạn: "Đồng bào trong và ngoài Hà Nội đương đầu với giặc Pháp trước hết, lâu hơn hết. Vì vậy, mà hy sinh, đau đớn, cực khổ nhiều hơn hết. Mà cũng trung thành, gan góc, kiên quyết hơn hết". Người khuyên đồng bào vùng Hà Nội "trước đã cố gắng, nay cố gắng thêm; trước đã đoàn kết, nay đoàn kết hơn; tìm đủ mọi cách để phá hoại giặc, để giúp chiến sỹ ta". Và tin tưởng rằng: "Chúng ta chắc thắng, vì chúng ta quyết thắng".
+ Theo đề nghị của Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc ở tỉnh Quảng Tây với phía Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng quyết định dùng bộ đội chủ lực của quân khu Việt Bắc và bộ đội địa phương hai tỉnh Lạng Sơn, Hải Ninh (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) mở chiến dịch "Thập vạn đại sơn", giúp Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc mở rộng vùng căn cứ Ung - Long - Khâm.
Người căn dặn các cán bộ chỉ huy tham gia làm nghĩa vụ quốc tế 10 chữ:
"Cẩn thận, bí mật, đoàn kết, hữu nghị, thắng lợi".
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư trả lời ông Hoàng Phan Kính và Trần Lê Hữu là cậu và dượng của Người.
Toàn văn bức thư như sau:
"Gởi Ô. Hoàng Phan Kính và Trần Lê Hữu xã Nam Liên, huyện Nam Đàn.
Kính trả lời cậu và dượng.
1- Tôi rất cảm ơn cậu và dượng đã gửi thư cho tôi.
Tôi chưa về thăm quê được, không phải vì vô tình với quê hương, nhưng vì lẽ này: Trong lúc giặc Pháp đang dày xéo trên đất nước ta thì phận sự của mọi người Việt Nam là "vì nước quên nhà, vì công quên tư". Là một người đầy tớ chung của đồng bào tôi càng phải như thế. Vì vậy, tôi chưa kịp viết thư hoặc về thăm.
2- Nhân dân ta vừa đánh đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm và phá tan xiềng xích nô lệ gần một thế kỷ để xây dựng một nước Việt Nam mới.
Trong lúc lật đổ những tường vách cũ kỹ và đang xây đắp ngôi lâu đài mới thì chắc chắn không khỏi có những mụn bào, gạch bể và những thứ ghét rác khác. Chúng ta sẽ quét sạch dần dần.
Trong lúc kháng chiến và kiến quốc, nhân dân ta có những thành công to lớn, vẻ vang, nhưng cũng không khỏi có nhiều khuyết điểm. Chúng ta sửa chữa những khuyết điểm ấy dần dần. Chúng ta nhất định sửa chữa được vì chúng ta quyết tâm sửa chữa.
3- Bổn phận của tôi, Chính phủ cùng các cơ quan, đoàn thể địa phương, mà cũng là bổn phận của mỗi người dân là làm những việc có ích cho đồng bào, cho Tổ quốc.
Vì vậy, tôi và Chính phủ cùng các cơ quan, đoàn thể địa phương vui lòng nhận những phê bình, sáng kiến, đề nghị của đồng bào.
Đồng thời quốc dân thì có bổn phận triệt để thi hành mệnh lệnh của Chính phủ.
4- Tôi rất mong cậu và dượng cùng các cụ phụ lão, các vị thân hào, thân sỹ thường giúp tôi và Chính phủ bằng cách gửi những phê bình, sáng kiến và đề nghị.
Tôi lại mong cậu, dượng cùng các vị đôn đốc, giúp đỡ đồng bào địa phương xung phong Thi đua ái quốc, làm cho Nam Đàn thành một huyện kiểu mẫu, Nghệ An thành một tỉnh kiểu mẫu trong mọi công việc kháng chiến và kiến quốc.
Kính gửi cậu và dượng và nhờ cậu và dượng chuyển đến thân thích nội ngoại, các cụ các vị và đồng bào trong xã, trong huyện lời chào thân ái và quyết thắng và cho các cháu nhi đồng nhiều cái hôn.
4-1949
Cháu
Hồ Chí Minh".
Huyền Trang (Tổng hợp)
Còn nữa
Chủ tịch Hồ Chí Minh với những sự kiện
trong Tháng Tư qua các năm (1890-1969) - Phần 3
Năm 1950
Ngày 01/4/1950: Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài Quỹ công lương (ký bút danh T.L) đăng trên báo Sự thật, số 130, nêu rõ mục đích, ý nghĩa của việc lập Quỹ công lương. Kết luận, bài báo viết: "Quỹ công lương được nhân dân hăng hái đóng góp nhanh chóng sẽ là một sức mạnh mới đẩy nhanh cuộc chuẩn bị tiến sang giai đoạn cuối cùng và đảm bảo cho tổng phản công thắng lợi hoàn toàn".
Ngày 6 và ngày 7/4/1950: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp với Thường vụ Trung ương Đảng để nghe báo cáo tình hình trong thời gian Người đi công tác nước ngoài và một số nhiệm vụ cấp bách.
Trong ý kiến phát biểu, Người hoan nghênh việc triệu tập Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng và khẳng định những kết quả của Hội nghị. Người nhấn mạnh: Trong thời gian qua, chúng ta đã thắng trong cuộc tổng phản công về chính trị, nhân dân ta đồng lòng dốc sức cho kháng chiến, nhân dân thế giới bước đầu thấy được tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến của chúng ta, lên án quân xâm lược. Cuộc tổng phản công chính trị thắng lợi, chắc chắn sẽ giúp nhiều cho cuộc tổng phản công bằng quân sự sắp tới. Người cũng tán thành chủ trương lấy ngày 19-5 hằng năm làm ngày phát động thi đua yêu nước, thi đua kháng chiến trong toàn quân và toàn dân, nhưng căn dặn: Phải giáo dục cho mọi người đừng lợi dụng chuyện đó mà ăn uống xa xỉ, gây lãng phí tiền bạc và thì giờ của dân.
Ngày 10/4/1950: Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự Hội nghị Đảng đoàn Chính phủ (hội nghị bắt đầu từ chiều hôm trước). Người nói rõ thêm về vấn đề ngoại giao và viện trợ.
Tối, Người đón Hoàng thân Lào Xu-pha-nu-vông và ông Chủ tịch Đông Lào. Có tổ chức lửa trại, hát hò. Người thưởng thuốc lá thơm cho các vị hát hay.
Từ ngày 11 đến ngày 13/4/1950: Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để thảo luận các vấn đề: Tình hình thế giới, tình hình quân sự, việc thực hiện chương trình ba tháng đầu năm và ra nghị quyết về công tác ngoại giao, giáo dục, cải tổ bộ máy tư pháp, giao thông công chính, nội vụ...
Kết thúc phiên họp, Người nhắc nhở: Chúng ta đang chuẩn bị mọi mặt quân sự, chính trị, ngoại giao... để chuyển mạnh sang tổng phản công. Địch cố tìm biết những công việc ta làm, do đó cần phải giữ bí mật và nhắc cán bộ giữ bí mật. Địch có thể làm những việc mạo hiểm, do đó cần phải quân sự hoá triệt để. Phải làm tốt công tác động viên nhân dân, "không động viên được dân thì kế hoạch hay mấy cũng hỏng, lúc nào mọi kế hoạch đến tận dân, dân thực hiện, lúc đó mới thật là tổng động viên".
Ngày 15/4/1950: Bài Sinh viên Việt Nam tại Anh với Sắc lệnh Tổng động viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ký bút danh T.L), đăng trên báo Sự thật, số 131.
Bài báo cho biết 14 sinh viên Việt Nam tuổi từ 18 đến 30 đang theo học ở Trường Đại học Luân Đôn, biết Chính phủ công bố Sắc lệnh Tổng động viên, đã đánh điện về ngỏ ý rất sẵn sàng về nước để được nhập ngũ. "Dù xa xôi, tâm trí chúng tôi vẫn luôn luôn hướng về Tổ quốc và lúc nào cũng sẵn sàng thi hành những huấn lệnh của Chính phủ".
Ngày 22/4/1950: Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm các đại biểu phụ nữ dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất. Người ân cần hỏi chuyện các đại biểu Nam Bộ, Khu V, miền núi, miền xuôi, vùng tạm chiếm, vùng tự do... Trước khi ra về, Người nói: “Bác chúc các cô chú mạnh khoẻ. Về địa phương, những chị em nào có thành tích, nhớ cho Bác biết tin”.
Ngày 24/4/1950: Từ 18 giờ đến 21 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với học viên khoá II Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc tại Việt Bắc.
Trong lời phát biểu, Người đã chỉ ra một số thiếu sót của nhà trường trong việc giảng dạy và gợi ý về cách tổ chức để đạt kết quả tốt hơn. Người căn dặn các học viên: "Việc học không phải chỉ xem sách nhiều là được. Như vậy là lý luận suông. Phải kết hợp thực tiễn với lý luận, học đi đôi với trao đổi kinh nghiệm thực tế. Học phải tự giác và tự động". Người đặc biệt nhấn mạnh việc tu dưỡng phẩm chất của người cán bộ: "Cần, Kiệm, Liêm, Chính và gần gũi quần chúng, hai điểm ấy các đồng chí phải làm cho được. Như thế mới xứng đáng là người đảng viên, là người cách mạng".
Trong tháng 4/1950: Tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Pháp Lêô Phighe (Léo Figuères). Trong câu chuyện, Người nói:
"Chính là những thành viên ưu tú nhất đã ngã xuống. Chúng tôi đã đối xử tốt nhất với tù binh Pháp trong điều kiện có thể có. Bữa ăn của họ khá hơn bữa ăn của chiến sĩ chúng tôi. Chúng tôi rất hiểu nỗi đau khổ của các bà mẹ, các gia đình người Pháp có con em bị bắt làm tù binh"...
Năm 1951
Ngày 6 và 7/4/ 1951: Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo tình hình thế giới, báo cáo của các bộ, quyết nghị việc phát động một phong trào thi đua lấy tên là “Phong trào thi đua ái quốc, sản xuất, lập công, đề cao chiến sĩ” từ ngày 1-5-1951 đến ngày 19-12-1951 và triệu tập Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc vào đầu năm 1952. Người căn dặn phải chuẩn bị cuộc thi đua cho chu đáo, việc tuyên truyền phải liên tục, tổ chức Đại hội thi đua các ngành phải tránh hình thức tốn kém và thi đua để đẩy mạnh phong trào sản xuất chứ không phải để đề cao cá nhân. Bàn về vấn đề huy động dân công, Người nhắc nhở Chính phủ và các cấp phải: Tiết kiệm sức dân, cố tránh lúc làm mùa và công trình trong huy động. Trước khi bế mạc cuộc họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Trước các thắng lợi đã đạt được về quân sự, cần giải thích cho cán bộ và nhân dân hiểu rõ cuộc kháng chiến của ta là trường kỳ và gian khổ, tránh chủ quan, khinh địch; các cơ quan phải quân sự hóa đề phòng máy bay địch, mọi người phải giữ bí mật, đẩy mạnh việc tăng gia sản xuất trồng rau và hoa màu. Người còn nhắc lại nhiệm vụ của Bộ Lao động đối với vấn đề dân công và vấn đề thi đua; nhắc Bộ Công thương nghiên cứu việc chuyển hướng giao dịch để đấu tranh kinh tế với địch và điều tra hiểu biết số lượng các sản phẩm có thể đưa ra ngoài.
Ngày 15/4/ 1951: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Để hiểu chiến lược, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 4. Sau khi nêu rõ mục đích của Đảng ta là đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi và nhất định sẽ thắng lợi nhưng phải trường kỳ gian khổ, Người yêu cầu mọi người phải hiểu rõ chiến lược của ta và nhắc nhở khi áp dụng kinh nghiệm nước bạn phải khôn khéo cho phù hợp với hoàn cảnh của nước ta.
Khoảng giữa tháng 4/1951: Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo về kết quả, những khó khăn, những hạn chế của chiến dịch đường số 18 (chiến dịch Hoàng Hoa Thám) và việc chuẩn bị tự phê bình. Người căn dặn: Tự phê bình là cần, nhưng tự phê bình phải tăng cường đoàn kết, rút ra được bài học kinh nghiệm, xây dựng được lòng tin vào chiến dịch sau.
Từ ngày 17 đến ngày 19/4/1951: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Bộ Chính trị bàn về vấn đề kinh tế, tài chính và chính sách thuế nông nghiệp.
Ngày 21/4/1951: Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với cán bộ, học sinh Trường Nguyễn Ái Quốc khóa 11 về vấn đề tổ chức, cán bộ, học tập, nhiệm vụ cách mạng và việc đưa chính sách của Đảng xuống xã.
Ngày 22/4/1951: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hũ gạo kháng chiến của phụ nữ Ngân Sơn, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 5. Người khen ngợi phụ nữ Ngân Sơn (Bắc Kạn) đã đóng góp được nhiều ống gạo tiết kiệm, nêu rõ ý nghĩa của hũ gạo kháng chiến, cách làm hũ gạo kháng chiến và mong rằng các cơ quan, bộ đội và địa phương noi theo đồng bào Ngân Sơn.
Ngày 26/4/1951: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện tại Hội nghị kiểm thảo chiến dịch đường số 18. Người nhắc nhở cán bộ và bộ đội phải đặc biệt chú ý:
- Chú trọng phê bình mình trước, phê bình người sau, phê bình mình là chính, phê bình người là phụ. Tự phê bình và phê bình cốt để thống nhất tư tưởng. Tư tưởng có thống nhất, hành động mới thống nhất.
- Tất cả mọi người phải có tinh thần phụ trách, thành tâm phụ trách, dũng cảm phụ trách. Trước khi làm phải thảo luận cho kỹ, để chủ trương cho đúng, kế hoạch cho sát và khi đã quyết định rồi thì phải tuyệt đối phục tùng, phải vững lòng tin tưởng, phải quyết tâm thực hiện không một chút do dự.
- Cán bộ cần phải thương yêu đội viên. “Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng Tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên, phải xem đội viên ăn uống như thế nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc của đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt. Thế mới dân chủ, mới đoàn kết, mới tất thắng”.
- Quân đội đánh giặc là vì dân, nhưng không phải là “cứu tinh” của dân, mà có trách nhiệm phụng sự nhân dân. Phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Mỗi quân nhân phải là một cán bộ tuyên truyền bằng việc làm của quân đội. “Dân như nước, quân như cá”, phải làm cho dân hết sức giúp đỡ mình thì mới đánh thắng giặc.
Ngày 28/4/1951: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Ban Kinh tế và Hội đồng Chính phủ. Người đã cùng các đại biểu xét duyệt lại ngân sách trên tinh thần biên chế mới, bàn về chính sách thuế nông nghiệp.
Trong tháng 4/1951
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào các tỉnh có đê, Người căn dặn: “Trong mỗi địa phương, đồng bào sẽ đặt kế hoạch giữ đê cho thật sát với tình hình quân sự và kinh tế, sẽ cố gắng thực hành kế hoạch cho kỳ được, để giữ gìn kho người và kho thóc của ta” và “thi hành triệt để chương trình hộ đê của Chính phủ”.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Nam Trung Bộ. Toàn văn bức thư như sau:
“Trong các việc, cán bộ đều cố gắng. Đó là một điều đáng khen. Nhưng còn khuyết điểm nặng, ví dụ:
1. Vụ Sơn Hà: Máy móc, ép buộc đồng bào nhiều việc quá trình độ, dân không hiểu, không thích. Đã thấy sai lầm, nhưng không kịp thời sửa chữa.
2. Việc động viên, chạm đến tài sản gốc, sinh kế của nhân dân, như ruộng đất, trâu bò, vốn liếng, đồng thời quan liêu, chỉ ra mệnh lệnh ép buộc dân đóng góp.
Những khuyết điểm đó, cán bộ phải cùng phê bình và sửa chữa, từ trên xuống, từ dưới lên: Kiên quyết sửa chữa cho kỳ được”.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho thanh niên. Sau khi biểu dương những thành tích thanh niên đã đạt được và những khuyết điểm cần khắc phục. Người nhắc nhở: “Thanh niên phải xung phong làm gương mẫu trong công tác, trong học hỏi, trong tiến bộ, trong đạo đức cách mạng. Thanh niên phải thành một lực lượng to lớn và vững chắc trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Đồng thời phải vui vẻ và hoạt bát”.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc truyện ký: Thửa ruộng vỡ hoang của tác giả Xuân Trường, đăng trên báo Nhân dân đã 3, 4 kỳ rồi mà vẫn chưa hết, Người viết thư cho toà soạn nhắc nên góp ý với tác giả viết cho gọn lại.
Năm 1952
Ngày 1/4/1952: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tuyên truyền cộng sản, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2046. Bài báo trích dẫn ý kiến của Giám mục Ăngxen trên tuần báo Những người theo đạo Thiên Chúa tỉnh Liông (Pháp), lên án những ai ủng hộ Mỹ phát động cuộc chiến tranh chống Liên Xô và phản đối nước Pháp ký điều ước quân sự với Mỹ để khẳng định rằng: Những đồng bào công giáo Việt Nam theo kháng chiến mới là tín đồ chân chính của Đức Chúa vì họ thực sự phụng sự Đức Chúa, phụng sự Tổ quốc.
Ngày 3/4/1952: Hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chị Lâm và Cha và con, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 52:
- Bài Chị Lâm, kể về tấm gương dũng cảm, bất khuất của cô gái Bình Trị Thiên làm giao thông bí mật cho Đảng từ khi 14 tuổi, nhiều lần bị địch bắt, bị chúng đánh đập rất dã man, nhưng vẫn trung thành với Đảng.
- Bài Cha và con, tố cáo việc cha cố người nước ngoài ở Trung Quốc ngăn trở cha cố và con chiên tham gia phong trào yêu nước và phá hoại chủ trương “tam tự” của họ. Nhưng chúng đều thất bại, vì bị cha cố Trung Quốc và các con chiên phản đối, vì họ luôn luôn theo đuổi mục đích: Yêu Chúa, yêu nước và chống đế quốc.
Ngày 4/4/1952: Bài Có tiền mua tiên cũng được, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2048, nêu lên một thực tế là có nhiều nướctừ chối tiền Mỹ “giúp” vì họ đã hiểu ra rằng kế hoạch Mácsan của Mỹ là nhằm dùng tiền để nô dịch các nước mắc nợ. Điều đó chứng tỏ ảnh hưởng của Mỹ ngày càng sút kém, và Mỹ dù có tiền cũng không dễ mua tiên. Ngược lại, Liên Xô và các nước dân chủ mới tuy chỉ có hai bàn tay trắng lúc cách mạng mới thành công, nhưng nhờ nhân dân thi đua sản xuất tiết kiệm, Chính phủ, đoàn thể và nhân dân đồng tâm nhất trí nên đã thành công.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng tới Chủ tịch và Bộ trưởng Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Hunggari nhân Quốc khánh lần thứ 7 và cám ơn lời mời đại biểu Việt Nam sang dự Quốc khánh.
Ngày 7/4/1952: Bài 3.350 máy bay, ký bút danh Đ.X, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng báo Cứu quốc, số 2050, kể về chiến công “góp gió thành bão” của nhân dân Trung Quốc vào việc đánh thắng không quân Mỹ. Tính đến cuối tháng 12-1951, nhân dân Trung Quốc đã ủng hộ quân đội một số tiền đủ mua 3.350 chiếc máy bay, giúp cho lực lượng không quân Trung Quốc lớn mạnh lên rõ rệt, khiến lực lượng không quân Mỹ không còn giữ được ưu thế như xưa nữa.
Ngày 9/4/1952: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Con trẻ Liên Xô, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2052. Qua những số liệu cụ thể, Người nêu lại nhận xét của một nghị sĩ Quốc hội Italia từ hồi trước Chiến tranh thế giới thứ hai rằng: “Con trẻ Liên Xô sung sướng nhất thế giới”. Và nhấn mạnh: “Con trẻ Liên Xô sung sướng như vậy là nhờ người lớn hy sinh chiến tranh suốt hai cuộc cách mạng và hai cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ, để xây dựng đời sống mới, đời sống cộng sản cho toàn dân, trước hết là cho các em nhi đồng”.
Ngày 10/4/1952: Ba bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Công trình xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, Thiếu nhi Mỹ, Giảm giá hàng ở Liên Xô, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 53.
- Trong bài: Công trình xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, Người nêu lên định nghĩa về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và chỉ rõ: Muốn đi lên chủ nghĩa xã hội, đi đến chủ nghĩa cộng sản, phải thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm; sản xuất thật đầy đủ, dồi dào tất cả những thứ cần cho đời sống mỗi người.
- Bài Thiếu nhi Mỹ khẳng định thiếu nhi Mỹ cũng như thiếu nhi các nước, bản tính đều ngoan ngoãn, nhưng cách giáo dục của phản động Mỹ đã ảnh hưởng xấu đến chúng. Vì vậy, muốn bảo vệ thiếu nhi, phải chống bè lũ đế quốc gây chiến do Mỹ cầm đầu.
- Bài Giảm giá hàng ở Liên Xô, cho biết chỉ trong mấy năm, Liên Xô đã năm lần giảm giá hàng. Sở dĩ Liên Xô làm được chuyện đó, sở dĩ hàng hoá Liên Xô ngày càng rẻ là vì mọi người dân Liên Xô đều nỗ lực thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Kinh tế Liên Xô phát triển vì lợi ích của nhân dân. Ngược lại các nước đế quốc theo Mỹ chuẩn bị chiến tranh, nên hàng hoá tăng từ năm đến mười lần.
