Chỉ mục bài viết

Ngày 01/11

“Tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân Mỹ”.

Ngày 01/11/1922, trên tờ “Le Paria” (Người cùng khổ), Nguyễn Ái Quốc viết bài “Đảng Cộng sản và vấn đề thuộc địa” khẳng định: “Những người cộng sản ở chính quốc biết được nỗi khổ của các bạn... Đảng chủ trương nỗ lực để cứu vớt tất cả những anh em ở các thuộc địa..., đảng sẵn sàng để các bạn tuyên truyền trên báo chí của đảng… Đảng yêu cầu nhất là các bạn đoàn kết lại... Vì hòa bình thế giới, vì tự do và sự no ấm của mọi người, những người bị bóc lột thuộc mọi nòi giống, chúng ta hãy đoàn kết lại và đấu tranh chống bọn áp bức!”1, văn bản này đã được thông qua tại Đại hội II Đảng Cộng sản Pháp. Cùng ngày, tờ “Le Paria” còn đăng bài “Vụ hành hạ Amđuni và Ban Benkhia” của Nguyễn Ái Quốc tố cáo tội ác thực dân ở thuộc địa Tuynidi.

Ngày 01/11/1941, Nguyễn Ái Quốc sáng tác bài “Ca binh lính” đăng trên báo “Việt Nam Độc Lập” nhằm mục tiêu binh vận:

“Hai tay cầm khẩu súng dài,

Nhắm đi nhắm lại, bắn ai thế này?...”2

và kêu gọi sự giác ngộ:

“Trong tay đã sẵn súng này,

Quyết quay đánh Nhật, đánh Tây mới đành.

Tiếng thơm sẽ tạc sử xanh:

“Việt binh cứu quốc” rạng danh muôn đời!”3 .

Ngày 01/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Ngoại trưởng Mỹ Giêm Biếcnơ nêu rõ "nhân danh Hội Văn hóa Việt Nam, tôi xin được bày tỏ nguyện vọng của Hội, được gửi một phái đoàn khoảng 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác... tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam”4.

Tháng 11/1950, Bác gửi thư tới các cụ phụ lão xã Vĩnh Đồng, châu Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình động viên: “Nhờ toàn dân ta hăng hái, bộ đội ta dũng cảm, Chính phủ ta kiên quyết mà nay toàn tỉnh ta đã được giải phóng khỏi xiềng xích của bọn thực dân hung tàn”5 và xác định những nhiệm vụ: “Chúng ta phải: Toàn dân đoàn kết chặt chẽ. Thi đua ủng hộ kháng chiến. Thi đua tăng gia sản xuất. Thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính. Chớ chủ quan khinh địch, phải cẩn thận đề phòng”6. Cũng trong thời gian này, sau Chiến thắng Biên giới, Bác viết mấy vần thơ gửi tới Luật sư Phan Anh:

“Đất chuyển, trời xoay, bể mịt mù.

Thu này, kháng chiến đã ba thu.

Hoàn toàn thắng lợi, vài thu chắc.

Một túi thơ tiên, một rượu bù...”(một bầu - TG)7.

Ngày 01/11/1953, Bác gửi điện mừng tới các nhà lãnh đạo Xô viết nhân kỷ niệm 36 năm Cách mạng Tháng Mười Nga và nhấn mạnh: “Tình hữu hảo anh em luôn luôn thắm thiết của nhân dân Liên Xô đối với nhân dân Việt Nam là một sự nâng đỡ quý báu cho nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc”8 .

Ngày 01/11/1959, Bác viết thư chào mừng Đại hội những người sản xuất trẻ của Thủ đô Hà Nội: “Bác thân ái chúc các cháu/ Mạnh khỏe, vui vẻ/ Đoàn kết chặt chẽ/ Luôn luôn thi đua/ Đưa cả tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ/ Vươn lên hàng đầu trong mọi công việc xây dựng xã hội chủ nghĩa”.

Ngày 02/11

“Chia rẽ thì suy yếu”.

Ngày 02/11/1922, trên báo “L’ Humanité” (Nhân Đạo) của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc viết bài “Sự chăm sóc ân cần”, bằng một giọng văn châm biếm tố cáo những chính sách cai trị của thực dân và phản bác lại những luận điệu tuyên truyền của Toàn quyền Đông Dương Anbe Xaru.

Tháng 11/1929, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm (Thái Lan) qua Trung Quốc chuẩn bị cho việc thành lập tổ chức cách mạng thống nhất của nước ta. Trong thời gian ở Xiêm, dưới bí danh là “Thầu Chín”, Bác xây dựng lực lượng trong cộng đồng Việt kiều đông đảo... Về lý do rời Xiêm, sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” (tác giả Trần Dân Tiên) viết: Ông biết rõ tình hình trong nước. Hai việc quan trọng làm ông từ giã nhà chùa và nước Xiêm. Việc thứ nhất là cuộc bạo động của Việt Nam Quốc dân đảng đang chuẩn bị. Nhận xét cuộc bạo động đấy quá sớm và khó thành công, ông muốn bàn lại với anh em Quốc dân đảng... Việc thứ hai: Vừa mới đây “Tân Việt” và “Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí” lại chia ra hai nhóm. Mỗi nhóm tổ chức thành một Đảng cộng sản. Như thế, lúc bấy giờ ở Việt Nam có ba đảng cộng sản. Mặc sự khủng bố của Pháp, “Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí” phát triển rất nhanh chóng. Nhưng sự chia rẽ đã làm cho những người yêu nước lo lắng. Vì chia rẽ thì suy yếu.

Ngày 02/11/1942, trong thời gian bị bọn quân phiệt Trung Hoa Quốc dân đảng bắt giam, Hồ Chí Minh bị giải đến nhà ngục Đồng Chính, một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Bác sáng tác bài thơ thứ 44 trong tập thơ chữ Hán “Ngục trung nhật ký” (Nhật ký trong tù). Bài thơ mang tên “Đồng Chính” được nhà thơ Nam Trân dịch ra quốc ngữ:

“Binh Mã thế nào Đồng Chính vậy,

Bữa lưng bát cháo bụng cồn cào,

Nước và ánh sáng thì dư dật,

Ngày lại hai lần mở cửa lao”9.

(Binh Mã là tên gọi nơi bị giam giữ trước khi được giải sang Đồng Chính - TG).

Ngày 02/11/1945, Báo Cứu Quốc đăng bài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời nhà báo về tuyên bố ngày 26/10/1945 của Tổng thống Mỹ Truman khi đưa ra các luận điểm: Mỹ không nghĩ tới sự mở mang bờ cõi; tin vào sự trở lại chủ quyền của các dân tộc; không tán thành sự thay đổi lãnh thổ mà không được các dân tộc ưng thuận; các dân tộc được tự chọn lấy chính thể; không một chính phủ nào được thành lập bằng sức áp bức của vũ lực. Vì thế, “nhân dân Việt Nam đối với lời tuyên bố của Tổng thống Truman rất hoan nghênh và chắc rằng nước Mỹ sẽ làm cho những lời tuyên bố ấy thực hiện ngay, nó đặt nền móng cho hòa bình và hạnh phúc của nhân loại và trước hết là cho các dân tộc nhỏ yếu”10 .

Ngày 02/11/1963, Bác viết bài “Nhiệt liệt chúc mừng và ra sức ủng hộ Angiêri anh em” đăng trên Báo Nhân Dân nhân kỷ niệm 7 năm thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân. Bài báo khẳng định: “Nhân dân Việt Nam và nhân dân Angiêri đã là anh em trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân, ngày nay là anh em trong cuộc đấu tranh xây dựng đất nước”11.

Ngày 02/11/1964, Bác viết bài “Cần phải chăn nuôi tốt trâu bò” đăng trên Báo Nhân Dân, với bút danh “T.L.”. Bác nêu tầm quan trọng của loại đại gia súc gắn liền với cơ nghiệp của người nông dân cần được chăm sóc, đặc biệt là chống rét. Bài báo cũng biểu dương những gương tốt để bà con học tập.

Ngày 03/11

“Còn non, còn nước, còn người hôm nay”.

Ngày 03/11/1920, Nguyễn Ái Quốc và một số đại biểu người Việt Nam đã tham dự cuộc họp do Nhóm Ủy ban Quốc tế III, Quận 13, một tổ chức phái tả trong Đảng Xã hội Pháp đang tích cực vận động chuyển hóa theo Quốc tế Cộng sản.

Ngày 03/11/1946, sau khi thành lập Chính phủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước Quốc hội: “Theo ý Quốc hội, Chính phủ mới phải tỏ rõ tinh thần đại đoàn kết, không phân đảng phái... Kết quả là, có những vị có tài năng nhận lời tham gia Chính phủ... Lại có nhiều vị đứng ngoài sẵn sàng ra sức giúp đỡ... Dầu ở trong hay ở ngoài Chính phủ ai nấy đều hứa sẽ cố gắng làm việc, một lòng vì nước, vì dân... Tôi có thể tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới. Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia. Đặc biệt là đồng bào Nam bộ không những ở tiền tuyến xung phong giữ gìn đất nước, mà lại còn hăng hái dự vào việc kiến thiết quốc gia. Trong công việc của Chính phủ sẽ còn nhiều bước khó khăn, nhưng nhờ sức ủng hộ của Quốc hội, và toàn thể quốc dân, Chính phủ sẽ cương quyết đi đến mục đích”12.

Cùng ngày, Bác gặp lại người anh trai của mình là ông Nguyễn Sinh Khiêm, tên chữ là Nguyễn Tất Đạt từ Nghệ An ra Thủ đô. Trong câu chuyện hàn huyên giữa hai anh em ruột xa cách nhau hơn ba mươi năm, Bác có đọc câu thơ:

“Chốc đà mấy chục năm trời,

Còn non, còn nước, còn người hôm nay”13.

Ngày 03/11/1961, trong chuyến sang Mátxcơva, tham dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô, Bác Hồ đến thăm Trường Trung học số 415. Nói chuyện với học sinh nhà trường, Bác căn dặn: “Người cộng sản phải có đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Đạo đức cộng sản chủ nghĩa đối với các cháu không giống như đối với người lớn... Đạo đức cộng sản chủ nghĩa đối với các cháu là chăm học, giúp người lớn, đoàn kết, có kỷ luật tốt...”14.

Ngày 03/11/1968, Bác ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sỹ cả nước nhân việc Chính phủ Mỹ tuyên bố chấm dứt việc ném bom trên toàn bộ miền Bắc nước ta: “Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi... Tổ quốc đang kêu gọi chúng ta hăng hái tiến lên đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”15.

Ngày 04/11

“Nhân dân Việt Nam rất yêu mến và biết ơn nhân dân Liên Xô”.

Ngày 04/11/1920, báo “L’Humanité”(Nhân Đạo) đăng bài “Ở Đông Dương” của Nguyễn Ái Quốc nhắc đến cuộc đình công của thủy thủ Việt Nam tại bến cảng Hải Phòng khi hai chiếc tàu chuẩn bị đưa một số lượng lớn binh lính Việt Nam sang Xyri. Bài báo tố cáo: “Chúng tôi cực lực phản đối việc đưa lính An Nam sang Xyri... Nước Pháp đang để cho hàng triệu anh em chúng ta chết đói, trong khi đó hàng nghìn người khác bị đưa sang Tiểu Á làm bia đỡ đạn”16.

Ngày 04/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự lễ khai giảng Trường Thương mại thực hành ở Hà Nội. Bác căn dặn học sinh gắng thực hiện “Đời sống mới”, siêng năng học tập để trở thành những cán bộ kinh tế giỏi của tương lai.

Tháng 11/1948, Bác gửi thư khen ngợi Đội du kích Thủ đô và những lực lượng đã tham gia cuộc tấn công vào Hà Nội đêm 04/11/1948. Thư có đoạn: “Hà Nội là quả tim quân sự, chính trị và kinh tế của địch. Du kích Thủ đô và Vệ quốc quân cần phải thường khuấy rối quả tim của địch cho đến ngày tổng phản công. Du kích Thủ đô đã oanh liệt lập công lần đầu. Tôi chắc rằng từ nay du kích Thủ đô sẽ lập công nhiều hơn nữa, to hơn nữa”17.

Ngày 04/11/1949, Bác ký Sắc lệnh quy định nghĩa vụ quân sự cho công dân nam từ độ tuổi 18 đến 45, với thời hạn là hai năm và có thể kéo dài nếu có chiến tranh; Sắc lệnh thành lập Liên khu Việt Bắc là nơi đặt đầu não của cuộc kháng chiến. Tháng 11/1949, Bác treo thưởng cho đơn vị chiến đấu giỏi ở Thủ đô là một khẩu súng “Thompson” do Đoàn đại biểu Nam bộ mang từ miền Nam ra tặng Bác.

Tháng 11/1951, Bác viết “Thư gửi các cán bộ, chiến sỹ chủ lực và dân quân du kích trong Chiến dịch Hòa Bình”, trong đó nêu rõ: “Trước kia, ta phải lừa địch ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội rất tốt cho ta. Muốn thắng, thì ta phải tích cực, tự động, bí mật, mau chóng, kiên quyết, dẻo dai. Chắc thắng mới đánh. Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan, khinh địch... Bác chờ nhiều báo cáo thắng trận của các chú”18.

Ngày 04/11/1953, Báo Cứu Quốc - cơ quan Mặt trận Liên Việt Long Châu Sa đưa tin Bác Hồ gửi cho quân dân Nam bộ số tiền 1.000.000 đồng để làm giải thưởng cho quân và dân Nam bộ có thành tích thi đua giết giặc lập công.

Ngày 04/11/1954, phát biểu tại lễ nhận Quốc thư của Đại sứ đặc mệnh toàn quyền đầu tiên của Liên Xô, Bác khẳng định: “Trong công cuộc đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ của mình, nhân dân Việt Nam luôn luôn được sự đồng tình thắm thiết và sự ủng hộ khẳng khái của nhân dân Liên Xô. Cho nên nhân dân Việt Nam rất yêu mến và biết ơn nhân dân Liên Xô”19.

Ngày 04/11/1964, tại cuộc họp Bộ Chính trị chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 10, Bác đề nghị cần đề cập nhiều hơn nữa vấn đề thực hành tiết kiệm, vì ở nước ta tiết kiệm là cơ sở để tích luỹ tái sản xuất và chú trọng tầm quan trọng của quy luật cân đối trong nền kinh tế, phải thấy sự khác nhau giữa giá cả, thị trường của ta và các nước tư bản. Bác còn đề nghị vấn đề lao động phải là một mục riêng, vì lao động làm ra giá trị, phải sử dụng lao động để tạo ra giá trị cao nhất.

Ngày 05/11

“Thực hiện được toàn dân kháng chiến, phần thắng thế nào cũng về ta!”

Ngày 05/11/1925, với bí danh Nilốpxki, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân đưa ra những nhận xét và đánh giá về đội ngũ nông dân Trung Quốc. Thư cũng cho biết Nguyễn Ái Quốc chưa thực hiện được việc liên hệ với Ban Chấp hành Quốc dân đảng Trung Hoa như nhiệm vụ được giao.

Ngày 05/11/1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Quốc tế Nông dân báo cáo về phong trào nông dân tại bảy tỉnh Nam bộ (Gia Định, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bến Tre, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho) và hai tỉnh miền Trung là Nghệ An và Hà Tĩnh với nhận định: “Đế quốc Pháp khủng bố phong trào nông dân dữ dội chưa từng thấy... nhiều làng đỏ bị triệt hạ và đốt trụi. Mặc dầu bị đàn áp dã man, phong trào vẫn tiếp tục phát triển"20. Thư cũng cho biết dự kiến sẽ tổ chức Đại hội Nông dân lần thứ nhất và đặt vấn đề “Quốc tế Nông dân có thể giúp đỡ cho các nạn nhân bị khủng bố thì rất hay”.

