Ngày 11/11
"Hồ Chí Minh chỉ muốn hòa bình".
Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu với nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản là theo dõi phong trào nông dân Trung Quốc và tham gia phái đoàn của Cố vấn Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng, đồng thời, cũng là cơ hội để Nguyễn Ái Quốc (với bí danh Lý Thụy) tập hợp các lực lượng thanh niên Việt Nam yêu nước đang có mặt tại đây.
Ngày 11/11/1942, trong nhà tù ở Quảng Tây, Lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ có đầu đề “Song thập nhất (Ngày 11 tháng 11) cảm nhận về tình hình thế giới trong đó có đoạn:
"... Kháng Nhật, cờ bay khắp Á Châu,
Cờ to, cờ nhỏ chẳng đều nhau,
Cờ to đã hẳn là nên có,
Cờ nhỏ dù sao thiếu được đâu”55.
(bản dịch của Nam Trân)
Ngày 11/11/1949, từ Chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ điện cho Đại diện Thông tấn xã Việt Nam ở Băng Cốc: “Hồ Chủ tịch gửi lời chúc mừng bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã trở về Tổ quốc”56. Là một nhà trí thức được đào tạo tại Nhật Bản, bác sĩ Ngữ đã tìm đường trở về nước, có nhiều cống hiến trong cả hai cuộc kháng chiến và đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.
Ngày 11/11/1950, Báo Cứu Quốc đăng “Thư gửi các bạn nam nữ Pháp đấu tranh cho hòa bình”, trong đó Bác nêu rõ: “... Không phân biệt nam nữ, trẻ già, thợ thuyền, nông dân hay trí thức, các bạn đã đoàn kết để cùng góp phần cố gắng và quyết tâm của mình, chúng tôi kính phục theo dõi các bạn... Tất cả chúng ta đều gắng sức theo đuổi một mục đích, nhất định những cố gắng của chúng ta chẳng bao lâu sẽ đưa bọn đế quốc đến chỗ thất bại hoàn toàn”57.
Ngày 11/11/1953, Báo Cứu Quốc đăng bài “Bà mẹ anh hùng” biểu dương các gia đình có từ 3 đến 5 con đi bộ đội được Chính phủ tôn vinh, với trường hợp một bà mẹ ở Việt Bắc có 9 con đi bộ đội, Bác tặng câu thơ:
“Cả nhà kháng chiến,
Muôn thuở rạng danh,
Nêu gương dân tộc,
Việt Nam quang vinh”58.
Cùng ngày, Bác còn cho đăng bài “Đội Thanh niên xung phong” trên Báo Nhân Dân xác định: “Đã là một trường đào tạo thanh niên bằng những công việc thiết thực... Chúng ta cần củng cố và phát triển Đội Thanh niên xung phong để bảo đảm thêm công việc kháng chiến và đào tạo cán bộ sau này”59.
Ngày 11/11/1954, trả lời phỏng vấn của Hãng thông tấn Pháp (AFP) về quan hệ Việt - Pháp sau chiến tranh, Bác vạch rõ: “Cơ sở và phương pháp tốt nhất cho việc phát triển mối quan hệ Việt - Pháp là sự hiểu biết, lòng trung thực, tin cậy lẫn nhau; bình đẳng, hai bên đều có lợi theo nguyên tắc có đi có lại”60 và cũng khẳng định: “Nhân dân Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ hoạt động không ngừng để thực hiện thống nhất đất nước theo phương pháp hoàn toàn phù hợp với Hiệp định Giơnevơ”61.
Ngày 11/11/1965, tiếp hai nhà khoa học là phái viên của Bộ trưởng Ngoại giao Italia đến nước ta để tìm giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, Bác nói: “Chúng tôi sẵn sàng trải thảm đỏ và rắc hoa cho Mỹ rút. Nhưng nếu Mỹ không rút thì phải đánh đuổi Mỹ đi... Nhờ ông nói với Tổng thống Giônxơn hoặc Mắc Namara hoặc thông qua ông Phanphani (Bộ trưởng Ngoại giao Italia) mà nói với họ rằng: Hồ Chí Minh chỉ muốn hòa bình... Mỹ phải rút khỏi Việt Nam rồi Tổng thống Giônxơn đến đây nói chuyện cũng được, hoặc ông ta có mời tôi đến Oasinhtơn tôi cũng sẵn sàng! Nhưng trước hết Mỹ phải để chúng tôi yên. Mỹ phải chấm dứt chiến tranh!”62.