Ngày 12/4/1952: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cụ Hồ và cuốc cỏ bỏ phân, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2054. Bài báo cho biết đã có hàng vạn bức thư của các cụ phụ lão, các cháu thiếu nhi, của bà con nông dân, chiến sĩ lao động gửi tới Cụ Hồ nói về thành tích tăng gia sản xuất, nhất là qua câu chuyện một chị chiến sĩ nông nghiệp được gặp Cụ Hồ đã hứa: “Sẽ vận động bà con trong làng ra sức cuốc cỏ bỏ phân, làm mùa thật tốt...”; tác giả tin tưởng chính sách tăng gia và tiết kiệm của Chính phủ và của Đoàn thể nhất định thành công vì chính sách ấy “đã thấm nhuần và đã biến thành chính sách của nhân dân”.
Ngày 15/4/ 1952: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng nhân kỷ niệm 60 năm Ngày sinh Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Ba Lan Biêrút.
Cùng ngày, bài Tình hình nước Anh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2056, vạch rõ tình trạng khốn đốn của nước Anh: Ngân sách thâm hụt, đời sống khó khăn trong khi chi phí quân sự chiếm tới 1/3 tổng ngân sách, lại thêm hơn hai vạn lính Mỹ vào đóng ở Anh. Chính vì vậy làn sóng đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lại bắt đầu diễn ra với khẩu hiệu: Chống ngân sách “bần cùng, chiến tranh, và bị Mỹ chiếm đóng”. Bài báo kết luận: “Phong trào này là một bộ phận trong phong trào chống chiến tranh và giữ gìn hòa bình thế giới”.
Ngày 17/4/1952: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng Quốc khánh nước Cộng hoà nhân dân Hunggari. Chủ tịch viết: “Nhân dân và Chính phủ Việt Nam, và cá nhân tôi xin chúc nhân dân và Chính phủ Hung thu được nhiều thắng lợi lớn trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ hoà bình thế giới.
Tình đoàn kết huynh đệ giữa nhân dân Hung và nhân dân Việt Nam muôn năm!”
Cùng ngày, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Ai là anh hùng? ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 54. Tác giả kể lại buổi tranh luận của một nhóm chiến sĩ về vấn đề “ai là anh hùng”, đồng chí chính trị viên đã lấy kết luận của Người để giải đáp cho họ, vì Người định nghĩa rằng: “Người anh hùng là những người thật cần kiệm liêm chính, hết lòng hết sức phục vụ kháng chiến, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, là những người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, của giai cấp”. Nghe xong, các chiến sĩ đều nhiệt liệt tán thành.
Ngày 18/4/1952: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đen, Trắng, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2058, lên án tệ phân biệt chủng tộc ở Mỹ. Dẫn ra hai sự việc: Báo chí Mỹ lên tiếng kiên quyết không đồng ý cho Đại sứ Libêria (một nước da đen ở Đông Phi) và gia đình vị đại sứ này được quyền đến tiệm ăn, rạp hát, bờ biển nghỉ mát của người da trắng; và trong giấy giao kèo cho thuê nhà của hai công ty Mỹ ghi sẵn “chỉ cho người da trắng thuê”, bài báo kết luận: “Bình đẳng, bác ái kiểu Mỹ là như vậy đó”.
Tháng 4, trước ngày 21/4/1952: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị chiến sĩ lao động gương mẫu. Trong thư có đoạn: “Bác thân ái chúc các cô, các chú, các cháu vui vẻ, mạnh khỏe, trao đổi được nhiều kinh nghiệm hay và bầu cử những đại biểu rất xứng đáng để đi dự Đại hội chiến sĩ toàn quốc”.
Ngày 22/4/1952: Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự và khai mạc Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa 2 (họp từ ngày 22 đến 28-4-1952). Bản báo cáo Tình hình và nhiệm vụ do Người đọc trước Hội nghị gồm ba phần:
I. Tình hình thế giới: Nêu rõ sự lớn mạnh không ngừng của phe dân chủ hòa bình và tình hình ngày càng suy yếu của phe đế quốc.
II. Tình hình trong nước: Phân tích so sánh lực lượng giữa ta và địch để thấy rõ: Thế địch càng ngày càng yếu, càng lúng túng và bị động, tuy thế, được Mỹ giúp nhiều tiền bạc và vũ khí, chúng chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược, vẫn ráo riết thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Bên ta, có tiến bộ về mọi mặt, song những tiến bộ đó, chưa đủ với nhu cầu của kháng chiến, do cuộc kháng chiến càng ngày càng gay go, càng phát triển.
III. Nhiệm vụ và công tác trước mắt: Trình bày về ba nhiệm vụ lớn và bốn công tác chính.
Ba nhiệm vụ lớn:
1. Tiêu diệt sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích.
2. Phá chính sách của địch: Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.
3. Bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, của kháng chiến.
Bốn công tác chính:
1. Thực hiện kế hoạch tăng gia sản xuất và tiết kiệm.
2. Giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh sau lưng địch.
3. Chấn chỉnh quân đội.
4. Chỉnh Đảng.
Trong phần kết luận, báo cáo nêu rõ: “Chúng ta có đủ những điều kiện thắng lợi, vậy cán bộ và đảng viên ta phải có tư tưởng đúng, lập trường vững, quyết tâm nắm chắc và hoàn thành 3 nhiệm vụ và 4 công tác chính. Như thế là chúng ta làm đúng đường lối trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, thiết thực chuẩn bị tổng phản công để giành thắng lợi cuối cùng”.
Cùng ngày, bài viết của Người: Mỹ sợ... ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2061, phản ánh thái độ hốt hoảng của Mỹ qua những lời thừa nhận của tướng tá cao cấp Mỹ về tiềm lực quân sự của quân đội Triều Tiên, Liên Xô và các nước Đông Âu.
Ngày 24/4/1952: Hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nữ anh hùng giao thông và Hỏi trời, trời chẳng nói răng, như ri, Pháp biết mần răng, hỡi trời? ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 55.
- Bài Nữ anh hùng giao thông, ca ngợi sự tích anh hùng của chị D, phụ trách trạm giao thông bí mật, sáu lần bị địch bắt, vẫn khôn khéo đối phó, không để lọt tài liệu vào tay địch. Một ngụy binh đòi lấy chị làm vợ, chị “tương kế tựu kế”, vờ nhận lấy để moi tài liệu và tin tức báo cho cơ sở.
- Bài Hỏi trời, trời chẳng nói răng, như ri, Pháp biết mần răng, hỡi trời?, dẫn lời của tờ Le Monde (Thế giới) (Pháp) than phiền rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam “đã làm mất hết khả năng quân sự, kinh tế và tài chính của Pháp. Chính phủ Pháp lập nên, đổ xuống, không có chính sách dứt khoát tiến hay thoái!”. Và tác giả đã trả lời báo đó rằng:
“Vì bay muốn cướp nước ta,
Hại nhân, nhân hại, khóc mà ai thương”.
Ngày 25/4/1952: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Giặc Pháp sửa đổi tự vị, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2063, vạch trần thủ đoạn xuyên tạc sự thật để đánh lừa dư luận của thực dân Pháp, qua thắng lợi giả tạo trong cuộc chiến tranh xâm lược. Tác giả chỉ rõ:
“Đen thì nói trắng, ta thắng nó nói thua,
Tuyên truyền xỏ lá, có lừa được ai?”.
Ngày 29/4/1952: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Bọn đế quốc đường cùng, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2066, nói về những hành động kiên quyết chống đế quốc tại nhiều nước trên thế giới như Việt Nam, Triều Tiên, Mã Lai... Vậy là: “Mấy năm trước đây, các ông đế quốc Mỹ, Anh, Pháp đều “thở ra sét, hét ra lửa”, ai dám động đến. Song các dân tộc xưa kia chịu làm trâu ngựa, nay đã hóa ra sư tử, hùm thiêng”.
Tháng 4, cuối tháng 4/1952: Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng nhân dân Thái Bình lá cờ “Quân dân một lòng tiêu diệt quân địch”, vì thành tích chống càn hồi đầu năm 1952.
Người cũng tặng nhân dân Nguyên Xá lá cờ: “Nguyên Xá làng kiểu mẫu” vì đã kiên quyết thực hiện khẩu hiệu “Ba không” và “Ba được”.
Trong tháng 4/1952
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị chiến sĩ lao động gương mẫu. Trong thư có đoạn: “Bác thân ái chúc các cô, các chú, các cháu vui vẻ, mạnh khỏe, trao đổi được nhiều kinh nghiệm hay và bầu cử những đại biểu rất xứng đáng để đi dự Đại hội chiến sĩ toàn quốc”
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Trung đoàn 98 lá cờ thêu bốn chữ vàng “Thành tích đáng khen”.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các giáo sư và sinh viên Trường dự bị đại học ở Thanh Hóa. Người cảm ơn các thầy giáo và học sinh đã viết thư thăm hỏi và hài lòng biết các thầy giáo và học sinh cố gắng dạy tốt và học tốt. Người nhắc nhở: “Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân”.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và giải đáp thắc mắc cho cán bộ dự lớp đảng ủy, liên chi về vấn đề quan hệ trong và ngoài Đảng, quan hệ giữa gia đình và bản thân, phân công công tác, điều kiện người đảng viên. Kết luận, Người nhắc nhở: Đảng viên “Lập trường phải vững. Lập trường giúp thành tâm, thành ý phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến. Tư tưởng trong sạch. Tất cả đều giải quyết được, đó là chìa khóa”.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi cán bộ và chiến sĩ Đại đoàn 320, kèm theo hai tấm thiếp tự tay Người đánh máy, ký tên và có dấu son đỏ, Người thông báo quyết định tặng cho Trung đoàn 48 lá cờ thêu bốn chữ vàng “Giúp dân đánh giặc” và Trung đoàn 64 lá cờ thêu bốn chữ vàng “Dũng cảm đánh hăng”.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp ông Nguyễn Lương Bằng trước khi lên đường làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước ta tại Liên Xô. Người nói rõ: Nhiệm vụ chủ yếu là làm sao để các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô hiểu được cuộc kháng chiến của chúng ta, tạo điều kiện để hai Đảng, hai nước đoàn kết chiến đấu với nhau hơn, đồng thời tuyên truyền cuộc kháng chiến của ta để nhân dân Liên Xô hiểu rõ.
Tháng 4, cuối tháng: Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với đoàn đại biểu chiến sĩ nông nghiệp tham dự Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc.
Người biểu dương các cán bộ và chiến sĩ thi đua ngành nông nghiệp đã có nhiều cố gắng trong phong trào tăng gia sản xuất, phục vụ tiền tuyến và căn dặn mọi người cần đẩy mạnh hơn nữa sản xuất nông nghiệp, thực hiện khẩu hiệu “Hậu phương thi đua với tiền phương”.
Năm 1953
Ngày 3/4/1953: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các đơn vị bộ đội ta có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng Lào. Người nhắc nhở các cán bộ, chiến sĩ phải ghi nhớ "giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình" và để làm tròn nhiệm vụ, các chiến sĩ phải:
- Vượt mọi khó khăn, thi đua diệt địch, chiến đấu anh dũng.
- Nêu cao tinh thần quốc tế, tôn trọng chủ quyền, tôn trọng phong tục tập quán, kính yêu nhân dân.
- Giữ gìn kỷ luật, giữ gìn danh dự.
- Có quyết tâm cao và tranh được nhiều thắng lợi.
Cùng ngày, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cách mạng và kháng chiến, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2307. Bài báo chỉ rõ: Trước đây Việt Nam là một nước thuộc địa và phong kiến, cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ mới, chống phong kiến rồi tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, nước ta lập thành Nhà nước dân chủ cộng hòa, nhưng đế quốc Pháp và Mỹ muốn cướp nước ta mà đồng minh của chúng là địa chủ phong kiến, cho nên ta phải kháng chiến cứu nước.
Ngày 6/4/1953: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chế độ nhà nước dân chủ cộng hòa, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2309, ca ngợi chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đánh đổ nền thống trị của đế quốc và phong kiến, đưa nhân dân ta lên con đường vẻ vang. Tác giả kết luận: Nhà nước ta đã trở thành Nhà nước của nhân dân.
Cùng ngày, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhân dịp Hội nghị quốc tế bảo vệ quyền lợi thanh niên, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 105, viết về Hội nghị thanh niên 70 nước vừa họp ở Viên (Thủ đô nước áo) để thảo luận những biện pháp giữ gìn và bảo vệ quyền lợi của thanh niên. Bài báo chỉ rõ: Thanh niên Việt Nam muốn giữ gìn và bảo vệ quyền của mình phải hăng hái tham gia kháng chiến, ra sức rèn luyện phẩm chất cách mạng, không quản ngại khó khăn gian khổ, hy sinh, phải yêu lao động, bảo vệ của công, chống quan liêu, tham ô, lãng phí, yêu Tổ quốc, dũng cảm hy sinh vì Tổ quốc. Phải gắn lòng yêu nước nồng nàn với tinh thần quốc tế chân chính, trung thành với nhân dân, với Đảng và Chính phủ.
Trước ngày 8/4/1953: Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo về kế hoạch mở chiến dịch Thượng Lào. Người nhắc nhở: Phải chú ý chính sách đoàn kết quốc tế.
Ngày 10/4/1953: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện tại lớp chỉnh Đảng Trung ương khoá III. Người đã điểm lại tình hình thế giới sau Cách mạng Tháng Mười Nga: Phe đế quốc ngày càng suy yếu, phe dân chủ hoà bình ngày càng mạnh lên và liên hệ với tình hình nước ta để nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải làm tốt chính sách ruộng đất, không được tham ô, lãng phí, phải gương mẫu, thẳng thắn nhận khuyết điểm và phê bình tốt, có làm được những điều trên thắng lợi của ta mới nhanh chóng được.
Ngày 16/4/1953: Hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 107:
- Bài Lực lượng to lớn của quần chúng, chỉ rõ: "Lực lượng của quần chúng là vô cùng to lớn. Quần chúng đã tự giác, tự động thì việc gì to mấy, khó mấy cũng làm được".
- Bài Chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh và làm trái pháp luật, giới thiệu tóm tắt bản báo cáo của An Tử Văn, Thứ trưởng Bộ Tổ chức của Đảng Cộng sản, kiêm Bộ trưởng Bộ Nhân sự của Chính phủ Trung Quốc nói về ý nghĩa, nội dung, quá trình tiến hành và kết quả của cuộc vận động ba chống (quan liêu, tham ô, lãng phí) ở Trung Quốc.
Ngày 17/4/1953: Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ. Người đọc báo cáo về tình hình thế giới và trong nước từ cuối tháng 3 đến trung tuần tháng 4-1953, khẳng định phe đế quốc đang lúng túng và bị động, phe ta ngày càng chủ động, mọi mặt công tác của ta đều tiến bộ.
Tổng kết phiên họp, Người nhận định: Tình hình quốc tế tuy có lợi cho ta, song chúng ta không được chủ quan, tự mãn. Với những mặt thuận lợi và tiến bộ đó, năm nay chúng ta có thể có sự chuyển hướng khá mạnh về chính trị, quân sự và kinh tế.
Cùng ngày, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhân dân dân chủ chuyên chính, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2317. Bài báo nêu bật sự khác biệt giữa nhà nước của ta với nhà nước cũ của thực dân phong kiến và chỉ rõ: Nhà nước của ta là nhà nước của nhân dân chống đế quốc và phong kiến, tính chất của nó là nhân dân dân chủ chuyên chính (dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ địch). Tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy công nông liên minh làm nền tảng.
Ngày 20/4/1953: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mặt trận dân tộc thống nhất (Liên Việt) ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2319. Bài báo chỉ rõ: Trong cách mạng dân tộc dân chủ và trong công cuộc kiến thiết đất nước, bốn giai cấp: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc đều là động lực của cách mạng. Cần đoàn kết tổ chức lại thành Mặt trận dân tộc thống nhất to lớn mạnh mẽ để góp phần đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc mau tới thắng lợi.
Ngày 21/4/1953: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Bộ Chính trị bàn về vấn đề quân sự (bao gồm tình hình chiến sự, kế hoạch chỉnh quân chính trị, sửa đường vận tải), vấn đề phát động quần chúng, kế hoạch triệu tập Hội nghị toàn quốc và chế độ làm việc của các đồng chí Trung ương, kiến nghị bảo vệ sức khỏe cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cùng ngày, hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 108:
- Bài Tinh thần yêu nước, Người cho biết: Nhân kỷ niệm ngày Đảng ra hoạt động công khai, các giới đồng bào từ Nam chí Bắc đã gửi nhiều thư tới Người báo cáo những việc đã làm, thể hiện lòng yêu nước của mình. Người khẳng định: "Già trẻ gái trai đều kháng chiến", nhờ tinh thần yêu nước đó mà "ta càng thắng, giặc càng thua" và cuộc kháng chiến của ta nhất định thắng lợi.
- Bài Kênia anh dũng, ca ngợi cuộc đấu tranh của nhân dân Kênia chống thực dân Anh giành độc lập dân tộc và nêu rõ: Cuộc đấu tranh chính nghĩa đó nhất định thắng lợi, nhân dân Việt Nam đồng tình và ủng hộ nhân dân Kênia.
Ngày 26/4/1953: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tình hình khó khăn của Pháp, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 109, viết về sự lệ thuộc của Pháp vào Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương đã gây ra những hậu quả xấu trong đời sống của nhân dân Pháp. Bài viết cho biết, mặc dù được Mỹ giúp đỡ, thực dân Pháp vẫn liên tiếp thất bại, nhân dân các nước Đông Dương vẫn cùng nhân dân Pháp đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù chung.
Năm 1954
Ngày 1/4/1954: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vương Sùng Luân, anh hùng lao động Trung Quốc, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 175.
Bài báo viết về gương anh hùng lao động Vương Sùng Luân, công nhân Nhà máy Yên Sơn (Trung Quốc) ra sức tìm tòi phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, cải tiến cách thức, làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm; hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước đề ra, tiết kiệm cho ngân sách của Chính phủ. Kinh nghiệm của Vương Sùng Luân đã được phổ biến ở các cơ quan, nhà máy và đều đạt kết quả tốt về năng suất. Theo tác giả, ở Việt Nam, các chiến sĩ thi đua cũng có rất nhiều sáng kiến hay, quần chúng cũng rất hăng hái, nhưng ta chưa biết phổ biến những kinh nghiệm đó một cách thiết thực và chặt chẽ. Do vậy ta phải cố gắng học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc.
Ngày 5/4/1954: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Văn Mỹ kiểu Mỹ, ký bút danh Đ.X, đăng báo Cứu quốc, số 2568. Tác giả chỉ rõ: "Văn Mỹ" thì hay, song "kiểu Mỹ" thì dở.
Ngày 6/4/1954: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhiệm vụ của chi bộ ở các cơ quan, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 176.
Trong bài, Người nêu lên sáu nhiệm vụ cần thiết mà các chi bộ ở cơ quan phải làm để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và cải cách ruộng đất đến thành công.
Ngày 15/4/1954: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Ai âm mưu gây chiến? - ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 177.
Bài báo chỉ rõ: "Mỹ là thủ phạm âm mưu gây chiến. Nhưng kinh nghiệm đã chứng tỏ: Mỹ đã thất bại ở Trung Quốc, đã thất bại ở Triều Tiên, thì ở Việt - Miên - Lào, Mỹ cũng sẽ thất bại".
Ngày 16/4/1954: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chiến tranh xâm lược Việt Nam làm cho người ở Pháp chết, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 178. Bài báo lên án thực dân Pháp gây chiến tranh ở Việt Nam, không những giết người Việt Nam mà còn giết cả người Pháp. Bởi vì, để theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã tập trung tiền của mua sắm vũ khí làm cho nhiều người Pháp không có cơm ăn, không có nhà ở, rơi vào đói khổ, bệnh tật mà chết.
Ngày 21/4/1954: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tiến bộ và khuyết điểm, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 179. Qua đợt 3 phong trào phát động quần chúng, triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất, Người khen ngợi những mặt tiến bộ của cán bộ thực hiện đã biết rút kinh nghiệm của những đợt làm trước. Đồng thời, Người chỉ ra những khuyết điểm cán bộ còn mắc phải như: Tự kiêu tự mãn, chủ quan khinh địch; lập trường chưa vững; quan liêu, bao biện, sợ khó ngại khổ.
Ngày 26/4/1954: Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Những trường học lớn và tốt, ký bút danh C.B, đăng báo Nhân dân, số 180. Bài báo chỉ rõ: Để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, cuộc kiến thiết đến thành công, chúng ta cần nhiều cán bộ tốt, có trình độ để phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Muốn thế phải động viên, đưa cán bộ vào các trường học lớn: Trường Quân đội nhân dân, Trường Thanh niên xung phong, Trường đội phát động quần chúng (triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất).
Trong tháng 4/4/1954
+ Tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhà báo Ôxtrâylia W.Bớcsét. Mô tả vị trí của Điện Biên Phủ, Người lật ngửa chiếc mũ cát trên chiếc bàn tre, đưa mấy ngón tay vòng quanh mũ, giải thích: Đây là rừng núi, nơi có lực lượng của chúng tôi. Rồi Người nắm tay lại, đấm vào lòng mũ và nói tiếp: Còn đây là quân Pháp. Họ không thoát khỏi chỗ này được!
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho ngành cầu đường. Bức thư có đoạn:
"Nhiệm vụ cầu đường của ta ngày càng quan trọng. Phải có nhiều đường tốt để vận chuyển lương thực và vũ khí cho bộ đội, hàng hóa cho nhân dân.