Ngày 05/11/1945, tại Quảng trường trước Nhà hát Lớn Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự “Ngày Kháng chiến” để biểu thị sự ủng hộ cuộc kháng chiến oanh liệt của đồng bào Nam bộ. Trong diễn văn đọc trước dân chúng, Bác nhấn mạnh: “... Vì chính nghĩa, công lý của thế giới, vì đất nước giống nòi của Việt Nam, mà toàn quốc đồng bào ta nổi lên tranh đấu quyết giữ vững nền độc lập của ta. Chúng ta không ghen ghét gì dân Pháp, nước Pháp, chúng ta chỉ kiên quyết chống chế độ nô lệ và chính sách tàn nhẫn của bọn thực dân Pháp. Chúng ta không đi cướp nước ai. Chúng ta chỉ giữ gìn nước ta và chống lại bọn Pháp đi cướp nước. Vì vậy chúng ta không cô độc. Những nước yêu chuộng hòa bình và dân chủ, những dân tộc nhỏ yếu trong thế giới đều đồng tình với ta. Vì toàn dân đoàn kết ở trong, vì nhiều bạn đồng tình ở ngoài, cho nên chúng ta nhất định thắng lợi...”21.

Cùng ngày, Bác ra “Lời kêu gọi kiều bào Việt Nam ở Pháp”: “Đồng bào hãy làm cho thế giới văn minh và nhất là dân tộc Pháp nghe thấy tiếng nói của Tổ quốc. Các bạn hãy chiến đấu để phá tan những sự điêu toa của bọn thực dân Pháp đang tuyên truyền một cách bỉ ổi... Đồng bào hãy tỏ ra là xứng đáng với những anh em đang chiến đấu anh dũng ở Nam Bộ để bảo vệ cho nền độc lập của nước nhà”22.

Cũng trong ngày 05/11/1945, trên Báo Cứu Quốc đăng bài “Toàn dân kháng chiến” của Bác đưa ra quan điểm “muốn kháng chiến lâu dài để tới thắng lợi cuối cùng, cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng mới mong đi tới thắng lợi cuối cùng... Cho nên, trước nguy cơ dân tộc, là dân tộc mất nước, phải hy sinh hết cả ý riêng, tâm tính riêng, lợi ích riêng cho đến cả tính mạng cũng không tiếc... Thực hiện được toàn dân kháng chiến, phần thắng thế nào cũng về ta”23.

Ngày 05/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo văn kiện quan trọng “Công việc khẩn cấp bây giờ” trong đó xác định hai nội dung quan trọng là “Kháng chiến kiến quốc” và “Trường kỳ kháng chiến”, coi đó là hai tư tưởng quán triệt toàn bộ công cuộc bảo vệ nền độc lập vào thời điểm nghiêm trọng này với những định hướng cụ thể: “Tổ chức du kích khắp nơi. Tăng gia sản xuất khắp nơi. Dù phải rút khỏi các thành phố, ta cũng không cần. Ta sẽ giữ tất cả thôn quê. Khi chỉ có hai bàn tay trắng, với một số đồng chí bí mật, le lói trong rừng, ta còn gây nên cơ sở kháng Nhật, kháng Pháp. Huống gì bây giờ, ta có quân đội, có nhân dân. Nam Bộ, địa thế khó, chuẩn bị kém, mà kháng chiến đã hơn một năm. Ta địa thế tốt, lực lượng nhiều hơn, nhất định kháng chiến được mấy năm, đến thắng lợi”24. Cùng ngày, đến thăm trường Hàng Than, Bác ghi vào Sổ Vàng: “Thầy siêng năng/ Trò siêng học/ Thế là tốt lắm”25.

Ban Biên tập (tổng hợp)
Còn nữa

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 458-460.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 207.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 207.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 80-81.
5,6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 131-132.
7. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 487.
8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 161.
9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 316.
10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 83.
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 165.
12. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 430-431.
13. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 361.
14. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 680.
15. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 407-408.
16. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 20-21.
17. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 527.
18. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t, 6, tr. 341.
19. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 372.
20. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 53-54.
21,22,23. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 91, 88-89, 84-86.
2 4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 434.
25. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 363.


Ngày 06/11

“Khen chê phải đúng mức”.

Ngày 06/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì họp Hội đồng Chính phủ bàn nhiều vấn đề quan trọng như soạn thảo Hiến pháp, kiểm tra việc phân phối gạo chống nạn đói và tổ chức tăng gia sản xuất.

Ngày 06/11/1946, Bác thăm trụ sở Đảng Dân chủ, một đảng phái yêu nước đã cộng tác đắc lực với Việt Minh trong thời kỳ vận động khởi nghĩa và thăm Tự vệ thành Hoàng Diệu là lực lượng bán vũ trang của nhân dân Thủ đô. Sau đó, cùng cụ Tôn Đức Thắng đi thăm “Phòng Nam bộ” một địa điểm phối hợp các hoạt động của các tầng lớp nhân dân ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam bộ.

Tháng 11/1948, Bác gửi thư và áo lụa cho Cục trưởng Cục Quân chính Phan Tử Lăng (một cựu sĩ quan của chế độ cũ, giác ngộ theo cách mạng). Thư viết: “Áo lụa này do đồng bào biếu Bác, nay Bác tặng lại chú. Chúc chú đánh giặc giỏi và tiến bộ nữa”26.

Ngày 06/11/1950, kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, Bác gửi điện mừng tới Nguyên soái Liên Xô Xtalin: “Nhân ngày Quốc khánh của quý quốc, một ngày vui mừng chung của tất cả nhân dân lao động trong thế giới, tôi kính thay mặt nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi lời sốt sắng chúc mừng Ngài và Chính phủ cùng nhân dân Xô Liên. Là thành trì của nhân loại mới và tiến bộ, chúng tôi chắc rằng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Ngài và quý Chính phủ, nước Xã hội chủ nghĩa Liên Xô càng ngày càng cường thịnh, do đó mà hòa bình thế giới được bảo vệ, dân chủ được phát triển và các dân tộc nhược tiểu được mau chóng giải phóng”27.

Ngày 06/11/1962, dự họp Bộ Chính trị chỉ đạo Đại hội Văn nghệ, Bác đóng góp ý kiến về việc văn nghệ sĩ đi thực tế: “Đi, nhưng phải tự nguyện, không ép buộc. Đi, nhưng phải sống như người nông dân chứ đi theo kiểu làm khách là không được. Không để lao động quá sức, nhưng cũng nên thử để thấy người nông dân khổ như thế nào, khỏe như thế nào”28, về tình hình văn nghệ: “... Không có cách mạng, không có kháng chiến thì không có văn nghệ như bây giờ... Hướng dẫn khen, phê bình phải cho đúng đắn, có cái phải nghiêm khắc. Khen, chê phải đúng mức. Khen, nhưng khen quá lời, “suy tôn” người được khen thì chính người được khen xấu hổ. Đập nhưng đập bậy thì người ta không phục... Văn chương phải hùng hồn, tình cảm phải sâu sắc, lý lẽ cho đích xác…”29.

Ngày 06/11/1967, Bác gửi điện cảm ơn nhân dịp Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô quyết định tặng Huân chương Lênin, nhưng bày tỏ ý nguyện: “Lúc này, giặc Mỹ đang đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Tổ quốc Việt Nam chúng tôi. Chúng đang giết hại một cách cực kỳ dã man hàng vạn đồng bào tôi ở miền Nam cũng như ở miền Bắc. Toàn quân và toàn dân Việt Nam chúng tôi đang phải hy sinh xương máu để đánh Mỹ, cứu nước. Trong lúc đó, riêng tôi lại được hưởng vinh dự đặc biệt to lớn và nhận Huân chương Lênin thì lòng tôi không yên chút nào. Vì lẽ đó, tôi vô cùng cảm ơn các đồng chí, nhưng xin các đồng chí hãy tạm hoãn việc trao tặng phần thưởng cực kỳ cao quý ấy. Đến ngày nhân dân chúng tôi đánh đuổi được bọn đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam, tôi sẽ đại biểu cho toàn thể đồng bào tôi, trân trọng và vui mừng lãnh lấy Huân chương mang tên Lênin vĩ đại. Kính gửi các đồng chí lời chào cộng sản”30.

Ngày 07/11

"Cuộc cách mạng đã mở ra một thời đại mới”.

Ngày 07/11/1939, Nguyễn Ái Quốc lúc này mang bí danh Hồ Quang rời Quý Dương thủ phủ tỉnh Quý Châu đến Trùng Khánh, đại bản doanh của Chính phủ Quốc dân đảng để nắm bắt và đối phó với chính sách của Trung Hoa Quốc dân đảng đối với Đông Dương.

Ngày 07/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ và tiếp đoàn đại biểu “Công giáo Cứu quốc” đang chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc của tổ chức này sẽ họp tại Phát Diệm.

Ngày 07/11/1946, trên Báo Cứu Quốc, với tư cách là Chủ tịch Chính phủ, Bác “Thông báo về việc nhận con các liệt sỹ làm con nuôi”: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sỹ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sỹ đó, và tôi nhận con các liệt sỹ làm con nuôi của tôi”31. Cùng ngày, Bác tham gia “Lễ Mùa Đông binh sỹ” do Hội Liên hiệp Quốc dân tổ chức nhằm huy động toàn dân chăm lo lực lượng vũ trang của quốc gia.

Tháng 11/1953, trả lời một nhà báo Thụy Điển nhân Quốc hội Pháp đưa ra khả năng dàn xếp hòa bình với Việt Nam, Bác đưa ra thông điệp: “Đó là nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, song nước trung lập nào muốn hòa giải phải dựa trên cơ sở tôn trọng nguyện vọng và chủ quyền của Việt Nam”32.

Ngày 07/11/1954, tại buổi chiêu đãi do Sứ quán Liên Xô tổ chức tại Hà Nội mới giải phóng, Bác khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười đã mở đường giải phóng cho giai cấp lao động và cho các dân tộc bị áp bức khắp thế giới. Cách mạng Tháng Mười đã soi sáng cho họ một tương lai vẻ vang, hòa bình và hạnh phúc, không có người bóc lột người, không có dân tộc này áp bức dân tộc khác... Nhân dân Việt Nam cực kỳ yêu chuộng hòa bình, bởi vì cần có hòa bình để xây dựng nước nhà, cần có hòa bình để khôi phục và mở mang kinh tế và văn hóa, làm cho mọi người dân được hưởng tự do, hạnh phúc, áo ấm, cơm no”33.

Ngày 07/11/1960 và 1961, Bác đều có mặt tại Quảng trường Đỏ ở Mátxcơva để cùng nhân dân Liên Xô tham dự lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười. Ngày 07/11/1962, trong bài viết “45 năm đấu tranh anh dũng, 45 năm thắng lợi vẻ vang” gửi cho báo “Pravda” (Sự Thật) của Liên Xô, Bác nhấn mạnh ý nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại “đã mở một thời đại mới của lịch sử loài người, thời đại công nông đấu tranh giành quyền làm chủ vận mạng của mình; thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành lấy tự do độc lập; thời đại thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc; thời đại suy sụp và tan rã của chủ nghĩa đế quốc, thực dân; thời đại mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã thành lý trí và lương tâm của mọi người tiến bộ trên thế giới”34.

Ngày 07/11/1967, Bác gửi thư khen ngợi quân và dân Hà Nội lập công xuất sắc bắn rơi chiếc máy bay thứ 2.500 của Mỹ trên bầu trời miền Bắc, coi đó là thành tích thiết thực kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười.

Ngày 07/11/1968, Bác dự cuộc họp của Bộ Chính trị về việc đấu tranh ngoại giao sau bầu cử Tổng thống ở Mỹ và nhấn mạnh “phải nghiên cứu kỹ sức ta thế nào và phải đánh cho tốt”35.

Ngày 08/11

“Hải quân ta đã nêu cao truyền thống anh hùng của dân tộc”.

Ngày 08/11/1945, trong lời “Hô hào nhân dân chống nạn đói” đăng trên Báo Cứu Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cuộc chống nạn đói cũng như cuộc chống ngoại xâm, ta nhất định thành công, vì đồng bào ta ai cũng sẵn lòng hăng hái... Các bạn phải có sáng kiến để tìm ra cách làm được việc mà không mất lòng dân. Nhất là đối với chữ CẦN, chữ KIỆM, chữ HY SINH, chữ CÔNG BẰNG thì các bạn phải thực hành trước, phải làm gương cho dân chúng theo”36.

Ngày 08/11/1946, Bác viết bài “Địa thế” dựa theo “Binh pháp Tôn Tử” đăng trên Báo Cứu Quốc, nhấn mạnh: “Ở vào mỗi địa thế, phương pháp dụng binh mỗi khác. Nếu không tuỳ từng địa thế để thay đổi phương pháp, đánh trận không thể thắng được... Có phân biệt được địa thế mới biết áp dụng phương pháp đánh trận một cách có hiệu quả”37.

Cùng ngày, Bác tiếp đại biểu nhiều đoàn thể, với Liên đoàn Giáo giới, Bác chia sẻ: “Không riêng gì ở nước ta, mà ở các nước khác cũng vậy, hình như sự không đủ ăn là số phận chung của các giáo viên. Khi nào nền tài chính dồi dào, Chính phủ phải nghĩ ngay đến giáo viên là những người từ tầng dưới đến tầng trên, lãnh trách nhiệm đào tạo nhân tài cho Tổ quốc”38.

Ngày 08/11/1958, đến thăm Nhà máy Điện Hà Nội, Bác căn dặn: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Muốn tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm thì phải quản lý tốt. Muốn quản lý tốt thì cán bộ và công nhân phải thông suốt tư tưởng, phải có thái độ làm chủ nước nhà, làm chủ xí nghiệp”39.

Ngày 08/11/1962, trong bài viết “Một thắng lợi mới” trên Báo Nhân Dân, Bác biểu dương thành tích giáo dục của tỉnh Lào Cai từ chỗ 99% đồng bào Mông mù chữ, nay đã có chữ viết riêng, nhiều người đến lớp và có đội ngũ khá đông giáo viên dạy tiếng dân tộc.

Ngày 08/11/1965, kỷ niệm 10 năm thành lập Binh chủng Hải quân, Bác gửi thư chúc mừng: “... Tuy còn non trẻ, nhưng nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự tin yêu, giúp đỡ của nhân dân, sự cố gắng không ngừng của mình, hải quân ta đã anh dũng chiến đấu, tích cực diệt địch, bắn rơi máy bay và đánh đuổi tàu chiến Mỹ, đoàn kết lập công, bảo vệ nhân dân, bảo vệ vùng trời và vùng biển của Tổ quốc. Các chú đã nêu cao truyền thống anh hùng của dân tộc ta”40.

Ngày 08/11/1966, Báo Nhân Dân đăng “Thư trả lời một công dân Mỹ”, Bác viết: “Tôi rất cảm động khi đọc thư ông. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam đã gây nên những tội ác hết sức dã man đối với nhân dân nước chúng tôi. Chúng đã bôi nhọ danh dự nước Mỹ và làm cho nhân dân Mỹ phải chịu nhiều tổn thất nặng nề. Tôi rất hiểu nỗi đau buồn của ông cũng như của nhân dân lương thiện Mỹ... Nhân dân Mỹ có truyền thống yêu chuộng công lý, tự do và hòa bình. Nhân dân Việt Nam rất quý trọng nhân dân Mỹ, muốn đoàn kết với nhân dân Mỹ đang đấu tranh cho các quyền dân chủ và chống chiến tranh xâm lược Việt Nam”41.