Ngày 12/11
“Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay”.
Ngày 12/11/1924, từ Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc gửi ba bức thư về Mátxcơva tới địa chỉ của Quốc tế Cộng sản, Ban Biên tập báo Rabốtnhitxa và Tổng thư ký Quốc tế Nông dân, trong đó báo tin đã tới làm việc tại Văn phòng của Bôrôđin - Cố vấn của Chính phủ Xô viết bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn. Thư cũng báo cáo về tình hình chính trị và xã hội Trung Quốc và đề nghị được thường xuyên cộng tác với tờ báo Rabốtnhitxa bằng loạt bài viết “Thư từ Trung Quốc”. Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm đến vấn đề tuyên truyền đối với phụ nữ, một lực lượng đông đảo và nhiều cảm tình với Cách mạng Nga: “Cách mạng Nga đã làm cho những người phụ nữ Trung Quốc hiểu rằng phụ nữ cũng phải có quyền sống và làm việc và để giành được quyền đó “chúng tôi cũng phải đấu tranh như những đàn ông và cùng với đàn ông chống lại những kẻ bóc lột chúng tôi”... Người ta chưa bao giờ thấy phấn khởi nhiều như thế trong phụ nữ chúng tôi. Đó thật sự đã là cuộc cách mạng nhỏ!”63.
Ngày 12/11/1942, tại nhà ngục Nam Ninh (Trung Quốc), Hồ Chí Minh làm những bài thơ nói về tình cảnh gian khổ và ý chí của một người tù nuôi chí lớn, ví như, bài “Chiết tự” theo bản dịch của Nam Trân:
“Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!”64.
Ngày 12/11/1945, nhân kỷ niệm Ngày sinh của Tôn Trung Sơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Hoa - Việt thân thiện” đăng trên Báo Cứu Quốc để xác định: “Nhân dịp ngày kỷ niệm cách mệnh đạo sư Tôn Trung Sơn, tôi muốn nhắc lại chính sách của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với anh em Hoa kiều. Trung Quốc với Việt Nam là hai nước anh em. Mối quan hệ rất là mật thiết. Văn hóa, lịch sử, chính trị, kinh tế, hai dân tộc quan hệ với nhau đã mấy nghìn năm... phải mật thiết đoàn kết để làm cho thực hiện chữ Hoa - Việt thân thiện. Thế mới xứng đáng là tín đồ của Tôn Trung Sơn tiên sinh”65.
Tháng 11/1950, được tin một số đông binh sĩ Pháp từ Đông Dương về nước đã thành lập một tổ chức đòi hồi hương những anh em còn phải ở lại đánh nhau với nhân dân Việt Nam, Bác Hồ đã gửi thư, trong đó có đoạn: “Nhân dân Việt Nam rất biết ơn sự cố gắng của các bạn cũng như đã biết ơn sự cố gắng của những bà mẹ và những người lao động Pháp. Nhìn vào hành động của các bạn, nhân dân Việt Nam thấy rằng mình có hàng triệu người bạn trung thành ở ngay nước Pháp. Họ đã không bao giờ nhầm lẫn bọn đế quốc Pháp với nhân dân Pháp mà họ muốn thắt chặt thêm mối dây thân hữu”66.