Năm ngoái ta làm đường đã có ít nhiều kinh nghiệm. Những chiến sĩ thi đua như các chú Chúc, Ngốc..., làm đất, làm đá gấp 25 lần mức thường, đều đã được khen thưởng. Nhưng ta còn mắc nhiều khuyết điểm, nặng nhất là để lãng phí, có nơi đến hàng chục vạn công, hàng trăm tấn gạo.
Năm nay ta phải làm đường nhiều hơn nữa...
Đặc biệt các cô, các chú phải kiên quyết chống lãng phí...".
Huyền Trang (Tổng hợp)
Còn nữa
* Năm 1955
- Ngày 4/4/1955: Hồ Chủ tịch viết bài Vệ Lập Hoàng, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 398. Trong bài, Người viết về chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Chính sách đại đoàn kết chống Mỹ, chống Tưởng của Đảng Cộng sản đã lôi kéo được đông đảo nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh do Đảng lãnh đạo, đã cảm hoá được cả các tướng lĩnh đã từng phục vụ trong quân đội Tưởng Giới Thạch như Vệ Lập Hoàng, trở về với nhân dân Trung Quốc. Người kết luận: Đó là một kinh nghiệm rất quý báu cho chúng ta.
- Ngày 54/1955: Bài viết Hội nghị tay ba để làm gì?, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 399. Trong bài, Người tố cáo các nước Anh, Pháp, Mỹ âm mưu họp hội nghị riêng rẽ để bàn về việc Pháp rút quân khỏi Hải Phòng và việc tổng tuyển cử ở Việt Nam. Người vạch rõ: Đây là sự vi phạm thô bạo Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương.
- Ngày 8/4/1955: Bài viết 9 triệu người điên, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 402. người viết: Do phải sống trong tình trạng căng thẳng của xã hội Hoa Kỳ, nên số người Mỹ bị bệnh thần kinh lên tới 9 triệu, trong số đó 90 vạn người phải điều trị tại các bệnh viện tâm thần.
- Ngày 11/4/1955: Bài viết Tình hình rối loạn ở miền Nam, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 405. Người cho biết: Do chính sách độc tài của chế độ Mỹ - Diệm, tình hình xã hội miền Nam ngày càng rối loạn, các phe phái thanh toán lẫn nhau, trật tự trị an ngày càng xuống cấp, đời sống nhân dân ngày một khó khăn.
- Ngày 13/4/1955: Bài viết Tổ đổi công kiểu mẫu, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 407. Trong bài, Người biểu dương một số tổ đổi công ở Yên Bái, Sơn Tây, Thái Nguyên do biết cách tổ chức nên đạt kết quả tốt. Người chỉ rõ phương hướng và nguyên tắc tổ chức tổ đổi công: "Muốn tổ đổi công có kết quả thật tốt, thì phải khéo tổ chức, theo nguyên tắc tự giác tự nguyện. Phải khéo lãnh đạo, làm cho các tổ viên ai cũng hăng hái làm việc, ai cũng được hưởng lợi công bằng".
- Ngày 14/4/1955: Bài Nam nữ bình quyền, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 408. Trong bài, Người đề cao những đóng góp quan trọng của phụ nữ Liên Xô trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ hoà bình ở tất cả các lĩnh vực: Quản lý đất nước, hoạt động xã hội, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, y tế... Người kêu gọi phụ nữ Việt Nam tích cực hoạt động để tham gia công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Ngày 17/4/1955: Bài viết Đặc vụ của bọn đế quốc, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 411. Trong bài, Người nêu lên những thủ đoạn hoạt động gián điệp của các nước đế quốc chống Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân; những kinh nghiệm chống bọn đặc vụ ở Cộng hoà dân chủ Đức. Người kết luận: Trước tinh thần cảnh giác của nhân viên, cán bộ, quân đội và nhân dân, bọn đặc vụ dù có thủ đoạn tinh vi mấy cũng thất bại.
- Ngày 18/4/1955: Nhân dịp khai mạc Hội nghị 29 nước Châu Á và Phi tại Băngđung (Inđônêxia), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Chúc mừng Hội nghị Á - Phi, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 412 ca ngợi cuộc đấu tranh của nhân dân Á - Phi vì độc lập, tự do, hoà bình, dân chủ. Người nêu lên những ý nghĩa to lớn của Hội nghị Á - Phi và bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam đối với cuộc đấu tranh của nhân dân các nước Châu Á và Châu Phi.
Cùng ngày, bài Chủ nghĩa Lênin và công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức, đăng báo Pravđa (Liên Xô). Trong bài, Người khẳng định: "Đấu tranh một cách không điều hoà chống bọn cải lương và bọn xuyên tạc chủ nghĩa Mác đủ các loại, Lênin đã nâng chủ nghĩa xã hội khoa học lên một giai đoạn mới. Người đã làm phong phú chủ nghĩa Mác - vũ khí tư tưởng vĩ đại của giai cấp vô sản...
Người nêu ra những luận điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa Lênin, sự quan tâm sâu sắc của Lênin đối với phong trào giải phóng dân tộc. Người viết: "Nếu như các dân tộc bị nô dịch ở Châu Á dưới sự lãnh đạo của các đảng mácxít - lêninít đã thu được những thắng lợi nhất định, thì chính là nhờ họ đã làm theo những lời di huấn vĩ đại của Vlađimia Ilítsơ". Người giới thiệu với bạn đọc Xôviết về những thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, những nhiệm vụ trước mắt mà nhân dân Việt Nam phải tiếp tục thực hiện. Người kết luận: Từ trong học thuyết dạt dào sức sống của chủ nghĩa Lênin, chúng tôi khơi nguồn sức mạnh để giành thắng lợi cho sự nghiệp thiêng liêng là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, để giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội.
- Ngày 19/4/1955: Bài viết Việt Nam anh dũng, đăng báo Nhân Dân, ngày 19-4-1955. Sau khi chỉ rõ vị trí địa lý của Khu 5 (gồm 12 tỉnh: 7 tỉnh vùng đồng bằng, 5 tỉnh miền núi Tây Nguyên), Người nêu những thành tích trên các mặt: Về quân sự (xây dựng lực lượng vũ trang, tác chiến), về kinh tế - tài chính, về tự túc lương thực, tự túc vải, giấy và các thứ nhu cầu khác.
- Ngày 21/4/1955: Người viết bài thơ Nữ anh hùng Nguyễn Thị Bươi, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 415. Đây là bài thơ lục bát ca ngợi gương chiến đấu, hy sinh quên mình vì nước, vì dân của nữ liệt sĩ Nguyễn Thị Bươi ở Quảng Yên (nay thuộc Quảng Ninh).
- Ngày 22/4/1955: Bài viết Chuyện ngược đời, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 416. Người lên án những hành động thất nhân tâm tại các nước tư bản. Trong lúc đời sống của quần chúng lao động còn gặp nhiều khó khăn thì chủ nghĩa tư bản lại dùng thóc đốt thay than đá, hoặc đổ xuống biển hàng chục tấn càphê và rượu nho để giữ giá hàng hoá trong những kỳ khủng hoảng thừa. Bài báo kết luận:
"Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời tư bản và địa chủ lại thương người nghèo".
- Ngày 23/4/1955: Bài viết Lynch, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 147. Trong bài viết, Người lên án chế độ phân biệt chủng tộc ở Mỹ và Nam Phi. Đề nghị Hội nghị Á - Phi cần động viên dư luận thế giới đòi đế quốc Mỹ xoá bỏ kiểu hành hình Linsơ của người Mỹ da trắng đối với người Mỹ da đen.
- Ngày 26/4/1955: Bài viết Chữ F, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 420. Trong bài, Người ca ngợi lòng tự trọng dân tộc của trẻ em Marốc, một đất nước đang đấu tranh chống lại ách thống trị của chủ nghĩa thực dân.
- Ngày 27/4/1955: Bài viết Thanh niên gương mẫu, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 421. Trong bài, Người biểu dương tấm gương lao động quên mình của chiến sĩ thi đua Liên khu 4 Lương Thị Ngọc Thái, hộ sinh tại Ty Y tế Quảng Bình. Chị hết lòng yêu thương sản phụ và luôn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình cả những khi cơ quan bị máy bay địch bắn phá.
- Ngày 28/4/1955: Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Hồng Quảng (nay là tỉnh Quảng Ninh) nhân dịp vùng Quảng Yên, Hồng Gai mới được giải phóng, đăng báo Nhân Dân, số 422. Người biểu dương những thành tích to lớn mà quân dân Hồng Quảng đã đạt được trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ, anh em công nhân và các giới đồng bào phải đoàn kết chặt chẽ, nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định đời sống và góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Cùng ngày, bài viết Mặt trận thống nhất Á- Phi, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 422. Trong bài, Người nêu lên những thắng lợi của phong trào đoàn kết chống đế quốc của nhân dân các nước Á - Phi tại Hội nghị Băngđung. Người khẳng định: "Hội nghị á- Phi là một vố nặng đánh vào đầu Hội nghị Mani tháng 9 năm ngoái và Hội nghị Băng Cốc tháng 2 năm nay (hai cái hội nghị do Mỹ cầm đầu để bàn bạc chiến tranh xâm lược)".
- Ngày 30/4/1955: Bài viết Đê điều, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 424. Người nhắc nhở các cấp, các ngành và đồng bào vùng có đê cần đẩy mạnh công tác chăm lo, tu bổ đê điều trong mùa mưa bão.
* Một số việc khác trong tháng 4/1955
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào theo đạo Thiên chúa đã di cư vào Nam. Người bày tỏ sự thông cảm sâu sắc đối với đồng bào bị mua chuộc, cưỡng ép di cư vào Nam đang phải sống tại các khu vực tạm trú trong những điều kiện rất khó khăn. Chỉ rõ Chính phủ và bà con miền Bắc luôn luôn sẵn lòng đón nhận đồng bào trở về quê hương.
+ Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cụ quyền Giám mục Lê Khanh về việc sửa chữa nhà Chung.Trong thư Người viết: "Vì cụ tuổi già sức yếu, nếu làm phiền cụ phải đi xa mệt nhọc, tôi không yên lòng.Vậy tôi đề nghị: Về việc sửa chữa nhà Chung xin cụ bàn với Ban Hành chính huyện địa phương. Nếu có vấn đề gì mà cụ với Ban Hành chính khó giải quyết, thì xin cụ viết thư rồi cho người thân tín của cụ đưa đến cho tôi. Tôi sẽ sẵn sàng nghiên cứu và trả lời cụ".
* Năm 1956
- Ngày 1/4/ 1956: Bài viết Nhân dân Việt Nam kỷ niệm một người Mỹ, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 759. Người cho biết: Ngày 26-3-1956, Uỷ ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Trường đại học Nhân dân Việt Nam và Hội Văn nghệ Việt Nam đã long trọng kỷ niệm ngày sinh cụ Phơrăngcơlanh - một nhà khoa học Mỹ nổi tiếng thế giới[1]. Đối với những người Mỹ tốt như cụ, thì không những Việt Nam mà cả thế giới đều kính trọng.
- Ngày 3/4/1956: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc mít tinh của nhân dân Thủ đô chào mừng Đoàn đại biểu Chính phủ Liên Xô sang thăm nước ta tổ chức tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Đọc diễn văn tại cuộc mít tinh, Người khẳng định: "Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, mở đường giải phóng cho nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có nước Việt Nam ta". Người ca ngợi những thắng lợi to lớn mà Đảng, Chính phủ và nhân dân Liên Xô đã giành được trong gần 40 năm qua; bày tỏ lòng biết ơn về sự ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình của nhân dân Liên Xô đối với nhân dân ta trong kháng chiến cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước. Nhắc lại những nhiệm vụ trước mắt của cách mạng nước ta, Người nói: "Củng cố miền Bắc là để có cơ sở vững mạnh đấu tranh thống nhất nước nhà. Một ngày nước ta chưa thống nhất thì toàn thể đồng bào ta phải kiên quyết đấu tranh để thực hiện Nam Bắc một nhà, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".
Cùng ngày, bài viết: Nông nghiệp nước Mỹ và nông nghiệp Liên Xô, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 761. Người so sánh tình hình nông nghiệp ở Mỹ với Liên Xô và đánh giá cao những thành tựu của nhân dân Liên Xô trên lĩnh vực nông nghiệp.
- Ngày 10/4/1956: Người thăm Hội nghị cán bộ cải cách miền biển. Nói chuyện tại hội nghị, Người nhấn mạnh cải cách ở miền biển cũng cần thiết như cải cách ở đồng bằng, vì dân lao động ở miền biển cũng khổ như dân lao động ở đồng bằng. Người chỉ rõ: "Muốn cải cách tốt thì cán bộ phải làm đúng đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, trước hết là phải đoàn kết nhân dân lao động, thứ hai là liên hiệp với chủ thuyền". Người yêu cầu phải phân biệt từng hạng chủ thuyền để có chủ trương và biện pháp xử lý thích hợp và căn dặn cán bộ phải biết dựa vào quần chúng; chú trọng việc cải thiện đời sống cho nhân dân lao động; công việc phải thiết thực; chống máy móc. Đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ miền biển, Người phân tích: "Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được không? Kẻ gian tế vào chỗ nào trước? Nó vào ở cửa trước. Vì vậy, ta phải giáo dục cho đồng bào biết bảo vệ bờ biển... Nếu để nó lọt vào, thì người bị thiệt hại trước là đồng bào miền biển. Nếu mình không lo bảo vệ miền biển, thì đánh cá, làm muối cũng không yên".
- Ngày 13/4/1956: Bài viết Lòng phấn khởi của nông dân, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 771. Trong bài, Người nêu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ là giảm nhẹ dần sự đóng góp của nhân dân; đẩy mạnh thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, trước hết là tăng gia sản xuất lương thực nhằm dần dần nâng cao đời sống của nhân dân. Để khuyến khích nông dân tăng gia sản xuất, Chính phủ đã định ra biểu thuế mới có lợi cho nông dân, đơn giản hơn, nhẹ hơn... Nhờ vậy mà nông dân càng hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm.
- Ngày 16/4/1956: Bài viết Tư bản phương Tây lúng túng, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 774. Người cho rằng: Mỹ và các nước phương Tây thực hiện chính sách "cấm vận" đối với Liên Xô nhằm làm cho Liên Xô lúng túng, nhưng thực ra chúng lại bị lúng túng bởi chính sách "cấm vận" đó.
- Ngày 18/4/1956: Bài viết Lời lẽ ngay thẳng, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 776. Người viết về nước Cao Miên đối với chính sách của giới cầm quyền ở Mỹ. Cao Miên là một nước trung lập, không tham gia Khối quân sự Đông Nam á. Vì vậy mà Mỹ một mặt đe dọa cắt "viện trợ" cho Cao Miên, mặt khác thúc ép một số nước và chính quyền tay sai "tẩy chay" không buôn bán với Cao Miên. Mục đích của Mỹ là ép những nước nhận "viện trợ" tham gia chống cộng. Song, sự đe dọa ấy không làm nao núng ý chí của nhân dân Cao Miên. Nhân dân sẵn sàng đóng thêm thuế, bù đắp cho những hao hụt của đất nước. Phong trào chống Mỹ vẫn lan rộng. Người cho rằng: Lời tuyên bố "Cao Miên sẽ đặt quan hệ ngoại giao với Liên Xô, sẽ ủng hộ việc Trung Hoa vào Liên hợp quốc" của ông Xihanúc "là lời ngay thẳng",được nhân dân Cao Miên, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ.
- Ngày 21/4/1956: Bài viết Mỹ đi xuống dốc, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 779. Bài báo giới thiệu dư luận các nước phản đối chính sách của Mỹ "một tay cầm bom nguyên tử để đe dọa, một tay cầm đồng đôla để mua chuộc".Sự thừa nhận của Hãng tin Mỹ U.P., ngày 30-3-1956: "So với 10 năm trước... thì ngày nay địa vị của Mỹ... đang đi xuống dốc".
- Khoảng giữa tháng 4/1956: Người gửi thư khen cụ Nguyễn Thị Xuyến, xã Nghi Tân (Nghi Lộc, Nghệ An), 100 tuổi mà vẫn hăng hái học bình dân học vụ. Người viết: "Tôi rất vui mừng được tin rằng, cụ năm nay thọ 100 tuổi. Tôi rất cảm động biết rằng, dù tuổi cao, sức yếu, cụ vẫn hăng hái xung phong đi học để làm gương cho con cháu noi theo. Tôi mong rằng đồng bào tỉnh ta đều noi gương ham học của bà cụ, đều hăng hái tham gia bình dân học vụ để sớm thanh toán nạn mù chữ trong cả tỉnh". Người tặng cụ một chiếc áo và huy hiệu để làm kỷ niệm.
- Từ ngày 19 đến ngày 24/4/1956: Người tham dự Hội nghị lần thứ chín (mở rộng) BCHTW Đảng Lao động Việt Nam và phát biểu bế mạc hội nghị ngày 24-4-1956. Người chỉ ra những thiếu sót của Đảng như: Trình độ lý luận còn kém; nắm tình hình thực tế chưa tốt; dân chủ nội bộ còn chưa thật mở rộng; phê bình và tự phê bình chưa được phát huy, nhất là phê bình từ dưới lên. Người nêu ra biện pháp sửa chữa là: Tập thể lãnh đạo phải đi đôi với cá nhân phụ trách, phải định rõ chế độ làm việc; phải mở rộng dân chủ, mở rộng tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên; phải nâng cao trình độ lý luận, gắn công tác lý luận với thực tiễn cách mạng; liên hệ mật thiết với quần chúng; phải đề phòng bệnh sùng bái cá nhân, phương pháp chủ yếu là giáo dục...
Về vấn đề chống sùng bái cá nhân, Người nói: "Chúng ta cần có sự nhận định toàn diện đối với đồng chí Xtalin. Đồng chí Xtalin có công lao to lớn với cách mạng, nhưng cũng có sai lầm nghiêm trọng". Người kết luận: "Thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất để sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm... phải hoan nghênh những lời phê bình thành thật của nhân dân".
Người còn nói về ý nghĩa của Đại hội lần thứ XX Đảng Cộng sản Liên Xô.
- Ngày 25/4/1956: Bài viết Tin tức nước Pháp, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 783. Bài báo trả lời bạn đọc về tình hình xã hội, văn hoá nước Pháp và cho biết, ngày 5-4-1956, Pháp tiếp tục đưa vũ khí vào Angiêri. Trong cuộc chiến tranh ở Angiêri, Pháp tốn 250 nghìn triệu phrăng, gần bằng 1/4 tổng ngân sách quốc phòng của Pháp, dùng nửa triệu binh sĩ để chống lại 15.000 du kích Angiêri. Tác giả dẫn lời báo Pháp Le Monde ngày 5-4-1956: "Đối với cuộc chiến tranh ở Angiêri, ai muốn viện lý do gì để ca tụng cũng được. Nhưng chỉ có ba chữ sau đây đủ làm cho những người Pháp chân chính cảm thấy đau đớn và nhục nhã. Đó là:
Trại tập trung ghê tởm
Nhục hình dã man
Khủng bố cả loạt".
- Cuối tháng 4/1956: Người trả lời phỏng vấn của Rốt Xenxpô, phóng viên báo Anh Daily Telepress (Tin nhanh hằng ngày) về một số vấn đề quốc tế và trong nước. Trả lời các câu hỏi về tình hình Việt Nam và việc thi hành Hiệp định Giơnevơ, Người nêu rõ: Hòa bình ở Việt Nam đang bị đe dọa vì Hiệp định Giơnevơ bị chính quyền miền Nam vi phạm nghiệm trọng... Nhân dân Việt Nam sẽ dùng mọi biện pháp đấu tranh bằng đường lối hòa bình để Hiệp định Giơnevơ được thực hiện triệt để.
- Ngày 29/4/1956: Bài viết Nước Mỹ lo sợ, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 787. Người cho biết Mỹ rất lo sợ khi thấy sự phát triển mạnh mẽ của Liên Xô trên tất cả các mặt: Quân sự, kinh tế, văn hoá... Liên Xô lại là nước đông dân hơn, giàu kinh nghiệm hơn, có chính sách ngoại giao chung sống hòa bình nên được nhiều người ủng hộ hơn... Ngoại trưởng Mỹ Đalét phải thú nhận: "Mỹ đang tìm cách để đưa gần đến ngày mà tình hữu nghị giữa Liên Xô và Mỹ sẽ trở lại đầy đủ hơn".
- Trong tháng 4/1956
+ Người thăm Hội nghị tổng kết công tác nông, lâm, ngư nghiệp năm 1956. Nói chuyện tại hội nghị, Người chỉ rõ sản xuất và cung cấp lương thực cho các nhu cầu của đất nước là nhiệm vụ quan trọng của nông dân và cán bộ nông lâm. Muốn thực hiện được nhiệm vụ đó, cán bộ phải tuyên truyền giải thích cho nông dân hiểu và làm chứ không thể gò ép mệnh lệnh. Sau khi chỉ ra một số sai lầm, khuyết điểm của cán bộ nông, lâm, Người nhắc nhở: Nông dân phải chú trọng cả việc trồng cây công nghiệp, nuôi cá, trồng rừng. Cán bộ phải hiểu: "Làm cán bộ không phải là để thăng quan, phát tài. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Cán bộ làm công tác gì cũng vì dân vì nước. Nếu làm tròn nhiệm vụ là vẻ vang, là anh hùng".