Ngày 08/11/1968, trong điện mừng Quốc khánh gửi Quốc trưởng Campuchia N.Xihanúc, Bác khẳng định: “Chính sách trước sau như một của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tôn trọng độc lập, chủ quyền, trung lập và toàn vẹn lãnh thổ Vương quốc Campuchia trong biên giới hiện tại”42.

Ngày 09/11

“Bản Hiến pháp đầu tiên của nước nhà”.

Ngày 09/11/1920, mật thám Pháp theo dõi cho biết Nguyễn Ái Quốc đã tham dự một cuộc mít tinh do Đảng Xã hội tổ chức để kỷ niệm 3 năm Ngày thành lập nước Nga Xô viết.

Ngày 09/11/1923, báo “La Vie Ouvrière” (Đời sống Thợ thuyền) đăng 3 bài báo của cùng một tác giả là Nguyễn Ái Quốc. Bài “Chính sách thực dân Anh”, bài “Phong trào công nhân” và bài “Nhật Bản”, cho thấy mối quan tâm của nhà cách mạng Việt Nam đối với phong trào vô sản quốc tế.

Ngày 09/11/1946, phát biểu tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 2 của Quốc hội Khóa I, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến sự kiện đã thông qua Hiến pháp: Đây là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông này nữa... Hiến pháp đã tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đã tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đã tuyên bố với thế giới: Phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”43. Cùng ngày, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi bức điện mừng đầu tiên tới Chính phủ Liên Xô chúc mừng kỷ niệm lần thứ 29 ngày Cách mạng Tháng Mười Nga.

Ngày 09/11/1949, trong thư gửi Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn nhân ngày khai giảng, Bác viết: “Gặp hoàn cảnh khó khăn hơn, kẻ địch mạnh hơn, mà tổ tiên ta, với sự lãnh đạo của ông Trần Quốc Tuấn, đã đánh thắng nhà Nguyên, đã để lại cho chúng ta một nước tự do, độc lập. Thì ngày nay, chúng ta quyết noi theo tinh thần quật khởi ấy, quyết đánh tan giặc Pháp, quyết tranh lại thống nhất và độc lập thực sự cho Tổ quốc ta...”44. Bác còn căn dặn: “Luyện tập thân thể cho mạnh mẽ. Nghiên cứu kỹ thuật cho thông thạo. Trau dồi tinh thần cho vững chắc. Hun đúc đạo đức của người quân nhân cách mạng cho vững vàng...”45.

Ngày 09/11/1950, từ Chiến khu Việt Bắc, Bác gửi điện cho dòng họ “Nguyễn Sinh” sau khi nhận được tin anh trai là ông Nguyễn Sinh Khiêm đã qua đời tại quê nhà. Toàn văn bức điện viết: “Gửi họ Nguyễn Sinh. Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu. Than ôi! Tôi chịu tội “bất đệ” trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”46.

Ngày 09/11/1964, đến thăm Trung đoàn Không quân 921 (Đoàn Không quân Sao Đỏ) bảo vệ bầu trời Thủ đô, Bác huấn thị: “Tổ tiên ta ngày xưa đã có những chiến công oanh liệt trên sông, trên biển như Bạch Đằng, Hàm Tử; trên bộ như Chi Lăng, Vạn Kiếp, Đống Đa. Ngày nay, chúng ta phải mở mặt trận trên không thắng lợi. Trách nhiệm ấy trước hết là của các chú... Nghệ thuật đánh địch của Việt Nam rất độc đáo. Vũ khí trong tay người Việt Nam dù thô sơ cũng giành được hiệu suất cao. Phải phát huy cách đánh truyền thống của ta. Không ngại không quân địch hiện đại. Hãy bắt chước chiến sỹ, đồng bào miền Nam, nắm thắt lưng địch mà đánh”47.

Ngày 10/11

“Quyết rỏ đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ cho sự tự do”.

Ngày 10/11/1945, dự “Ngày Phụ nữ ủng hộ Nam bộ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Huy chương Vàng cho bà Vương Thị Lai (hiệu Lợi Quyền) là người đi đầu cuộc vận động quyên góp trong “Tuần lễ Vàng”. Bác biểu dương: “Bà Vương Thị Lai là đại biểu của lòng hăng hái và hy sinh cho tất cả phụ nữ Việt Nam”48 và còn gửi một tấm chân dung của mình tặng cho ông Nguyễn Sơn Hà ở Hải Phòng là người quyên góp nhiều thứ hai cho Quỹ Quốc phòng.

Tháng 11/1945, trong điện mừng lãnh tụ các đảng phái vừa giành được thắng lợi trong cuộc tuyển cử ở Pháp, Bác khẳng định lập trường: “Tôi lấy làm tiếc rằng, trong tình thế này, Chính phủ Pháp còn muốn khuyến khích bọn thực dân nhờ quân đội Anh giúp sức, gây nên những cuộc đổ máu tại Nam Bộ Đông Dương và tàn sát lương dân để mưu đặt lại sự đô hộ Pháp. Nhân danh cho những lý tưởng tự do, bình đẳng và bác ái, khẩu hiệu của nước Pháp Cộng hòa và nhân danh chính sách hòa bình của Liên hợp quốc, tôi kêu gọi các ngài và xin các ngài xét đoán đến những hành động bất công ấy... Nếu nước Pháp chịu thừa nhận nền độc lập của Việt Nam, dân chúng Việt Nam sẽ hết sức hòa hảo với nước Pháp. Trái lại thế, dân chúng Việt Nam quyết rỏ đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ cho sự tự do”49.

Ngày 10/11/1946, đến thăm chùa Thầy gần Hà Nội, hỏi thăm nhân dân và được biết năm nay được mùa, Bác căn dặn: “Lúa tốt thì dân được no. Nhưng phải biết tiết kiệm. Trước đây ta mất nước nên bị mù chữ, bây giờ nước nhà độc lập, dân phải lo học hành và phải nhớ đoàn kết, đại đoàn kết, sản xuất tốt, công tác tốt và bảo vệ thắng cảnh”50. Cùng ngày, Bác dự “Ngày Thanh niên quốc tế” và phát biểu: “Trong thanh niên còn có rất nhiều người yếu ớt, cán bộ, học sinh của Trường thể dục phải làm cho toàn thể đồng bào cùng khỏe, phải phổ thông hóa, đại chúng hóa, dân chủ hóa thể dục”51.

Ngày 10/11/1947, Bác viết “Thư gửi ông Giám đốc và toàn thể nam nữ giáo viên Bình dân học vụ Khu III” khen ngợi tỉnh Hải Dương có 6 làng toàn dân biết chữ, “đồng thời tôi mong rằng các lớp bình dân học vụ chẳng những dạy cho đồng bào học chữ, làm tính mà dạy thêm về công cuộc kháng chiến, cứu nước, tăng gia sản xuất, giúp mùa đông binh sĩ, giúp đồng bào tản cư, khoa học thường thức”52.

Ngày 10/11/1949, Bác viết “Thư khen các nhân viên và cơ quan quân, dân, chính đã đánh thắng giặc lụt”: “Đó là một thắng lợi bộ phận trong thắng lợi chung của toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến... Với sức đoàn kết và thi đua, chúng ta đã đánh thắng giặc lụt, thì cũng với sức đoàn kết và thi đua, chúng ta quyết đánh tan giặc thực dân”53.

Ngày 10/11/1951, Bác viết “Thư gửi đồng bào và bộ đội Tả ngạn Liên khu III” biểu dương những trận đánh chống càn thắng lợi và nhắc nhở: “Trường kỳ kháng chiến nhất định gian khổ và nhất định thắng lợi... Cán bộ và bộ đội nhất định phải đi sát với nhân dân vì lực lượng của nhân dân là vô cùng mạnh mẽ... Chúng ta quyết chiến quyết thắng, nhưng tuyệt đối không được chủ quan khinh địch...”54.

Ngày 10/11/1968, Bác nghe các đồng chí Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh từ chiến trường miền Nam ra báo cáo và được mời lưu lại dùng cơm với Bác.

Ban Biên tập (tổng hợp)
Còn nữa

Chú thích:

26. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 261.
27. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 113.
28, 29. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 304.
30. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 312-313.
31. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 435.
32. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 388.
33. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 375-376.
34. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 635.
35. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 10, tr. 273.
36,37. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 94, 436.
38 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 365.
39. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 261.
40. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 486.
41. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 162.
42. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 410.
43. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 440.
44,45. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 707, 708.
46 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 114.
47 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 9, tr. 141.
48. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 72.
49. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 97-98.
50,51. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 367-368.
52,53. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 307, 709.
54. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6. tr. 329-330.


Ngày 11/11

"Hồ Chí Minh chỉ muốn hòa bình".

Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu với nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản là theo dõi phong trào nông dân Trung Quốc và tham gia phái đoàn của Cố vấn Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng, đồng thời, cũng là cơ hội để Nguyễn Ái Quốc (với bí danh Lý Thụy) tập hợp các lực lượng thanh niên Việt Nam yêu nước đang có mặt tại đây.

Ngày 11/11/1942, trong nhà tù ở Quảng Tây, Lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ có đầu đề “Song thập nhất (Ngày 11 tháng 11) cảm nhận về tình hình thế giới trong đó có đoạn:

"... Kháng Nhật, cờ bay khắp Á Châu,

Cờ to, cờ nhỏ chẳng đều nhau,

Cờ to đã hẳn là nên có,

Cờ nhỏ dù sao thiếu được đâu”55.

(bản dịch của Nam Trân)

Ngày 11/11/1949, từ Chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ điện cho Đại diện Thông tấn xã Việt Nam ở Băng Cốc: “Hồ Chủ tịch gửi lời chúc mừng bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã trở về Tổ quốc”56. Là một nhà trí thức được đào tạo tại Nhật Bản, bác sĩ Ngữ đã tìm đường trở về nước, có nhiều cống hiến trong cả hai cuộc kháng chiến và đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.

Ngày 11/11/1950, Báo Cứu Quốc đăng “Thư gửi các bạn nam nữ Pháp đấu tranh cho hòa bình”, trong đó Bác nêu rõ: “... Không phân biệt nam nữ, trẻ già, thợ thuyền, nông dân hay trí thức, các bạn đã đoàn kết để cùng góp phần cố gắng và quyết tâm của mình, chúng tôi kính phục theo dõi các bạn... Tất cả chúng ta đều gắng sức theo đuổi một mục đích, nhất định những cố gắng của chúng ta chẳng bao lâu sẽ đưa bọn đế quốc đến chỗ thất bại hoàn toàn”57.

Ngày 11/11/1953, Báo Cứu Quốc đăng bài “Bà mẹ anh hùng” biểu dương các gia đình có từ 3 đến 5 con đi bộ đội được Chính phủ tôn vinh, với trường hợp một bà mẹ ở Việt Bắc có 9 con đi bộ đội, Bác tặng câu thơ:

“Cả nhà kháng chiến,

Muôn thuở rạng danh,

Nêu gương dân tộc,

Việt Nam quang vinh”58.

Cùng ngày, Bác còn cho đăng bài “Đội Thanh niên xung phong” trên Báo Nhân Dân xác định: “Đã là một trường đào tạo thanh niên bằng những công việc thiết thực... Chúng ta cần củng cố và phát triển Đội Thanh niên xung phong để bảo đảm thêm công việc kháng chiến và đào tạo cán bộ sau này”59.

Ngày 11/11/1954, trả lời phỏng vấn của Hãng thông tấn Pháp (AFP) về quan hệ Việt - Pháp sau chiến tranh, Bác vạch rõ: “Cơ sở và phương pháp tốt nhất cho việc phát triển mối quan hệ Việt - Pháp là sự hiểu biết, lòng trung thực, tin cậy lẫn nhau; bình đẳng, hai bên đều có lợi theo nguyên tắc có đi có lại”60 và cũng khẳng định: “Nhân dân Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ hoạt động không ngừng để thực hiện thống nhất đất nước theo phương pháp hoàn toàn phù hợp với Hiệp định Giơnevơ”61.

Ngày 11/11/1965, tiếp hai nhà khoa học là phái viên của Bộ trưởng Ngoại giao Italia đến nước ta để tìm giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, Bác nói: “Chúng tôi sẵn sàng trải thảm đỏ và rắc hoa cho Mỹ rút. Nhưng nếu Mỹ không rút thì phải đánh đuổi Mỹ đi... Nhờ ông nói với Tổng thống Giônxơn hoặc Mắc Namara hoặc thông qua ông Phanphani (Bộ trưởng Ngoại giao Italia) mà nói với họ rằng: Hồ Chí Minh chỉ muốn hòa bình... Mỹ phải rút khỏi Việt Nam rồi Tổng thống Giônxơn đến đây nói chuyện cũng được, hoặc ông ta có mời tôi đến Oasinhtơn tôi cũng sẵn sàng! Nhưng trước hết Mỹ phải để chúng tôi yên. Mỹ phải chấm dứt chiến tranh!”62.

Ngày 12/11

“Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay”.

Ngày 12/11/1924, từ Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc gửi ba bức thư về Mátxcơva tới địa chỉ của Quốc tế Cộng sản, Ban Biên tập báo Rabốtnhitxa và Tổng thư ký Quốc tế Nông dân, trong đó báo tin đã tới làm việc tại Văn phòng của Bôrôđin - Cố vấn của Chính phủ Xô viết bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn. Thư cũng báo cáo về tình hình chính trị và xã hội Trung Quốc và đề nghị được thường xuyên cộng tác với tờ báo Rabốtnhitxa bằng loạt bài viết “Thư từ Trung Quốc”. Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm đến vấn đề tuyên truyền đối với phụ nữ, một lực lượng đông đảo và nhiều cảm tình với Cách mạng Nga: “Cách mạng Nga đã làm cho những người phụ nữ Trung Quốc hiểu rằng phụ nữ cũng phải có quyền sống và làm việc và để giành được quyền đó “chúng tôi cũng phải đấu tranh như những đàn ông và cùng với đàn ông chống lại những kẻ bóc lột chúng tôi”... Người ta chưa bao giờ thấy phấn khởi nhiều như thế trong phụ nữ chúng tôi. Đó thật sự đã là cuộc cách mạng nhỏ!”63.

Ngày 12/11/1942, tại nhà ngục Nam Ninh (Trung Quốc), Hồ Chí Minh làm những bài thơ nói về tình cảnh gian khổ và ý chí của một người tù nuôi chí lớn, ví như, bài “Chiết tự” theo bản dịch của Nam Trân:

“Người thoát khỏi tù ra dựng nước,

Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;

Người biết lo âu, ưu điểm lớn,

Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!”64.

Ngày 12/11/1945, nhân kỷ niệm Ngày sinh của Tôn Trung Sơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Hoa - Việt thân thiện” đăng trên Báo Cứu Quốc để xác định: “Nhân dịp ngày kỷ niệm cách mệnh đạo sư Tôn Trung Sơn, tôi muốn nhắc lại chính sách của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với anh em Hoa kiều. Trung Quốc với Việt Nam là hai nước anh em. Mối quan hệ rất là mật thiết. Văn hóa, lịch sử, chính trị, kinh tế, hai dân tộc quan hệ với nhau đã mấy nghìn năm... phải mật thiết đoàn kết để làm cho thực hiện chữ Hoa - Việt thân thiện. Thế mới xứng đáng là tín đồ của Tôn Trung Sơn tiên sinh”65.