Ngày 12/11/1959, tham dự Hội nghị mở rộng của Trung ương Đảng bàn về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Bác nêu ý kiến: Trong tính toán phải nhìn xa và thấy gần, nếu chỉ nhìn xa thì sẽ vấp. Bác cũng xác định: “Nông nghiệp là chính, chẳng những ở ta mà các nước khác cũng thế. Ta tiến lên phải từ gốc mà tiến lên. Nông nghiệp cơ giới hóa nhưng phải chú ý cải tiến kỹ thuật, không được quên. Công nghiệp nhẹ, nặng phải phục vụ nông nghiệp, không nên tách rời ba cái đó ra... Nói cho rõ việc tăng năng suất lao động và cải thiện dân sinh”67.
Ngày 12/11/1964, Báo Nhân Dân đăng bài “Uy danh lừng lẫy khắp năm châu” của Bác biểu dương chiến công của các lực lượng vũ trang cách mạng đã tấn công sân bay Biên Hòa vào ngày 31/10/1964. Bài báo cảnh tỉnh: "Nếu muốn tránh thất bại nhục nhã như ở Điện Biên Phủ thì Mỹ chỉ có một cách là chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam, rút ngay quân đội của chúng về nước mẹ, để nhân dân miền Nam giải quyết công việc nội bộ của họ... Vậy có thơ rằng:
Uy danh lừng lẫy khắp năm châu,
Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu,
Thành đồng trống thắng lay Lầu trắng,
Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu!"68
Ngày 13/11
“Học càng nhiều, biết càng nhiều càng tốt”.
Ngày 13/11/1926, từ Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đăng bài đầu tiên trong loạt bài “Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi” gửi về cho tờ L’ Annam” ở trong nước. Đây là tờ báo ra bằng tiếng Pháp tại Sài Gòn do Luật sư Phan Văn Trường, một người cùng hoạt động với Nguyễn Ái Quốc khi ở Pháp, sáng lập. Tuy nội dung chỉ đề cập tình hình Trung Quốc nhưng nó tác động tích cực vào đời sống chính trị trong nước cũng đang biến chuyển mạnh mẽ.
Ngày 13/11/1942, trong nhà ngục Nam Ninh (Trung Quốc), Hồ Chí Minh làm bài thơ “Tảo tình” (Nắng sớm), theo bản dịch của Huệ Chi:
“Nắng sớm xuyên qua nơi ngục thất,
Đốt tan khói đặc với sương dày;
Đất trời phút chốc tràn sinh khí,
Tù phạm cười tươi nở mặt mày”69.
Ngày 13/11/1945, tại cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, Bác phát biểu về công tác thanh tra: “Các Bộ trưởng có thể chia nhau mỗi người đi thanh tra một khu gần Hà Nội, Bộ Nội vụ sẽ khảo cứu và lập một chương trình về việc này. Có nhiều việc thụt két ở một vài công sở. Mỗi Bộ có trách nhiệm điều tra và đề nghị với Chính phủ nghiêm trị những người làm bậy”70.
Ngày 13/11/1947, trong “Thư gửi đồng bào xã Duyên Trang, huyện Tiên Hưng, Thái Bình” khen ngợi về thành tích toàn dân trong xã từ 8 tuổi trở lên đều thoát nạn mù chữ, Bác căn dặn: “Học hành là vô cùng. Học càng nhiều biết càng nhiều càng tốt... đồng bào trong xã gắng học thêm thường thức như làm tính, lịch sử, địa dư, chính trị, vệ sinh. Đồng thời cố gắng tăng gia sản xuất ủng hộ kháng chiến”71.
Ngày 13/11/1948, trong lá thư gửi cụ Hoàng Hữu Kiệt và các cụ trong Tỉnh hội Cứu quốc Quảng Trị, Bác Hồ biểu dương: “Các cụ đã tuổi cao tóc bạc, mà vẫn hăng hái tham gia kháng chiến. Thật là xứng đáng với bô lão đời nhà Trần. Thật là lão đương ích tráng. Một dân tộc mà già trẻ một lòng, kiên quyết như dân ta thì kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất và độc lập nhất định thành công...”72.