+ Tại một cuộc họp Bộ Chính trị, như thường lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói mọi người hãy làm một "tour d'horizon"(nhìn quanh chân trời), xem tình hình thế giới, trong nước ra sao, ai biết gì cứ nói. Đây là một cách lắng nghe ý kiến hết sức dân chủ mà Người thường làm. Một đồng chí đứng lên nói:
- Cải cách ruộng đất là cần, nhưng sao lại bắn giết nhiều người thế? Đến như anh Hoàng Văn Thái cũng bị gọi về kiểm điểm, vậy có nên xem lại không?
Nghe vậy, Người đã chỉ thị phải kiểm tra kỹ việc chấp hành chính sách cải cách ruộng đất. Chỉ mấy ngày sau, đã có các báo cáo gửi về phản ánh nhiều sai lầm nghiêm trọng đã xảy ra.
* Năm 1957
- Ngày 3 đến 6/4/1957: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Bộ Chính trị, bàn về vấn đề đền bù tài sản trong sửa sai, bổ sung cán bộ cho cải cách ruộng đất để chuẩn bị tổng kết. Phát biểu trong cuộc họp, Người nói: “Chính phủ có xuất một phần để đền bù sau khi tận khả năng, nhưng phải điều tra kỹ. Cách trả thế nào phải nghiên cứu kỹ. Đền bù phải có trọng điểm chiếu cố ai trước (gia đình liệt sĩ, trung nông...). Nhưng trung nông đều là thiếu, có nên nghiên cứu hạ thành phần cho họ xuống bần nông? . Việc hoãn sửa sai để thu thuế là do Bộ Chính trị định, nhưng vì dưới giải thích không đầy đủ, nay ta có nên có bài báo giải thích không? (báo hoàn thành tốt cải cách ruộng đất)”. Nên nghiên cứu, tổ chức ra tổ đổi công để giúp sản xuất và giáo dục tinh thần đoàn kết.
- Ngày 10/4/1957: Dự Hội nghị Bộ Chính trị bàn về sửa sai cải cách ruộng đất ở ngoại thành Hà Nội, Người nêu ý kiến:"Bất kỳ người có ruộng đất phát canh nhiều hay ít ta cũng đều trưng mua. Về chính sách ta rộng rãi chừng nào hay chừng ấy. Ruộng đất ngoại thành nên để sử dụng, không nên để sở hữu. Người nào trong cải cách ruộng đất đã quy công thương lên địa chủ nay có thể cho đổi thành phần".
- Ngày 16/4/1957: Bài viết Lao động là vẻ vang, bút danh C.B., đăng báo Nhân Dân, số 1135. Người khẳng định: "Lao động chân tay, lao động trí óc, bất kỳ làm việc gì hễ có ích cho xã hội đều là vẻ vang, đều được nhân dân quý trọng”.Người nêu ra hai ví dụ về hai người phụ nữ lao động giỏi được Nhà nước khen thưởng, một người là trí thức, một người là công nhân vệ sinh để minh họa ý kiến trên.
- Từ ngày 16 đến ngày 19/4/1957: Chủ tọa phiên họp của Hội đồng Chính phủ để thông qua kế hoạch nhà nước năm 1957; thảo luận về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng; khen thưởng những cá nhân, tập thể và các địa phương đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và bàn một số vấn đề khác. Cuối phiên họp, Người kết luận:
1. Các Bộ Văn hóa, Giáo dục phải có kế hoạch tuyên truyền cho các công tác trên đây, chủ yếu là về giáo dục tư tưởng lao động, kỷ luật lao động, tăng gia sản xuất, tiết kiệm.
2. Việc trao trả Phú Bình, Phổ Yên về Khu tự trị Việt Bắc, Bộ Nội vụ sẽ trình Hội đồng Chính phủ kỳ họp sau.
3. Việc chống lãng phí giao Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ cùng làm với các Bộ Tài chính, Bộ Thương nghiệp. Các bộ, sở hữu quan sẽ phải có báo cáo trong kỳ họp tới.
Các bộ cần phải có cơ quan kiểm tra để kiểm soát việc thi hành các chỉ thị của bộ đưa xuống dưới, bộ nào chưa có thì nên tổ chức gấp.
- Ngày 19/4/1957: đến thăm hội nghị cán bộ thanh tra miền Bắc, Người chỉ rõ: công tác thanh tra là một công tác rất quan trọng, nó giúp cấp trên hiểu cấp dưới; giúp cấp dưới kịp thời sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm. Vì vậy, thái độ làm việc của cán bộ thanh tra cần hết sức thận trọng; phải khách quan và phải chống tệ quan liêu. Cán bộ thanh tra phải như cái gương cho người ta soi mặt, gương mờ thì soi không được.
- Ngày 23/4/1957: Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề đền bù tài sản. Sau khi nghe thảo luận, trong đó có vấn đề đền bù tài sản cho những người bị quy sai thành phần. Người phát biểu: “Phải có kế hoạch động viên chính trị chu đáo, tránh tư tưởng ỷ lại. Trung nông tuy ít về số lượng nhưng đóng vai trò quan trọng”. Người đề nghị hội nghị nghiên cứu kỹ cách trả lại tài sản và đền bù cho nhân dân một cách hợp lý.
- Ngày 24/4/1957: Thăm Nhà máy dệt Nam Định, sau khi biểu dương thành tích, nhắc nhở một số khuyết điểm, Người nói: "Mình là chủ phải làm thế nào cho xứng đáng là chủ. Phải theo gương công nhân các nước bạn yêu máy như yêu con, yêu nhà máy như nhà mình. Đó là làm chủ xứng đáng. Cái gì lợi cho nhà máy là ích lợi cho mình, cái gì hại cho nhà máy là hại cho nhà mình. Đó là thái độ của người làm chủ, làm chủ nước nhà, làm chủ nhà máy''. Về chế độ quản lý và điều hành sản xuất của nhà máy, Người khẳng định: “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng”. Người căn dặn cán bộ công nhân viên nhà máy phải đoàn kết, cố gắng học tập chính trị, kỹ thuật để đạt nhiều thành tích hơn nữa.
Nói chuyện với Hội nghị cán bộ sửa sai tỉnh Nam Định, Sau khi khẳng định ý nghĩa thắng lợi của cải cách ruộng đất, Người chỉ rõ những sai lầm đã phạm phải trong cải cách ruộng đất tạm thời, Đảng và Chính phủ đang quyết tâm sửa chữa. Muốn giành thắng lợi trong công tác sửa sai phải đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết trong Đảng, trong mọi tầng lớp nhân dân... Giữ vững ý chí chiến đấu, ý thức kỷ luật và tinh thần khắc phục khó khăn.
- Ngày 25/4/1957: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Ban Bí thư bàn về công tác vận động phụ nữ. Sau khi nghe báo cáo của đồng chí Nguyễn Thị Thập, Người nêu lên một số ý kiến về ba nguyên tắc lớn trong công tác vận động phụ nữ và nhấn mạnh: Cán bộ phải tham gia lao động và sinh hoạt của quần chúng mới biết được thực tế; phải có trọng tâm trong ba công tác; kế hoạch phải nói đến cả phong trào ở thành thị; hướng vận động phải thiết thực, chống xa xỉ, đề cao lao động. Người gợi ý: Ta nên học tập kinh nghiệm của Trung Quốc. Cần có chính sách bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng cán bộ nữ.
- Trong tháng 4/1957
+ Thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, nói chuyện với giáo viên, học sinh nhà trường, Người chỉ rõ: Thầy dạy phải xuất phát từ tình thương yêu giai cấp, kiên nhẫn thuyết phục, không đánh mắng học sinh; học sinh khi ra trường phải về các vùng quê xa, vùng núi và vùng mới được giải phóng, vì đó là những vùng mà các em đang rất cần được dạy bảo học tập.
+ Đến thăm và nói chuyện với Hội nghị cán bộ đảng các tỉnh miền Bắc, bằng những thí dụ sinh động, qua cách nói dí dỏm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích các vấn đề bức thiết, rất quan trọng của đất nước, đó là: Vấn đề chiến tranh hay hoà bình; vấn đề cải cách ruộng đất; vấn đề tự do tín ngưỡng; vấn đề quốc phòng; vấn đề sản xuất; vấn đề thuế; vấn đề cứu đói; vấn đề di cư; vấn đề ngoại giao, v.v..
* Năm 1958
- Ngày 2/4/ 1958: Dự họp Bộ Chính trị nghe báo cáo kết quả Hội nghị văn nghệ sĩ lần thứ hai, phát biểu sau khi nghe báo cáo, Người nhấn mạnh: Cần phải rút kinh nghiệm công tác giáo dục vì từ trước đến nay công tác này rất kém. Trong đấu tranh, đánh phải đúng và phải làm triệt để. Quần chúng ủng hộ ta. Phải củng cố công tác chi bộ ở cơ quan.
- Ngày 4/4/1958: Dự họp Bộ Chính trị bàn về tổ chức Chính phủ, hệ thống tổ chức các cấp chính quyền, nhiệm vụ và quyền hạn của các Bộ và vấn đề phân cấp quản lý, Người cho rằng “Vấn đề phân cấp quản lý, từ đường lối chính sách đến những con số lớn do Hội đồng Chính phủ quy định. Các Bộ căn cứ vào quy định của Hội đồng Chính phủ mà Thông tư hoặc ra Nghị định cho các cấp thi hành... Ngoài những việc do Hội đồng Chính phủ quy định, các Bộ không được quyền ra thêm một chủ trương gì mà không được Hội đồng Chính phủ phê chuẩn”.
- Ngày 5/4/1958: 7 giờ 30, dự lễ tốt nghiệp khoá 10 của Trường Sĩ quan lục quân Việt Nam, nói chuyện với cán bộ và học viên về nhiệm vụ của quân đội hiện nay, Người căn dặn các sĩ quan sắp ra trường: “cần mạnh dạn áp dụng những điều đã học được, nhưng cần phải áp dụng một cách thiết thực, thích hợp với hoàn cảnh của ta;... cần phải nâng cao tinh thần cảnh giác, nâng cao tính tổ chức, tính kỷ luật, thái độ khiêm tốn, là phải tăng cường đoàn kết”.
- Ngày 6/4/1958: Bài viết 2009 đồng đôla của Tổng thống Mỹ, ký bút danh Trần Lực, đăng báo Nhân Dân, số 1486. Dẫn lại câu chuyện "ngược đời" là Ngân hàng ruộng đất (Mỹ) đã "phụ cấp" cho Tổng thống Mỹ 2009 đôla vì ông ta "đã không cho cày cấy mấy thửa ruộng của mình", tác giả vạch rõ chủ trương của tư bản Mỹ là hạn chế sản xuất nông nghiệp để nâng cao giá lương thực nhằm bảo đảm lợi nhuận tối đa của chúng. Bài báo cũng đi sâu phân tích nguồn gốc của khủng hoảng kinh tế trong chế độ tư bản và các hậu quả do căn bệnh "sốt rét định kỳ" này mang lại cho xã hội Mỹ và thế giới tư bản chủ nghĩa.
- Ngày 11/4/1958: Người trả lời phỏng vấn của tuần báo Thời mới (Liên Xô). Nói về triển vọng của cuộc đấu tranh thống nhất nước Việt Nam bằng phương pháp hòa bình, Người khẳng định nước Việt Nam sẽ thống nhất, vì “ngay trong giới tư sản miền Nam Việt Nam hiện nay nhiều người cũng nhận thấy rằng đế quốc Mỹ thống trị ở miền Nam Việt Nam đã làm thiệt hại đến quyền lợi của họ. Bởi vậy, phong trào chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam đang ngày càng phát triển”.
Về Kế hoạch kinh tế ba năm, Người đặc biệt nhấn mạnh việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp và tuyên bố: “Tất cả mọi hoạt động của chúng tôi là nhằm dẫn đến nâng cao không ngừng đời sống của nhân dân, vì mục đích của chúng tôi là tiến dần lên chủ nghĩa xã hội một cách thắng lợi”.
- Ngày 16/4/1958: Tham dự kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá I, trong diễn văn khai mạc đọc trước Quốc hội, Người trình bày những chuyển biến quan trọng của tình hình thế giới và trong nước, những vấn đề sẽ được đưa ra thảo luận và thông qua tại Quốc hội. Kết thúc bài diễn văn, Người nói: "Tôi tin rằng trong khoá họp Quốc hội lần thứ tám này, trên cơ sở phát huy dân chủ rộng rãi, Quốc hội sẽ tập hợp được những ý kiến dồi dào của các đại biểu, của nhân dân, sẽ quyết định một cách sáng suốt các công việc quan hệ tới quốc kế dân sinh mà Chính phủ sẽ trình để Quốc hội xem xét".
Bài viết Xem báo Sài Gòn, ký bút danh Trần Lực, đăng báo Nhân Dân, số 1496. Tác giả điểm tin các báo xuất bản ở Sài Gòn trong các ngày 7 và 8 tháng 4-1958 để độc giả thấy tình cảnh của nhân dân miền Nam: về đời sống thì chật vật điêu đứng, còn về chính trị thì bị chính quyền bưng bít, xuyên tạc.
- Ngày 18/4/1958: Chiều, thay mặt Ban Sửa đổi Hiến pháp báo cáo trước Quốc hội quá trình xây dựng bản Sơ thảo Hiến pháp sửa đổi, Người hứa trước Quốc hội “sẽ tiếp tục cố gắng hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ quan trọng mà Quốc hội đã trao cho và làm cho nước ta có một bản Hiến pháp xứng đáng với những thắng lợi và những tiến bộ vẻ vang của nhân dân ta”.
- Sau ngày 23 trước ngày 26/4/1958: dự họp Bộ Chính trị, nghe báo cáo về ảnh hưởng của công hàm của ta đối với miền Nam, phát biểu tại cuộc họp, Người lưu ý việc tiếp xúc hai miền phải tranh thủ chủ động, phải có kế hoạch tuyên truyền giáo dục cho quần chúng và phải nghiên cứu lại cho đầy đủ hơn về vấn đề này.
- Ngày 26/ 4/1958: Dự họp Bộ Chính trị bàn về vấn đề đấu tranh với chính quyền miền Nam, Người nhấn mạnh: các kết quả thu được mới chỉ là bước đầu, cuộc đấu tranh này còn lâu dài, phức tạp, cần phải tuyên truyền trong nhân dân và tránh tư tưởng chủ quan.
- Ngày 30/4/1958: Dự họp Bộ Chính trị thảo luận đề án thống nhất thu mua thóc gạo ở Thái Bình do đồng chí Đỗ Mười trình bày, Người nhận định: Việc nghiên cứu mua thóc gạo ở Thái Bình có tác dụng tốt. Sau này nơi nào cũng nên lấy đó làm căn cứ để nghiên cứu thêm.
* Năm 1959
- Ngày 3/4/1959: Chiều, Người đi thăm Triển lãm hậu cần và Triển lãm sáng kiến, cải tiến kỹ thuật công binh. Tại Triển lãm hậu cần, Người nhắc Tổng cục Hậu cần phải cố gắng hoàn thành sớm việc nghiên cứu chuyển máy chạy xăng sang chạy madút, khen ngợi Cục Tài vụ “giảm được 81% giấy tờ là bớt được 81 ông quan”; căn dặn cán bộ quân y thực hiện đúng “lương y như từ mẫu”. Thăm gian trưng bày của Cục Quân nhu, Người nói: “Không được để cơm thừa, để thừa hàng xe cơm là lãng phí lớn”... Sau đó, Người ghi vào Sổ cảm tưởng: “Đó là một bước tiến đầu tiên trên con đường muôn dặm của cách mạng kỹ thuật, như một đoá hoa báo hiệu mùa Xuân. Nhưng nó đã chứng tỏ rằng trí tuệ và sáng kiến của quần chúng là vô cùng tận. Cấp lãnh đạo phải khéo khuyến khích, giúp đỡ, hướng dẫn, vun trồng thì trí tuệ và sáng kiến ấy sẽ không ngừng nở hoa, kết quả...”.
Tại Triển lãm của công binh, sau khi đi thăm các phòng trưng bày, nghe giới thiệu các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, Người ghi vào Sổ lưu niệm: “Các chiến sĩ, cán bộ trong ngành công binh ta đã cố gắng khá, thi đua tìm tòi nghiên cứu, phát huy sáng kiến mới, mục đích là làm cho công việc nhanh, nhiều, tốt, rẻ. Thế là trực tiếp góp phần vào công cuộc đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm nền tảng vững mạnh đấu tranh thống nhất nước nhà”.
- Ngày 7/4/1959: Dự họp Bộ Chính trị bàn về dự thảo báo cáo về hợp tác hoá nông nghiệp, phát biểu tại hội nghị, Người lưu ý việc phát triển hợp tác xã nhưng phải nhấn mạnh củng cố; về đánh giá nông dân, cần nêu bật bản chất giai cấp tích cực cách mạng của nông dân và các thành phần khác. Về vấn đề tổ chức, Người nhắc nhở trong nông thôn cần củng cố chi bộ, phát triển hợp tác phải đi bước nào chắc bước đó, tránh ồ ạt. Các vấn đề công nghiệp, thương nghiệp, hợp tác hoá...cần đẩy mạnh nhưng phải có kế hoạch ăn khớp với nhau...
- Đầu tháng 4/1959: Đến thăm và nói chuyện với Hội nghị sơ kết quý I ngành xây dựng cơ bản tổ chức tại Việt Trì, Người nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của công tác xây dựng cơ bản trong công cuộc xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, phê phán những hiện tượng như chất lượng công trình chưa tốt, không hoàn thành kế hoạch, lãng phí sức người, sức của, tổ chức quản lý kém... và chỉ rõ: “Cán bộ xây dựng từ trên xuống dưới phải chịu trách nhiệm chính”. Người yêu cầu các cán bộ “phải kịp thời thay đổi tác phong và cách lãnh đạo” để bảo đảm hoàn thành kế hoạch quý II.
- Ngày 11/4/1959: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới Quốc vương Campuchia nhân dịp Tết Chol Chnam Kor Eksad của nhân dân Campuchia.
Cùng ngày, thăm và nói chuyện tại Hội nghị tổng kết sản xuất công nghiệp, sau khi khen ngợi những cố gắng của ngành, Người chỉ ra những khuyết điểm mà nguyên nhân chủ yếu như công tác lãnh đạo tư tưởng, quản lý, kỹ thuật còn kém. Người căn dặn phải làm tốt công tác cải tiến quản lý xí nghiệp, nêu cao tự lực cánh sinh nhưng phải học tập các chuyên gia nước bạn...
- Ngày 13/4/1959: Dự họp Bộ Chính trị bàn về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, Người nhắc phải lưu ý việc giáo dục, đả thông tư tưởng đối với các nhà tư sản cho kỹ, việc cải tạo phải vì tương lai của các nhà công thương, không gạt họ ra ngoài nhân dân và khi định thành phần phải tránh căng thẳng.
- Ngày 14/4/1959: Dự họp Bộ Chính trị nghe báo cáo về tình hình dân tộc thiểu số và việc cải cách dân chủ kết hợp với củng cố, phát triển tổ đổi công và hợp tác xã miền núi, phát biểu ý kiến, Người cho rằng đây là vấn đề cấp bách vì liên quan đến đời sống của đồng bào, nhưng phải được chuẩn bị cho kỹ lưỡng.
- Ngày 16/4/1959: 7 giờ 30, dự và khai mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 16 (khoá II) mở rộng bàn về vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội. Trong lời khai mạc Hội nghị, Người đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa của việc hợp tác nông nghiệp trong công cuộc phát triển nông nghiệp, công nghiệp ở nước ta và yêu cầu: “Hội nghị Trung ương cần phải bàn bạc cho kỹ, cho sâu và cho tốt để định ra đường lối, phương châm và chính sách của công việc hợp tác hoá nông nghiệp. Các đồng chí phụ trách trung ương, các đồng chí địa phương, các đồng chí phụ trách các ngành phải chuẩn bị phát biểu ý kiến cho đầy đủ để thống nhất ý kiến, thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động”.
Cùng ngày, Người đến thăm Đại hội lần thứ 2 Hội nhà báo Việt Nam tổ chức tại Câu lạc bộ Đoàn kết (Hà Nội). Lấy tư cách “một người có nhiều duyên nợ với báo chí”, Người nhận xét về những ưu điểm và khuyết điểm của “những người làm báo chí” Việt Nam, góp ý kiến về mục đích, trách nghiệm của báo chí và kể lại những kinh nghiệm trong cuộc đời làm báo của mình.
- Ngày 17/4/1959: Tối, tiếp tục dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 16, sau khi nghe các địa phương báo cáo về phong trào hợp tác hoá, Người căn dặn lãnh đạo các địa phương phải chú ý đến công tác đê điều thủy lợi, quan tâm đến xây dựng trường học, tạo điều kiện cho các cháu học tập. Người đặc biệt nhấn mạnh tới việc trồng cây gây rừng: “Nếu mỗi nhân khẩu trồng 5 cây, có làm được không?, bộ đội ở Hòn Gai mỗi người trồng 10 cây thông, phải trồng xoan... để trong 5 năm nữa có thể thay đổi nhà cho nhân dân. Các địa phương nên chú ý làm việc đó”.
- Ngày 19/4/1959: Tiếp tục dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 16 nghe các địa phương báo cáo. Kết thúc ngày họp, Người căn dặn vấn đề hợp tác hoá phải chú trọng chất lượng để sau này phát triển dễ hơn, phải chú ý đến vai trò của thanh niên lao động trong công tác này và các địa phương nên chú ý chăn nuôi, phòng bệnh cho gia súc, cây trồng; ở những công trình thủy nông nên trồng cây, nuôi cá... các xã phải có nghĩa trang liệt sĩ... Người còn phê bình một địa phương còn lẫn lộn giữa công tác của tỉnh ủy và chính quyền nên phải nghiên cứu lại hoạt động của mình.