Tháng 11/1950, được tin một số đông binh sĩ Pháp từ Đông Dương về nước đã thành lập một tổ chức đòi hồi hương những anh em còn phải ở lại đánh nhau với nhân dân Việt Nam, Bác Hồ đã gửi thư, trong đó có đoạn: “Nhân dân Việt Nam rất biết ơn sự cố gắng của các bạn cũng như đã biết ơn sự cố gắng của những bà mẹ và những người lao động Pháp. Nhìn vào hành động của các bạn, nhân dân Việt Nam thấy rằng mình có hàng triệu người bạn trung thành ở ngay nước Pháp. Họ đã không bao giờ nhầm lẫn bọn đế quốc Pháp với nhân dân Pháp mà họ muốn thắt chặt thêm mối dây thân hữu”66.

Ngày 12/11/1959, tham dự Hội nghị mở rộng của Trung ương Đảng bàn về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Bác nêu ý kiến: Trong tính toán phải nhìn xa và thấy gần, nếu chỉ nhìn xa thì sẽ vấp. Bác cũng xác định: “Nông nghiệp là chính, chẳng những ở ta mà các nước khác cũng thế. Ta tiến lên phải từ gốc mà tiến lên. Nông nghiệp cơ giới hóa nhưng phải chú ý cải tiến kỹ thuật, không được quên. Công nghiệp nhẹ, nặng phải phục vụ nông nghiệp, không nên tách rời ba cái đó ra... Nói cho rõ việc tăng năng suất lao động và cải thiện dân sinh”67.

Ngày 12/11/1964, Báo Nhân Dân đăng bài “Uy danh lừng lẫy khắp năm châu” của Bác biểu dương chiến công của các lực lượng vũ trang cách mạng đã tấn công sân bay Biên Hòa vào ngày 31/10/1964. Bài báo cảnh tỉnh: "Nếu muốn tránh thất bại nhục nhã như ở Điện Biên Phủ thì Mỹ chỉ có một cách là chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam, rút ngay quân đội của chúng về nước mẹ, để nhân dân miền Nam giải quyết công việc nội bộ của họ... Vậy có thơ rằng:

Uy danh lừng lẫy khắp năm châu,

Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu,

Thành đồng trống thắng lay Lầu trắng,

Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu!"68

Ngày 13/11

“Học càng nhiều, biết càng nhiều càng tốt”.

Ngày 13/11/1926, từ Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đăng bài đầu tiên trong loạt bài “Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi” gửi về cho tờ L’ Annam” ở trong nước. Đây là tờ báo ra bằng tiếng Pháp tại Sài Gòn do Luật sư Phan Văn Trường, một người cùng hoạt động với Nguyễn Ái Quốc khi ở Pháp, sáng lập. Tuy nội dung chỉ đề cập tình hình Trung Quốc nhưng nó tác động tích cực vào đời sống chính trị trong nước cũng đang biến chuyển mạnh mẽ.

Ngày 13/11/1942, trong nhà ngục Nam Ninh (Trung Quốc), Hồ Chí Minh làm bài thơ “Tảo tình” (Nắng sớm), theo bản dịch của Huệ Chi:

“Nắng sớm xuyên qua nơi ngục thất,

Đốt tan khói đặc với sương dày;

Đất trời phút chốc tràn sinh khí,

Tù phạm cười tươi nở mặt mày”69.

Ngày 13/11/1945, tại cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, Bác phát biểu về công tác thanh tra: “Các Bộ trưởng có thể chia nhau mỗi người đi thanh tra một khu gần Hà Nội, Bộ Nội vụ sẽ khảo cứu và lập một chương trình về việc này. Có nhiều việc thụt két ở một vài công sở. Mỗi Bộ có trách nhiệm điều tra và đề nghị với Chính phủ nghiêm trị những người làm bậy”70.

Ngày 13/11/1947, trong “Thư gửi đồng bào xã Duyên Trang, huyện Tiên Hưng, Thái Bình” khen ngợi về thành tích toàn dân trong xã từ 8 tuổi trở lên đều thoát nạn mù chữ, Bác căn dặn: “Học hành là vô cùng. Học càng nhiều biết càng nhiều càng tốt... đồng bào trong xã gắng học thêm thường thức như làm tính, lịch sử, địa dư, chính trị, vệ sinh. Đồng thời cố gắng tăng gia sản xuất ủng hộ kháng chiến”71.

Ngày 13/11/1948, trong lá thư gửi cụ Hoàng Hữu Kiệt và các cụ trong Tỉnh hội Cứu quốc Quảng Trị, Bác Hồ biểu dương: “Các cụ đã tuổi cao tóc bạc, mà vẫn hăng hái tham gia kháng chiến. Thật là xứng đáng với bô lão đời nhà Trần. Thật là lão đương ích tráng. Một dân tộc mà già trẻ một lòng, kiên quyết như dân ta thì kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất và độc lập nhất định thành công...”72.

Ngày 13/11/1962, đến với bộ đội Hải quân tại căn cứ Vạn Hoa (Quảng Ninh), sau khi kể chuyện danh tướng Trần Khánh Dư dùng mưu đánh chiếm đoàn quân lương của nhà Nguyên Mông, Bác căn dặn: “Là chiến sỹ hải quân, các chú phải biết yêu quý đảo như nhà mình, chịu khó cải tạo xây dựng thành những mảnh đất vừa giàu, vừa đẹp, vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho đất nước”73.

Ngày 13/11/1967, Bác gửi thư khen Trung đội nữ dân quân xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa đã bắn rơi một máy bay phản lực Mỹ, với lời khen tặng: “Các cháu càng làm rạng rỡ thêm truyền thống của phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảm đang”74.

Ngày 14/11

"Kiến thiết thì phải có nhân tài”.

Ngày 14/11/1942, tại nhà ngục Nam Ninh (Trung Quốc), Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ chữ Hán có nhan đề: “Việt hữu tao động” (Việt Nam có bạo động) gửi gắm ý chí của một nhà cách mạng đang bị hãm trong tù. Bản dịch của Nam Trân:

“Thà chết chẳng cam nô lệ mãi,

Tung bay cờ nghĩa khắp trăm miền;

Xót mình giam hãm trong tù ngục,

Chưa được xông ra giữa trận tiền”75.

Ngày 14/11/1945, Báo Cứu Quốc đăng bài “Nhân tài và Kiến quốc” ký tên Hồ Chí Minh với lời kêu gọi: “Sau 80 năm bị bọn Pháp thực dân giày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có lòng sốt sắng của dân là rất cao. Nay muốn giữ vững nền độc lập thì chúng ta phải đem hết lòng hăng hái đó vào con đường kiến quốc... Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều... Vậy chúng tôi mong rằng đồng bào ta ai có tài năng và sáng kiến về những công việc đó, lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay”76.

Ngày 14/11/1950, Bác gửi công điện cho đồng bào Sơn Hà (Quảng Ngãi) sau vụ biến loạn ở địa phương có một phần nguyên nhân do cán bộ làm sai. Bác khuyên đồng bào “mau mau tỉnh ngộ, trở về yên phận làm ăn, chớ nghe lời giặc lừa phỉnh”77 và “rất mong đồng bào nghe lời thân ái đoàn kết của tôi, mau mau quay về với Chính phủ... Nếu cán bộ địa phương có điều gì sai lầm, nếu đồng bào có việc gì oan ức, thì đồng bào phái đại biểu đến trình bày với tôi và Chính phủ… Tôi bảo đảm rằng tôi và Chính phủ sẽ trừng trị những cán bộ có lỗi, và sẽ làm cho đồng bào khỏi oan ức”78. Còn trong một bức điện mật gửi chính quyền và các đoàn thể Nam Trung bộ, Bác chỉ thị: “Phải dùng phê bình và tự phê bình, từ trên xuống, từ dưới lên, kiên quyết sửa chữa cho kỳ sạch”79.

Ngày 14 và 15/11/1965, Báo Nhân Dân đăng bài viết “Nhân dân và dư luận Nhật Bản nhiệt liệt ủng hộ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta”. Sau khi trích giới thiệu nhiều bài báo ở Nhật Bản lên tiếng tố cáo cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và bày tỏ sự ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, Bác viết: “Tôi xin phép thay mặt đồng bào ta cảm ơn sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân và dư luận nước Nhật Bản đối với cuộc chống Mỹ, cứu nước của chúng ta... Nhân dân ta từ Nam đến Bắc đoàn kết một lòng, kiên quyết chống Mỹ, cứu nước. Chúng ta lại được nhân dân và dư luận thế giới - trong đó có nhân dân và dư luận Nhật Bản nhiệt liệt ủng hộ và đồng tình... Cho nên giặc Mỹ nhất định sẽ thua, nhân dân ta nhất định sẽ thắng”80.

Ngày 14/11/1966, dự họp Bộ Chính trị thảo luận một số vấn đề quân sự và ngoại giao, Bác lưu ý: “Khi tuyên bố công khai về chủ trương vừa đánh vừa đàm, phải chú ý đến quan hệ của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc”81.

Ngày 14/11/1968, Bác tiếp Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ trước khi lên đường sang Pari dự cuộc đàm phán với Mỹ về việc chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Ngày 15/11

“Danh lợi dễ làm hư người”.

Ngày 15/11/1919, diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Ái Quốc với Pie Pátxkie (Pierre Pasquier), quan chức Bộ Thuộc địa Pháp (sau trở thành Toàn quyền Đông Dương) nhằm tham khảo ý kiến về việc xây dựng ngôi đền kỷ niệm những người Đông Dương chết trận trong Đại chiến I. Nguyễn Ái Quốc khuyến nghị nên quan tâm đến đời sống vợ con của những người chết trận và đặt thẳng vấn đề: “Mỹ sau 10 năm đã cho Philippin tự trị, Nhật vừa cho Triều Tiên tự trị sau 14 năm. Sao Pháp chưa làm gì cho Đông Dương?”82.

Ngày 15/11/1921, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Hội Liên minh Nhân quyền Pháp trong đã đưa ra 7 yêu cầu cấp thiết đối với nhân dân Việt Nam lúc này là: Ân xá chính trị phạm, cải cách pháp luật, tự do báo chí và tự do ngôn luận, tự do lập hội và hội họp, tự do xuất dương, du lịch ở nước ngoài... và đề nghị Hội tích cực can thiệp đòi Chính phủ Pháp thực thi những yêu cầu này.

Ngày 15/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ tốt nghiệp Khóa V Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam và căn dặn các học viên: “Anh em phải hết sức nghe mệnh lệnh của Chính phủ, trong công việc phải làm cho dân yêu mến và siêng năng hăng hái, làm gương cho đồng bào”83. Cùng ngày, Bác dự Lễ khai giảng khóa đầu của Trường Đại học Việt Nam trên cơ sở tiếp thu Đại học Đông Dương.

Ngày 15/11/1946, Bác cảm ơn đồng bào đã nhiệt thành ủng hộ phong trào “Mùa Đông binh sĩ”: “Chiếc áo trấn thủ mà đồng bào sẽ gửi cho anh em binh sĩ, trong mùa rét này, chẳng những sẽ giúp anh em giữ được sức mạnh để bảo vệ đất nước, mà lại còn khiến anh em luôn luôn nhớ đến tình thân ái nồng nàn của đồng bào ở hậu phương84.

Ngày 15/11/1948, viết bài báo “Bệnh tự kiêu” đăng trên tờ “Sự Thật”, Bác yêu cầu: “Mỗi một người và tất cả mọi người chúng ta phải tẩy cho sạch bệnh tự kiêu, tự ái. Đó là hai thứ bệnh rất nguy hiểm cho đạo đức và công việc”85.

Ngày 15/11/1950, dự phiên họp của Chính phủ, nhân nói đến vụ án Trần Dụ Châu, Đại tá Giám đốc Nha Quân nhu bị tử hình vì tội tham ô... Bác phát biểu: “Về vụ Trần Dụ Châu, chúng ta phải chịu một phần trách nhiệm, chúng ta không có chính sách cán bộ đúng. Chúng ta sinh trưởng trong một xã hội lạc hậu, nhiễm thực dân phong kiến, xã hội cũ hám danh hám lợi, danh lợi dễ làm hư người... Bây giờ chúng ta dùng cán bộ để cải tạo xã hội mà không có chính sách cải tạo cán bộ, đó là khuyết điểm... Lúc tìm người phải tìm cả tài, cả đức, chú trọng tư tưởng. Nếu cán bộ biết thương dân, tiếc của dân thì không xảy ra việc đáng tiếc... Chúng ta hay nể nả. Mình chỉ biết mình thanh liêm là đủ. Quan niệm “thanh cao tự thủ” là không đủ... Phải mở cửa khuyến khích lãnh đạo tự phê bình và phê bình”86.

Ngày 15/11/1951, trong “Lời kêu gọi ngụy binh quay về với Tổ quốc”, Bác viết: "Tôi thiết tha kêu gọi các người mau mau quay về với Tổ quốc, các người sẽ được đối đãi tử tế.

Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Con Hồng cháu Lạc phải thương nhau cùng”87.

Ngày 15/11/1959, trong bài “Cần Kiệm” trên Báo Nhân Dân, Bác phân tích: “Cần để nâng cao không ngừng năng suất lao động. Kiệm để tích trữ thêm vốn, mở rộng sản xuất. Kiệm mà không Cần thì cũng vô ích. Cần mà không Kiệm thì tay không lại hoàn tay không”88.

Ngày 16/11

“Ai cũng muốn sống tự do”.

Ngày 16/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội đồng Chính phủ bàn về các vấn đề liên quan đến bầu cử, vấn đề khuyến nông và tư pháp. Bác đề nghị Chính phủ ra thông báo nói rõ ai cũng có quyền ứng cử, dù ở đảng phái nào hay không đảng phái.

Ngày 16/11/1946, tham dự lễ khai mạc “Xung phong Mùa Đông binh sỹ”, Bác đã phát biểu: “Nước ta được giải phóng là nhờ có xương máu của toàn dân và xương máu của các chiến sỹ đã hy sinh nơi tiền tuyến. Trong lúc ở hậu phương chúng ta có gia đình ấm áp, thì ở tiền phương, các binh sỹ đang phải chịu rét mướt. Vậy nên toàn quốc đồng bào ai cũng có bổn phận góp phần vào cuộc vận động Mùa Đông binh sĩ. Một nước mà toàn thể đồng bào đoàn kết như thế, không một sức mạnh nào có thể thắng được và nhất định chúng ta phải được độc lập và thống nhất”89. Bác đã hiến hai chiếc áo của mình để gửi các chiến sỹ ngoài mặt trận.

Cùng ngày, Bác họp báo trả lời những vấn đề thời sự. Về kết quả bầu cử tại nước Pháp, Bác khẳng định: “Dù là phái hữu thắng hay phái tả thắng, nhân dân Pháp bao giờ cùng vẫn như trước: Nghĩa là ủng hộ nền độc lập và thống nhất của Việt Nam... Còn dân Việt Nam, thì dù phái hữu thắng hay phái tả thắng trong cuộc tuyển cử ở Pháp, dân Việt Nam cũng phải đòi cho được độc lập và thống nhất, tuy vẫn ở trong Khối Liên hiệp Pháp”90. Về chủ trương Liên bang Đông Dương do Pháp đưa ra, Bác trả lời: “Để làm thành một cái gì giam trói, ràng buộc quyền tự do, quyền sinh hoạt của chúng tôi, nhất định không thể xong được. Bởi vì ai cũng muốn sống tự do. Và không ai nên tìm cách lừa bịp lẫn nhau”91.