Ngày 13/11/1962, đến với bộ đội Hải quân tại căn cứ Vạn Hoa (Quảng Ninh), sau khi kể chuyện danh tướng Trần Khánh Dư dùng mưu đánh chiếm đoàn quân lương của nhà Nguyên Mông, Bác căn dặn: “Là chiến sỹ hải quân, các chú phải biết yêu quý đảo như nhà mình, chịu khó cải tạo xây dựng thành những mảnh đất vừa giàu, vừa đẹp, vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho đất nước”73.
Ngày 13/11/1967, Bác gửi thư khen Trung đội nữ dân quân xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa đã bắn rơi một máy bay phản lực Mỹ, với lời khen tặng: “Các cháu càng làm rạng rỡ thêm truyền thống của phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảm đang”74.
Ngày 14/11
"Kiến thiết thì phải có nhân tài”.
Ngày 14/11/1942, tại nhà ngục Nam Ninh (Trung Quốc), Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ chữ Hán có nhan đề: “Việt hữu tao động” (Việt Nam có bạo động) gửi gắm ý chí của một nhà cách mạng đang bị hãm trong tù. Bản dịch của Nam Trân:
“Thà chết chẳng cam nô lệ mãi,
Tung bay cờ nghĩa khắp trăm miền;
Xót mình giam hãm trong tù ngục,
Chưa được xông ra giữa trận tiền”75.
Ngày 14/11/1945, Báo Cứu Quốc đăng bài “Nhân tài và Kiến quốc” ký tên Hồ Chí Minh với lời kêu gọi: “Sau 80 năm bị bọn Pháp thực dân giày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có lòng sốt sắng của dân là rất cao. Nay muốn giữ vững nền độc lập thì chúng ta phải đem hết lòng hăng hái đó vào con đường kiến quốc... Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều... Vậy chúng tôi mong rằng đồng bào ta ai có tài năng và sáng kiến về những công việc đó, lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay”76.
Ngày 14/11/1950, Bác gửi công điện cho đồng bào Sơn Hà (Quảng Ngãi) sau vụ biến loạn ở địa phương có một phần nguyên nhân do cán bộ làm sai. Bác khuyên đồng bào “mau mau tỉnh ngộ, trở về yên phận làm ăn, chớ nghe lời giặc lừa phỉnh”77 và “rất mong đồng bào nghe lời thân ái đoàn kết của tôi, mau mau quay về với Chính phủ... Nếu cán bộ địa phương có điều gì sai lầm, nếu đồng bào có việc gì oan ức, thì đồng bào phái đại biểu đến trình bày với tôi và Chính phủ… Tôi bảo đảm rằng tôi và Chính phủ sẽ trừng trị những cán bộ có lỗi, và sẽ làm cho đồng bào khỏi oan ức”78. Còn trong một bức điện mật gửi chính quyền và các đoàn thể Nam Trung bộ, Bác chỉ thị: “Phải dùng phê bình và tự phê bình, từ trên xuống, từ dưới lên, kiên quyết sửa chữa cho kỳ sạch”79.
Ngày 14 và 15/11/1965, Báo Nhân Dân đăng bài viết “Nhân dân và dư luận Nhật Bản nhiệt liệt ủng hộ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta”. Sau khi trích giới thiệu nhiều bài báo ở Nhật Bản lên tiếng tố cáo cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và bày tỏ sự ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, Bác viết: “Tôi xin phép thay mặt đồng bào ta cảm ơn sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân và dư luận nước Nhật Bản đối với cuộc chống Mỹ, cứu nước của chúng ta... Nhân dân ta từ Nam đến Bắc đoàn kết một lòng, kiên quyết chống Mỹ, cứu nước. Chúng ta lại được nhân dân và dư luận thế giới - trong đó có nhân dân và dư luận Nhật Bản nhiệt liệt ủng hộ và đồng tình... Cho nên giặc Mỹ nhất định sẽ thua, nhân dân ta nhất định sẽ thắng”80.
Ngày 14/11/1966, dự họp Bộ Chính trị thảo luận một số vấn đề quân sự và ngoại giao, Bác lưu ý: “Khi tuyên bố công khai về chủ trương vừa đánh vừa đàm, phải chú ý đến quan hệ của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc”81.