- Ngày 20/4/1959: Chiều, tiếp tục dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 16. Sau khi nghe đại diện ngân hàng báo cáo về việc cho nông dân vay vốn, Người lưu ý phải xem lại thời gian cho nông dân vay, nếu thời hạn cho vay quá ngắn nông dân sẽ không dám vay.
- Trước ngày 22/4/1959: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới Quốc vương và nhân dân Lào nhân dịp Tết cổ truyền của nhân dân Lào.
- Ngày 25/4/1959: Người dự Hội nghị lần thứ 16 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng bàn về vấn đề hợp tác hoá ở miền núi. Cùng ngày, Người tới thăm Hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ Hà Nội, thay mặt Trung ương Đảng và nhân danh một đảng viên Hà Nội, Người phát biểu ý kiến với Hội nghị, nêu rõ: Thủ đô Hà Nội phải trở thành một Thủ đô xã hội chủ nghĩa, muốn vậy thì “mỗi một xí nghiệp, mỗi một đơn vị bộ đội, mỗi một trường học, mỗi một đường phố, mỗi một cơ quan và mỗi một nông thôn ở ngoại thành phải thành một pháo đài của chủ nghĩa xã hội”. “Đảng bộ Hà Nội phải làm gương mẫu cho các đảng bộ khác. Đảng bộ Hà Nội gương mẫu sẽ góp phần đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững mạnh đấu tranh giành thống nhất nước nhà”.
- Ngày 28/4/1959: Tại Hội nghị lần thứ 16 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng bàn về vấn đề hợp tác hóa ở miền núi, Người phát biểu nhấn mạnh phải chú trọng vấn đề dân chủ, trình độ văn hoá ở các nơi để làm cho hợp lý và vấn đề chính là phải củng cố chính quyền và tổ chức đảng ở cơ sở cho mạnh. Người khen ngợi các cán bộ đang công tác ở miền núi và đề nghị Trung ương phải có chính sách ưu tiên đối với cán bộ Đảng, Đoàn, quân sự và các ngành đang công tác ở miền núi.
- Ngày 30/4/1959: Người dự Hội nghị lần thứ 16 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (khoá II) về cải cách dân chủ ở miền núi và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh.
- Trong tháng 4 /4/1959: Dự Hội nghị lần thứ 16 của BCHTW Đảng Lao động Việt Nam (khoá II) về cải cách dân chủ ở miền núi, phát biểu kết thúc cuộc thảo luận, Người chỉ rõ: “Nói tiến lên xã hội chủ nghĩa là phải tiến cả, mọi vùng đều tiến, tuy mức độ, tốc độ có khác nhau; hình thức, chúng nào khác nhau. Vấn đề chính ở miền núi cũng là tiến lên đổi công hợp tác. Chỗ nào còn vấn đề cải cách dân chủ thì tuỳ từng nơi, từng chỗ, tuỳ còn nhiều hay ít mà làm..., cả miền xuôi và miền ngược, đổi công hợp tác vẫn là chính. Cố nhiên, nơi có phỉ thì phải trấn áp phỉ là chính, không máy móc”.
* Năm 1960
- Ngày 2/4/1960: Tiếp tục chủ tọa phiên họp Hội đồng Chính phủ, cuối phiên họp, Người nêu lên tình trạng tham ô lãng phí “nhắc đã lâu” nhưng “lâu nay không ai làm”. Tình trạng đó xuất phát từ việc quản lý, kỷ luật tài chính và tinh thần trách nhiệm kém, kiểm tra đôn đốc kém, “bốn cái đó mở cửa cho tham ô, lãng phí”. Người chỉ thị cho các Bộ phải khắc phục tình trạng trên bằng cách tiến hành một cuộc vận động kết hợp với phong trào thi đua sản xuất, kết hợp tuyên truyền giáo dục, kỷ luật, thưởng phạt và tăng cường công tác kiểm tra.
- Ngày 3/4/1960: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn đồng bào Thủ đô Hà Nội đã đề nghị Người ra ứng cử ở Thủ đô trong cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội khoá II và thông báo việc Người đã ứng cử ở khu Ba Đình (Hà Nội). Người mong đồng bào “hăng hái tham gia hoạt động, làm cho cuộc Tổng tuyển cử này đại thắng lợi”.
Cùng ngày, bài viết của Người: Một cách thảo luận dự thảo Điều lệ Đảng, ký bút danh T.L., đăng báo Nhân Dân, số 2207. Theo tác giả, cách tốt nhất là: “Trước khi thảo luận, mỗi một đồng chí phải nghiên cứu thật kỹ bản dự thảo Điều lệ Đảng. Khi thảo luận ở chi bộ thì mỗi đồng chí phải liên hệ đúng đắn Điều lệ Đảng với công tác của chi bộ và của mình để góp đầy đủ ý kiến với Đại hội Đảng. Phải thành khẩn tự phê bình tư tưởng và công tác của mình, sửa chữa những khuyết điểm để củng cố tốt chi bộ và để rèn luyện mình trở thành người đảng viên tốt”.
- Ngày 4/4/1960: Được tin Quốc vương Nôrôđôm Xuramarít từ trần, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chia buồn tới Hoàng gia, Chính phủ và nhân dân Campuchia.
- Ngày 8/4/1960: Bài viết Kế hoạch năm 1960 của Trung Quốc, ký bút danh L.T., đăng báo Nhân Dân, số 2212. Thông qua các chỉ tiêu về kinh tế và văn hoá, giáo dục, tác giả chỉ rõ sự phát triển về mọi mặt và nguyên nhân những thắng lợi của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trong xây dựng đất nước.
- Ngày 9/4/1960: Dự họp Bộ Chính trị bàn tiếp về xây dựng trụ sở Quốc hội, sau khi nghe Trưởng Đoàn chuyên gia Trung Quốc báo cáo về thiết kế, Người phát biểu cám ơn các chuyên gia và nêu một số ý kiến khi tiến hành xây dựng phải cần, kiệm, tránh lãng phí nguyên vật liệu, giúp đỡ lẫn nhau giữa chuyên gia và cán bộ Việt Nam.
- Trước ngày 11/4/1960: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện đến Hội nghị đoàn kết nhân dân á - Phi lần thứ hai “Chúc Hội nghị thu được nhiều thắng lợi trong việc thắt chặt hơn nữa tình đoàn kết của nhân dân á - Phi để đẩy mạnh phong trào dân tộc chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình ở châu á, châu Phi và trên toàn thế giới”.
- Ngày 15/4/1960: Sáng, đến dự và phát biểu tại phiên bế mạc Kỳ họp thứ 12 Quốc hội khoá I, sau khi nêu lên “Quốc hội ta là Quốc hội dân chủ đầu tiên ở vùng Đông - Nam châu á, cũng là Quốc hội đầu tiên của các nước thuộc địa cũ được độc lập tự do”, Người chỉ rõ những cống hiến của Quốc hội trong suốt 14 năm qua và khẳng định: “Quốc hội ta đã hết lòng vì dân, vì nước, đã làm tròn một cách vẻ vang nhiệm vụ của những người đại biểu của nhân dân”. Người cảm ơn Quốc hội khoá I và tin chắc rằng “Quốc hội khoá II của chúng ta sẽ đưa hết tinh thần và lực lượng để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, để thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
- Ngày 16/4/1960: Dự họp Bộ Chính trị bàn về vấn đề cải tạo và phát triển thủ công nghiệp, Người nêu rõ mục đích của cải tạo, phát triển thủ công nghiệp và trách nhiệm của các cấp lãnh đạo.
- Ngày 21/4/1960: Dự họp Bộ Chính trị thảo luận vấn đề tiền lương năm 1960, Người phát biểu về thời gian tiến hành, những vấn đề cơ bản cần giải quyết và phương thức tiến hành.
Trong ngày, Người dự cuộc họp mặt giữa các đại biểu ứng cử Quốc hội khoá II do ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam thành phố Hà Nội giới thiệu với các ban bầu cử thuộc khu vực Hà Nội. Cùng ngày, bài viết của Người: Thư không dán gửi Tổng thống Mỹ, ký bút danh L.T., đăng báo Nhân Dân, số 2225, vạch trần luận điệu lừa bịp của chính quyền Mỹ đối với nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới về các vấn đề dân chủ, tự do... trong khi đó lại thi hành chính sách phân biệt chủng tộc tệ hại nhất, luôn luôn gào thét chống cộng và can thiệp vào nước khác.
- Ngày 22/4/1960: Chiều, Người dự họp Bộ Chính trị bàn về vấn đề xây dựng thuỷ điện ở Quảng Cư, Lang Tiết, Thác Bà. Phát biểu tại cuộc họp, Người nhấn mạnh việc làm ngay thủy điện Thác Bà nếu chuyên gia Liên Xô bảo đảm được và phải giải quyết tốt công việc, đời sống cho dân như đường giao thông, trồng cây công nghiệp, nuôi cá, hồ du lịch...
Cùng ngày, báo Nhân Dân, số 2226, đăng bài: Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cho Tạp chí Các vấn đề Phương Đông (Liên Xô), nhân dịp kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của V.I.Lênin. Người nêu lên quá trình hoạt động thực tiễn và những chuyển biến tư tưởng của Người từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin và khẳng định “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.
- Ngày 23/4/1960: Bài viết Lý Thừa Vãn khó mà cứu vãn, ký bút danh T.L., đăng báo Nhân Dân, số 2227, Người tố cáo hành động tàn bạo của Lý Thừa Vãn đàn áp phong trào của nhân dân Nam Triều Tiên chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, vạch rõ chính đế quốc Mỹ là kẻ bợ đỡ, cung cấp tiền bạc, vũ khí và nhào nặn chúng thành những tên độc tài như Lý Thừa Vãn. Song, như tác giả kết luận: “nhân dân đã đoàn kết vùng dậy, thì đế quốc Mỹ cũng khó mà cứu vãn Lý Thừa Vãn và những bù nhìn như Vãn”.
- Ngày 24/4/1960: 18 giờ 30, tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội, đến dự và phát biểu tại cuộc mít tinh của nhân dân Thủ đô chào mừng các vị ứng cử đại biểu Quốc hội tại Hà Nội ra mắt cử tri Thủ đô. Sau khi cảm ơn đồng bào đã nhất trí yêu cầu Người và các vị khác ra ứng cử vào Quốc hội khoá II, Người đã nêu lên tính chất dân chủ của Luật bầu cử, giá trị cao quý của lá phiếu cử tri và tin tưởng rằng những cử tri sáng suốt sẽ bầu ra được một Quốc hội có những đại biểu thật xứng đáng. Người nói: “Quốc hội khoá I là Quốc hội chiến đấu”, “Quốc hội khoá II phải là Quốc hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm nền tảng vững chắc cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”. Thay mặt các ứng cử viên, Người hứa với đồng bào: “Những người được cử vào Quốc hội khoá II sẽ luôn luôn cố gắng để xứng đáng là những người đày tớ trung thành của đồng bào, những đại biểu cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ chủ nghĩa xã hội”.
- Ngày 25/4/1960: Bài viết Lênin và thi đua xã hội chủ nghĩa, ký bút danh T.L., đăng báo Nhân Dân, số 2229, nêu lên quan điểm, biện pháp mà Lênin vạch ra nhằm nâng cao tính chủ động, tinh thần trách nhiệm của người lao động và vai trò của Lênin trong việc phát huy những sáng tạo của nhân dân Liên Xô thông qua phong trào thi đua lao động và tác dụng của phong trào này trong xây dựng đất nước của nhân dân Xô viết.
- Ngày 26/4/1960: Người viết thư trả lời chị Êcatêrina Iôxiđôpna(2) về những điều chị đã hỏi Người trong bức thư gửi Người nhân dịp ngày 8-3-1960. Bức thư có đoạn: “Tôi chưa có gia đình riêng, gia đình của tôi là đại gia đình các dân tộc Việt Nam”.
- Ngày 27/4/1960: Bài viết Ba chai rượu sâm banh, ký bút danh Tuyết Lan, đăng báo Nhân Dân, số 2231. Dưới hình thức dịch lại lá thư của một công nhân tên là Giăng Pho ở Angiêri gửi cho, Người nói về tình cảm của một người bạn quốc tế của Nguyễn ái Quốc thời kỳ ở Pari và những năm sau này.
- Ngày 28/4/1960: Người tới thăm và nói chuyện tại Hội nghị bàn về công tác vùng cao do ủy ban dân tộc Trung ương triệu tập. Người căn dặn các đại biểu “phải làm tốt công tác vận động định canh định cư ở vùng cao, phải nắm nguyên tắc tự nguyện, không gò ép, không tham nhiều, không nóng vội, làm nơi nào phải tốt nơi đó”. Về công tác vận động tuyên truyền cho việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá II sắp tới đối với đồng bào vùng cao, Người nhắc nhở cán bộ cần giải thích cặn kẽ cho đồng bào hiểu rõ ý nghĩa của cuộc bầu cử này.
Ghi chú:
(1) B. Phơrăngcơlanh (Benjamin Franklin, 1706-1790), là một nhà khoa học nổi tiếng đã chế tạo ra cột thu lôi đầu tiên, giúp cho loài người thoát khỏi nạn sét đánh. Ông là một người có đạo đức và có lòng yêu nước nồng nàn đã góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng của nhân dân Mỹ.
(2) Nhân dịp ngày 8-3-1960, nghĩ rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có gia đình riêng, chị Êcatêrina Iôxiđôpna (Liên Xô) đã gửi cho “vợ” Chủ tịch Hồ Chí Minh một bức thư. Người đã viết thư trên để trả lời.
Huyền Trang (Tổng hợp)
Còn nữa
* Năm 1961
- Ngày 3/4/1961: Bài viết Chuyện ngược đời, ký bút danh T.L, đăng báo Nhân Dân số 2570, Người vạch trần cái mà Tổng thống Ken-nơ-đi gọi là "Lương thực dùng vào hoà bình" chẳng qua chỉ là cách giải quyết tình trạng thừa ứ lương thực của các nhà tư bản Mỹ. Trong khi Mỹ "giúp" cho các nước chậm tiến với giá cắt cổ có kèm thêm những điều kiện chính trị và quân sự thì ở Mỹ 1/10 gia đình nông dân phải ăn đói, 5 triệu 70 vạn công nhân thất nghiệp!. Người kết luận: "Mỹ thường khoe cái gì cũng "nhất thế giới". Thì tình trạng khủng hoảng công nghiệp và nông nghiệp, Mỹ cũng nhất thế giới tư bản."
- Ngày 5/4/1961: Bài viết Phải nâng cao tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, ký bút danh T.L, đăng báo Nhân Dân số 2752. Người phê bình khuyết điểm thiếu tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, nặng tư tưởng bản vị, vệ sinh kém của hai đơn vị thuộc Nhà máy Việt Trì mà nguyên nhân là do cán bộ phụ trách chưa thấm nhuần "tinh thần người chủ tập thể nước nhà và tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa", xa thực tế, xa quần chúng, chưa biết dựa vào công nhân. Người nhắc nhở các cơ quan có trách nhiệm cần kiểm điểm, rút kinh nghiệm và tìm cách sửa chữa ngay.
- Ngày 6/4/1961: Thăm tỉnh Bắc Giang, nói chuyện với hơn ba vạn rưỡi đồng bào và cán bộ địa phương, Người nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của đợt chỉnh huấn trong toàn Đảng và toàn dân do Trung ương sắp phát động và nêu những công việc Bắc Giang cần làm để phát huy truyền thống vẻ vang sẵn có và giành thắng lợi trong "cuộc kháng chiến chống một thứ giặc khác: giặc lạc hậu và giặc nghèo nàn".
- Ngày 8/4/1961: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới Hội nghị lần thứ hai Hội đồng đoàn kết nhân dân Á - Phi họp ở Băngđung (Inđônêxia). Bức điện có đoạn: "Chủ nghĩa đế quốc thực dân ngày càng thất bại. Phong trào dân tộc giải phóng ngày càng lên cao. Là một lực lượng rất to lớn, nhân dân Á - Phi đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết đấu tranh thì nhất định sẽ đánh bại mọi âm mưu và hành động của chủ nghĩa đế quốc thực dân, các nước Á - Phi nhất định giành được độc lập hoàn toàn và góp phần đắc lực vào sự nghiệp giữ gìn hoà bình thế giới".
- Ngày 14/4/1961: Dự cuộc họp Bộ Chính trị bàn vấn đề thu mua lương thực, theo ý kiến của Người, nếu hợp tác xã, huyện và Nhà nước đều cùng lo đảm bảo gạo ăn thì số thóc dự trữ còn lại chẳng đáng bao nhiêu. Người đề nghị "đặt chế độ cho các hợp tác xã để thóc nghĩa thương"(1). Về mức ăn, Người nói: "Mức ăn 20 cân hay bao nhiêu, không thể chủ quan định ra mà phải xuống hợp tác xã nghiên cứu. Thị trường tự do nên có, cần trao đổi với cán bộ địa phương".
Cùng ngày, bài viết nhan đề: Thêm một thắng lợi vô cùng vĩ đại của chủ nghĩa cộng sản của Người, ký bút danh T.L, đăng báo Nhân Dân số 2581, ca ngợi những thành tựu chinh phục vũ trụ của Liên Xô. Đặc biệt là sự kiện ngày 12-4-1961, người thanh niên cộng sản I. Gagarin đã lái con tàu vũ trụ "Phương Đông" bay vòng quanh trái đất và trở về an toàn, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển vĩ đại của loài người. Bài báo nhấn mạnh: "Thắng lợi đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin, là thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, là thắng lợi chung của phe xã hội chủ nghĩa và của toàn thể loài người".
- Ngày 15/4/1961: Bài Phong trào Đại Phong, ký bút danh T.L, đăng báo Nhân Dân, số 2582, giới thiệu về phong trào thi đua Học tập Đại Phong, đuổi kịp Đại Phong, vượt quá Đại Phong. Bài báo chỉ rõ, đó là "một phong trào rất tốt và rất mạnh mẽ, nó chứng tỏ tinh thần hăng hái, lực lượng to lớn và khả năng dồi dào của đồng bào nông dân ta", đồng thời nêu ra những thiếu sót cần được chấn chỉnh. Từ Phong trào Đại Phong, Người rút ra một số bài học kinh nghiệm cần phải học và học một cách sáng tạo.
- Ngày 22/4/1961: Dự họp Bộ Chính trị để nghe ông Nguyễn Duy Trinh báo cáo về Hội nghị Vácsava và kết quả đàm phán về kinh tế và thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa. Phát biểu về các biện pháp thực hiện kế hoạch 5 năm, Người nhấn mạnh: Cần nắm vững kế hoạch từng năm, nhất là số viện trợ của các nước. Nên cộng lại một bên là số tiền các nước anh em giúp ta từ khi hoà bình lập lại đến nay với số tiền trong nước và một bên là những công trình mình làm được đã chi hết bao nhiêu để biết lãnh phí chừng nào....
- Ngày 25/4/1961: 9 giờ, đến chào mừng Đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam lần thứ II họp tại Hà Nội. Nhận hai bó hoa của Đại hội tặng, Người tặng lại hai đại biểu quốc tế, rồi nói chuyện với Đại hội. Sau khi điểm lại những thành tích to lớn của nhân dân ta kể từ sau Đại hội lần thứ nhất (1955), Người nêu rõ những nhiệm vụ quan trọng của MTTQ trong giai đoạn cách mạng mới. Về công tác đối nội, Người nhấn mạnh: "Mặt trận phải ra sức động viên các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể, các tôn giáo, các dân tộc, các nhân sĩ tiến bộ - đã đoàn kết phải đoàn kết hơn nữa, cùng nhau đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chúng ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, làm nền tảng vững mạnh cho sự nghiệp đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà". Trong công tác đối ngoại, Mặt trận cần "tăng cường đoàn kết với các nước trong phe ta và góp phần giữ gìn hoà bình ở Đông Dương, Đông - Nam Á và thế giới". Kết luận, Chủ tịch nhắc lại bài học Người đã nói tại Đại hội hợp nhất Việt Minh - Liên Việt năm 1951:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công.
- Ngày 26/4/1961: Trưa, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự lễ đón tiếp Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Lào Hoàng thân Xuvana Phuma và Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Neo Lào Hắcxạt Hoàng thân Xuphanuvông sang thăm hữu nghị nước ta. Người ra tận thềm đón và ôm hôn các vị khách quý. Tối, Người dự tiệc do Thủ tướng Phạm Văn Đồng tổ chức chiêu đãi Đoàn đại biểu Chính phủ Vương quốc Lào.
- Ngày 27/4/1961: Tối, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời cơm thân mật Hoàng thân Xuvana Phuma, Hoàng thân Xuphanuvông và các vị trong đoàn đại biểu Chính phủ Vương quốc Lào.
- Ngày 28/4/1961: 6 giờ 30, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh chứng kiến lễ ký Tuyên bố chung giữa Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Xuvana Phuma. 6 giờ 40, Người dự mít tinh chào mừng Đoàn đại biểu Chính phủ Vương quốc Lào của nhân dân Hà Nội tổ chức tại Quảng trường Ba Đình.