Ngày 16/11/1953, Báo Nhân Dân đăng bài thơ của Bác có nhan đề: “Kế hoạch Nava, đầu voi đuôi chó” biểu dương quân và dân Ninh Bình, Thanh Hóa chống càn thắng lợi và nhắc nhở:

“Quân dân ta anh dũng

Đánh cho giặc phải tan

Đuổi chúng khỏi Nho Quan

Ngăn chúng vào Thanh Hóa

20 ngày ròng rã

Diệt chúng gần 4 ngàn,

Kế hoạch Nava tan

Thành đầu voi đuôi chó.

Tuy vậy

Kẻ thù đang còn đó,

Chó dại sẽ cắn càn

Chúng ta chớ chủ quan

Chúng ta chớ khinh địch

Giặc có thể đột kích

Chúng ta phải đề phòng

Quân dân đoàn kết một lòng,

Kháng chiến thắng lợi, cờ hồng tung bay”92.

Ngày 16/11/1954, dự họp Bộ Chính trị bàn về thi hành Hiệp nghị Giơnevơ, Bác gợi ý về phương châm đấu tranh: “Cần huy động các đoàn thể nhân dân, kể cả những người công giáo tiến bộ ở Pháp... Đấu tranh phải có sự kết hợp giữa quần chúng và các đoàn thể. Đấu tranh phải liên tục, phải có mục tiêu cụ thể. Đấu tranh phải có hợp tác, trong hợp tác có phân công phù hợp vói từng ngành, từng người”93.

Ngày 16/11/1959, phát biểu tại Hội nghị Ban Bí thư thảo luận về quy hoạch thành phố Hà Nội, Bác căn dặn: “Trong thiết kế phải đồng bộ (đường sá, hệ thống thoát nước, lưới điện...), tránh cản trở sự đi lại của nhân dân; phải có quy hoạch trước, tránh làm rồi lại phá đi và phải thực hiện nhanh, nhiều, tốt, rẻ”94 và “lưu ý đặc biệt đến sự trợ giúp của các nước anh em”95.

Ngày 16/11/1967, Bác gửi thư khen và tặng Huy hiệu cho các chiến sỹ thuộc Trung đội nữ dân quân xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình đã bắn rơi tại chỗ một máy bay phản lực Mỹ.

Ngày 17/11

“Chân thành cảm ơn nhân dân Mỹ”.

Ngày 17/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội đồng Chính phủ nghe báo cáo kế hoạch của Bộ Canh nông, thảo luận về tổ chức và quyền hạn của các Ủy ban nhân dân, việc công bố bản dịch tiếng Pháp văn bản Dự thảo Hiến pháp. Buổi tối, Bác đến thăm cuộc họp trại của Hướng đạo sinh Việt Nam tổ chức tại Khu Việt Nam Học xá nhân kỷ niệm 15 năm Ngày thành lập tổ chức này.

Ngày 17/11/1946, Bác đi thăm tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Tại hai địa phương này, Bác đã thăm các linh mục người Pháp, động viên các nhà hoạt động tôn giáo gìn giữ hòa khí đoàn kết lương giáo. Bác còn thăm nhiều trường học, bà con Hoa kiều và đến thăm hai làng Phù Lưu và Đình Bảng là địa điểm dự phòng cho kỳ họp thứ 2 của Quốc hội giữa lúc nguy cơ bùng nổ chiến tranh đang đến gần. Cùng ngày, Bác gửi Thông điệp tới Cao ủy Pháp ở Sài Gòn, một lần nữa khẳng định: Nam bộ là đất của Việt Nam phù hợp với Tạm ước 14/9 và mong muốn các giải pháp thương lượng hòa bình, tránh dùng vũ lực trong quan hệ Việt - Pháp.

Ngày 17/11/1948, Bác khai mạc phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Nhật ký Bộ trưởng Lê Văn Hiến ghi chép: Có mặt trên 20 vị. Cụ Phạm Bá Trực thay cho cụ Bùi Bằng Đoàn đại diện Quốc hội. Từ sáng đến 12 giờ đêm, Hội đồng bàn gần 50 vấn đề... Hội đồng họp xong, Hồ Chủ tịch ra về ngay, mặc dầu đêm đã khuya và rét mướt. Trước khi ra đi, Cụ dặn ai nấy sáng mai đều phải phân tán ngay. Có tin Pháp tấn công Việt Bắc trong hạ tuần tháng 11 này.

Ngày 17/11/1950, Bác viết “Thư gửi Hội nghị Hòa bình ở Việt Nam” nhân sự kiện thành lập Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam. Thư khẳng định: “Nhân dân Việt Nam ta cũng như nhân dân các nước trên thế giới đều yêu chuộng hòa bình, để xây dựng một xã hội dân chủ tốt đẹp... Muốn giữ gìn hòa bình một cách thiết thực thì phải ra sức chống đế quốc chủ nghĩa”96 và cuộc kháng chiến của Việt Nam “là chúng ta đang chặt cái gốc chiến tranh đế quốc, đang giúp sức bảo vệ hòa bình”97. Vì vậy, nhiệm vụ của mọi người là “đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ toàn dân Việt Nam, để kháng chiến lâu dài, để đánh tan bọn thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ”98 .

Cùng ngày, Bác ký rất nhiều sắc lệnh liên quan đến nhiều lĩnh vực của công cuộc kháng chiến và kiến quốc, đáng chú ý là sắc lệnh thành lập trong Bộ Giáo dục một Vụ Văn học và Nghệ thuật gồm các ngành văn hóa (văn, sử, địa, triết học, kinh tế, ngôn ngữ, văn tự) và các ngành nghệ thuật (âm nhạc, ca kịch, hội họa, kiến trúc). Văn bản này là tiền đề cho sự ra đời nhiều cơ quan quản lý và tổ chức nghề nghiệp sẽ hình thành, thúc đẩy sự phát triển văn học nghệ thuật và khoa học xã hội nhân văn trong bối cảnh cuộc kháng chiến còn đang vô cùng gian khổ.

Ngày 17/11/1953, trong bài báo “Tinh thần quân lính Mỹ” với bút danh “Đ.X” đăng trên Báo Cứu Quốc, Bác phân tích tinh thần lính Mỹ khi tham gia các cuộc chiến tranh can thiệp ở nước ngoài thường gặp những khủng hoảng về mục tiêu chiến đấu dẫn đến tinh thần bất mãn, phản chiến, để đi đến nhận định: “Chỉ có quân đội cách mạng mới có tinh thần quyết chiến quyết thắng, mới được nhân dân kính trọng và tin yêu”99 .

Ngày 17/11/1954, tham dự họp Bộ Chính trị thảo luận đề án chuẩn bị cho việc thực hiện hiệp thương, tổng tuyển cử theo tinh thần của Hội nghị Giơnevơ. Phân tích tình hình thực tế, Bác yêu cầu phải nghiên cứu kỹ để có những chính sách phù hợp đối với các tôn giáo.

Ngày 17/11/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư trả lời giáo sư Lainet Pôlinh của Mỹ, người đã chuyển bản Tuyên bố của 8 nhà trí thức đã được Giải thưởng Nôben về Hòa bình. Bức thư cảm ơn nhân dân Mỹ đã kiên quyết đấu tranh đòi Chính phủ Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Bức thư cũng xác tín: “Hòa bình thật sự quyết không thể tách rời tự do và độc lập thật sự của dân tộc... Sự xâm lược của Mỹ là nguồn gốc duy nhất, là nguyên nhân trực tiếp của tình hình nghiêm trọng hiện nay ở Việt Nam... Nhân dân chúng tôi đánh giá cao những cuộc đấu tranh ấy của nhân dân Mỹ và rất xúc động trước những tấm gương anh dũng hy sinh của bà cụ Henga Hécdơ cũng như của các chiến sĩ hòa bình Noman Morixơn, Rôgiơ Lapotơ và chị Xilin Giancaoxki gần đây (là tên những người Mỹ đã hy sinh khi đấu tranh ủng hộ Việt Nam). Nhân dịp này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn nhân dân Mỹ đang kiên quyết đấu tranh đòi Chính phủ Mỹ chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và xin gửi đến gia đình các liệt sỹ tấm lòng thương yêu, cảm phục của nhân dân Việt Nam chúng tôi”100.

 Ban Biên tập (tổng hợp)
Còn nữa

Chú thích:

55. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 353.
56. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 365.
57. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 115.
58,59,60,61. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 390, 391, 521.

62. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t.9, tr. 311-312.
63. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 1, tr. 298.
64. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 356.
65. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 95-96.
66. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 121-122.
67. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 7, tr. 365-366.
68. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 340.
69. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 358.
70. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 75.
71. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309.
72. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 255.
73. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 310.
74. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 10, tr. 143.
75. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 359.
76. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, t. 99.
77,78,79. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 117, 118.
80 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 540.
81 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 9, tr. 483.
82. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 1, tr. 74.
83. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 75.
84. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 369.
85. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 515.
86. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 481-482.
87. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 333.
88. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 549.
89. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 370.
90,91. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 446, 448.
92 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 164-165.
93. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 523-524.
94,95. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 7, tr. 368.
96,97,98. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 123.
99 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 394.
100. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 543-544. 


 

Ngày 18-11

“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”

Ngày 18-11-1939, Nguyễn Ái Quốc với bí danh là Hồ Quang trở lại Quý Dương (Trung Quốc), một lần nữa tìm cách liên hệ với các đồng chí từ trong nước sang và tìm đường trở về Tổ quốc.

Ngày 18-11-1942, trên đường bị giải từ Nam Ninh tới huyện Vũ Minh (Trung Quốc), Hồ Chí Minh làm bài thơ “Giải vãng Vũ Minh” (Giải đi Vũ Minh - bản dịch của Văn Trực và Văn Phụng):

“Đã giải đến Nam Ninh,

Lại giải về Vũ Minh;

Giải đi quanh quẹo mãi,

Kéo dài cả hành trình.

Bất bình!”(101).

Khoảng giữa tháng 11-1943, để thâm nhập vào phong trào người Việt ở hải ngoại nhằm ứng phó với ý đồ “Hoa quân nhập Việt”, lại được Tư lệnh Đệ tứ Chiến khu của Trung Quốc Trương Phát Khuê ủng hộ, Hồ Chí Minh nhận chức Phó Chủ tịch của Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội do Nguyễn Hải Thần đứng đầu.

Ngày 18-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu Nam Trung bộ và Tây Nguyên vừa ra Thủ đô và bày tỏ mối quan tâm của Chính phủ đối với miền Trung và cao nguyên. Cùng ngày, Bác gặp đại diện của Pháp để tìm giải pháp tháo gỡ những căng thẳng đang có nguy cơ bùng nổ chiến tranh.

Tháng 11-1950, nhân dịp nhà báo Lêô Phighe (Leo Fiueres), đại diện Đảng Cộng sản Pháp sang thăm vùng kháng chiến trở về nước, Bác viết “Thư gửi các bà mẹ và vợ Pháp có con và chồng chết trận ở Việt Nam” thông báo chủ trương nhân đạo của Chính phủ Việt Nam đối với phần mộ của những binh sĩ Pháp chết trận tại Việt Nam là “chúng tôi tự coi có bổn phận thiêng liêng phải giữ gìn nguyên vẹn để sau này, khi chiến tranh chấm dứt, các bà có thể mang hài cốt của chồng con mình về quê cha đất tổ”(102) và “mong rằng có thể làm dịu nhiều những nỗi đau khổ của các bà”(103).

Ngày 18-11-1954, trả lời phỏng vấn của báo Pháp “Regards” (Nhìn Xem) Bác khẳng định quan điểm “muốn lập lại quan hệ với Pháp về kinh tế, văn hóa nhưng bình đẳng, hai bên cùng có lợi và thân thiện”(104).

Ngày 18-11-1965, Bác tiếp hai vợ chồng nhà báo Anh Phêlích Gơrin để giải thích lập trường của Việt Nam trước đề nghị thương lượng của phía Mỹ và khẳng định lập trường: “Nhân dân Việt Nam rất muốn có hòa bình để xây dựng đất nước. Nhưng muốn có hòa bình thật sự thì phải có độc lập thật sự... Luận điệu cho rằng miền Nam của Tổ quốc chúng tôi là “một nước láng giềng” riêng biệt với miền Bắc là một luận điệu gian trá. Cũng như nói rằng những bang ở phía Nam là một nước riêng biệt với những bang phía Bắc của Hoa Kỳ... Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Là đồng bào ruột thịt, nhân dân miền Bắc nhất định hết lòng hết sức ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước, chống Mỹ của đồng bào miền Nam, cũng như nhân dân miền Nam hết lòng hết sức đấu tranh để góp phần bảo vệ miền Bắc của Tổ quốc mình... Cuộc chiến tranh xâm lược đó cũng đã bôi nhọ thanh danh nước Mỹ, xứ sở của Oasinhtơn và Linhcôn. Tôi muốn nói với nhân dân Mỹ ý chí của toàn dân Việt Nam kiên quyết chiến đấu chống bọn xâm lược Mỹ cho đến thắng lợi hoàn toàn. Nhưng đối với nhân dân Mỹ, chúng tôi tăng cường quan hệ hữu nghị”(105).

Cùng ngày, Bác cũng gửi thư cho hai nhân vật nổi tiếng là Bác sĩ Bengiamin Xpớc và Xtiuớt Hiugơ, Chủ tịch “Ủy ban Oasinhtơn đấu tranh cho một chính sách nguyên tử lành mạnh” để cảm ơn các lực lượng tiến bộ Mỹ tích cực đấu tranh chống chiến tranh và ủng hộ nguyện vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam.

Ngày 19-11

“Tôi là người học trò nhỏ của nhà văn Tônxtôi vĩ đại”

Ngày 19-11-1920, báo cáo của mật thám Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc dự cuộc họp của Chi bộ Đảng Xã hội Pháp ở Pari.

Ngày 19-11-1942, tại nơi giam giữ ở Vũ Minh (Trung Quốc), Hồ Chí Minh làm nhiều bài thơ, trong đó có bài “Trúc lộ phu” (Phu làm đường) nói lên tình cảnh của người tù. Theo bản dịch của Nam Trân: “Dãi gió, dầm mưa chẳng nghỉ ngơi,/ Phu đường vất vả lắm ai ơi!/ Ngựa xe, hành khách thường qua lại,/ Biết cảm ơn anh được mấy người?”(106) ...

Ngày 19-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp và thỏa thuận với lãnh tụ của một số đảng phái khác nhằm thắt chặt tinh thần đoàn kết chống thực dân và ủng hộ đồng bào Nam bộ.

Ngày 19-11-1954, dự họp Bộ Chính trị, khi bàn về các vấn đề tiếp nhận viện trợ của các nước bạn, Bác dặn Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Riêng đối với Trung Quốc, nên xem những cái gì thật cần thiết, phù hợp với hoàn cảnh nước ta, phục vụ cho nhu cầu ăn, mặc, ở và khôi phục kinh tế thì ta hãy xin. Còn những thứ không cần thiết như đồ dùng cho văn nghệ, sinh hoạt… thì ta tự sắm lấy...”(107).

Cùng ngày, Báo Nhân Dân đăng bài “Nhân dân với Quân đội” của Bác, nhấn mạnh: “Quân đội ta là quân đội của nhân dân, cho nên nhân dân rất thương yêu quân đội... vì đồng bào muốn cho quân đội của mình gương mẫu về mọi mặt, không những chiến đấu dũng cảm, mà lại có thái độ nghiêm trang... Vậy rất mong các đồng chí chiến sĩ và cán bộ ta hết sức cẩn thận trong mọi cử chỉ, để cho thế giới đều thấy rằng “Quân đội Cụ Hồ có khác!”(108).