Ngày 14/11/1968, Bác tiếp Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ trước khi lên đường sang Pari dự cuộc đàm phán với Mỹ về việc chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Ngày 15/11
“Danh lợi dễ làm hư người”.
Ngày 15/11/1919, diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Ái Quốc với Pie Pátxkie (Pierre Pasquier), quan chức Bộ Thuộc địa Pháp (sau trở thành Toàn quyền Đông Dương) nhằm tham khảo ý kiến về việc xây dựng ngôi đền kỷ niệm những người Đông Dương chết trận trong Đại chiến I. Nguyễn Ái Quốc khuyến nghị nên quan tâm đến đời sống vợ con của những người chết trận và đặt thẳng vấn đề: “Mỹ sau 10 năm đã cho Philippin tự trị, Nhật vừa cho Triều Tiên tự trị sau 14 năm. Sao Pháp chưa làm gì cho Đông Dương?”82.
Ngày 15/11/1921, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Hội Liên minh Nhân quyền Pháp trong đã đưa ra 7 yêu cầu cấp thiết đối với nhân dân Việt Nam lúc này là: Ân xá chính trị phạm, cải cách pháp luật, tự do báo chí và tự do ngôn luận, tự do lập hội và hội họp, tự do xuất dương, du lịch ở nước ngoài... và đề nghị Hội tích cực can thiệp đòi Chính phủ Pháp thực thi những yêu cầu này.
Ngày 15/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ tốt nghiệp Khóa V Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam và căn dặn các học viên: “Anh em phải hết sức nghe mệnh lệnh của Chính phủ, trong công việc phải làm cho dân yêu mến và siêng năng hăng hái, làm gương cho đồng bào”83. Cùng ngày, Bác dự Lễ khai giảng khóa đầu của Trường Đại học Việt Nam trên cơ sở tiếp thu Đại học Đông Dương.
Ngày 15/11/1946, Bác cảm ơn đồng bào đã nhiệt thành ủng hộ phong trào “Mùa Đông binh sĩ”: “Chiếc áo trấn thủ mà đồng bào sẽ gửi cho anh em binh sĩ, trong mùa rét này, chẳng những sẽ giúp anh em giữ được sức mạnh để bảo vệ đất nước, mà lại còn khiến anh em luôn luôn nhớ đến tình thân ái nồng nàn của đồng bào ở hậu phương84.
Ngày 15/11/1948, viết bài báo “Bệnh tự kiêu” đăng trên tờ “Sự Thật”, Bác yêu cầu: “Mỗi một người và tất cả mọi người chúng ta phải tẩy cho sạch bệnh tự kiêu, tự ái. Đó là hai thứ bệnh rất nguy hiểm cho đạo đức và công việc”85.
Ngày 15/11/1950, dự phiên họp của Chính phủ, nhân nói đến vụ án Trần Dụ Châu, Đại tá Giám đốc Nha Quân nhu bị tử hình vì tội tham ô... Bác phát biểu: “Về vụ Trần Dụ Châu, chúng ta phải chịu một phần trách nhiệm, chúng ta không có chính sách cán bộ đúng. Chúng ta sinh trưởng trong một xã hội lạc hậu, nhiễm thực dân phong kiến, xã hội cũ hám danh hám lợi, danh lợi dễ làm hư người... Bây giờ chúng ta dùng cán bộ để cải tạo xã hội mà không có chính sách cải tạo cán bộ, đó là khuyết điểm... Lúc tìm người phải tìm cả tài, cả đức, chú trọng tư tưởng. Nếu cán bộ biết thương dân, tiếc của dân thì không xảy ra việc đáng tiếc... Chúng ta hay nể nả. Mình chỉ biết mình thanh liêm là đủ. Quan niệm “thanh cao tự thủ” là không đủ... Phải mở cửa khuyến khích lãnh đạo tự phê bình và phê bình”86.
Ngày 15/11/1951, trong “Lời kêu gọi ngụy binh quay về với Tổ quốc”, Bác viết: "Tôi thiết tha kêu gọi các người mau mau quay về với Tổ quốc, các người sẽ được đối đãi tử tế.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Con Hồng cháu Lạc phải thương nhau cùng”87.