Cùng ngày, báo Nhân Dân số 2595 đăng bài viết Guồng máy nông nghiệp (ký bút danh T.L) của Người. Trong bài viết, Người nêu rõ: Nông nghiệp cũng có "guồng máy" của nó. Từ lúc chọn giống đến ngày đưa thóc vào kho, mọi công việc phải ăn khớp, nhịp nhàng với nhau. Và muốn cho guồng máy nông nghiệp chạy thật đều, thật tốt, cần thực hiện ba điều:
- Cán bộ quản trị phải thật sự dân chủ và chí công vô tư.
- Đảng viên và đoàn viên thanh niên phải gương mẫu trong mọi công việc.
- Tất cả xã viên phải đoàn kết nhất trí, phải làm trọn nghĩa vụ của người chủ, làm đúng khẩu hiệu "Cần kiệm xây dựng hợp tác xã".
Đặc biệt, Người lưu ý cán bộ trong phong trào thi đua với Hợp tác xã Đại Phong cần phải nhớ:
1- Phải giữ vững nguyên tắc tự nguyện,
2- Trước khi mở rộng quy mô hợp tác xã phải chuẩn bị thật tốt tư tưởng và vật chất. Tuyệt đối không nên nóng vội.
Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 22-LCT, tặng thưởng Huân chương Kháng chiến cho những cán bộ, công nhân, viên chức các cơ quan trung ương và địa phương có nhiều thành tích trong kháng chiến.
- Ngày 29/4/1961: Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II bầu làm Chủ tịch danh dự của Mặt trận.
* Năm 1962
- Ngày 4/4/1962: Cùng ngày, bài viết Cuba anh dũng của Người, ký bút danh T.L, đăng báo Nhân Dân, số 2933. Tác giả lên án âm mưu của đế quốc Mỹ đang tìm cách phá hoại nước Cuba cách mạng và biến các nước châu Mỹ latinh thành thuộc địa kiểu mới của chúng; đồng thời ca ngợi tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường của nhân dân Cuba, đã thức tỉnh nhân dân châu Mỹ latinh đứng lên làm cách mạng.
- Ngày 8/4/1962: Bài viết nhan đề Vì sao?, ký bút danh T.L, đăng báo Nhân Dân, số 2937, giải thích lý do vì sao Mỹ có thái độ thiếu thiện chí tại Hội nghị 17 nước họp ở Giơnevơ bàn về vấn đề giải trừ quân bị. Theo Người, đó là vì:
- "Chính phiệt" Mỹ (Tổng thống, các Bộ trưởng, nhân viên cao cấp) đều dính líu với bọn tài phiệt (những nhóm đại tư bản chế tạo vũ khí) và bọn quân phiệt (quân nhân cấp cao). Chúng nhờ vào việc chuẩn bị chiến tranh và chạy đua quân bị mà làm giàu. "Nếu thực sự giải trừ quân bị tức là hết chiến tranh. Mà hết chiến tranh thì chúng sẽ thất nghiệp".
- Liên Xô đã đưa ra một đề nghị rất cụ thể rõ ràng và dứt khoát về kế hoạch tài giảm quân bị trong bốn năm, khiến Mỹ lúng túng bị động. Thực hiện đề nghị rất nhân đạo và hợp lý đó của Liên Xô, có nghĩa là Mỹ phải thủ tiêu tất cả các căn cứ quân sự ở nước ngoài, tiến tới thủ tiêu hoàn toàn các lực lượng quân sự và các loại vũ khí kể cả các thứ vũ khí thông thường. Vì thế mà Mỹ "cứ từ chối đây đẩy như đỉa phải vôi".
- Ngày 12/4/1962: Chiều, tham dự Hội nghị lần thứ 7 (mở rộng) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), bàn về kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp. Trong ý kiến phát biểu, Người đặc biệt nhấn mạnh vấn đề con người và chỉ rõ: Mục đích của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống của nhân dân - lực lượng chính để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, phải "có kế hoạch giáo dục, củng cố chi bộ, công đoàn, thanh niên. Ba lực lượng ấy mạnh thì mới lên được. Có người nói máy kéo là gốc, cũng có người nói cái khác là gốc, tôi nói chính cái này (chỉ ba lực lượng trên - BT) là gốc".
- Ngày 14/4/1962: Sáng, đến thăm và nói chuyện với Đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua công, nông, binh toàn thành phố Hà Nội họp tại Hội trường Câu lạc bộ Lao động. Sau khi khen ngợi thành tích thi đua của các chiến sĩ và nhân dân Thủ đô, Người tập trung phân tích mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân và căn dặn Hà Nội phải phấn đấu để trở thành một thành phố gương mẫu, làm đầu tàu trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tạo cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.
- Ngày 16/4/1962: Dự và phát biểu ý kiến tại phiên họp cuối cùng của Hội nghị lần thứ 7 (mở rộng) BCHTW Đảng (khoá III). Người phân tích và nêu rõ những điều kiện thuận lợi để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tầm quan trọng của việc phát triển công nghiệp, mối quan hệ giữa công - nông nghiệp và nhấn mạnh những nhiệm vụ của nông nghiệp và công nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đồng thời chỉ ra một số biện pháp quan trọng để thực hiện thắng lợi Nghị quyết 7, nhằm đạt mục tiêu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta.
- Ngày 17/4/1962: Trong bài Cần phải ra sức trồng nhiều hoa màu, ký bút danh T.L, đăng báo Nhân Dân, số 2946, Người nêu cụ thể tình trạng yếu và chậm của một số tỉnh miền Bắc trong việc trồng hoa màu. Người yêu cầu các cấp uỷ từ tỉnh đến xã phải cấp tốc đến tận nơi động viên và hướng dẫn đồng bào nông dân và các cơ quan, bộ đội trồng đủ và chăm bón tốt ngô, khoai, sắn, quyết tâm thu một vụ hoa màu thắng lợi.
- Ngày 18/4/1962: 7 giờ 30, tại Nhà hát thành phố Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự khai mạc Kỳ họp thứ tư Quốc hội khoá II(2).
- Ngày 22/4/1962: Hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng báo Nhân Dân số 2951:
+ Bài Lênin người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam(3) ca ngợi những công lao to lớn của Lênin đối với cách mạng Việt Nam và bày tỏ tình cảm của nhân dân Việt Nam cũng như của nhân dân lao động toàn thế giới mãi mãi nhớ ơn Lênin, nhớ ơn Đảng Cộng sản và nhân dân Liên Xô.
+ Bài Chủ nghĩa Lênin vĩ đại muôn năm, ký bút danh T.L, khẳng định: Lênin, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, đã mở đầu một chế độ không có người bóc lột người, tạo điều kiện cho các lực lượng cộng sản, các lực lượng giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, hợp thành một sức mạnh chung to lớn đẩy lùi lực lượng thực dân đi đến chỗ sụp đổ. Và chủ nghĩa Lênin đã đưa lịch sử loài người bước vào một giai đoạn mới – giai đoạn xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Ngày 27/4/1962: Thăm Trường mẫu giáo Sao Sáng ở số 5 phố Nguyễn Thượng Hiền (Hà Nội), Người nhắc nhở các cô giáo: "Công tác mẫu giáo còn mới mẻ và nhiều khó khăn... Sau này lớn lên, các cháu trở thành người như thế nào đều có công của các cô mẫu giáo dạy cháu đầu tiên".
- Ngày 28/4/1962: Dự cuộc họp Bộ Chính trị bàn về vấn đề chuẩn bị Đại hội Liên hoan anh hùng, chiến sĩ thi đua. Khi hội nghị trao đổi về vấn đề phong anh hùng quân đội, Người khẳng định: Trước hết, quân đội nhất định phải có anh hùng. Lúc kháng chiến có anh hùng, sao nay lại không có anh hùng? Khi kháng chiến anh hùng cách khác... Có phải không có chiến tranh thì quân đội không có anh hùng?. Người đề nghị bầu người phải thật xứng đáng và nên xem lại một số trường hợp cụ thể...
- Ngày 30/4/1962: Đến thăm Triển lãm thành tích cải tiến kỹ thuật và sáng kiến hợp lý hoá sản xuất tại Vân Hồ (Hà Nội). Tới thăm gian trưng bày của quân đội, Người chăm chú lắng nghe giới thiệu về những sáng kiến của Trường sĩ quan pháo binh. Thấy cán bộ thuyết minh vốn là một giáo viên xạ kích đã quen đứng trước học viên, chắc do hồi hộp khi đứng trước Người nên tỏ ra luống cuống, thao tác lúng túng, đánh rơi cả que chỉ hiện vật, Người ôn tồn bảo: "Chú cứ bình tĩnh mà nói". Khi xem "Mô hình đường bay để pháo cao xạ tập ngắm bắn", Người chỉ vào bốn khẩu pháo mô hình đang tự động quay, Người hỏi đồng chí đại uý phụ trách chung phần trưng bày sáng kiến của quân đội:
- Loại pháo này là cỡ bao nhiêu? Đã được công khai chưa mà các chú đem giới thiệu?
Trước câu hỏi bất ngờ của Người, các cán bộ có mặt đều im lặng. Quả là một vấn đề hệ trọng: Kỷ luật giữ bí mật quân sự. Như thông cảm với mọi người, giọng Người dứt khoát nhưng dịu dàng:
- Các chú về báo cáo với Bộ Tư lệnh Pháo binh rồi nói lại với Bác qua Tổng cục Chính trị.
* Năm 1963
- Ngày 3/4/1963: Cùng ngày, bài viết nhan đề Mỹ - Diệm là lũ quỷ khát máu điên cuồng của Người, ký bút danh T.L, đăng báo Nhân Dân số 3294, tố cáo tội ác dã man của Mỹ - Diệm đã dùng vũ khí hoá học giết hại nhân dân, phá hoại mùa màng, tiêu diệt gia súc ở miền Nam Việt Nam.
- Ngày 4/4/1963: Đến thăm và nói chuyện với Hội nghị Uỷ ban thể thao các quân đội anh em họp tại Hà Nội, Người chúc Hội nghị làm việc tốt để đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao trong quân đội, làm cho quân đội có sức khoẻ, tinh thần khoẻ để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa anh em giao phó.
- Ngày 8/4/1963: Chiều, dự Hội nghị lần thứ tám BCHTW (khoá III) bàn kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Người nhắc nhở cần phải tổ chức làm tốt công tác phòng bệnh, công tác giáo dục thiếu niên nhi đồng, tăng cường đoàn kết nhất trí trong nội bộ. Về vấn đề tổ chức hợp tác xã, Người chỉ thị: "Về nông nghiệp, hợp tác xã cao cấp nâng lên nhiều thì tốt, nhưng phải làm tốt, phải vững. Hợp tác xã thủ công nghiệp phải tích cực sửa chữa những thiếu sót, kỷ luật lao động phải nghiêm. Việc hợp tác xã hội chủ nghĩa càng phải làm cho tốt, ký kết phải có hợp đồng, đã ký thì phải làm và phải có chế độ đãi ngộ thích đáng cho người lao động".
Trước ngày 9/4/1963: Gặp gỡ các cán bộ ở Trung ương trước khi về xã tham gia cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật. Người căn dặn:
- Phải thật có quyết tâm. Mỗi người phải tự coi mình là một chiến sĩ xung phong, phải vượt mọi khó khăn để làm tròn nhiệm vụ. Trước hết là phải vứt bỏ những thắc mắc, những suy tính về quyền lợi cá nhân như tiền đồ, lương bổng...
- Phải khiêm tốn học hỏi: Học hỏi ở thực tế, ở cán bộ và quần chúng địa phương. Tuyệt đối chớ tự cao, tự đại, chớ cho mình là giỏi mà xem thường cán bộ và quần chúng địa phương.
- Phải tôn trọng tổ chức: Về địa phương nào, phải chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ ở đó, chớ nóng vội, bao biện, làm thay.
- Phải thật sự "ba cùng", hoà mình với quần chúng.
- Ngày 14/4/1963: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cảm ơn và nhận lời mời của Thái tử Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc sẽ sang thăm Campuchia. Bức điện có đoạn: "Tôi lấy làm vinh dự sẽ có cơ hội tới chào Hoàng hậu kính mến và sẽ có dịp gặp gỡ nói chuyện trực tiếp với Thái tử Quốc trưởng, vị lãnh tụ kính mến của nhân dân Campuchia, người đã có những cống hiến quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ hoà bình ở Đông Dương và Đông Nam á. Tôi tin chắc rằng cuộc đi thăm này sẽ thắt chặt hơn nữa quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước chúng ta".
- Ngày 15/4/1963: Chiều, dự cuộc họp Ban Bí thư bàn việc tuyển sinh đại học và giải quyết vấn đề học sinh cuối các cấp I, II và III, Người đặc biệt lưu ý vấn đề phân bổ ngân sách cho giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất cho nhà trường, nội dung giáo dục văn hoá và dạy nghề, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và nhắc nhở cán bộ phụ trách không được chủ quan. Người chỉ thị: "Vấn đề này lớn lắm, không được làm sơ sài. Bộ Giáo dục và bên thanh niên phải thương lượng, bàn thiết thực rồi thảo luận với Ban Tuyên giáo Trung ương trước khi đưa ra Bộ Chính trị".
- Ngày 17/4/1963: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới Quốc vương Marốc Hátxan II nhân kỷ niệm Quốc khánh của nước này. "Tôi kính chúc Chính phủ và nhân dân Marốc dưới sự lãnh đạo của Ngài, thu được nhiều thắng lợi mới trong công cuộc xây dựng nước Marốc phồn vinh, góp phần vào việc giữ gìn hoà bình ở châu Phi và thế giới".
Cùng ngày, nhân dịp Hà Đông họp Hội nghị kiểm điểm công tác chống hạn vụ Đông - Xuân, Người gửi tặng nhân dân Hà Đông bức trướng thêu hai câu thơ:
"Hà Đông anh dũng tuyệt vời!
Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa"(4)
- Ngày 20/4/1963: Về thăm Bệnh xá Vân Đình, huyện ứng Hoà, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Tây). Người đi thăm từ phòng khám bệnh, phòng điều trị đến vườn trồng cây thuốc, khu nhà bếp, khu vệ sinh. Người ân cần thăm hỏi các bệnh nhân, khen cán bộ nhân viên đã giữ gìn bệnh xá sạch sẽ và căn dặn mọi người: "Trong công tác phục vụ, cần coi trọng cả hai mặt vật chất và tinh thần. Có thuốc hay, thức ăn ngon, còn cần phải có thái độ phục vụ tốt, coi người bệnh như ruột thịt. Cần đặc biệt chú ý việc phòng bệnh".
- Ngày 23/4/1963: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chào mừng Hội nghị các nhà báo Á - Phi. Bức điện viết: "Trong lúc các dân tộc châu á, châu Phi, châu Mỹ latinh đang anh dũng đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, để bảo vệ độc lập dân tộc và hoà bình, các nhà báo Á - Phi đoàn kết chặt chẽ, dùng ngòi bút chính nghĩa của mình phục vụ cuộc đấu tranh cho tự do, cho chân lý, cho tương lai tươi sáng của loài người là một nhiệm vụ cực kỳ vẻ vang".
Cùng ngày, Người gửi điện mừng cho Liên đoàn Thanh niên dân chủ thế giới nhân Ngày Thanh niên thế giới chống chủ nghĩa thực dân và đấu tranh cho sự chung sống hoà bình (24-4). "Chúc các bạn đạt nhiều thắng lợi to lớn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, để giành lấy và giữ gìn độc lập dân tộc và hoà bình thế giới, để thực hiện sự hợp tác anh em giữa tất cả các dân tộc".
- Ngày 25/4/1963: Dự cuộc họp Bộ Chính trị bàn vấn đề lương thực. Phát biểu về phương hướng giải quyết tình hình thiếu đói của nông dân, Người chỉ thị: "Phải có kế hoạch giải quyết tạm thời, trước mắt và kế hoạch dài hạn. Năm nào cũng khó khăn, bấp bênh về lương thực. Bằng cách nào thì ta phải bàn, nhưng xã hội chủ nghĩa mà như thế này thì không được, không làm cho dân phấn khởi. Cần vận động giáo dục về ý thức tiết kiệm. Cho nên làm lâu dài chỉ có hai cách là tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Còn nghĩa thươn)(5) mà đói không giúp nhau được là bất nghĩa thương". Cuối cùng, Người giao cho đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Tổng Tư lệnh cứu đói và có quyền "động viên bất kỳ ai, từ tôi trở đi".
- Ngày 26/4/1963: Dự tiếp Hội nghị lần thứ tám BCHTW thông qua Nghị quyết về kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Người nhắc nhở chung về vấn đề chất lượng sản phẩm của các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, thủ công nghiệp. Với nông nghiệp, Người đề nghị nói rõ cải tiến kỹ thuật gồm những nội dung gì và cần phải làm cho thích hợp với từng địa phương.
- Ngày 29/4/1963: Sáng, dự phiên khai mạc Kỳ họp thứ sáu Quốc hội khóa II(6). Sau khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc hết phần thứ hai của báo cáo về phong trào yêu nước ở miền Nam, Người đề nghị Quốc hội nhiệt liệt gửi lời chào thân ái tới đồng bào miền Nam ruột thịt và biểu dương tinh thần yêu nước, anh dũng đấu tranh của đồng bào miền Nam.
Cùng ngày, Người đến thăm và nói chuyện với Hội nghị Cán bộ ngành công an. Sau khi nêu rõ vai trò cực kỳ quan trọng của công an cách mạng trong nền chuyên chính vô sản, Người chỉ rõ những công việc cụ thể mà công an phải thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ của mình là làm thất bại mọi âm mưu thâm độc của Mỹ - Diệm đang tìm cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Kết luận, Người nói: "Đảng và Chính phủ tin vào lòng tuyệt đối trung thành và chí kiên cường phấn đấu của các đồng chí. Toàn thể cán bộ và chiến sĩ công an phải cố gắng vượt mọi khó khăn, làm trọn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang của công an cách mạng, xứng đáng với lòng tin cậy của nhân dân, của Đảng và Chính phủ đối với các đồng chí".
- Ngày 30/4/1963: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới Tổng thống Xucácnô chào mừng thắng lợi mới của Cộng hoà Inđônêxia thu hồi lại được miền Tây Irăng. Bức điện có đoạn: "Đó là thắng lợi của chính nghĩa, thắng lợi của một dân tộc anh hùng kiên quyết chống chủ nghĩa thực dân đế quốc để thống nhất đất nước mình. Thắng lợi đó góp phần đẩy nhanh quá trình diệt vong của chủ nghĩa thực dân đế quốc và cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở châu á và trên thế giới".
* Năm 1964
- Ngày 2/4/1964: Sáng, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Thủ tướng Hoàng thân Xuvana Phuma và Đoàn đại biểu Chính phủ Liên hiệp Vương quốc Lào đang thăm Việt Nam. Tối, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự tiệc do Thủ tướng Phạm Văn Đồng chiêu đãi Thủ tướng Hoàng thân Xuvana Phuma và Đoàn đại biểu Chính phủ Liên hiệp Vương quốc Lào.
- Ngày 3/4/1964: Tiếp tục tham dự Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá II, với tư cách là đại biểu Quốc hội của Thủ đô Hà Nội, Người phát biểu về ba cuộc vận động lớn đang diễn ra sôi nổi trên miền Bắc là Cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật11 ở nông thôn; Cuộc vận động "Ba xây, ba chống" và phong trào thi đua "Năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều" trong các đơn vị kinh tế quốc doanh; cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên tham gia phát triển kinh tế miền núi. Người biểu dương thành tích của ba cuộc vận động trên đây và đề nghị Quốc hội hai điểm:
1. Giao cho Chính phủ và chính quyền các tỉnh theo dõi đôn đốc và giúp đỡ để ba cuộc vận động phát triển tốt.
2. Khen ngợi đồng bào, nhất là thanh niên miền xuôi đã lên miền núi xây dựng và phát triển kinh tế; đồng bào miền núi đã đón tiếp và giúp đỡ chu đáo đồng bào miền xuôi; cán bộ và đồng bào các địa phương miền xuôi đã chuẩn bị cho những người lên miền núi xây dựng quê hương mới.
Tối, Người dự tiệc của Đại sứ Vương quốc Lào tổ chức nhân dịp Đoàn đại biểu Chính phủ Liên hiệp Vương quốc Lào sang thăm Việt Nam.
- Ngày 6/4/1964: Họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn về xây dựng nhà máy vinilon và kinh tế đối ngoại. Người nêu vấn đề mình định nhờ Trung Quốc giúp mà nay lại đi sâu vào với Nhật như vậy thì sau ra sao? Các đồng chí Trung Quốc mua giúp chuyển cho mình, Nhật có chịu không? Thế Nhật sang thì ăn nói thế nào?. Về kinh tế đối ngoại, cần chuẩn bị trước để không bị động khi các đồng chí Liên Xô hỏi là trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai cần giúp đỡ những gì? Vì vậy trước khi đi phải chuẩn bị kỹ càng.
- Ngày 11/4/1964: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Đại hội hợp tác xã và đội sản xuất nông nghiệp tiên tiến miền núi và trung du(7). Sau khi khái quát những tiến bộ về các mặt trong đời sống xã hội, đặc biệt là công tác xây dựng hợp tác xã ở miền núi và trung du, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ tiềm năng kinh tế, vị trí quan trọng của miền núi và trung du trong sự nghiệp xây dựng đất nước; nêu hai yêu cầu mà các hợp tác xã và đội sản xuất miền núi và trung du phải thực hiện tốt là củng cố, phát triển hợp tác xã nông nghiệp; định phương hướng sản xuất đúng, cả về cây lúa, hoa màu, cây công nghiệp và việc bảo vệ rừng. Người cũng chỉ ra một số nhiệm vụ cần thực hiện để đạt hai yêu cầu trên là củng cố hợp tác xã, giáo dục tinh thần làm chủ của xã viên, thực hiện chống tham ô, lãng phí, quan liêu; cải tiến kỹ thuật; đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, làm tốt việc đón đồng bào miền xuôi lên xây dựng và phát triển miền núi, củng cố các chi bộ Đảng và Đoàn thanh niên.
Cùng ngày, bài viết Trả lời bạn, bút danh Chiến Sĩ, đăng báo Nhân Dân, số 3665. Trả lời câu hỏi "Làm thế nào để thực hiện mỗi người làm việc bằng hai", Người giải thích làm việc bằng hai không phải kéo dài giờ lao động và nói rõ: "Bất kỳ làm công việc gì đều phải cố gắng nâng cao ý thức làm chủ và tinh thần trách nhiệm, có tinh thần cố gắng gấp bội; ra sức phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nhằm mục đích làm được nhiều, nhanh, tốt, rẻ". Người biểu dương một số nhà máy, xí nghiệp và công nhân ở Hà Nội đã hưởng ứng phong trào này và đạt thành tích tốt.
- Ngày 14/4/1964: Tối, Người dự Đại hội nhân dân Hà Nội hoan nghênh các vị ứng cử đại biểu Quốc hội khoá III tại Thủ đô. Chủ tịch Hồ Chí Minh cảm ơn Mặt trận Tổ quốc và thanh niên thành phố đã mời Người ra ứng cử và cho biết bản thân mình là đại biểu Quốc hội gần 20 năm, nhưng vì nhiệm vụ và yêu cầu cách mạng nên vẫn phải cố gắng phấn đấu chứ chưa thể "vui thú thanh nhàn". Nguyện vọng của Người là:
"Bắc Nam sum họp một nhà,
Cho người thấy mặt thì ta vui lòng".
Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích sự khác biệt giữa việc Tổng tuyển cử ở Việt Nam với các nước phương Tây như nước Pháp là nơi có cuộc cách mạng tư sản điển hình ở Châu Âu, là quê hương của Công xã Pari nhưng bầu cử rất thiếu dân chủ. Người nói rõ những nhiệm vụ của công dân trong việc bầu cử, ý nghĩa của việc làm đó và yêu cầu các ban bầu cử phải tuyên truyền tốt, chuẩn bị chu đáo để nhân dân làm tốt nghĩa vụ và quyền lợi công dân. Người khen ngợi Hà Nội đã tổ chức tốt phong trào thi đua chào mừng Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá III.
- Ngày 15/4/1964: Thăm Trường Sĩ quan Lục quân tại Sơn Tây (Hà Tây), Người không vào nơi đón tiếp trước mà đến thẳng chỗ ăn ở, công trình phụ của nhà trường. Người phê bình cán bộ, học viên nhà trường không trả lời được là nhà trường có bao nhiêu cái nhà và chỉ rõ người trung đội trưởng, chính trị viên trong đơn vị phải như người mẹ, người anh, người chị, người bạn của chiến sĩ. Trước khi rời trường, Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng trường bức chân dung của Người.
- Trước ngày 18/4/1964: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng Quốc vương Lào Xrixavông Vátthana và Quốc trưởng Campuchia Nôrôđôm Xihanúc, nhân dịp năm mới theo lịch Phật giáo.
- Ngày 21/4/1964: Bài viết Nông thôn đổi mới, bút danh Chiến Sĩ, đăng báo Nhân Dân, số 3675. Bằng các số liệu so sánh về đồ dùng gia đình thời thuộc Pháp với hiện tại, bài báo nêu lên những tiến bộ, đổi mới trong đời sống của bà con nông dân xã Hải Chính, tỉnh Nam Định. Những đổi mới ấy làm bà con càng nhớ thương 1/3 đồng bào giáo hữu ở địa phương đã bị dụ dỗ, cưỡng ép di cư vào Nam đang sống dưới sự thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
- Trước ngày 22/4/1964: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng Hoàng hậu Vương quốc Campuchia Xixôvát Cốtxamắc nhân dịp kỷ niệm lần thứ 60 ngày sinh của Hoàng hậu.
- Trước ngày 23/4/1964: Thăm một đơn vị bộ đội. Người thăm bệnh xá, nơi ăn ở của cán bộ, chiến sĩ và nơi làm việc của ban chỉ huy, Người khen ngợi thành tích huấn luyện; việc sản xuất tự cấp một phần lương thực; việc giúp đỡ nhân dân và nhắc nhở đơn vị phải chú ý vệ sinh phòng bệnh cho cán bộ, chiến sĩ, giữ vững truyền thống, phấn đấu xây dựng quân đội từng bước lên chính quy hiện đại, đồng thời luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Giải thích về phong trào thi đua làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt, Người nói: "Làm việc bằng hai không phải là trước kia làm tám giờ thì bây giờ làm 16 giờ, hay trước kia gánh 50 cân nay gánh gấp đôi. Mỗi người làm việc bằng hai nghĩa là phải coi tám giờ làm việc là tám giờ vàng ngọc, không lãng phí, chăm lo cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động".
- Trước ngày 25/4/1964: Trả lời phỏng vấn của nhà báo Ôxtrâylia U.Bớcsét về việc đế quốc Mỹ và tay sai phá hoại Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, thực hiện kế hoạch Mác Namara, mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, âm mưu đưa chiến tranh ra miền Bắc và một số vấn đề đối ngoại của Nhà nước Việt Nam. Người khẳng định nhân dân Việt Nam có đủ sức mạnh và sẵn sàng chiến đấu, lại được sự đồng tình ủng hộ của các nước anh em, của bạn bè quốc tế, nhất định sẽ đánh bại âm mưu của đế quốc Mỹ. Biện pháp duy nhất để chấm dứt chiến tranh là tôn trọng ý nguyện của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân Việt Nam luôn luôn phân biệt rõ đế quốc Mỹ phản động và nhân dân tiến bộ Mỹ.
- Ngày 25/4/1964: Bài viết Kiều bào về nước và Tổng tuyển cử, bút danh Chiến Sĩ, đăng báo Nhân Dân, số 3679. Bài báo mô tả không khí sôi nổi của việc chuẩn bị bầu cử Quốc hội khoá III trên miền Bắc và cho biết, những kiều bào ta vừa ở nước ngoài trở về Tổ quốc đang phấn khởi chuẩn bị thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi công dân của mình, nhất là đối với những người vừa đúng 18 tuổi; hai người đã được Mặt trận Tổ quốc giới thiệu ra ứng cử là vinh dự chung cho tất cả kiều bào.
- Ngày 26/4/1964: Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội khoá III tại khu vực bỏ phiếu A24, trụ sở Bộ Nông nghiệp ở phố Ngọc Hà (Hà Nội). Tại đây, Người giới thiệu với mọi người Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Pháp đang thăm Việt Nam đến thăm khu vực bỏ phiếu và nhắc tới truyền thống đoàn kết, giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp đối với cách mạng Việt Nam.
- Ngày 27/4/1964: Người gửi thư cho giáo viên và học sinh Trường phổ thông cấp III Đức Thọ, Hà Tĩnh nhân dịp trường được mang tên là Trường Trần Phú. Người nêu rõ đó là vinh dự lớn cho thầy và trò của trường và căn dặn:"Để xứng đáng với vinh dự đó, Bác mong các cô giáo, thầy giáo thi đua dạy thật tốt, các cháu học sinh thi đua học thật tốt, làm gương mẫu tốt cho các trường khác".
- Ngày 28/4/1964: Người thăm Nhà máy bóng đèn phích nước Rạng Đông (Hà Nội). Sau khi thăm nhà trẻ, lớp mẫu giáo của nhà máy, Người thăm nơi ở của công nhân và một số bộ phận sản xuất. Nói chuyện với cán bộ, công nhân nhà máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: sản phẩm của nhà máy là những thứ cần dùng hằng ngày của nhân dân, vì vậy phải chú ý bảo đảm chất lượng. Người khen ngợi những ưu điểm của nhà máy trong sản xuất, đào tạo cán bộ và căn dặn: cán bộ phải có tinh thần phụ trách tốt, cán bộ, công nhân phải đoàn kết và phấn đấu để ngày càng tiến bộ,Người cũng phê bình một số khuyết điểm của nhà máy như vệ sinh công nghiệp còn kém, còn để nguyên liệu rơi vãi; câu lạc bộ còn lộn xộn, nghèo nàn. Tại nhà ăn tập thể của nhà máy, Người phê bình các nhân viên chưa làm vệ sinh tốt. Nhìn chỗ rửa bát trơn bẩn, Người nói: "Bác đi lối này để các cô các chú thấy trơn bẩn mới dọn dẹp cho sạch sẽ".
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tên vào văn bản về ý nghĩa của Chiến thắng Điện Biên Phủ cho Bảo tàng Điện Biên nhân kỷ niệm 10 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.
- Ngày 30/4/1964: Người thăm và nói chuyện với Đại hội liên hoan phụ nữ "Năm tốt"(8). Người nói rõ, nhờ thực hiện nam nữ bình đẳng, phụ nữ Việt Nam tham gia ngày càng đông và đóng góp ngày càng nhiều vào các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Điều đó khẳng định: Dưới chế độ ta, phụ nữ đã thực sự làm chủ nước nhà. Người ca ngợi cuộc đấu tranh của đồng bào và phụ nữ miền Nam; khen ngợi phong trào thi đua "mỗi người làm việc bằng hai" của đồng bào và phụ nữ miền Bắc. Về phong trào thi đua "Năm tốt" của phụ nữ, Người nhấn mạnh tới diểm thứ nhất là"đoàn kết, sản xuất và tiết kiệm" và điểm thứ năm là "xây dựng gia đình, nuôi dạy con cái tốt". Người căn dặn phụ nữ phải hiểu gia đình theo nghĩa rộng là tập thể, xã hội, là gia đình công nông quốc tế. Người nói:
"Lọ là thân thích ruột rà,
Công nông thế giới đều là anh em".
Người còn nêu năm yêu cầu để đảng bộ, chính quyền các cấp và chị em phụ nữ xây dựng phong trào thi đua "năm tốt" phát triển tốt hơn.
* Năm 1965
- Ngày 3/4/1965: Dự phiên họp thường kỳ của Hội đồng Chính phủ thảo luận về tình hình và nhiệm vụ mới trước âm mưu và hành động của đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh xâm lược ở miền Nam và mở rộng chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc Việt Nam.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng Tổng thống nước Cộng hòa Inđônêxia A.Xucácnô và các vị đứng đầu Nhà nước, Chính phủ các nước Á - Phi tham dự Lễ kỷ niệm lần thứ 10 Hội nghị Băngđung, tổ chức tại Inđônêxia. Người nêu lên ý nghĩa quan trọng của Hội nghị Băng đung: "Lịch sử trong 10 năm qua đã chứng minh một cách hùng hồn sự đúng đắn, sức mạnh và sức sống của những nguyên tắc đã được nêu ra ở Băngđung". Người lên án đế quốc Mỹ mặc dù đã thất bại, nhưng vẫn ngoan cố xúc tiến những hành động xâm lược chống lại các lực lượng mới trỗi dậy trên thế giới. Chúng đã thực hiện chính sách chiến tranh hiếu chiến ở Việt Nam: tăng cường lực lượng Mỹ và chư hầu để mở rộng chiến tranh ở miền Nam và bắn phá miền Bắc Việt Nam. Hành động đó của Mỹ và chư hầu là một nguy cơ đe dọa hoà bình và an ninh của các dân tộc Đông Dương và Đông - Nam á. Người khẳng định: "Nhân dân Việt Nam yêu hòa bình nhưng quyết không bao giờ lùi bước trước bất kỳ một sự đe doạ nào của bọn đế quốc. Hơn 30 triệu nhân dân Việt Nam, đoàn kết muôn người như một, quyết tâm đánh bại bọn xâm lược Mỹ cho đến thắng lợi cuối cùng để bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc mình".
- Ngày 5/4/1965: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen Không quân nhân dân Việt Nam chiến thắng trận đầu (ngày 3 và ngày 4-4-1965). Người nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ không quân phải luôn nâng cao tinh thần "quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", thắng không kiêu, khó không nản.
Cùng ngày, Người gửi điện tới Quốc trưởng Vương quốc Campuchia Nôrôđôm Xihanúc, cảm ơn sự ủng hộ của Chính phủ và nhân dân Campuchia đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam nhằm bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của mình.
Cùng ngày, trả lời phỏng vấn của nhà báo Yôshisa Tacanô, phóng viên báo Acahata, cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Nhật Bản. Người nêu lên vị trí, ý nghĩa quốc tế của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam; lên án những hành động của đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh ở miền Nam, trong đó có việc Mỹ hối thúc đàm phán Nhật Bản - Nam Triều Tiên nhằm lôi kéo Nhật tham gia tích cực hơn nữa vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, leo thang đánh phá miền Bắc và khẳng định: Chống lại và làm thất bại những hành động xâm lược của đế quốc Mỹ để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ quyền sống, đó là quyền thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam tiếp tục cuộc chiến đấu yêu nước cho đến thắng lợi cuối cùng. Lập trường của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam là Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam, chấm dứt đánh phá miền Bắc.Người đánh giá cao thắng lợi của Hội nghị nhân dân Đông Dương và cuộc đấu tranh của nhân dân Nhật Bản chống lại những âm mưu và hành động của Mỹ.
- Ngày 7/4/1965: Bài viết Chúng ta rất có thể đạt hơn 5 tấn thóc cả năm một hécta, bút danh Lê Nông, đăng báo Nhân Dân, số 4022. Người nêu lên một số kinh nghiệm của Trung Quốc về phát triển sản xuất nông nghiệp. Liên hệ với tình hình ở Việt Nam, bài báo biểu dương một số huyện, hợp tác xã điển hình đạt năng suất lúa từ 5 tấn một hécta trở lên và khẳng định, chúng ta rất có thể đạt hơn 5 tấn thóc cả năm một hécta. Để làm được điều đó, các hợp tác xã nông nghiệp phải cải tiến kỹ thuật; thực hành cần kiệm xây dựng và tự lực cánh sinh; chi bộ lãnh đạo chặt chẽ; đảng viên gương mẫu, xung phong; xã viên đoàn kết nhất trí; phải coi nhân tố con người là vấn đề số một.
- Từ ngày 8 đến ngày 10/4/1965: Người tham gia Đoàn Chủ tịch Kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá III. Cùng khoảng thời gian, tối, Người tiếp đồng chí Nguyễn Thị Hằng, Khu đội trưởng dân quân khu Nam Ngạn - Hàm Rồng (Thanh Hoá). Người hỏi cách bố trí trận địa bắn máy bay Mỹ, kinh nghiệm vừa sản xuất vừa chiến đấu của quân dân Nam Ngạn - Hàm Rồng. Người hỏi thăm gia đình đồng chí Nguyễn Thị Hằng và khuyên các bạn trẻ phải chịu khó học tập để sau này phục vụ công cuộc xây dựng đất nước sau khi Tổ quốc đã thống nhất.
- Ngày 10 /4/1965: Phát biểu trong phiên bế mạc Kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá III, Người tổng kết 10 năm cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn và khẳng định: "Dù Mỹ đưa thêm mấy chục vạn binh sĩ Mỹ và cố lôi kéo thêm quân các nước chư hầu vào cuộc chiến tranh tội ác này thì quân và dân ta cũng quyết đánh thắng chúng". Người nêu lên lập trường của Chính phủ ta để giải quyết vấn đề chiến tranh ở Việt Nam; chính sách quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam và con đường đi tới thắng lợi hoàn toàn của cách mạng miền Nam, v.v.. Cuối cùng, Người khẳng định: "Lúc này chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước" và kêu gọi nhân dân cả nước ta "hãy đoàn kết nhất trí triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
- Ngày 12/4/1965: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen cán bộ, chiến sĩ đảo Cồn Cỏ - đơn vị đã bắn rơi nhiều máy bay và đánh đuổi tàu chiến Mỹ, bảo vệ vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. Người nhắc nhở: "Các chú cần luôn luôn nâng cao cảnh giác, đoàn kết chặt chẽ, khó không nản, thắng không kiêu, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
- Ngày 14/4/1965: Bài viết Đại bợm Giônxơn miệng nói "hòa bình" tay vung "binh hỏa", bút danh Chiến Sĩ, đăng báoNhân dân, số 4029. Trong bài viết, Người tố cáo Tổng thống Mỹ Giônxơn miệng nói "hòa bình" nhưng dùng bom napan và hơi độc giết hại nhân dân miền Nam, ra lệnh leo thang đánh phá miền Bắc. Người khẳng định: Để lập lại hòa bình, chỉ có một con đường đúng đắn là Mỹ phải làm đúng Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam và rút quân về nước.
- Trước ngày 18/4/1965: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng Quốc vương Lào Xrixavông Vátthana nhân dịp Tết BunPiMay của nhân dân Lào.
- Ngày 18/4/1965: Bài viết Chúng ta rất có thể đạt hơn 5 tấn thóc cả năm một héc ta của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bút danh Lê Nông, đăng báo Nhân Dân, số 4033. Đây là bài viết tiếp theo bài cùng tên đăng báo Nhân Dân ngày 7-4-1965. Sau khi nêu một số kinh nghiệm phát triển sản xuất nông nghiệp của Triều Tiên, bài báo khẳng định chúng ta rất có thể đạt năng xuất hơn 5 tấn thóc cả năm trên một hécta gieo trồng.
- Ngày 24/4/1965: Người gửi điện chúc mừng Hội nhà báo Á - Phi, nhân kỷ niệm Ngày những người viết báo Á - Phi. Bức điện có đoạn: "Đối với những người viết báo chúng ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng để động viên quần chúng đoàn kết đấu tranh, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hòa bình thế giới".
- Ngày 25/4/1965: Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội và khu phố Ba Đình tại phòng bỏ phiếu số 52, khối 41, khu Ba Đình.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp Hoàng thân Xuphanuvông, Phó Thủ tướng Chính phủ Liên Hiệp dân tộc Vương quốc Lào, Chủ tịch Mặt trận Neo Lào Hắcxạt và các vị đại biểu Neo Lào Hắcxạt đi dự Lễ kỷ niệm lần thứ 10 Hội nghị Băngđung trên đường về nước, ghé thăm Hà Nội.
- Ngày 30/4/1965: Họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn về chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế công nghiệp trong điều kiện chiến tranh.
* Năm 1966
- Ngày 1/4/1966: Họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn về tình hình đấu tranh chính trị ở miền Nam và một số công tác khác. Mở đầu, Người phát biểu về công tác phòng chống lụt ở miền Bắc; nhắc Khu V và Trung ương Cục miền Nam phải thay đổi phương thức liên lạc với Trung ương vì dùng điện đài thường làm lộ bí mật. Về đấu tranh chính trị ở miền Nam, Người đề nghị phải chú trọng công tác vận động công nhân, vận động binh lính; triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ địch để đưa ra những khẩu hiệu đấu tranh thích hợp; trước hết phải tập hợp lực lượng, chú ý lực lượng của các giáo phái và cần có biện pháp chống đàn áp, khủng bố, bảo vệ quần chúng; các địa phương ở miền Nam cần xem xét sự đóng góp của nhân dân, đặc biệt là vùng Tây Nguyên để định lượng việc huy động hậu cần cho phù hợp, không để đồng bào khó khăn trong đời sống.
- Ngày 4/4/1966: Họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn về nội dung sẽ đề cập trong cuộc hội đàm Việt - Trung như Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam, hàng quá cảnh của Việt Nam qua Trung Quốc, những hoạt động của Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam tại Liên Xô. Người nói: "Nói ít mà tốt. Đại sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự".
- Ngày 7/4/1966: Bài viết Tâm lý của binh sĩ Hoa Kỳ , bút danh Chiến Sĩ, đăng báo Nhân Dân, số 4384. Bài báo tóm tắt bức thư của một binh sĩ Mỹ ở miền Nam Việt Nam gửi một người bạn ở Hoa Kỳ, vạch trần sự thối nát, xấu xa của chính quyền Sài Gòn, sự gian dối của tướng tá Mỹ, sự lừa bịp dân chúng của nhà cầm quyền ở Oasinhtơn, sự bi quan, thất vọng và chán ghét chiến tranh của binh sĩ Mỹ. Bài báo còn cho biết bức thư này đã được một nghị sĩ đọc trước Quốc hội Mỹ ngày 4-3-1966 và được đăng trên báo Mỹ Tiền vệ quốc dân (25-3) và Nhân dân nhật báo của Trung Quốc.
- Ngày 11/4/1966: Thăm Hội nghị tổng kết ba năm xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở "Bốn tốt". Người nêu lên tầm quan trọng của việc xây dựng chi bộ "Bốn tốt"; khen ngợi các địa phương, các ngành có phong trào khá, có nhiều chiến sĩ thi đua và anh hùng trong sản xuất và chiến đấu. Về những mặt yếu kém của phong trào, Người chỉ rõ: "Tệ hơn nữa là trong chi bộ ấy có một số đảng viên và cán bộ, có cả cán bộ cao cấp, cán bộ lãnh đạo quan liêu mệnh lệnh nặng. Đảng cần phải thi hành kỷ luật thật nghiêm khắc những cán bộ mắc sai lầm đó". Cuối cùng, Người đề ra những nhiệm vụ cho các huyện ủy, thành ủy, tỉnh ủy trong việc xây dựng chi bộ "Bốn tốt".