Ngày 19-11-1960, báo “Văn học Liên Xô” đăng bài báo của Bác: “Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày mất của đại văn hào Nga L. N. Tônxtôi” với nội dung: “Xin kể chuyện tôi trở thành người học trò của nhà văn Nga vĩ đại như thế nào... Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tôi làm thợ sửa ảnh ở Pari. Hàng ngày tôi đi đến xưởng, chiều tối tôi tham gia các buổi họp của Đảng hoặc dự mít tinh của công nhân. Cuối ngày làm việc, tôi đọc vài trang tiểu thuyết để trau dồi tiếng Pháp và giải trí một chút. Một hôm, một bạn cùng nghề đưa cho tôi một cuốn truyện nhỏ của Tônxtôi... Cách viết của Tônxtôi rất giản dị, rõ ràng và dễ hiểu, làm tôi rất thích. Tuổi trẻ thường bồng bột, tôi nhảy vùng dậy khỏi giường mặc dù mùa Đông rất lạnh, nhất là trong căn phòng bé nhỏ của tôi lại không có lò sưởi. Tôi nói to: “Viết một cuốn truyện ngắn chẳng có gì là khó. Mình cũng có thể viết được”... Mỗi ngày tôi phải viết từ năm giờ đến sáu giờ rưỡi sáng, là vì bảy giờ tôi đã phải đi đến xưởng. Thường thường, ngón tay tôi tê cóng lại. Sau một tuần vất vả, tôi đã viết xong tác phẩm của mình... Các đồng chí nghĩ xem tôi vui mừng xiết bao, khi mấy ngày sau, mở xem báo buổi sáng, tôi thấy có đăng tác phẩm của tôi, tác phẩm yêu quý của tôi... các đồng chí có cho rằng tôi có quyền nói tôi là người học trò nhỏ của nhà văn vĩ đại Tônxtôi không?”(109).

Ngày 19-11-1966, báo “Nhân Dân” đăng “Điện gửi cụ Béctơrăng Rútxen”, nhà triết học người Anh và là người tổ chức Tòa án quốc tế, lên án tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Trong đó, Bác viết: “Sự lên án đã có tầm quan trọng quốc tế về mặt bảo vệ công lý và quyền tự quyết của các dân tộc. Tòa án sẽ góp phần thức tỉnh lương tri của nhân dân các nước chống đế quốc Mỹ..., nhân dân Việt Nam đánh giá cao và hết lòng ủng hộ sáng kiến cao quý của Cụ...”(110).

Ngày 20-11

“Kiến thiết cần phải có nhân tài”

Ngày 20-11-1921, báo cáo của mật thám Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc dự cuộc họp của Chi bộ quận 17 Đảng Cộng sản Pháp, tại cuộc họp này, Nguyễn Ái Quốc được chuyển từ Chi bộ quận 13 sang quận 17, Pari.

Ngày 20-11-1921, Nguyễn Ái Quốc tham gia dự thảo báo cáo của Tiểu ban Đông Dương thuộc Pháp trong Ban Nghiên cứu Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp và đưa ra đề nghị: “Công tác tuyên truyền này thực hiện: a) Bằng các báo chí xuất bản ở Pháp. b) Bằng diễn đàn của các Đại hội của chúng ta và khi cần, bằng diễn đàn của nghị viện. c) Bằng các hội nghị. d) Bằng mọi phương thức thích hợp với đối tượng, với trình độ giáo dục và văn minh của quần chúng bản xứ ở các thuộc địa”(111). Văn bản cũng đòi hỏi công tác tuyên truyền cần được Đảng trực tiếp chỉ đạo.

Ngày 20-11-1926, từ Quảng Châu, bài báo thứ hai trong loạt bài: ”Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi” được gửi về trong nước cho tờ “L’ Annam” đánh giá cao vai trò của Chính phủ Quảng Châu. Bài báo viết: “Thái độ của dân chúng các tỉnh rõ ràng là thuận lợi cho Chính phủ Quốc dân...”(112).

Ngày 20-11-1946, báo “Cứu Quốc” đăng bài “Tìm người tài đức” ký tên “Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Hồ Chí Minh” với nội dung: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết. Báo cáo phải nói rõ: Tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ”(113). Trong ngày, Bác ký Sắc lệnh bổ nhiệm nhiều cán bộ quân sự vào các cương vị quan trọng mà sau này họ đều trở thành những tướng lĩnh tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam như: Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Phan Phác.

Ngày 20-11-1958, Bác thăm Trường Cán bộ Công đoàn và căn dặn: “Muốn phát động quần chúng cho tốt thì trước hết cán bộ công đoàn phải gương mẫu, phải được phát động trước thì công nhân mới động... Phải tin vào sáng kiến và lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng, nếu không thì phát mấy cũng không động”(114).

Vào trung tuần tháng 11-1964, Bác viết “Thư gửi đồng bào các tỉnh bị bão lụt ở miền Nam”, bày tỏ: “Vừa qua, mấy tỉnh miền Nam bị bão lụt dồn dập. Hàng nghìn đồng bào bị hy sinh. Hàng vạn nhà cửa bị đổ nát. Làng mạc xơ xác, vườn ruộng tơi bời. Máu chảy ruột mềm, được tin tức đó, tôi và toàn thể đồng bào miền Bắc rất là đau xót như muối xát vào lòng... Đồng bào ta sẵn có truyền thống anh hùng, không vì tai họa mà nản chí... sẽ ra sức cùng toàn thể nhân dân miền Nam kề vai sát cánh tiếp tục cuộc đấu tranh gian khổ và tất thắng để giải phóng miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc, Bắc Nam sum họp một nhà”(115).

Ngày 20-11-1967, Bác gửi thư khen và tặng Huy hiệu cho đơn vị nữ dân quân xã Hoằng Hải, Hoằng Trường, Thanh Hóa đã tham gia bắn rơi hai máy bay phản lực Mỹ.

Ngày 21-11

“Dân mình khắc cứu dân mình mới xong”

Ngày 21-11-1942, trên báo “Việt Nam Độc lập” đăng bài thơ “Trẻ chăn trâu” của Hồ Chí Minh nhằm vận động tinh thần yêu nước ngay đối với lớp người nhỏ tuổi:

“...Vì ai, ta chẳng ấm no?

Vì ai, ta đã phải lo cơ hàn?

Vì ai, cha mẹ nghèo nàn?

Vì ai, nhà cửa, giang san tan tành?

Vì ai, ngăn cấm học hành?

Vì ai, ta phải chịu vành dốt ngây?

Ấy là vì Nhật, vì Tây

Ra tay vơ vét, đọa đày chúng ta;…

Cùng nhau đánh đuổi Nhật, Tây.

Anh em ta mới có ngày vinh hoa.

“Nhi đồng Cứu quốc” Hội ta,

Ấy là lực lượng, ấy là cứu sinh.

Ấy là bộ phận Việt Minh,

Dân mình khắc cứu dân mình mới xong...”(116).

Ngày 21-11-1945, dự họp Hội đồng Chính phủ, đề cập vấn đề giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ta đã làm được nhiều việc về giáo dục, làm hơn hẳn người Pháp”(117) và yêu cầu cần phải tuyên truyền thành tựu này. Cùng ngày, nhân khai mạc Hội nghị Viễn Đông tại Oasinhtơn, người đứng đầu Nhà nước ta gửi điện cho Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ thông báo: “Nhân dân Việt Nam đang chiến đấu hơn một tháng nay bất chấp sự đàn áp đẫm máu của các toán quân Anh - Ấn, Pháp và Nhật Bản, đã tuyên bố nguyện vọng của họ là được sống trong tự do và độc lập, trong sự nghiệp xây dựng dân chủ. Nhân dân Việt Nam bày tỏ niềm hy vọng chân thành rằng tất cả các dân tộc tự do trên thế giới, đang thực hiện ý tưởng cao quý về lòng khoan dung và nhân đạo thể hiện trong diễn văn của Tổng thống Tơruman, sẽ công nhận nền độc lập của nước Cộng hòa Việt Nam và đặt dấu chấm hết cho cuộc xung đột giết chóc ở Nam Việt Nam”(118).

Ngày 21-11-1946, Bác đến dự lễ khai giảng Trường Quân y khóa I tại Viện Giải phẫu Hà Nội với lời căn dặn: “Phải chăm lo học hành và gắng thực hiện 5 điều: HĂNG HÁI, HY SINH, BÁC ÁI, ĐOÀN KẾT, KỶ LUẬT”(119).

Ngày 21-11-1951, báo “Nhân Dân” đăng bài “Mỹ là tốt” ký bút danh là “Đ.X” trong đó Bác nhắc lại “Lần trước tôi viết: Mỹ là xấu, đó là Mỹ của bọn đế quốc. Lần này tôi viết Mỹ là tốt, tức là Mỹ của nhân dân”(120) khi bài báo đề cập việc nhân dân Mỹ kiên cường đấu tranh cho hòa bình.

Ngày 21-11-1953, trong “Thư gửi quân và dân Tây Bắc”, Bác động viên: “Kháng chiến của ta nhất định thắng lợi, nhưng phải trường kỳ gian khổ, tự lực cánh sinh. Đồng bào, bộ đội và cán bộ ta ở Tây Bắc phải hăng hái tham gia công cuộc kháng chiến để cùng đồng bào, bộ đội và cán bộ toàn quốc đánh đuổi giặc Tây, giặc Mỹ và tranh lại độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân”(121).

Ngày 21-11-1963, khai mạc Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khoá III giữa lúc tình hình nội bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phức tạp, Bác xác định: Hội nghị này là Hội nghị đoàn kết quốc tế. Cùng ngày, trả lời phỏng vấn của tờ “Akahata” (Cờ Đỏ) của Đảng Cộng sản Nhật Bản, Bác tuyên bố: “Vấn đề miền Nam chỉ có một cách giải quyết là: Đế quốc Mỹ phải rút khỏi miền Nam để nhân dân Việt Nam tự giải quyết lấy công việc của mình, theo tinh thần của Hiệp định Giơnevơ”(122).

Ngày 22-11

“Hết sức tránh bệnh quan liêu, mệnh lệnh”

Ngày 22-11-1942, trong nhà tù của quân Tưởng, Hồ Chí Minh viết bài thơ “Tân Dương ngục trung hài”(Cháu bé trong ngục Tân Dương) xúc cảm về một cảnh ngộ thương tâm. Nhà thơ Nam Trân dịch:

“Oa...! Oa...! Oa...!

Cha sợ sung quân cứu nước nhà;

Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,

Phải theo mẹ đến ở nhà pha”(123).

Ngày 22-11-1945, dự họp Hội đồng Chính phủ khi bàn về vấn đề tiếp tế gạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý tránh sơ hở để quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng lấy cớ đổ lỗi và khiêu khích. Cùng ngày, Bác ký Sắc lệnh về tổ chức và quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp.

Ngày 22-11-1946, Bác gửi thư cảm ơn ngành Đường sắt đã phục vụ chuyến tàu đặc biệt chở Chủ tịch nước từ Hải Phòng trở về Hà Nội an toàn, kết thúc chuyến đi thăm và làm việc tại Pháp.

Tháng 11-1950, Bác viết “Thư gửi các cán bộ Bắc Cạn” góp ý nhiều việc cần làm... Về “lề lối làm việc”, thư viết: “Mọi việc bất kỳ to nhỏ, phải có kế hoạch, phải bàn bạc kỹ. Phải giải thích cho dân hiểu rõ, sao cho dân vui vẻ thi đua làm. Hết sức tránh bệnh quan liêu, bệnh mệnh lệnh”(124). Về vấn đề “Giản chính, tinh cán”, Bác giải thích: “Các cơ quan chính quyền và đoàn thể cần phải triệt để giản chính. Đó là tiết kiệm sức người. Song đồng thời phải nâng cao năng suất công tác của mỗi người, mỗi cơ quan phải lựa chọn cán bộ, dùng cán bộ cho đúng - Thế gọi là tinh cán. Hai việc phải đi đôi với nhau”(125).

Cũng trong tháng 11-1950, Bác viết “Thư gửi toàn thể phụ lão xã Vĩnh Đồng, châu Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình” nêu rõ những nhiệm vụ trước mắt: “Chúng ta phải: Toàn dân đoàn kết chặt chẽ. Thi đua ủng hộ kháng chiến. Thi đua tăng gia sản xuất. Thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính. Chớ chủ quan khinh địch, phải cẩn thận đề phòng. Các cụ phụ lão và các vị thân sĩ thì xung phong hô hào. Cán bộ chính quyền, đoàn thể và bộ đội thì xung phong làm gương mẫu, gần gũi nhân dân, giúp đỡ nhân dân, học hỏi nhân dân, lãnh đạo nhân dân thực hành những nhiệm vụ nói trên”(126).

Ngày 22-11-1951, báo “Nhân Dân” đăng bài “Đẩy mạnh phong trào du kích” của Bác. Đây chính là “lời tựa cho bản dịch cuốn “Tỉnh ủy bí mật” của nhà văn Liên Xô Phêđôrốp” được kết luận bằng nhận định: “Ta sẵn có nền tảng nhân dân, chỉ cần củng cố thêm. Ta sẵn có cán bộ, chỉ cần đào tạo thêm. Ta sẵn có phong trào du kích, chỉ cần ra sức phát triển thêm. Kinh nghiệm du kích ở Liên Xô sẽ giúp thêm chúng ta, và chúng ta nhất định thành công trong việc đẩy mạnh phong trào du kích”(127).

Ngày 22-11-1967, Bác yêu cầu Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Trần Hữu Dực truyền đạt ý kiến với lãnh đạo Hà Nội: “Phải tổ chức sơ tán nhân dân một cách khẩn trương, chu đáo và kiên trì. Chú trọng sơ tán triệt để khỏi các khu vực địch có thể đánh phá. Chú ý đi sát giải quyết những khó khăn trong đời sống, trong công ăn việc làm của đồng bào. Phải tổ chức các đoàn đi kiểm tra thăm hỏi ở các vùng có đồng bào sơ tán, cùng địa phương giúp đỡ nhân dân mau chóng ổn định đời sống. Phải hết sức hạn chế thương vong cho nhân dân, muốn vậy phải động viên đồng bào đào hầm đầy đủ,… Phải chú trọng phòng chống rét cho các cháu...”(128)

Ngày 23-11

“Noi gương oanh liệt của Khởi nghĩa Nam bộ”

Ngày 23-11-1945, trong buổi tiếp Đoàn đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang về thăm Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận: “Trước khi nước ta được độc lập, các đồng bào trên đó ai nấy đã nhiệt tâm yêu nước, yêu nòi, gắng sức giúp anh em Việt Minh trong cuộc vận động giải phóng dân tộc rất nhiều... Bây giờ, nước ta được độc lập, tôi thay mặt đồng bào Kinh cảm ơn anh chị em. Tuy ta được độc lập, nhưng dân ta sẽ còn phải gặp rất nhiều nỗi khó khăn, còn phải hy sinh phấn đấu nhiều hơn nữa. Từ người giàu cho tới kẻ nghèo cần phải một lòng giữ vững nền độc lập... Tôi nhờ anh chị em về nói lại với đồng bào trên ấy biết rằng đồng bào Kinh và Chính phủ rất thương mến đồng bào Mán, Thổ, coi như anh chị em trong một nhà, và khuyên anh chị em gắng sức để đi tới thái bình để cùng hưởng chung”(129).