Ngày 15/11/1959, trong bài “Cần Kiệm” trên Báo Nhân Dân, Bác phân tích: “Cần để nâng cao không ngừng năng suất lao động. Kiệm để tích trữ thêm vốn, mở rộng sản xuất. Kiệm mà không Cần thì cũng vô ích. Cần mà không Kiệm thì tay không lại hoàn tay không”88.
Ngày 16/11
“Ai cũng muốn sống tự do”.
Ngày 16/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội đồng Chính phủ bàn về các vấn đề liên quan đến bầu cử, vấn đề khuyến nông và tư pháp. Bác đề nghị Chính phủ ra thông báo nói rõ ai cũng có quyền ứng cử, dù ở đảng phái nào hay không đảng phái.
Ngày 16/11/1946, tham dự lễ khai mạc “Xung phong Mùa Đông binh sỹ”, Bác đã phát biểu: “Nước ta được giải phóng là nhờ có xương máu của toàn dân và xương máu của các chiến sỹ đã hy sinh nơi tiền tuyến. Trong lúc ở hậu phương chúng ta có gia đình ấm áp, thì ở tiền phương, các binh sỹ đang phải chịu rét mướt. Vậy nên toàn quốc đồng bào ai cũng có bổn phận góp phần vào cuộc vận động Mùa Đông binh sĩ. Một nước mà toàn thể đồng bào đoàn kết như thế, không một sức mạnh nào có thể thắng được và nhất định chúng ta phải được độc lập và thống nhất”89. Bác đã hiến hai chiếc áo của mình để gửi các chiến sỹ ngoài mặt trận.
Cùng ngày, Bác họp báo trả lời những vấn đề thời sự. Về kết quả bầu cử tại nước Pháp, Bác khẳng định: “Dù là phái hữu thắng hay phái tả thắng, nhân dân Pháp bao giờ cùng vẫn như trước: Nghĩa là ủng hộ nền độc lập và thống nhất của Việt Nam... Còn dân Việt Nam, thì dù phái hữu thắng hay phái tả thắng trong cuộc tuyển cử ở Pháp, dân Việt Nam cũng phải đòi cho được độc lập và thống nhất, tuy vẫn ở trong Khối Liên hiệp Pháp”90. Về chủ trương Liên bang Đông Dương do Pháp đưa ra, Bác trả lời: “Để làm thành một cái gì giam trói, ràng buộc quyền tự do, quyền sinh hoạt của chúng tôi, nhất định không thể xong được. Bởi vì ai cũng muốn sống tự do. Và không ai nên tìm cách lừa bịp lẫn nhau”91.
Ngày 16/11/1953, Báo Nhân Dân đăng bài thơ của Bác có nhan đề: “Kế hoạch Nava, đầu voi đuôi chó” biểu dương quân và dân Ninh Bình, Thanh Hóa chống càn thắng lợi và nhắc nhở:
“Quân dân ta anh dũng
Đánh cho giặc phải tan
Đuổi chúng khỏi Nho Quan
Ngăn chúng vào Thanh Hóa
20 ngày ròng rã
Diệt chúng gần 4 ngàn,
Kế hoạch Nava tan
Thành đầu voi đuôi chó.
Tuy vậy
Kẻ thù đang còn đó,
Chó dại sẽ cắn càn
Chúng ta chớ chủ quan
Chúng ta chớ khinh địch
Giặc có thể đột kích
Chúng ta phải đề phòng
Quân dân đoàn kết một lòng,
Kháng chiến thắng lợi, cờ hồng tung bay”92.
Ngày 16/11/1954, dự họp Bộ Chính trị bàn về thi hành Hiệp nghị Giơnevơ, Bác gợi ý về phương châm đấu tranh: “Cần huy động các đoàn thể nhân dân, kể cả những người công giáo tiến bộ ở Pháp... Đấu tranh phải có sự kết hợp giữa quần chúng và các đoàn thể. Đấu tranh phải liên tục, phải có mục tiêu cụ thể. Đấu tranh phải có hợp tác, trong hợp tác có phân công phù hợp vói từng ngành, từng người”93.