- Trước ngày 12/4/1966: Người trả lời phỏng vấn của Đoàn vô tuyến truyền hình Hãng tin Nihông Đenpa (Nhật Bản) về tình hình cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và một số vấn đề thời sự khác. Trả lời câu hỏi về đặc điểm của cuộc chiến tranh ở Việt Nam và triển vọng của nó, Người cho biết cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam ngày càng ác liệt và mở rộng trên cả hai miền Nam Bắc Việt Nam; những thất bại của Mỹ ngày càng nặng nề. Nhân dân Việt Nam càng đoàn kết chiến đấu và thất bại cuối cùng của Mỹ là không thể tránh khỏi. Trả lời câu hỏi về tình hình Đông Dương, Người cho biết những hành động của đế quốc Mỹ và tay sai đối với Lào và Campuchia là nằm trong âm mưu của Mỹ nhằm mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn Đông Dương; nhân dân Đông Dương sẽ càng đoàn kết, càng kiên quyết chiến đấu.Trả lời câu hỏi về hoạt động "công tác hòa bình" của Chính phủ Nhật Bản, Người khẳng định, đó là sự phụ họa với chiến dịch lừa bịp "đi tìm hòa bình" của Tổng thống Mỹ Giônxơn; nếu Chính phủ Nhật Bản muốn thật sự đóng góp vào việc lập lại hòa bình ở Việt Nam thì phải chấm dứt hành động đó. Trả lời câu hỏi về ảnh hưởng của bức thư của Người gửi các vị đứng đầu các nước (ngày 24-1-1966), Chủ tịch Hồ Chí Minh cho biết, lập trường của Chính phủ và nhân dân Việt Nam nêu trong bức thư là chính nghĩa; lập trường đó đang được Chính phủ và nhân dân nhiều nước trên thế giới đồng tình ủng hộ. Người đã bày tỏ lời cảm ơn chân thành trước sự đồng tình, ủng hộ quý báu đó.
- Ngày 12 /4/1966: Người gửi thư cảm ơn Quốc trưởng Vương quốc Campuchia Nôrôđôm Xihanúc đã ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược và bày tỏ lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là triệt để ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Khơme anh em nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, trung lập và toàn vẹn lãnh thổ của Vương quốc Campuchia.
- Ngày 17/4/1966: Tại trường bắn Hoà Lạc (Hà Tây), Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Tiểu đoàn 99 pháo phản lực A12 và Trung đoàn 84A pháo phản lực ĐKB diễn tập bắn đạn thật. Người nhắc nhở các cấp chỉ huy ra khẩu lệnh phải ngắn gọn, trong chiến đấu phải tiết kiệm đạn. Người căn dặn: "Pháo tốt, đạn tốt còn phải có kỹ thuật tốt và tinh thần tốt nữa".
- Ngày 19/4/1966: Họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng thảo luận về tình hình đấu tranh chính trị ở miền Nam, Người đề nghị phải chỉ đạo sát sao phong trào đấu tranh của sinh viên và chỉ rõ phải duy trì lâu dài phong trào quần chúng; đối với mỗi tầng lớp nhân dân cần có những khẩu hiệu đấu tranh cụ thể, phải dựa vào chiến thắng quân sự để phát huy uy thế về chính trị, chú ý công tác binh vận đối với cả lính Mỹ và lính ngụy.
- Ngày 20/4/1966: Trả lời câu hỏi của nhà báo Ôxtrâylia U.Bớcsét: Người Mỹ nói họ sẽ thắng trong cuộc chiến tranh ở miền Nam bằng cuộc ném bom miền Bắc, Người nói: "Không bao giờ. Chúng tôi sẽ chiến đấu 10, 15, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Sự nghiệp của chúng tôi là chính nghĩa, chúng tôi có sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Chúng tôi sẽ thắng lợi".
- Trước ngày 21/4/1966: Nhân dịp Tết Khơme, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng Quốc trưởng Vương quốc Campuchia Nôrôđôm Xihanúc, chúc tình hữu nghị, đoàn kết anh em giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia ngày càng củng cố và phát triển.
- Trước ngày 22/4/1966: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng Vua Lào Xrixavông Vátthana nhân dịp Tết Bun Pi May của Lào, chúc tình hữu nghị anh em giữa hai nước Việt Nam - Lào ngày càng phát triển.
- Ngày 22/4/1966: Chiều, Người phát biểu tại phiên họp bế mạc Kỳ họp thứ ba Quốc hội khoá III nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khẳng định ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta, Người nói: " Nhân dân ta rất yêu chuộng hòa bình, nhưng phải có độc lập tự do thật sự mới có hòa bình chân chính. Dân tộc Việt Nam ta là một dân tộc anh hùng, chúng ta quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn để giành lấy hòa bình, độc lập tự do thật sự". Người chỉ rõ nhiệm vụ của quân dân miền Bắc là phải ra sức bảo vệ và xây dựng miền Nam vững mạnh, hết lòng hết sức ủng hộ sự nghiệp giải phóng miền Nam, làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Người nêu lên ý nghĩa quan trọng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta.
- Ngày 29/4/1966: Họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng thảo luận về tình hình cách mạng miền Nam, Người đánh giá cao sự trưởng thành của phong trào quần chúng và lực lượng vũ trang, Người nhận định: "Nửa nước nông nghiệp lạc hậu mà thắng tên đế quốc mạnh nhất thì ta thật là tự hào, tương lai ta thật sáng sủa".
- Ngày 30/4/1966: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen đồng bào và chiến sĩ cả nước nhân dịp kỷ niệm lần thứ 12 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, quân dân miền Bắc bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 1.000 (29-4) và đánh thắng nhiều trận lớn. Người nhắc nhở quân dân ta không được vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch, luôn luôn nâng cao tinh thần cảnh giác và chí khí chiến đấu, phát huy truyền thống của Điện Biên Phủ anh hùng, cố gắng giành nhiều thắng lợi hơn nữa.
Cùng ngày, bài viết Trả lời ông Menxphin, Thượng nghị sĩ Mỹ, bút danh Lê Ba, đăng báo Nhân Dân, số 4407. Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án tội ác của đế quốc Mỹ gây ra đối với nhân dân ta. Mỗi tháng chúng ném xuống hai miền Nam, Bắc Việt Nam số bom đạn gấp ba lần ngày chiến tranh xâm lược Triều Tiên. Người phân tích những lý do đã buộc ông Menxphin phải đưa ra đề nghị tổ chức một cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Mỹ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và đại biểu nhà cầm quyền Sài Gòn để bàn một giải pháp hòa bình. Đó là vì cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam làm cho nước Mỹ ngày càng hao người tốn của, xã hội miền Nam ngày càng thối nát. Người khẳng định lập trường của Chính phủ ta là đế quốc Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, phải rút hết quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam, phải chấm dứt việc bắn phá miền Bắc.
- Trong tháng 4/1966: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tài liệu: Nội dung chủ nghĩa anh hùng cách mạng của chúng ta, gồm năm điểm chủ yếu:
1. Trung với nước, hiếu với dân, vì sự nghiệp chống Mỹ, vì chủ nghĩa xã hội, luôn luôn nêu cao tinh thần chiến đấu hy sinh, lao động quên mình.
2. Chấp hành đầy đủ chính sách của Đảng và Nhà nước, hăng hái thi đua yêu nước, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống.
3. Quyết tâm đi sâu vào khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ, phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ dám làm, ra sức học tập và vận dụng tốt sáng kiến và kinh nghiệm tiên tiến, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả chiến đấu.
4. Nêu cao ý thức làm chủ, ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết đồng chí, đoàn kết nhân dân, thực hiện đường lối quần chúng.
5. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị, gương mẫu về mọi mặt.
* Năm 1967:
- Ngày 1/4/1967: Từ 19 giờ đến 20 giờ 30, tại Nhà sàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Bộ Chính trị.
Trong ngày, Người thưởng huy hiệu cho chị Nguyễn Thị Thanh, (Vợ Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân), đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn, hăng hái tham gia lao động sản xuất: “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”.
- Ngày 7/4/1967: Họp Bộ Chính trị nghe báo cáo về tình hình chiến sự ở hai miền và bàn một số vấn đề về ngoại giao, Người nói: Phải tăng cường tuyên truyền cho Tòa án Quốc tế xử tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam do Béctơrăng Rútxen đề xướng để tranh thủ dư luận quốc tế(9).
- Ngày 13/4/1967: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen bộ đội pháo binh, Người khen bộ đội pháo binh ta có truyền thống “chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng”, nay lại “lập được thành tích mới vẻ vang, bắn trúng nhiều tàu chiến Mỹ, bắn chìm nhiều tàu biệt kích Mỹ và tay sai, đánh trả pháo binh địch, diệt nhiều giặc Mỹ”. Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Người khen ngợi toàn thể cán bộ, chiến sĩ pháo binh và căn dặn: “Các đồng chí chớ vì thắng lợi mà chủ quan. Phải ra sức học tập và thi đua với pháo binh Quân giải phóng miền Nam tài giỏi, anh hùng... Lập nhiều chiến công to lớn hơn nữa”.
- Ngày 14/4/1967: Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Quảng Châu (Trung Quốc) chữa bệnh. Người nằm điều trị tại Nhà số 1 Vườn Tùng, Khu An dưỡng suối nước nóng Tùng Hóa, ngoại ô Quảng Châu.
- Trước ngày 22/4/1967: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cảm ơn tới các vị đứng đầu Chính phủ năm nước Châu Phi đã lên tiếng ủng hộ Việt Nam, phản đối chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên diễn đàn tại Hội nghị Lơke(10). Bức điện có đoạn: “Chúng tôi coi đó là một sự ủng hộ quý báu đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của chúng tôi và một biểu hiện đẹp đẽ của tình đoàn kết giữa nhân dân các nước Á Phi. Thay mặt nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tôi chân thành cảm ơn các Ngài đã góp phần quan trọng vào sự ủng hộ quý báu đó”.
- Trước ngày 23/4/1967: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng tới Quốc trưởng Vương quốc Campuchia Nôrôđôm Xihanúc nhân dịp Tết Khơme - Tết cổ truyền của nhân dân Campuchia.
- Ngày 23/4/1967: Tại Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen cán bộ, nhân dân và bộ đội Hải Phòng đã lập chiến công vẻ vang trong ngày 20-4-1967(11), “trừng trị đích đáng bước leo thang mới đầy tội ác của giặc Mỹ”. Cuối thư, Người căn dặn: “Đồng bào, cán bộ và bộ đội không được vì thắng lợi mà chủ quan. Phải nâng cao cảnh giác, làm tốt công tác phòng không nhân dân, đánh giỏi, thắng lớn hơn nữa”.
- Ngày 25/4/1967: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới Quốc vương Xiri Xavang Vátthana, nhân dịp Tết cổ truyền của Lào.
* Năm 1968
- Ngày 3/4/1968: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài: Mấy ý kiến về tuyên bố của Giôn-xơn. Bài viết vạch rõ sự bịp bợm của Giôn-xơn, kêu gọi nhân dân thế giới hãy vì chính nghĩa mà ủng hộ nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
- Ngày 9/4/1968: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư khen quân và dân Quảng Bình, là tỉnh đầu tiên bắn rơi 100, 200, 300, 400 máy bay Mỹ, dẫn đầu về thành tích bắn chìm, bắn cháy tàu chiến và tàu biệt kích địch, ba thứ quân của Quảng Bình đều lớn mạnh, lại có thành tích xuất sắc trong mọi công tác phục vụ tiền tuyến, trong sản xuất, bảo đảm giao thông vận tải, và công tác văn hoá, y tế.
- Ngày 12/4/1968: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc, nhân dịp Tết cổ truyền của Campuchia.
- Ngày 14/4/1968: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ chữ Hán “Mậu Thân Xuân tiết” (Tết Mậu Thân):
Tứ nguyệt bách hoa khai mãn viên,
Hồng hồng tử tử hỗ tranh nghiên.
Bạch điểu tróc ngư hồ lý khứ,
Hoàng oanh phi thượng thiên.
Thiên thượng nhàn vân lai hựu khứ,
Mang bả Nam phương tiệp báo truyền(12).
- Trước ngày 18/4/1968: Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” cho lực lượng Công an nhân dân vũ trang tỉnh Hà Tĩnh vì đã có nhiều thành tích chiến đấu dũng cảm, lập công xuất sắc làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù, bảo đảm an ninh biên giới, bắt nhiều biệt kích Mỹ-ngụy...
- Ngày 21/4/1968: Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Bắc Kinh về nước. 18 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội. 19 giờ, các đồng chí trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư đến thăm sức khỏe của Người.
- Ngày 22/4/1968: Hằng ngày các bác sỹ đến thăm khám sức khỏe Người.
16 giờ, Người họp Bộ Chính trị nghe báo cáo diễn biến toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Người nhắc một số vấn đề sau:
+ Dùng lời trên báo phải cân nhắc.
+ Trí thức thế giới ủng hộ ta ngày càng mạnh. Ta nên có lời cảm ơn.
+ Chuẩn bị ngày 1-5
+ Họp Quốc hội ở Hà Nội có lợi hơn. Nên làm vào khoảng 10-5.
+ Việc tiếp xúc với Mỹ phải chuẩn bị kỹ, nên hỏi kinh nghiệm Triều Tiên. Lấy anh Sáu (tức đồng chí Lê Đức Thọ) về tham gia đoàn, có thể làm cố vấn.
+ Bồi dưỡng đào tạo cán bộ. Trường học, đức dục còn kém. Vụ đánh chết người ở Trường Nguyễn Văn Trỗi phải giải quyết thế nào cho thoả đáng.
+ Mỹ nói ta không tin, nhưng cứ chuẩn bị người.
+ Chuẩn bị các việc cho thời bình, phải viết lịch sử chống Pháp, lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng phải làm dần đi.
Sau khi đồng chí Lê Duẩn báo cáo về tình hình cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở miền Nam mùa Xuân 1968. Người nói thêm rằng: Mỹ đã phải rút Mắcnamara, Oétmolen, báo ta không có bài nào hay cả.
- Ngày 25/4/1968: 7 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và các bác sĩ đến kiểm tra sức khoẻ cho Người. 10 giờ 15, Người tiếp chị Trần Thị Lý, sau ở lại cùng ăn cơm với Người.
15 giờ 15, Người họp Bộ Chính trị.
- Ngày 26/4/1968: 7 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và hai bác sĩ Việt Nam đến kiểm tra sức khoẻ cho Người. 14 giờ 20, tại Nhà sàn Người làm việc với đồng chí Trần Xuân Bách. 15 giờ, tại Nhà sàn Người làm việc với đồng chí Văn Tiến Dũng.
- Ngày 28/4/1968: Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội, khoá IV, tại phòng bỏ phiếu đơn vị 15, ở nhà thuyền Hồ Tây, khu phố Ba Đình. Sau đó, Người đã đi thăm một số đơn vị bầu cử khác trong Thủ đô.
- Ngày 30/4/1968: 15 giờ, Người họp Bộ Chính trị tại Phủ Chủ tịch, nghe Thủ tướng Phạm Văn Đồng báo cáo về chuyến đi thăm Trung Quốc.
* Năm 1969:
Hằng ngày các bác sĩ đến thăm và kiểm tra sức khỏe của Người.
- Ngày 2/4/1969: Buổi chiều, Người nghe đồng chí Lê Duẩn Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng báo cáo một số vấn đề về công tác đảng.
- Ngày 7/4/1969: Chủ tịch Hồ Chí Minh mời các đồng chí trong Bộ Chính trị đến họp tại Nhà sàn và sau đó ở lại cùng ăn cơm với Người(13).
- Ngày 10/4/1969: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới Quốc vương Lào XriXavang Vátthana, nhân dịp Tết“Bunpimay”, Tết cổ truyền của nhân dân Lào.
- Ngày 11/4/1969: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới Quốc trưởng Vương quốc Campuchia Xămđéc Nôrôđôm Xihanúc, nhân dịp Tết cổ truyền của nhân dân Khơme (13-4-1969).
- Ngày 13/4/1969: 14 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với đồng chí Nguyễn Duy Trinh về một số vấn đề quốc tế.
- Ngày 15/4/1969: 8 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Bộ Chính trị nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo về tình hình chiến trường miền Nam.
- Trước ngày 25/4/1969: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi vòng hoa viếng bác sĩ Lê Đình Thám, ủy viên Đoàn Chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới của Việt Nam, Phó Hội trưởng Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam, vừa từ trần ngày 23-4-1969.
- Ngày 26/4/1969: Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Bộ Chính trị bàn về việc đánh cho Mỹ rút quân và tổ chức Đại hội tuyên dương anh hùng và chiến sĩ thi đua. Về vấn đề đấu tranh quân sự, Người nói: Trong cuộc chiến tranh này Mỹ sẽ bị thua thiệt nhiều và phải rút hết quân, “ta sẵn sàng cho nó rút có thể diện”.
- Ngày 27/4/1969: 7 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bỏ phiếu bầu Hội đồng nhân dân cấp huyện, xã và tương đương. Người bỏ phiếu tại địa điểm hòm phiếu số 6, đơn vị 1, tiểu khu 1, khu phố Ba Đình, Hà Nội, đặt tại nhà thuyền Hồ Tây. Sau khi bỏ phiếu, Người tiếp xúc với đồng bào cử tri ở khu vực hòm phiếu số 6, sau đó đi thăm một số khu vực bỏ phiếu trong thành phố.
- Ngày 28/4/1969: 15 giờ, Người cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Tố Hữu gặp đoàn đại biểu các lực lượng vũ trang Quân khu IV. Người khen ngợi các chiến công và thành tích vẻ vang của quân và dân Quân khu IV và căn dặn: Các đơn vị, địa phương, các chiến sĩ phải luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, đoàn kết, ra sức chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần xứng đáng cùng quân và dân cả nước đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. Người nói: “Quân khu IV phải làm tốt hơn nữa nhiệm vụ là tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam anh hùng”.
- Ngày 29/4/1969: Buổi chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với đồng chí Lê Duẩn Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về một số công việc trước mắt của Đảng.
- Ngày 30/4/1969: 19 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Hội trường Ba Đình dự mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5. Chủ tịch cùng tất cả những người dự mít tinh đã thông qua bản nghị quyết: Chào mừng giai cấp công nhân Việt Nam và toàn thể những người lao động trên thế giới nhân ngày Quốc tế Lao động; tố cáo và lên án đế quốc Mỹ không chịu từ bỏ âm mưu xâm lược Việt Nam; ủng hộ lập trường của Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Pari, v.v.. Kết thúc cuộc mít tinh, trong không khí phấn khởi, Người cùng toàn thể đồng bào hát vang bài “Giải phóng miền Nam”.
- Trong tháng 4/1969: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen, cổ vũ cán bộ và chiến sĩ đang chiến đấu ở các chiến trường miền Nam. Trong thư, Người viết: “Bác gửi lời vào thăm và khen quân dân miền Nam về thành tích trong đợt Xuân 1969. Bác đặc biệt khen các lực lượng vũ trang miền Đông trong đó Người chú trọng khen riêng các lực lượng pháo binh và đặc công của miền Đông Nam Bộ”.
Ghi chú:
(1) Nghĩa thương là một thứ quỹ tương trợ do nông dân đóng góp nhằm giúp nhau những lúc đói kém hoặc gặp khó khăn.
(2) Họp từ ngày 18 đến ngày 26-4-1962.
(3) Bài viết cho báo Pravđa (Sự thật) Liên Xô nhân kỷ niệm lần thứ 92 Ngày sinh của V.I. Lênin.
(4) Ngày 30-1-1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm nhân dân Hà Đông đang chống hạn. Trong buổi nói chuyện với cán bộ và nhân dân trong tỉnh, Người hứa sẽ tặng hai câu thơ trên nếu Hà Đông chống hạn thắng lợi.
(5) Chỉ quỹ "nghĩa thương". Vì nhiều địa phương do tổ chức quỹ này không tốt nên không phát huy được tác dụng.
(6) Họp từ ngày 29-4 đến ngày 8-5-1963 tại Hà Nội.
(7) Đại hội họp ngày 14-4-1964 tại thành phố Thái Nguyên.
(8) Đại hội họp từ ngày 28 đến ngày 30-4-1964, tại Hà Nội.
(9) Huân tước Béctơrăng Rútxen, 94 tuổi, người Anh, cụ có cảm tình đặc biệt với Chủ tịch Hồ Chí Minh và cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam. Cụ đã đưa ra sáng kiến thành lập một Tòa án Quốc tế xử tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
(10) Hội nghị nguyên thủ năm nước Châu Phi tổ chức ở Lơke, Thủ đô Ai Cập, bao gồm: Cộng hòa Arập thống nhất, Angiêri, Ghinê, Môritani và Tandania, họp từ ngày 4-4-1967 đến ngày 6-4-1967, đã lên án đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam và lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi bức điện này tới từng vị đứng đầu năm nước nói trên.
(11) Ngày 20-4-1967, quân và dân Hải Phòng đã bắn rơi 5 máy bay giặc Mỹ, do thành tích đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư khen.
(12) Dịch nghĩa:
Tháng tư hoa nở một vườn đầy,
Tia tía, hồng hồng đua sắc tươi.
Chim trắng xuống hồ tìm bắt cá,
Hoàng oanh vút tận trời,
Trên trời mây đến rồi đi,
Miền Nam thắng trận báo về tin vui.
Bản dịch của Phan Văn Các.
(13) Đây là phiên họp Bộ Chính trị cuối cùng ở Nhà sàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Huyền Trang (Tổng hợp)