Cùng ngày, tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ, khi bàn về chương trình kinh tế, Bác nói: “Ngoại giao và kinh tế có ảnh hưởng lẫn nhau. Nếu mình có một chương trình kinh tế có lợi cho người ngoại quốc, họ có thể giúp mình...”(130) và gửi thư cho Tổng thống Mỹ Tơruman yêu cầu “các cường quốc trên thế giới và các tổ chức cứu trợ quốc tế giúp đỡ ngay lập tức cho Việt Nam để qua được nạn đói”(131). Trong những sắc lệnh Bác ký trong ngày có 2 văn bản quan trọng. Đó là Sắc lệnh số 64 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt có quyền hạn giám sát các công chức nhà nước và lập một Tòa án đặc biệt để xét xử các đối tượng này. Ngoài ra, còn ký Sắc lệnh số 65 thiết lập “Đông Phương Bác Cổ học viện” để bảo tồn cổ tích.

Ngày 23-11-1946, vào thời điểm tình hình căng thẳng do những khiêu khích của thế lực thực dân, Báo Cứu Quốc đăng thư "Gửi đồng bào Việt Nam, người Pháp và người thế giới” trong đó Bác đưa ra thông điệp: “... Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người... Máu Việt Nam và máu Pháp đã đổ nhiều rồi… Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng vào đạo đức: Tự do, Bình đẳng, Bác ái, Độc lập. Người Việt Nam và người Pháp có thể và cần phải bắt tay nhau trong một sự nghiệp cộng tác bình đẳng, thật thà, để gây dựng hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc. Đó là ý nguyện rõ rệt của Việt Nam, mong người Pháp và toàn thế giới biết cho”(132).

Cùng ngày, trên Đài Tiếng nói Việt Nam, Bác đọc “Lời kêu gọi về việc quân Pháp lại gây hấn ở Hải Phòng” trong đó nêu rõ: “... Phải lập tức đình chỉ việc đổ máu giữa người Pháp và người Việt. Tôi kêu gọi toàn thể đồng bào phải trấn tĩnh, các bộ đội và tự vệ phải sẵn sàng bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc, bảo vệ tính mệnh, tài sản của ngoại kiều. Chính phủ luôn luôn đứng sát với toàn thể đồng bào để giữ gìn đất nước”(133).

Ngày 23-11-1951, kỷ niệm 10 năm ngày Khởi nghĩa Nam kỳ, Bác gửi thư tới đồng bào và chiến sĩ Nam bộ nhắc nhở: “Noi gương oanh liệt của Khởi nghĩa Nam bộ, chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ và kháng chiến mạnh mẽ lên mãi để phá âm mưu của giặc: Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước giành độc lập và thống nhất thực sự cho Tổ quốc”(134)./.

Khánh Linh (Tổng hợp)

Chú thích:

101. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 362.
102,103. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 119.
104. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 526.
105. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 545-550.
106. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 364.
107. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 526.
108. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 383-384.
109. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 228-229.
110. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 167.
111. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 441.
112. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 1, tr. 359.
113. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 451.
114. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 7, tr. 174.
115. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 342.
116. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 242.
117. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 80.
118,119. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 109, 456.
1 20 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 116.
121 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 166.
122. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 174.
123. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 369.
124. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 129.
125,126,127. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 129-130, 131, 336.
128. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 10, tr. 145.
129. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 103 - 104.
130. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 83.
131. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 84.
132,133. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 457-458, 459.
134. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 337.

Ban Biên tập


Ngày 24-11

“Các nhà văn hóa hãy chú ý đặc biệt đến nhi đồng”

Ngày 24-11-1940, trên Tờ Cứu Vong Nhật Báo, Nguyễn Ái Quốc viết bài báo “Chú ếch và con bò” mượn câu chuyện ngụ ngôn của La Phôngten (La Fontaine) để bình luận về tình hình thế giới. Bài báo viết: “Những người như kiểu chú ếch kia trên thế giới này quả không ít. Mútxôlini đánh Hy Lạp, dẫm phải đinh, là một ví dụ”(135), muốn bắt chước Hítle nhanh chóng chiếm được nhiều nước “Thế là y cũng đem hết sức bình sinh ra làm “chiến tranh chớp nhoáng, hòng nuốt chửng nước Hy Lạp, đặng ra oai với họ Hít. Không ngờ quân Ý xúi quẩy to, kể từ khi khai chiến, nhiều phen bị thất bại, thậm chí có nơi thua “mảnh giáp không còn”. Ảo tưởng thắng lợi của họ Mút cũng vỡ toang như chú ếch kia”(136).

Ngày 24-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại diện cho Việt Minh cùng với các vị Nguyễn Hải Thần đại diện Việt Nam Cách mạng đồng minh Hội (Việt Cách) và Vũ Hồng Khanh, đại diện cho Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc) ký văn bản cam kết nguyên tắc chung tối cao với những điều khoản: “1. Thành lập một Chính phủ nhất trí... 2. Định rõ chính cương, chính sách, phát biểu tuyên ngôn liên hợp... 3. Hết thảy quân đội phải thuộc về quốc gia... 4. Chỉ nói đến sinh tồn của quốc gia chứ không được nói đến những sự tranh giành của đảng phái... 5. Triệu khai hội nghị quân sự... 6. Quyết không đổ máu giữa người Việt Nam với người Việt Nam. 7. Kiên quyết hủy diệt các xí đồ (âm mưu) thực dân của đế quốc Pháp để tranh lấy sự độc lập hoàn toàn của Việt Nam”(137).

Ngày 24-11-1946, trong diễn văn khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Bác nêu rõ: “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở, phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngoài, tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập... Nhi đồng Việt Nam đang tiến bộ nhiều về văn hóa… Tôi xin thay mặt toàn thể thiếu nhi Việt Nam kêu gọi các nhà hoạt động văn hóa hãy chú ý đặc biệt đến nhi đồng”(138).

Ngày 24-11-1954, trên Báo Nhân Dân, Bác viết bài “Việc nhỏ ý nghĩa lớn” hoan nghênh việc các báo ở Thủ đô mới giải phóng đã đăng tin nêu gương người tốt việc tốt và đưa ra yêu cầu “cần khen thưởng đúng mức để động viên mọi người hăng hái làm việc ích nước lợi nhà”(139).

Ngày 24-11-1965, Bác gửi thư mừng Tạp chí “Học tập” - cơ quan lý luận của Đảng, nhân kỷ niệm 10 năm ra mắt. Thư có đoạn: “Làm cách mạng mà không có lý luận cách mạng thì chẳng khác gì người đi đêm. Cán bộ của Đảng ở các ngành, các cấp đều phải học tập lý luận và tham gia công tác lý luận”(140) và căn dặn bài viết phải giản dị, dễ hiểu, văn phải viết theo “lối Việt Nam”, không dùng quá nhiều từ nước ngoài...

Ngày 24-11-1966, Bác viết “Thư chúc mừng Đại hội GANEFO Châu Á lần thứ Nhất” tổ chức tại Phnompenh (Campuchia) khẳng định: “Đây là cuộc gặp gỡ lớn để các lực lượng mới trỗi dậy ở châu Á tỏ rõ cho toàn thế giới thấy khả năng phong phú của mình trong lĩnh vực thể thao. Đây cũng là một dịp để nhân dân châu Á tỏ rõ quyết tâm đoàn kết chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân đứng đầu là đế quốc Mỹ và đấu tranh cho hòa bình và độc lập dân tộc”(141).

Ngày 25-11

“Giáo dục nhi đồng là một khoa học”

Ngày 25-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện tại Đại hội Xứ Đoàn Thanh niên Cứu quốc Bắc bộ, trong đó vạch rõ những nhiệm vụ của thanh niên lúc này và cũng thẳng thắn phê bình: “Trong tổ chức thanh niên vẫn còn giữ một xu hướng chật hẹp, không bao bọc được nhiều giai tầng, không kéo được đại đa số thanh niên... gạt các chị em ra ngoài, tổ chức thanh niên có khác gì đi có một chân”(142). Và Bác đưa ra khẩu hiệu đối với thanh niên là “làm, phải cho thắng, nhất định không cho bại”(143).

Cùng ngày, Bác tiếp đại diện tổ chức Hướng đạo sinh Việt Nam. Hồi ức của Giáo sư Lê Duy Thước viết: Bác ngồi làm việc ở tầng hai Bắc Bộ phủ... Da mặt xanh xao, Bác vừa bị sốt rét ở Tân Trào về. Bác nhìn ra cửa thấy anh em chúng tôi đang thập thò chờ, Bác đứng dậy bảo anh em đi theo Bác sang phòng bên cạnh. Bác ngồi trên ghế, chìa cánh tay trái gầy gò cho bác sĩ tiêm thuốc rồi hướng về phía anh em chúng tôi Bác nói vắn tắt hoan hô anh em Hướng đạo đến thăm Bác. Anh em về lo giết giặc đói, giết giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

Tháng 11-1949, Bác viết “Thư gửi Hội nghị Cán bộ Nông dân Cứu quốc toàn quốc”, nêu rõ: “Nước ta là một nước nông nghiệp. Hơn 9 phần 10 dân ta là nông dân... Nói tóm lại, nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh... Vận động nông dân là phải vận thế nào cho toàn thể nông dân động, nghĩa là: Làm cho nông dân hiểu rõ quyền lợi của dân tộc và của giới mình... Muốn như thế thì cán bộ nông dân phải tránh bệnh chủ quan, bệnh hình thức, bệnh giấy tờ. Cán bộ tỉnh phải đến tận các huyện, các xã. Cán bộ huyện phải đến tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ”(144).

Cũng trong tháng 11-1949, Bác viết “Thư gửi Hội nghị cán bộ phụ trách nhi đồng”, nêu rõ: “Cách dạy trẻ, cần làm cho chúng biết: Yêu Tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa. Đồng thời phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng (chớ nên làm cho chúng hóa ra những “người già sớm”. Nhiều thư các cháu gửi cho Bác Hồ, viết như người lớn viết; đó là một triệu chứng già sớm nên tránh). Trong lúc học, cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học. Ở trong nhà, ở trường học, ở xã hội, chúng đều vui đều học… Ngày nay chúng là nhi đồng, 11 năm sau chúng sẽ là công dân... Giáo dục nhi đồng là một khoa học”(145).

Tháng 11-1965, nói chuyện với 450 đại biểu dự Đại hội “Ba sẵn sàng” của Thanh niên Hà Nội, Bác căn dặn: “Phong trào “Ba sẵn sàng” đó có thành tích khá, nhưng phải khiêm tốn, chớ phô trương, hình thức... Bác nhắc các cháu phải đẩy mạnh thi đua giữa địa phương này với địa phương khác, ngành này với ngành khác, cơ quan này với cơ quan khác để học tập lẫn nhau và cùng nhau tiến bộ..."(146)

Ngày 26-11

“Thủy lợi càng tốt, dân càng ấm no”

Ngày 26-11-1953, trong bài trả lời của chủ bút tờ báo Thụy Điển “Expressen”, khi được hỏi: “Nếu một nước trung lập đứng ra dàn xếp để những đại biểu của tư lệnh đối phương được gặp Cụ thì Cụ có nhận không?”(147), Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời: “Sẽ được hoan nghênh, nhưng việc thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp”(148). Thông điệp quan trọng này đã khởi động cho tiến trình dẫn đến Hội nghị Giơnevơ.

Cùng ngày, trong bài báo “Tích cực và nóng nảy” đăng trên Báo Nhân Dân, Bác phân tích: “Tích cực là gắn liền khí khái cách mạng với tinh thần thực tế. Tích cực thì mọi việc đều thành công. Nóng nảy là một thứ bệnh tiểu tư sản, làm việc mà nóng nảy thì nhất định thất bại”, và kết bằng hai câu thơ: “Tích cực, thì sẽ thành công,/ Nóng nảy, kết quả sẽ không ra gì”(149).

Ngày 26-11-1954, Báo Nhân Dân đăng bài của Bác “Nhờ ai ta có hòa bình?” nêu rõ: “Chính nghĩa thắng lợi, hòa bình trở lại, là nhờ toàn dân ta đoàn kết, toàn quân ta anh hùng. Đồng thời nhờ lực lượng hòa bình thế giới ủng hộ ta. Nhưng cũng nhờ những chiến sĩ anh hùng đó vui lòng chết để cho Tổ quốc sống, nhân dân sống... và trăm nghìn anh hùng, liệt sỹ khác đã ung dung làm những việc “Trời đất phải kinh, quỷ thần phải khóc”. Người tuy chết, nhưng tiếng thơm lưu truyền mãi với non sông. Chúng ta cần ghi chép và thường nhắc lại những sự tích ấy, để giáo dục nhân dân ta chịu đựng gian khổ, vượt mọi khó khăn, quyết tâm làm trọn nhiệm vụ xây dựng lại nước nhà. Để giáo dục thanh niên... Vậy có thơ rằng: Nhờ ai ta có hòa bình?/Nhờ người chiến sĩ quên mình vì dân”(150).

Ngày 26-11-1959, tham dự Hội nghị Trung ương bàn về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Bác phát biểu ý kiến lưu ý: “Có cải thiện đời sống nhân dân thì đấu tranh thống nhất nước nhà mới thắng lợi”(151).

Ngày 26-11-1962, Bác dự họp Bộ Chính trị bàn về thu chi tài chính năm 1963 và phát biểu: “Mấy năm nay ta vừa làm vừa học. Điều rất tốt là ta đã thấy được khuyết điểm, thấy được các mặt không cân đối, thấy được sự lãng phí sức người sức của. Nhưng thấy được bệnh rồi, mấy người thầy thuốc phải ngồi lại tìm đơn thuốc mà chữa, chứ cứ nói mãi mà chắp chắp vá vá thì không được. Cần có một số đồng chí cương quyết tìm ra bài thuốc cho bệnh, tìm ra được rồi thì phải cắt thuốc, không thì năm nào cũng nói đi nói lại mãi. Kết quả lớn là thấy được khuyết điểm, nhưng kết quả lớn hơn nữa là phải chữa cho được. Đề nghị Bộ Chính trị cử một số đồng chí ngồi lại, cần thì sáu tháng, hàng tuần dành hẳn mấy ngày làm việc để nghiên cứu tìm ra thuốc đó, phải định những chính sách gì, những kỷ luật gì, đều phải xem xét chu đáo”(152).

Ngày 26-11-1963, Báo Nhân Dân đăng bài “Cần phải tổ chức ngay đội thủy lợi”. Trong đó, Bác đưa ra quan điểm: “Muốn cho nhân dân ăn no, thì phải đẩy mạnh phát triển nông nghiệp. Muốn phát triển tốt nông nghiệp thì phải làm tốt thủy lợi”(153) và kết thúc bằng lời thơ động viên:

“Đêm trăng đưa nước tưới đồng,

Một tấc nước bạc là trăm bông lúa vàng.

Đội thủy lợi phải sẵn sàng,

Thủy lợi càng tốt, dân càng ấm no”(154).

Ngày 27- 11

“Tuyệt đối không vì thắng lợi mà kiêu căng”

Ngày 27-11-1945, trước những âm mưu ly gián giữa người Việt và người Hoa xuất hiện trong xã hội có thể tạo nên những kẽ hở để kẻ thù lợi dụng gây chia rẽ đoàn kết, Bác đưa ra lời kêu gọi “Hoa - Việt tinh thành đoàn kết” được đăng trên Báo Cứu Quốc: “Ngoài công việc ủng hộ kháng chiến ở Nam, giúp giải quyết nạn đói ở Bắc, sắp sẵn cuộc đại tuyển cử khắp các nơi, các bạn lại có một nhiệm vụ rất quan trọng nữa. Đó là giúp sức để hoàn toàn thực hiện chính sách đối với Hoa kiều... Chúng ta phải tìm mọi phương pháp để gây nên phong trào Hoa - Việt tinh thành hợp tác”(155).