Ngày 16/11/1959, phát biểu tại Hội nghị Ban Bí thư thảo luận về quy hoạch thành phố Hà Nội, Bác căn dặn: “Trong thiết kế phải đồng bộ (đường sá, hệ thống thoát nước, lưới điện...), tránh cản trở sự đi lại của nhân dân; phải có quy hoạch trước, tránh làm rồi lại phá đi và phải thực hiện nhanh, nhiều, tốt, rẻ”94 và “lưu ý đặc biệt đến sự trợ giúp của các nước anh em”95.
Ngày 16/11/1967, Bác gửi thư khen và tặng Huy hiệu cho các chiến sỹ thuộc Trung đội nữ dân quân xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình đã bắn rơi tại chỗ một máy bay phản lực Mỹ.
Ngày 17/11
“Chân thành cảm ơn nhân dân Mỹ”.
Ngày 17/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội đồng Chính phủ nghe báo cáo kế hoạch của Bộ Canh nông, thảo luận về tổ chức và quyền hạn của các Ủy ban nhân dân, việc công bố bản dịch tiếng Pháp văn bản Dự thảo Hiến pháp. Buổi tối, Bác đến thăm cuộc họp trại của Hướng đạo sinh Việt Nam tổ chức tại Khu Việt Nam Học xá nhân kỷ niệm 15 năm Ngày thành lập tổ chức này.
Ngày 17/11/1946, Bác đi thăm tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Tại hai địa phương này, Bác đã thăm các linh mục người Pháp, động viên các nhà hoạt động tôn giáo gìn giữ hòa khí đoàn kết lương giáo. Bác còn thăm nhiều trường học, bà con Hoa kiều và đến thăm hai làng Phù Lưu và Đình Bảng là địa điểm dự phòng cho kỳ họp thứ 2 của Quốc hội giữa lúc nguy cơ bùng nổ chiến tranh đang đến gần. Cùng ngày, Bác gửi Thông điệp tới Cao ủy Pháp ở Sài Gòn, một lần nữa khẳng định: Nam bộ là đất của Việt Nam phù hợp với Tạm ước 14/9 và mong muốn các giải pháp thương lượng hòa bình, tránh dùng vũ lực trong quan hệ Việt - Pháp.
Ngày 17/11/1948, Bác khai mạc phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Nhật ký Bộ trưởng Lê Văn Hiến ghi chép: Có mặt trên 20 vị. Cụ Phạm Bá Trực thay cho cụ Bùi Bằng Đoàn đại diện Quốc hội. Từ sáng đến 12 giờ đêm, Hội đồng bàn gần 50 vấn đề... Hội đồng họp xong, Hồ Chủ tịch ra về ngay, mặc dầu đêm đã khuya và rét mướt. Trước khi ra đi, Cụ dặn ai nấy sáng mai đều phải phân tán ngay. Có tin Pháp tấn công Việt Bắc trong hạ tuần tháng 11 này.
Ngày 17/11/1950, Bác viết “Thư gửi Hội nghị Hòa bình ở Việt Nam” nhân sự kiện thành lập Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam. Thư khẳng định: “Nhân dân Việt Nam ta cũng như nhân dân các nước trên thế giới đều yêu chuộng hòa bình, để xây dựng một xã hội dân chủ tốt đẹp... Muốn giữ gìn hòa bình một cách thiết thực thì phải ra sức chống đế quốc chủ nghĩa”96 và cuộc kháng chiến của Việt Nam “là chúng ta đang chặt cái gốc chiến tranh đế quốc, đang giúp sức bảo vệ hòa bình”97. Vì vậy, nhiệm vụ của mọi người là “đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ toàn dân Việt Nam, để kháng chiến lâu dài, để đánh tan bọn thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ”98 .
Cùng ngày, Bác ký rất nhiều sắc lệnh liên quan đến nhiều lĩnh vực của công cuộc kháng chiến và kiến quốc, đáng chú ý là sắc lệnh thành lập trong Bộ Giáo dục một Vụ Văn học và Nghệ thuật gồm các ngành văn hóa (văn, sử, địa, triết học, kinh tế, ngôn ngữ, văn tự) và các ngành nghệ thuật (âm nhạc, ca kịch, hội họa, kiến trúc). Văn bản này là tiền đề cho sự ra đời nhiều cơ quan quản lý và tổ chức nghề nghiệp sẽ hình thành, thúc đẩy sự phát triển văn học nghệ thuật và khoa học xã hội nhân văn trong bối cảnh cuộc kháng chiến còn đang vô cùng gian khổ.
Ngày 17/11/1953, trong bài báo “Tinh thần quân lính Mỹ” với bút danh “Đ.X” đăng trên Báo Cứu Quốc, Bác phân tích tinh thần lính Mỹ khi tham gia các cuộc chiến tranh can thiệp ở nước ngoài thường gặp những khủng hoảng về mục tiêu chiến đấu dẫn đến tinh thần bất mãn, phản chiến, để đi đến nhận định: “Chỉ có quân đội cách mạng mới có tinh thần quyết chiến quyết thắng, mới được nhân dân kính trọng và tin yêu”99 .
Ngày 17/11/1954, tham dự họp Bộ Chính trị thảo luận đề án chuẩn bị cho việc thực hiện hiệp thương, tổng tuyển cử theo tinh thần của Hội nghị Giơnevơ. Phân tích tình hình thực tế, Bác yêu cầu phải nghiên cứu kỹ để có những chính sách phù hợp đối với các tôn giáo.
Ngày 17/11/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư trả lời giáo sư Lainet Pôlinh của Mỹ, người đã chuyển bản Tuyên bố của 8 nhà trí thức đã được Giải thưởng Nôben về Hòa bình. Bức thư cảm ơn nhân dân Mỹ đã kiên quyết đấu tranh đòi Chính phủ Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Bức thư cũng xác tín: “Hòa bình thật sự quyết không thể tách rời tự do và độc lập thật sự của dân tộc... Sự xâm lược của Mỹ là nguồn gốc duy nhất, là nguyên nhân trực tiếp của tình hình nghiêm trọng hiện nay ở Việt Nam... Nhân dân chúng tôi đánh giá cao những cuộc đấu tranh ấy của nhân dân Mỹ và rất xúc động trước những tấm gương anh dũng hy sinh của bà cụ Henga Hécdơ cũng như của các chiến sĩ hòa bình Noman Morixơn, Rôgiơ Lapotơ và chị Xilin Giancaoxki gần đây (là tên những người Mỹ đã hy sinh khi đấu tranh ủng hộ Việt Nam). Nhân dịp này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn nhân dân Mỹ đang kiên quyết đấu tranh đòi Chính phủ Mỹ chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và xin gửi đến gia đình các liệt sỹ tấm lòng thương yêu, cảm phục của nhân dân Việt Nam chúng tôi”100.
Ban Biên tập (tổng hợp)
Còn nữa
Chú thích:
55. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 353.
56. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 365.
57. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 115.
58,59,60,61. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 390, 391, 521.
62. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t.9, tr. 311-312.
63. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 1, tr. 298.
64. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 356.
65. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 95-96.
66. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 121-122.
67. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 7, tr. 365-366.
68. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 340.
69. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 358.
70. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 75.
71. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309.
72. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 255.
73. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 310.
74. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 10, tr. 143.
75. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 359.
76. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, t. 99.
77,78,79. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 117, 118.
80 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 540.
81 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 9, tr. 483.
82. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 1, tr. 74.
83. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 75.
84. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 369.
85. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 515.
86. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 481-482.
87. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 333.
88. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 549.
89. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 370.
90,91. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 446, 448.
92 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 164-165.
93. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 523-524.
94,95. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 7, tr. 368.
96,97,98. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 123.
99 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 394.
100. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 543-544.