Cùng ngày, dự cuộc họp của Hội đồng Chính phủ bàn các vấn đề: Tiếp tế gạo, thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và công tác ngoại giao, Bác phát biểu: “Ta cầm quyền trong lúc khó khăn: Có người Tàu, người Tây, người Nhật, lại thêm nạn đói, các bộ thiếu liên lạc, Chính phủ thiếu kế hoạch chung. Vấn đề dùng người khó, tuy rằng ta rất rộng”(156). Trong các sắc lệnh Chủ tịch nước ký trong ngày, có sắc lệnh số 223 ấn định hình phạt đối với tội đưa và nhận hối lộ, biển thủ công quỹ và tài sản công cộng.

Ngày 27-11-1946, Bác ra “Lời kêu gọi đồng bào nông dân thành lập nghĩa thương” (một loại quỹ truyền thống của nông dân góp thóc để cứu đói cho cộng đồng) nêu lên 4 điều lợi: “1. Để dành thì mình khỏi lo đói; 2. Để dành không mất đi đâu mà lại có lãi; 3. Để dành đã ích riêng cho mình, lại ích chung cho đồng bào; 4. Chỉ để dành một năm mà cả đời khỏi lo đói”(157).

Ngày 27-11-1950, Báo Sự Thật đăng 4 bức thư Bác gửi “Đồng bào Hòa Bình”, “Đồng bào Lào Cai”, “Chiến sĩ và cán bộ Lào Cai” và “Chiến sĩ và cán bộ Hòa Bình”. Với các bức thư “gửi đồng bào” hai tỉnh, Bác căn dặn “1. Phải thực hành đại đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau trong mọi việc. 2. Phải thi đua tăng gia sản xuất cho mọi người được no ấm. 3. Phải ra sức giúp đỡ Chính phủ, ủng hộ bộ đội để góp phần vào công việc trường kỳ kháng chiến, để chuyển mạnh sang tổng phản công, để đưa kháng chiến đến hoàn toàn thắng lợi”(158). Còn trong các bức thư gửi “các chiến sĩ và cán bộ” hai tỉnh Lào Cai, Hòa Bình, Bác yêu cầu những việc cần phải làm ngay như việc xét khen thưởng, tổng kết kinh nghiệm, canh phòng cẩn mật, giúp địa phương ổn định sản xuất, thi hành đại đoàn kết...

Cùng ngày, Báo Sự Thật đăng bài trả lời phỏng vấn báo chí của Bác sau Chiến thắng Biên giới: “Sau thắng lợi này, một điều mà quân và dân ta phải giữ là tuyệt đối không được vì thắng lợi mà kiêu căng, chủ quan khinh địch. Trái lại, chúng ta phải cố gắng hơn nữa, cẩn thận hơn nữa, kiên quyết hơn nữa...”(159); còn với những yếu kém, khuyết điểm, Bác yêu cầu: “Chúng ta cố gắng sửa chữa những khuyết điểm đó - mà việc này các báo chí phải gánh một phần trách nhiệm - thì thi đua ái quốc chắc sẽ có những thành tích tốt đẹp gấp bội”(160).

Ngày 27-11-1954, tại Thủ đô Hà Nội mới giải phóng, trong cuộc họp của Bộ Chính trị bàn về vấn đề đàm phán kinh tế với Pháp, Bác chỉ đạo: “Phải nắm vững là ta lấy kinh tế và văn hóa để làm chính trị. Nguyên tắc của ta là “có đi có lại”. Văn hóa “khoan hồng” hơn kinh tế. Kinh tế “khoan hồng” hơn chính trị...”(161).

Ngày 28-11

“Phải dùng thuốc đắng cay, đủ ngày mới khỏi bệnh”

Ngày 28-11-1926, Báo Thanh Niên xuất bản tại Quảng Châu đăng bài “Người An Nam ở Xiêm” ký tên Nguyễn Ái Quốc. Là một người có nhiều năm hoạt động trong cộng đồng Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan), tác giả phân tích thân phận của 3 vạn người Việt đó “lưu ly thất dở, tan cửa tan nhà, phải bỏ quê cha đất tổ, dạt ra đất khách quê người”(162). Nhưng bài báo cũng thẳng thắn phê phán một tập tính xấu có hại cho mục tiêu vận động đoàn kết cứu nước của cộng đồng này là: “Tình cảnh người mình như vậy đều là lưu lạc quê người, cứ kể bình thường thì người An Nam ở Xiêm trông thấy nhau nên thương yêu nhau, giúp nhau là phải, nào ngờ vẫn giữ lấy thói dã man nào lương giáo giết nhau, lợi hại tranh nhau, lừa đảo nhau, chém giết nhau đến nỗi đem nhau đi kiện cáo cho Xiêm, Lào sỉ nhục. Vì một tính không biết đoàn thể, đã đến nỗi bỏ nước mà đi, lại còn vẫn không giác ngộ thế thì còn trách người Xiêm nó khinh, nó chửi. Nói ra thật đau lòng”(163).

Ngày 28-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ ấn định chính sách ngoại giao: “Với Pháp: Nguyên tắc của Chính phủ là: a) Nhất quyết đòi quyền độc lập; b) Chỉ có thể nhượng bộ ít nhiều về kinh tế, văn hóa… Với Trung Hoa: Cùng một nguyên tắc là không nhượng bộ về vấn đề độc lập của Việt Nam”(164).

Ngày 28-11-1948, Bác gửi thư tới cụ Lê Thước, một nhân sĩ và là Chủ tịch Ủy ban tăng gia sản xuất của tỉnh Thanh Hóa để giải thích ý nghĩa chính sách giảm tô của Chính phủ. Thư viết: “Giảm địa tô 25 % đã công bình và lợi cho cả điền chủ lẫn nông dân, thì không có lẽ gì mà sinh mối chia rẽ; càng không có lẽ gì mà các điền chủ lại chán nản, hoặc bỏ ruộng không cày. Lực lượng kháng chiến chống ngoại xâm, một phần là nhờ giới “hữu sản nông dân“, nhưng một phần lớn cũng nhờ giới trung nông và bần nông. Người có tiền giúp tiền, người có sức giúp sức - Thế là đại đoàn kết”(165). Cuối thư, Bác nhờ cụ Lê Thước giải thích cho các vị điền chủ nào hiểu chưa thấu đáo chính sách của Nhà nước.

Ngày 28-11-1954, Bác viết bài “Thầy thuốc nói” đăng trên Báo Nhân Dân hàm ý: “Trải qua 80 năm mất nước, 15 năm bị chiến tranh tàn phá, hậu quả về các mặt kinh tế, xã hội rất nặng nề. Cũng như nhiều nước khác, việc khôi phục kinh tế, xã hội phải có thời gian phấn đấu gian khổ, ví như việc chữa bệnh của thầy thuốc, phải dùng thuốc đắng cay, đủ ngày mới khỏi bệnh”(166).

Ngày 28-11-1959, Báo Nhân Dân đăng bài “Tết trồng cây”. Bắt nguồn từ mục tiêu lấy gỗ xây nhà cho nông dân, Bác phát động “Tết trồng cây” và mong muốn vào dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng sẽ khởi động cho một tập quán mới và xác định “Đó cũng là một cuộc thi đua dài hạn nhưng nhẹ nhàng mà tất cả mọi người - từ các cụ phụ lão đến các em nhi đồng, đều có thể hăng hái tham gia”(167).

Ngày 28-12-1965, Bác gửi thư khen ngợi quân dân Yên Bái có thành tích bắn rơi chiếc máy bay thứ 800 của giặc Mỹ trên bầu trời miền Bắc nước ta.

Ngày 29-11

“Đánh Tây để giữ nước non Lạc Hồng”

Ngày 29-11-1923, trên Báo La Vie Ouvrière (Đời Sống Thợ Thuyền), đăng ba bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc. Trong bài “Chính sách thực dân Anh” tố cáo những tham vọng đế quốc: “Muốn chiếm cả Trung Quốc làm thuộc địa... trước sự đe dọa của chủ nghĩa tư bản Anh, những người con của Trung Quốc sẽ biết đoàn kết với nhau để phản kháng thắng lợi”(168). Trong bài “Phong trào công nhân”, tác giả nhận định về phong trào công nhân Trung Quốc: “Hiện nay những người thủy thủ, công nhân luyện kim, công nhân đường sắt là những lực lượng thật sự mà bọn tư bản buộc phải coi trọng”(169). Với bài có nhan đề “Nhật Bản” đưa ra nhận định: “Phong trào lúc đầu với tư cách là cuộc đấu tranh của lớp người riêng lẻ thì hiện nay đã trở thành cuộc đấu tranh giai cấp”(170).

Ngày 29-11-1940, trên Tờ Cứu vong nhật báo phát hành ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc viết bài “Hai Chính phủ Vécxây” để so sánh hai bối cảnh lịch sử của nước Pháp cách nhau 70 năm (1870 và 1940), Chính phủ Pháp đều bại trận và đẻ ra những chính phủ phản động của những “anh hùng bán nước!”(171). Bài báo phê phán Chính phủ Pháp đã đầu hàng chủ nghĩa phát xít ngay ở nước Pháp và thuộc địa Đông Dương.

Ngày 29-11-1951, với bút danh “C.B.” Bác viết hai bài báo đăng trên Báo Nhân Dân. Bài “Cả nhà kháng chiến” mở đầu bằng câu thơ:

“Con đi đi. Đi đi con,

Đánh Tây, để giữ nước non Lạc Hồng,

Bao giờ kháng chiến thành công,

Con về giúp mẹ vun trồng lúa khoai”.

Đại khái đó là lời bà cụ Nguyễn Thị Vĩnh dạy các con của bà cụ như thế... Bà cụ có 6 người con - 5 trai và 1 gái. Cả 6 người đều ở bộ đội... Bà cụ Vĩnh chẳng những là mẹ hiền của 6 chiến sĩ con cụ, mà còn là mẹ chung của cả các chiến sĩ Việt Nam… Và bà cụ thì xứng đáng là gương mẫu cho các bà mẹ Việt Nam”(172). Còn trong bài “Tinh thần kháng chiến của đồng bào Trại (Mán)” Bác kể lại “vài chuyện cảm động”(173) về những tấm gương ủng hộ kháng chiến và kết luận “Tinh thần hăng hái của đồng bào Trại thật đáng khen, đáng quý. Đó là một đặc điểm trong cuộc kháng chiến của ta. Đó cũng là một điểm chứng tỏ kháng chiến Việt Nam nhất định thắng lợi”(174).

Ngày 29-11-1954, dự họp của Bộ Chính trị nhận định tình hình và âm mưu của địch, Bác nêu một số ý kiến chỉ đạo: “Phải khoét sâu mâu thuẫn nội bộ của địch... Phải có chính sách đúng, có quyết tâm và ý chí quyết chiến quyết thắng. Tránh tư tưởng chủ quan khinh địch, tư tưởng bi quan trước những thắng lợi tạm thời của địch. Đấu tranh khi lên, khi xuống là tự nhiên. Phương pháp phải kịp thời, sắc bén. Có lúc ta thoái lui, nhưng chủ động chiến đấu...”(175)..

Ngày 29-11-1963, Báo Nhân Dân đăng bài “Văn minh kiểu Mỹ”, trong đó, Bác vạch trần cái gọi là “văn minh kiểu Mỹ”, nhưng trong kết luận, bài báo viết: “Nhưng chúng ta không vơ đũa cả nắm. Cũng như nhân dân các nước khác, nhân dân Mỹ nói chung là những người cần cù, yêu chính nghĩa, chuộng hòa bình, chống chiến tranh... Cho nên, chúng ta kiên quyết chống đế quốc Mỹ nhưng chúng ta sẵn sàng lập quan hệ hữu nghị với nhân dân Mỹ để cùng nhau chống mọi tội ác, giữ gìn chính nghĩa và hòa bình cho loài người”(176).

Ngày 30-11

“Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi”

Ngày 30-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn về kỷ niệm ba tháng độc lập và việc ứng cử vào Quốc hội. Bác được phân công ứng cử tại Hà Nội.

Ngày 30-11-1948, trong bài “Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay” đăng trên Báo Sự Thật, đề cập công tác kiểm tra, Bác viết: “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi... Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích... Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời. Hiện nay, nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó, thì họ không biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra. Đó là một sai lầm rất to. Vì thế mà “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy... Nếu tổ chức sự kiểm tra được chu đáo, thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười gấp trăm”(177).

Ngày 30-11-1953, Bác viết bài “Chiến sĩ cầu đường” đăng trên Báo Cứu Quốc đưa ra quan điểm: “Bất kỳ việc gì, ở ngành nào, quần chúng đều có kinh nghiệm và nhiều sáng kiến quý báu. Cán bộ biết gần gũi quần chúng, biết lãnh đạo quần chúng thì công việc to lớn mấy, khó khăn mấy cũng thành công. Công việc cầu đường cũng vậy”(178).

Ngày 30-11-1954, nói chuyện với anh chị em công chức Thủ đô sau ngày tiếp quản, Bác căn dặn: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta... Tôi chắc rằng đại đa số anh chị em đều muốn tiến bộ, cho nên nhiều người sẽ muốn học. Song các anh em phụ trách hướng dẫn cần phải chú ý: Làm thế nào cho việc học tập thiết thực, vui vẻ; không nên câu nệ, hình thức, tuyệt đối tránh cách nhồi sọ. Lý luận và thực hành phải đi đôi với nhau”(179).

Ngày 30-11-1964, Bác dự và phát biểu tại Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống Mỹ và bảo vệ hòa bình, họp tại Hà Nội, Bác nhấn mạnh: “Hội nghị lịch sử này là kết tinh của mặt trận nhân dân toàn thế giới đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, nhất là đế quốc Mỹ... Mỗi thắng lợi của nhân dân thế giới là một thắng lợi của nhân dân Việt Nam. Và mỗi thắng lợi của nhân dân Việt Nam cũng là một thắng lợi của nhân dân thế giới”(180).

Ngày 30-11-1968, Bác viết “Điện gửi đồng bào, chiến sĩ và cán bộ Tây Nguyên” nhân chào mừng thắng lợi của Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua, dũng sĩ lần thứ hai của các lực lượng vũ trang giải phóng Tây Nguyên. Bức điện biểu dương: “Như vậy là quân và dân Tây Nguyên, già trẻ, gái trai, Kinh, Thượng đoàn kết một lòng, luôn luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thi đua diệt giặc, lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được những thành tích to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược... Tôi tin chắc rằng Tây Nguyên nhất định cùng cả nước tiến lên đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”(181)./.

Ban Biên tập

 

(135), (136). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 177.
(137). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 516-517.
(138). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 379.
(139). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 528.
(140). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 9, tr. 320-321.
(141). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 168.
(142), (143). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 106.
(144), (145). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 710-711, 712-713.
(146). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 620.
(147), (148). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 168-169.
(149), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 397-398.
(150). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 387.
(151). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 7, tr. 370.
(152). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 315.
(153), (154). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 177, 179.
(155). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 107-108.
(156). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 87.
(157). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 461.
(158), (159), (160). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 125-126, 617, 618.
(161). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 530.
(162), (163). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 455, 456.
(164). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 88.
(165). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 259.
(166). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 531.
(167). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 559.
(168), (169), (170). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 213, 216, 218.
(171). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 181.
(172), (173), (174). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 338, 339.
(175). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 531.
(176). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 466.
(177). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 520-521.
(178). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 399.
(179). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 392-393.
(180). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 344.
(181). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 414-415.

 

Bài viết khác: