CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 186/TTr-CP Hà Nội, ngày 27 tháng 4 năm 2015
TỜ TRÌNH
Về dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi)
Kính gửi: Quốc hội
Thực hiện Nghị quyết số 07/2011/QH13 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011, ngày 30 tháng 12 năm 2011, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 433/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập Ban soạn thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi). Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức liên quan tiến hành soạn thảo dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi) (sau đây gọi là dự án Bộ luật). Chính phủ kính trình Quốc hội về dự án Bộ luật này với những nội dung cơ bản sau đây:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ (SỬA ĐỔI)
1. Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành được Quốc hội khóa Xthông qua ngày 21/12/1999 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật hình sự Việt Nam, phát huy thành tựu của BLHS năm 1985 (đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997). Sau hơn 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có những tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, thể hiện trên một số điểm lớn như sau:
Thứ nhất, từ khi được ban hành vào năm 1999, BLHS đã sớm đi vào cuộc sống và phát huy vai trò, tác dụng tích cực là công cụ sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Với những quy định tương đối có hệ thống, toàn diện về các nguyên tắc xử lý, chế định chung của chính sách hình sự, về tội phạm và hình phạt cũng như việc hình sự hóa khá nhiều hành vi nguy hiểm cao cho xã hội, BLHS một mặt đã thể hiện được tinh thần chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm, mặt khác tạo cơ sở pháp lý góp phần nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; tội phạm về kinh tế, ma túy và tội phạm tham nhũng...qua đó góp phần kiểm soát và kìm chế tình hình tội phạm, bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ hai, BLHS đã có nhiều quy định thể hiện tinh thần nhân đạo, chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, cụ thể như quy định về khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra; về các trường hợp loại trừ hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; về miễn trách nhiệm hình sự, miễn giảm hình phạt… Đặc biệt, BLHS đã quy định chặt chẽ hơn các điều kiện áp dụng hình phạt tử hình; mở rộng diện đối tượng không áp dụng, không thi hành hình phạt tử hình và thu hẹp diện các tội danh có quy định hình phạt tử hình. Các quy định này đã góp phần bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, nâng cao vai trò giáo dục, cảm hóa đối với người phạm tội, đồng thời giáo dục người dân ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, BLHS có những quy định phù hợp với xu hướng chung của quốc tế, tạo tiền đề quan trọng cho việc tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là các tội phạm mang tính quốc tế, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như tội phạm về ma túy, mua bán người, rửa tiền, khủng bố, tài trợ khủng bố; các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ cao… qua đó, góp phần vào việc thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập quốc tế.
2.Tuy nhiên, kể từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt. Việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích cực về kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường. Điều này đã làm cho BLHS hiện hành trở nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Mặc dù, năm 2009, Quốc hội khoá XII đã sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, nhưng do phạm vi sửa đổi chỉ giới hạn trong một số điều, nên chưa thể khắc phục được đầy đủ, toàn diện những bất cập của BLHS trong thực tiễn. Những bất cập, hạn chế của BLHS hiện hành được thể hiện ở một số điểm chủ yếu như sau:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng định hướng XHCN của nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đã mang lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm. Cùng với các luật khác trong hệ thống pháp luật nước ta, BLHS phải thể hiện đúng vai trò là công cụ hữu hiệu để bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, BLHS hiện hành nhìn chung vẫn là sản phẩm mang đậm dấu ấn của thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, do vậy, chưa thực sự phát huy tác dụng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các nhân tố tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển một cách lành mạnh. Một số quy định của Bộ luật tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. Mặt khác, nhiều tội phạm mới phát sinh trong quá trình vận hành nền kinh tế chưa được kịp thời bổ sung hoặc tuy đã được bổ sung, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, nhất là các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương mại, tài chính, ngân hàng, thuế, bảo hiểm, chứng khoán, tội phạm trong lĩnh vực môi trường,… Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và đòi hỏi cần phải tiếp tục hoàn thiện BLHS để góp phần bảo vệ và thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Thứ hai, do ban hành từ năm 1999, nên BLHS chưa thể chế hoá được những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết số 08/NQ-TW); Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48/NQ-TW) và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW). Trong các nghị quyết này Đảng ta chỉ rõ cần phải “coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế”. Đồng thời, “xử lý nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác”. Đây là những quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự mà BLHS cần phải được thể chế hóa một cách đầy đủ.
Đặc biệt, sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự với tính cách là công cụ pháp lý quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Theo đó, một mặt, BLHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng bảo đảm xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; mặt khác cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tạo điều kiện thuận lợi để người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng. Thực tiễn cho thấy, vẫn còn tình trạng quyền con người, quyền cơ bản của công dân, nhất là đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội vẫn chưa được tôn trọng một cách đầy đủ, toàn diện. Nhìn chung, người dân chưa thực sự cảm thấy an toàn về môi trường sống, vẫn còn xảy ra những vụ giết người, cướp của tàn bạo gây chấn động trong dư luận và gây tâm lý hoang mang trong một bộ phận nhân dân; người dân chưa thực sự yên tâm phát huy tính sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tích cực, chủ động tham gia phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật. Tình trạng ô nhiễm môi trường, mất vệ sinh an toàn thực phẩm, mất an toàn trong lao động, trong xây dựng, trong khi tham gia giao thông đã đến mức báo động. Đối với người bị kết án thì việc xóa án tích, nhất là đương nhiên được xóa án tích hiện nay rất phức tạp, thủ tục rườm rà chưa tạo điều kiện thuận lợi cho họ tái hòa nhập cộng đồng. Vì vậy, BLHS phải được tiếp tục hoàn thiện để góp phần tạo ra một khung pháp lý đủ mạnh nhằm bảo vệ một môi trường sống an lành cho người dân; bảo vệ tốt hơn các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; động viên khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân yên tâm tham đấu tranh phòng, chống tội phạm, phát triển kinh tế, sáng tạo khoa học.
Thứ ba,BLHS hiện hành chưa cập nhật được đầy đủ, kịp thời các hành vi vi phạm có tính chất phổ biến, nguy hiểm cao cho xã hội để có biện pháp xử lý hình sự thích đáng. Điển hình có thể kể tới các hành vi lạm dụng lao động trẻ em; chiếm đoạt, mua bán trái phép mô tạng, các bộ phận cơ thể người; vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ; lợi dụng bán hàng đa cấp để chiếm đoạt tiền, tài sản; các vi phạm trong các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, môi trường, công nghệ cao, v.v… Điều này chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ tư, BLHS hiện hành được ban hành từ năm 1999 trong bối cảnh nước ta chưa hội nhập sâu vào thế giới, nhiều điều ước quốc tế chúng ta chưa có điều kiện gia nhập, do vậy, chưa phản ánh được những đặc điểm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện hội nhập quốc tế, chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngày nay, xu thế chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của Việt Nam. Trên thực tế, nước ta đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong đó có các công ước về phòng chống tội phạm, như: Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961; Công ước về các chất hướng thần năm 1971; Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm 1988; Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; Công ước chống tham nhũng; Công ước chống tra tấn; các điều ước quốc tế liên quan đến chống khủng bố, tài trợ khủng bố, rửa tiền, cướp biển, bắt cóc con tin, ... Bên cạnh đó, cùng với quá trình hội nhập quốc tế, nước ta cũng đang phải đối mặt với sự gia tăng của các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các tội phạm do người nước ngoài thực hiện. Điều này, đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS để nội luật hóa các quy định về hình sự trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành viên và tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Ngoài ra, BLHS hiện hành cũng còn nhiều bất cập về mặt kỹ thuật lập pháp liên quan đến sự thống nhất giữa Phần chung và Phần các tội phạm; các dấu hiệu định tội, định khung của nhiều tội danh; các tội ghép; cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt của một số tội danh; chưa có sự nhất quán trong cách phân chia các chương tội phạm... Những bất cập này cũng ảnh hưởng lớn đến việc hướng dẫn thi hành và áp dụng các quy định của BLHS trên thực tế.
Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền của người dân. Do đó, việc xây dựng BLHS (sửa đổi) là hết sức cần thiết.
II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN BỘ LUẬT
1. Tổng kết thi hành BLHSnăm 1999
Để phục vụ cho việc xây dựng dự án Bộ luật, ngày 10/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1236/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch tổng kết thi hành BLHS năm 1999. Hoạt động tổng kết thi hành BLHS được thực hiện tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 21/21 Bộ, ngành, tổ chức có liên quan ở Trung ương[1]. Ngày 15/3/2014, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức có liên quan tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành BLHS theo hình thức trực tuyến với sự tham gia của đại diện các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; đại diện UBND tỉnh và các ban ngành địa phương,…
Bên cạnh hoạt động tổng kết thi hành BLHS, Bộ Tư pháp đã tổ chức các đoàn khảo sát liên ngành về tình hình thi hành BLHS năm 1999 tại 09 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc ba miền, đồng thời, tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm bàn về những bất cập, hạn chế của Bộ luật hiện hành và đề xuất sửa đổi, bổ sung đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng đã có văn bản đề nghị các Bộ, ngành phản ánh về những bất cập, hạn chế của BLHS liên quan đến lĩnh vực quản lý của Bộ, ngành mình và đề xuất sửa đổi, bổ sung[2].
2. Soạn thảo BLHS
a) Thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập
Ngày 30/12/2011, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 433/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập Ban soạn thảo BLHS (sửa đổi) do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Trưởng ban, với thành phần gồm Lãnh đạo của 16 Bộ, cơ quan ngang Bộ; Lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Trên cơ sở đó, ngày 05/03/2012, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định thành lập Tổ biên tập giúp việc cho Ban soạn thảo trong quá trình xây dựng dự án Bộ luật[3]và ngày 24/09/2012 đã ban hành Quy chế hoạt động của Ban soạn thảo, Tổ biên tập BLHS (sửa đổi).[4] Trong đó, Ban soạn thảo đã phân công một số Bộ, ngành chịu trách nhiệm chủ trì xây dựng dự thảo một số chương của BLHS, cụ thể như sau:
- Bộ Tư pháp: Phần chung và Chương XV - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình và Chương XVII - Các tội phạm về môi trường.
- Bộ Công an: Chương XI - Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, Chương XVIII - Các tội phạm về ma túy, chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, chương XX - Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính và chương XXIV - Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
- Tòa án nhân dân tối cao: Chương XII - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu, chương XVI - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Chương XIII - Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; Chương XXI - Các tội phạm về chức vụ và Chương XXII - Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
- Bộ Quốc phòng: Chương XXIII - Các tội xâm phạm trách nhiệm, nghĩa vụ của quân nhân.
Để tham mưu cho Ban soạn thảo trong suốt quá trình xây dựng dự án BLHS (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thành lập Nhóm chuyên gia tư vấn xây dựng dự án BLHS (sửa đổi) gồm các chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực pháp luật hình sự[5].
b) Báo cáo Chính phủ về mục tiêu, quan điểm và những định hướng cơ bản xây dựng dự án BLHS (sửa đổi)
Ngày 17/03/2014, tại phiên họp chuyên đề của Chính phủ về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp đã thay mặt Ban soạn thảo báo cáo để Chính phủ thảo luận và cho ý kiến về mục tiêu, quan điểm và những định hướng cơ bản xây dựng dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi). Nghị quyết số 22/NQ - CP ngày 22 tháng 03 năm 2014 của Chính phủ về phiên họp chuyên đề đã nhấn mạnh: “Bộ luật hình sự là một đạo luật lớn, rất quan trọng của Nhà nước ta. Việc sửa đổi, bổ sung lần này phải hướng tới mục tiêu xây dựng một Bộ luật hình sự có chất lượng và tính khả thi cao, có tính dự báo, tạo cơ sở pháp lý sắc bén để đấu tranh hữu hiệu phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường, bảo đảm mọi người được sống trong một môi trường xã hội an toàn, lành mạnh”.
Trên cơ sở kết quả tổng kết thực tiễn thi hành BLHS, ý kiến đề xuất sửa đổi, bổ sung BLHS của các Bộ, ngành và ý kiến chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 22/03/2014 của Chính phủ, Ban soạn thảo đã tổ chức xây dựng dự thảo BLHS (sửa đổi) và hồ sơ dự án Bộ luật.
c)Báo cáo Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương về một số nội dung cơ bản của việc sửa đổi, bổ sung BLHS
Ngày 13/09/2014, tại phiên họp lần thứ 16 của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã báo cáo xin ý kiến về một số nội dung cơ bản của việc sửa đổi, bổ sung BLHS. Tại Thông báo số 21-TB/BCĐCCTPTW ngày 19/09/2014 về kết quả Phiên họp thứ 16 Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã khẳng định cơ bản tán thành với các quan điểm lớn về sự cần thiết sửa đổi, bổ sung BLHS và những đề xuất của Bộ Tư pháp, trong đó nhấn mạnh "việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân kinh tế; bổ sung quy định về áp dụng biện pháp thay thế xử lý hình sự (xử lý chuyển hướng) đối với người chưa thành niên phạm tội; bổ sung quy định việc tham gia nhóm tội phạm có tổ chức; quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham những; giảm hình phạt tử hình trong dự thảo BLHS; bổ sung chế định tạm tha tù có điều kiện là phù hợp với chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp". Đồng thời lưu ý, đối với các vấn đề mới cần nghiên cứu thận trọng, chú ý đến tính khả thi, phù hợp với chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta và việc sửa đổi, bổ sung BLHS cần hạn chế quy định mang tính định tính, giảm hình phạt tù, tăng cường các biện pháp xử lý, giáo dục tại cộng đồng ...
d)Báo cáo Ban cán sự Đảng Chính phủ về Đề án “Nghiên cứu, đề xuất quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong BLHS (sửa đổi)” và Đề án "Giảm quy định hình phạt tử hình, hạn chế việc áp dụng hình phạt tử hình"
Ngày 24/12/2014, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã báo cáo xin ý kiến Ban cán sự Đảng Chính phủ về nội dung của hai Đề án này. Ban cán sự Đảng Chính phủ đã thảo luận, cho ý kiến chỉ đạo để tiếp tục hoàn thiện, trình Bộ Chính trị. Ngày 30/01/2015, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã thảo luận và tại văn bản số 392-CV/BCĐCCTPTW ngày 09/03/2015, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã thể hiện sự đồng tình với quan điểm của Ban cán sự Đảng Chính phủ về hai đề án này.
đ)Trìnhxin ý kiến Bộ Chính trị về Đề án “Nghiên cứu, đề xuất quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong BLHS (sửa đổi)” và Đề án "Giảm quy định hình phạt tử hình, hạn chế việc áp dụng hình phạt tử hình"
Ngày 12/02/2015, Ban cán sự Đảng Chính phủ đã trình xin ý kiến Bộ Chính trị về nội dung của Đề án “Nghiên cứu, đề xuất quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong BLHS (sửa đổi)” và Đề án "Giảm quy định hình phạt tử hình, hạn chế việc áp dụng hình phạt tử hình". Ngày 30/01/2015, Bộ Chính trị đã thảo luận, cho ý kiến về hai Đề án và chỉ đạo trình các vấn đề này xin ý kiến Quốc hội.
e) Tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia về pháp luật hình sự
Cơ quan chủ trì soạn thảo đã tổ chức các cuộc họp Hội đồng khoa học Bộ, nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo khoa học để lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, chuyên gia trong nước, nước ngoài về mục tiêu, quan điểm và những định hướng lớn sửa đổi, bổ sung BLHS; tổ chức các hoạt động khảo sát tại một số nước (Nga, Nhật, ...); nghiên cứu, biên dịch tài liệu liên quan đến pháp luật hình sự của một số nước (như: Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Úc, Cămpuchia, ….). Dự thảo BLHS (sửa đổi) đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để lấy ý kiến nhân dân, gửi xin ý kiến bằng văn bản của các Bộ, ngành, tổ chức có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các ý kiến góp ý đã được tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu, giải trình.
Ngày 06/02/2015, Hội đồng thẩm định liên ngành đã tổ chức cuộc họp thẩm định dự án BLHS (sửa đổi). Ngày 07/02/2015, Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 của Chính phủ cũng đã họp để cho ý kiến về dự án Bộ luật.
Ngày 02/3/2015 tại Phiên họp thường kỳ tháng 02/2015, Chính phủ đã xem xét và thống nhất về mục đích, yêu cầu, phạm vi điều chỉnh và những nội dung cơ bản của dự án BLHS (sửa đổi), đồng thời đã cho nhiều ý kiến chỉ đạo để Bộ Tư pháp nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý trước khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Ngày 27 tháng 03 năm 2015, Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội Tờ trình số 126/TTr-CP về dự án BLHS (sửa đổi), kèm theo dự thảo BLHS (sửa đổi) và các tài liệu theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ngày 07 tháng 04 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án BLHS (sửa đổi).
Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Báo cáo Thẩm tra của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội và ý kiến của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Bộ, ngành và chuyên gia có liên quan, Chính phủ đã chỉ đạo nghiên cứu tiếp thu, chuẩn bị Tờ trình dự án BLHS (sửa đổi), chỉnh lý dự thảo Bộ luật và Hồ sơ dự án Bộ luật để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
III. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG DỰ ÁN BỘ LUẬT
1. Mục tiêu
Việc sửa đổi, bổ sung BLHS lần này là nhằm xây dựng BLHS phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước sau Hiến pháp năm 2013; phát huy hơn nữa vai trò của BLHS với tư cách là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta.
2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Bộ luật
a) Thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, đường lối của Đảng thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020, đặc biệt là chủ trương: "Đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hoá quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế. Xử lý nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác". Đồng thời, quán triệt quan điểm cải cách thủ tục hành chính trong quá trình xây dựng dự án Bộ luật.
b) Bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, đặc biệt là tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm mọi người được sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh; đồng bộ với các luật, bộ luật đã được ban hành (như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hôn nhân và Gia đình, ...) cũng như các luật, dự luật đang được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới như các luật về quyền con người, quyền công dân.
c) Kế thừa, phát triển các quy định còn phù hợp của BLHS hiện hành; bổ sung những quy định mới để giải quyết những vướng mắc, bất cập đang đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
d) Hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự nhằm bảo đảm tính thống nhất nội tại của BLHS và tính thống nhất của hệ thống pháp luật; nâng cao tính minh bạch, khả thi và tính dự báo của BLHS.
đ) Đổi mới nhận thức về chính sách hình sự mà trọng tâm là đổi mới quan niệm về tội phạm và hình phạt, về cơ sở của trách nhiệm hình sự, về chính sách xử lý đối với một số loại tội phạm và loại chủ thể phạm tội, đảm bảo các quy định của BLHS không chỉ là công cụ pháp lý để các cơ quan chức năng đấu tranh, trấn áp tội phạm mà còn là cơ sở pháp lý để bảo vệ sự phát triển lành mạnh các quan hệ kinh tế - xã hội; để mọi người dân tự bảo vệ mình, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội; khuyến khích mọi người dân chủ động tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số nước trong khu vực và trên thế giới.
e) Nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên liên quan đến phòng, chống tội phạm, đặc biệt là Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Công ước chống tham nhũng; Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; Công ước chống tra tấn và trừng phạt hoặc đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phẩm giá khác; Công ước chống bắt cóc con tin năm 1979; Công ước Luật biển năm 1982; các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF).
IV. PHẠM VI SỬA ĐỔI, BỐ CỤC VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO BỘ LUẬT
1. Phạm vi sửa đổi
Căn cứ mục tiêu và quan điểm xây dựng dự án BLHS (sửa đổi) như đã báo cáo ở trên, phạm vi sửa đổi, bổ sung BLHS lần này được xác định là cơ bản và toàn diện.
Trên cơ sở phạm vi sửa đổi như vậy, dự thảo Bộ luật có tổng số 443 điều (tăng 99 điều so với BLHS hiện hành), trong đó giữ nguyên nội dung 43 điều, bãi bỏ 06 điều, bổ sung mới 68 điều và sửa đổi 329 điều (trong đó có 51 điều được tách ra từ 20 điều của BLHS hiện hành). Cụ thể như sau:
- Phần thứ nhất. Những quy định chung: Giữ nguyên nội dung 22 điều, bổ sung mới 27 điều, sửa đổi 58 điều (trong đó có 06 điều được tách ra từ 02 điều của BLHS hiện hành).
- Phần thứ hai. Các tội phạm: Giữ nguyên nội dung 24 điều, bổ sung mới 41 điều (các điều 146, 153, 166, 184, 185, 189, 201, 216 - 222, 235, 245 - 248, 267, 270, 294, 300 - 306, 309, 314, 315, 401, 404, 406, 409, 416 và 433), sửa đổi 272 điều (trong đó có 45 điều được tách ra từ 10 điều của BLHS hiện hành) và bãi bỏ 06 điều của BLHS hiện hành (các điều 83, 159, 165, 170, 178 và 269 của BLHS hiện hành).
- Phần thứ ba. Điều khoản thi hành: Bổ sung mới 3 điều (các điều 441, 442 và 443).
2. Bố cục của dự thảo Bộ luật
Dự thảo BLHS (sửa đổi) gồm có 26 chương và được thiết kế thành 03 Phần trên cơ sở kế thừa hai phần của BLHS hiện hành và bổ sung thêm Phần thứ ba quy định về điều khoản thi hành. So với Bộ luật hiện hành, dự thảo BLHS (sửa đổi) có bổ sung mới 02 chương ở Phần những quy định chung (Chương IV - Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự và Chương XI - Quy định đối với pháp nhân phạm tội). Có 05 chương của dự thảo Bộ luật (các chương 8, 12, 18, 21 và 23) được thiết kế gồm có các mục, trong mỗi mục là nhóm các quy định có tính chất gần nhau. Cụ thể:
a) Phần thứ nhất - Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 107)
Phần này gồm 12 chương, 104 điều, quy định về: 1) điều khoản cơ bản (từ Điều 1 đến Điều 4); 2) hiệu lực của BLHS (từ Điều 5 đến Điều 7); 3) tội phạm (từ Điều 8 đến Điều 19); 4) những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (từ Điều 20 đến Điều 26); 5) thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự (từ Điều 27 đến Điều 29); 6) hình phạt (từ Điều 30 đến Điều 45); 7) các biện pháp tư pháp (từ Điều 46 đến Điều 49); 8) quyết định hình phạt (từ Điều 50 đến Điều 59); 9) thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt (từ Điều 60 đến Điều 68); 10) xóa án tích (từ Điều 69 đến Điều 73); 11) quy định đối với pháp nhân là tổ chức kinh tế phạm tội (từ Điều 74 đến Điều 87); 12) quy định đối với người chưa thành niên phạm tội (từ Điều 88 đến Điều 107).
b) Phần thứ hai - Các tội phạm (từ Điều 108 đến Điều 440)
Phần này gồm 14 chương, 333 điều, quy định về 14 nhóm tội phạm cụ thể. Đó là: 1) các tội xâm phạm an ninh quốc gia (từ Điều 108 đến Điều 122); 2) các tội xâm phạm tính mang, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (từ Điều 123 đến Điều 155); 3) các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân (từ Điều 156 đến Điều 166); 4) các tội xâm phạm sở hữu (từ Điều 167 đến Điều 179); 5) các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình (từ Điều 180 đến Điều 189); 6) các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (từ Điều 190 đến Điều 230); 7) các tội phạm về môi trường (từ Điều 231 đến Điều 243); 8) các tội phạm về ma túy (từ Điều 244 đến Điều 266); 9) các tội xâm phạm an toàn công công, trật tự công cộng (từ Điều 267 đến Điều 341); 10) các tội xâm phạm quản lý hành chính (từ Điều 342 đến Điều 364); 11) các tội phạm về chức vụ (từ Điều 365 đến Điều 379); 12) các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (từ Điều 380 đến Điều 404); 13) các tội xâm phạm hoạt động quân sự (từ Điều 405 đến Điều 435); 14) các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (từ Điều 436 đến Điều 440).
c) Phần thứ ba - Điều khoản thi hành (từ Điều 441 đến Điều 443)
Phần này gồm 03 điều quy định về hiệu lực thi hành của BLHS, điều khoản chuyển tiếp và về việc quy định và áp dụng quy định về tội phạm và hình phạt trong luật khác (ngoài BLHS).
3. Những nội dung mới chủ yếu trong dự thảo BLHS(sửa đổi)
So với quy định của BLHS hiện hành, dự thảo Bộ luật lần này có những nội dung mới chủ yếu sau đây:
a) Những nội dung sửa đổi, bổ sung BLHS góp phần bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (chương XVIII):
- Phi tội phạm hóa đối với 02 tội danh trong chương này. Đó là các tội: kinh doanh trái phép và tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế (các điều 159 và 167 của BLHS hiện hành). Đồng thời, cụ thể hóa và bổ sung thêm các tội danh liên quan đến hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước trong từng lĩnh vực kinh tế cụ thể để thay thế cho tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.
- Quy định là tội phạm (tội phạm hóa) đối với 08 loại hành vi vi phạm nghiêm trọng trong các lĩnh vực kinh tế: vi phạm quy định về sử dụng điện (Điều 201); làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán (Điều 216); trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 217); gian lận bảo hiểm xã hội (Điều 218); gian lận bảo hiểm y tế (Điều 219); trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 220); vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản (Điều 222). Đặc biệt, dự thảo Bộ luật đã bổ sung một tội danh liên quan đến vấn đề cạnh tranh (Điều 221) nhằm trừng trị những hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về cạnh tranh, bảo đảm sự bình đẳng, lành mạnh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần bảo đảm cho kinh tế thị trường phát triển ổn định.
- Tăng phạt tiền với tính cách là hình phạt chính đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
- Quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với 06 tội thuộc chương này. Đó là các tội: buôn lậu; trốn thuế; cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán; sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán; thao túng giá chứng khoán; trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (các điều 190, 204, 213, 214, 215 và 220).
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm về môi trường (chương XIX):
- Cụ thể hóa các hành vi phạm tội gây ô nhiễm môi trường, tội vi phạm quy định về xử lý chất thải nguy hại (Điều 231 và Điều 232).
- Quy định là tội phạm đối với 02 loại hành vi vi phạm nghiêm trọng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường: vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình thủy lợi, hồ chứa, liên hồ chứa, đê điều và công trình phòng, chống thiên tai (Điều 234); vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông, các công trình về tài nguyên nước (Điều 235).
- Tăng mức phạt tiền (cả phạt chính và phạt bổ sung) đối với các tội phạm về môi trường.
- Tăng nặng hình phạt đối với tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 237) và tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ (Điều 241).
- Quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với 05 tội thuộc chương này. Đó là các tội: gây ô nhiễm môi trường; vi phạm quy định về xử lý chất thải nguy hại; đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam; huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản; huỷ hoại rừng (các điều 231, 232, 236, 239, 240).
b) Những nội dung sửa đổi, bổ sung BLHS thể hiện tinh thần đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tôn trọng và bảo đảm thực thi đầy đủ quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về điều kiện áp dụng hình phạt theo hướng hạn chế áp dụng hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt ngoài tù:
- Đối với phạt tiền là hình phạt chính (Điều 35): Mở rộng phạm vi áp dụng phạt tiền là hình phạt chính đối với các tội phạm ít nghiêm trọng, theo đó, số khoản có quy định phạt tiền là hình phạt chính đối với tội ít nghiêm trọng trong dự thảo Bộ luật tăng 35 khoản (từ 76 khoản lên 111 khoản) so với quy định hiện hành cũng như mở rộng phạm vi áp dụng phạt tiền là hình phạt chính đối với các tội phạm nghiêm trọng. Riêng đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường thì phạt tiền là hình phạt chính có thể áp dụng đối với cả tội rất nghiêm trọng. Đồng thời, nhằm tăng tính cưỡng chế và ý nghĩa răn đe, phòng ngừa của hình phạt tiền, dự thảo quy định trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu người bị kết án không chấp hành hình phạt tiền thì hình phạt tiền chuyển thành hình phạt tù có thời hạn, nếu đó là hình phạt chính.
- Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ (Điều 36): Mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với cả tội rất nghiêm trọng do vô ý (theo quy định hiện hành chỉ áp dụng đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng), đồng thời, quy định trường hợp người bị kết án không thực hiện các nghĩa vụ thì hình phạt này được chuyển thành hình phạt tù có thời hạn theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ bằng 01 ngày tù nhằm tăng tính cưỡng chế và ý nghĩa răn đe, phòng ngừa của hình phạt cải tạo không giam giữ. Đồng thời, bổ sung quy định về trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ; Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 4 giờ trong một ngày và không quá 5 ngày trong một tuần; Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với người già yếu, phụ nữ có thai.
- Đối với hình phạt tù: Không áp dụng hình phạt tù đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý (khoản 2 Điều 37). Đồng thời, tại Phần các tội phạm, số lượng các khoản (khoản 1) không quy định hình phạt tù tăng từ 06 khoản lên 28 khoản so với quy định hiện hành.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về hình phạt tử hình(Điều 39) theo hướng tiếp tục thể chế hóa chủ trương hạn chế hình phạt tử hình được xác định tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49/NQ-TW và bám sát tinh thần nội dung Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân.
- Quy định chặt chẽ các điều kiện áp dụng hình phạt tử hình nhằm thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt này, theo đó hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với một số đối tượng phạm một số loại tội đặc biệt nghiêm trọng. Cụ thể:
Về đối tượng: Ngườiphạmtộithuộcmộttrongcác đốitượnglà ngườitổchức, người phạm tội có tính chất côn đồ, tái phạm nguy hiểm, người thực hiện tội phạm một cách man rợ, dã man, tàn bạo hoặc có nhiều tình tiết tăng nặng.
Vềloạitội: Xuất phát từ tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm cũng như đặc điểm nhân thân của người phạm tội; yêu cầu bảo vệ khách thể bị xâm hại và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như khả năng trấn áp tội phạm bằng các biện pháp ngoài tử hình, trên cơ sở cân nhắc thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của một số nước (như: Trung quốc, Nga, Ka-dắc-xtăng, ...)[6] thì thấy rằng, hình phạt tử hình chỉ nên áp dụng đối với một số tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc loại tội chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam, xâm phạm tính mạng con người; tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do BLHS quy định. Trên tinh thần đó, dự thảo Bộ luật bỏ hình phạt tử hình đối với 07 tội danh. Đó là các tội: cướp tài sản; phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; chống mệnh lệnh; đầu hàng địch; phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược; chống loài người; tội phạm chiến tranh (các điều 167, 316, 407, 413, 436, 437, 438). Đồng thời, dự thảo Bộ luật tách tội vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 của BLHS hiện hành) thành các tội danh độc lập và chỉ giữ lại hình phạt tử hình đối với tội mua bán trái phép chất ma túy. Còn đối với các tội danh khác thì mức hình phạt cao nhất là tù chung thân (các điều 250, 251, 252, 253).
- Bổ sung đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình, đó là người từ 70 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. Việc bổ sung đối tượng này vào diện không áp dụng hình phạt tử hình thể hiện chính sách hình sự nhân đạo đối với những người đã đến tuổi thượng thọ - đối tượng được hưởng chế độ chúc thọ, mừng thọ của Nhà nước; được đặc cách hưởng chính sách bảo trợ xã hội (khoản 2 Điều 39).
- Mở rộng các trường hợp không thi hành án tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân nhằm góp phần hạn chế hình phạt tử hình trên thực tế, theo đó, ngoài trường hợp người bị kết án là phụ nữ có thai và phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi như quy định hiện hành thì bổ sung thêm hai trường hợp: 1) người bị kết án là người từ 70 tuổi trở lên; 2) người bị kết án tử hình không thuộc các đối tượng nêu trên nhưng sau khi bị kết án đã chủ động khắc phục hậu quả của tội phạm do mình gây ra, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (khoản 3 Điều 39).
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về chính sách xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội:
- Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội (Điều 89) theo hướng bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên: 1) bổ sung nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên trên tinh thần Công ước về Quyền trẻ em; 2) bổ sung quy định ưu tiên xem xét áp dụng các biện pháp thay thế xử lý hình sự trước khi quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên; 3) khẳng định nguyên tắc chỉ áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên, nhất là hình phạt tù sau khi đã xem xét, cân nhắc khả năng áp dụng các biện pháp tư pháp nhằm thể hiện tinh thần nhân đạo tại Điều 37 của Công ước về Quyền trẻ em là việc bắt, giam giữ hay bỏ tù trẻ em chỉ được dùng đến như một biện pháp cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về hình phạt tiền áp dụng đối người chưa thành niên theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng phạt tiền là hình phạt chính đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu họ có thu nhập hoặc tài sản riêng, nhằm đa dạng hóa chế tài không giam giữ áp dụng đối với đối tượng này, góp phần khắc phục tình trạng bất cập hiện nay của BLHS hiện hành là nếu họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có khả năng phải vào tù hoặc trường giáo dưỡng (Điều 99).
- Sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS hiện hành theo hướng giảm nhẹ hình phạt đối với người chưa thành niên đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 102).
- Bổ sung quy định về áp dụng biện pháp thay thế xử lý hình sự (xử lý chuyển hướng), theo đó, khi xử lý người chưa thành niên phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp này khi có đủ các điều kiện sau: 1) người chưa thành niên phạm tội có thái độ hối cải, thành thật khai báo, tự nguyện khắc phục hậu quả do mình gây ra; 2) thuộc trường hợp phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ; 3) người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng biện pháp thay thế xử lý hình sự. Biện pháp thay thế xử lý hình sự gồm có: khiển trách; hòa giải tại cộng đồng và giám sát, giáo dục tại gia đình hoặc giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức. Đây là quy định nhằm mục đích sớm đưa người chưa thành niên ra khỏi quy trình tố tụng hình sự và áp dụng các biện pháp xử lý khác mang tính giáo dục - phòng ngừa xã hội nhằm mục đích chính là giúp cho họ nhận rõ được lỗi lầm, có thái độ ăn năn hối cải, khắc phục sai phạm (các Điều từ 90 đến 93).
Thứ tư, bổ sung một chương riêng (chương IV) với 07 điều quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, trong đó, tiếp tục duy trì và cụ thể hóa 04 trường hợp như Bộ luật hiện hành (sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự), đồng thời, bổ sung thêm 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là: gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm pháp; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (các điều 24, 25, 26). Đặc biệt, đối với trường hợp phòng vệ chính đáng, dự thảo Bộ luật đã cụ thể hóa theo hướng xác định rõ những trường hợp đương nhiên được coi là phòng vệ chính đáng (khoản 2 Điều 22) nhằm tạo hành lanh pháp lý an toàn để người dân an tâm tự bảo vệ mình, tích cực tham gia phòng chống tội phạm; khuyến khích người dân tham gia các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học có tính chất “đột phá” vì lợi ích chung.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung quy định về chuẩn bị phạm tội; phạm tội chưa đạt; quyết định hình phạt; miễn, giảm hình phạt; xóa án tích:
- Sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS hiện hành về chuẩn bị phạm tội theo hướng: 1) thu hẹp phạm vi trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, theo đó, chỉ xử lý hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 19 tội danh được liệt kê cụ thể trong Bộ luật; 2) không xử lý hình sự đối với trẻ em từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có hành vi chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (Điều 14).
- Sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS hiện hành về che giấu tội phạm theo hướng người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác được BLHS quy định (khoản 2 Điều 18).
- Bổ sung trường hợp Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng mà không bị ràng buộc điều kiện phải trong khung liền kề nhẹ hơn của điều luật (ví dụ, người phạm tội bị kết án theo khoản 4 của điều luật thì hình phạt dưới mức thấp nhất của khung 4 không nhất thiết phải nằm trong khung 3 (là khung liền kề nhẹ hơn) mà có thể xuống khung 1 hoặc khung 2 của điều luật) nhằm góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Quy định này áp dụng đối với trường hợp người phạm tội là người xúi giục, giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể; người phạm tội lần đầu, có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ do luật định và số tình tiết giảm nhẹ nhiều hơn số tình tiết tăng nặng; người phạm tội đã bồi thường toàn bộ thiệt hại hoặc khắc phục toàn bộ hậu quả do hành vi phạm tội gây ra (khoản 2 Điều 54).
- Bổ sung quy định về tha tù trước hạn có điều kiện, theo đó, phạm nhân có thể được miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại khi có đủ 06 điều kiện như: phạm tội lần đầu; có nhiều tiến bộ, ý thức cải tạo tốt; có nơi cư trú rõ ràng; đã được giảm án; đã chấp hành được 1/2 thời hạn tù hoặc 15 năm đối với trường hợp tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn; đã chấp hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại (nếu có) và các quyết định khác của bản án, đồng thời, loại trừ một số trường hợp không áp dụng chế định miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại có điều kiện đối với người phạm tội; quy định nghĩa vụ mà người được miễn phải chấp hành cũng như hậu quả do vi phạm các nghĩa vụ này (Điều 64)[7].
- Sửa đổi, bổ sung quy định về án treo theo hướng quy định rõ các nghĩa vụ mà người được hưởng án treo phải thực hiện trong thời gian thử thách cũng như hậu quả của việc vi phạm các nghĩa vụ này (Điều 66).
- Sửa đổi, bổ sung quy định về xóa án tích nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bị kết án sớm ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng, theo hướng: 1) người được miễn hình phạt và người bị kết án về một tội do lỗi vô ý thì không bị coi là có án tích (khoản 2 Điều 69); 2) rút ngắn thời hạn xóa án tích so với quy định hiện hành và quy định rõ thời điểm xóa án tích được tính từ khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo (quy định hiện hành là từ khi chấp hành xong bản án) hoặc từ khi bản án hết thời hiệu thi hành. Đồng thời, sửa đổi điều kiện “không phạm tội mới” trong thời gian có án tích bằng điều kiện "không bị kết án về tội mới bằng bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật" để bảo đảm quyền được suy đoán không có tội theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 (các Điều 70 và 71); 3) đổi mới căn bản thủ tục đương nhiên xóa án tích theo hướng thuận lợi hơn cho người dân, theo đó, không quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận xóa án tích cho người đương nhiên được xóa án tích, đồng thời, không bắt buộc trong mọi trường hợp phải cấp giấy chứng nhận xóa án tích vì trên thực tế nhiều người dân không cần đến giấy này mà giao trách nhiệm cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp phải cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và nếu người bị kết án chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung, quyết định khác của bản án thì cơ quan này phải thông báo cho họ biết về việc họ phải chấp hành các nghĩa vụ này để được xoá án tích. Trường hợp xác định được người bị kết án đã có đủ điều kiện xoá án tích theo quy định thì Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp phải cập nhật thông tin này vào Lý lịch tư pháp của người đó và cấp Phiếu lý lịch tư pháp có ghi “không có án tích” khi được yêu cầu (khoản 4 Điều 70).
Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người (Chương XIV) theo hướng:
- Thiết kế lại các khung hình phạt của tội giết người (Điều 123) theo hướng giảm bớt các trường hợp giết người có thể áp dụng hình phạt tử hình, đồng thời, bổ sung thêm một số tình tiết tăng nặng đối với tội này là "giết vợ, chồng, anh chị em ruột".
- Quy định là tội phạm đối với hành vi khiêu dâm trẻ em (Điều 146) và hành vi chiếm đoạt mô, tạng, các bộ phận cơ thể người khác (Điều 153).
- Tăng nặng hình phạt đối với trường hợp phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng dẫn đến chết nhiều người (khoản 3 Điều 131).
Thứ bảy, sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân (Chương XV) theo hướng:
- Quy định là tội phạm đối với hành vi cản trở việc thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân; làm sai lệch kết quả trưng cầu ý dân (các Điều 159, 160) và hành vi cản trở công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân (Điều 166).
- Tăng nặng hình phạt đối với 06 tội thuộc nhóm này. Đó là các tội: xâm phạm chỗ ở của người khác; xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác; buộc người lao động, công chức, viên chức thôi việc trái pháp luật; xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân; xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (các điều 157, 158, 161, 162, 163, 165).
c) Những nội dung sửa đổi, bổ sung BLHS thể hiện tinh thần đổi mới quan niệm về tội phạm và hình phạt, về cơ sở của trách nhiệm hình sự, đồng thời khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ nhất, bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân và thiết kế thành một chương riêng (Chương XI) với 14 điều (từ Điều 74 đến Điều 87) quy định về nguyên tắc xử lý hình sự pháp nhân; phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân; các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân; về vấn đề quyết định hình phạt, miễn, giảm hình phạt, xóa án tích đối với pháp nhân. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn nước ta, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế[8], dự thảo Bộ luật xác định trước mắt, trách nhiệm hình sự của pháp nhân áp dụng đối với những pháp nhân là tổ chức kinh tế có hành vi phạm tội và cũng chỉ được áp dụng đối với 15 tội danh thuộc nhóm tội phạm về kinh tế, môi trường, tham nhũng, rửa tiền và tài trợ khủng bố. Dự thảo Bộ luật quy định hệ thống các chế tài xử lý hình sự đối với pháp nhân phạm tội, bao gồm:
- Hình phạt chính gồm: 1) phạt tiền; 2) tước quyền sử dụng giấy phép có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; 3) tước quyền sử dụng giấy phép vĩnh viễn hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
- Hình phạt bổ sung gồm: 1) cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; 2) cấm huy động vốn; 3) phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.
- Biện pháp tư pháp gồm: 1) tịch thu vật, tiền, hàng hóa, phương tiện trực tiếp liên quan đến tội phạm; 2) trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; 3) buộc công khai xin lỗi; 4) khôi phục lại tình trạng ban đầu; 5) thực hiện một số biện pháp nhằm ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra hoặc để phòng ngừa tội phạm.
Thứ hai, quy định là tội phạm đối với một số hành vi nguy hiểm cho xã hội trong các lĩnh vực nhằm đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm:
Dự thảo Bộ luật quy định là tội phạm (tội phạm hóa) đối với 20 loại hành vi vi phạm sau đây trong các lĩnh vực khác nhau:
- Đăng ký nuôi con nuôi và nhận cha, mẹ, con trái pháp luật; đăng ký hộ tịch trái pháp luật; tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (các điều 184, 185, 189).
- Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt cây giống cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc cây giống các loại cây khác có chứa chất ma túy (các điều từ Điều 245 đến Điều 248).
- Cố ý đặt, rải đinh hoặc vật sắc, nhọn trên đường bộ; sảnxuất, muabán, trao đổihoặctặngchocôngcụ, thiết bị, phầnmềmdùng đểtấncôngmạngmáytính, mạng viễnthông, phương tiện điện tử ; truycậptráiphéptàikhoảntài khoản ngân hàng của tổ chức, cá nhân chiếm đoạn tài sản; cố ý xâmphạm, tấncôngvàotrạmtrungchuyển Internetquốcgia, hệthốngcơ sởdữliệutênmiềnvà hệthốngmáychủtênmiễnquốcgia; sửdụngtráiphéptầnsốvô tuyến điệndànhriêngchomục đíchcấpcứu, antoàn, tìmkiếm, cứuhộ, cứunạn, quốcphòng, anninh; cố ý gâynhiễucó hại; thuthập, tàngtrữ, trao đổi, muabán, côngkhaihóathôngtinvề tài khoản ngân hàng; sảnxuấtmuabán, tàngtrữ, lưuhànhthẻngânhànggiả đểthựchiệnhànhvichiếm đoạttàisản; thiếtlập, quảntrị, điềuhànhwebsite đểkinhdoanhtráiphéptiền điệntử, dịchvụ, hànghóatrênmạngmáytính; cưỡng bức lao động (các điều 270, 294, 300, 301, 302, 303, 304, 305, 306, 309).
- Ra mệnh lệnh trái pháp luật (Điều 406); thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ công tác quân sự gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 409); vắng mặt trái phép (Điều 416).
Thứ ba, phi tội phạm hóa đối với 02 tội danh trong BLHS hiện hành. Đó là tội tảo hôn (một phần Điều 147 BLHS hiện hành) và tội không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính (Điều 268 BLHS hiện hành). Đồng thời, bổ sung quy định đối với người đã tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân nhưng chưa thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 3 Điều 108) nhằm khuyến khích việc tố giác tội phạm đặc biệt nguy hiểm này.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm sở hữu (Chương XVI) theo hướng:
- Bảo đảm đối xử bình đẳng giữa chính sách xử lý hành vi xâm phạm tải sản của Nhà nước với hành vi xâm phạm tài sản của cá nhân theo tinh thần của Hiến pháp 2013.
- Quy định phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với 08 tội xâm phạm sở hữu. Đó là các tội: công nhiên chiếm đoạt tài sản; trộm cắp; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; chiếm giữ trái phép tài sản; hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (các điều 171, 172, 173, 174, 175, 177, 178, 179).
- Tăng mức phạt tiền bổ sung đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu.
- Cụ thể hóa hành vi phạm tội, bổ sung tình tiết định khung tăng nặng đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 168 và Điều 174).
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm an toàn công công, trật tự công cộng (Chương XXI) theo hướng:
- Quy định phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng thuộc các tội: cản trở giao thông đường bộ; tổ chức đua xe trái phép; đua xe trái phép (các điều 269, 274, 275) và trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng thuộc tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 268).
- Cụ thể hóa hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng định khung đối với nhóm các tội xâm phạm an toàn giao thông (Điều 267).
- Quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với 02 tội thuộc chương này. Đó là các tội: tài trợ khủng bố và tội rửa tiền (Điều 313 và Điều 336).
Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (chương XXIV) theo hướng:
- Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung đối với 06 tội danh. Đó là các tội: truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội; không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội; ra bản án trái pháp luật; ra quyết định trái pháp luật; dùng nhục hình; bức cung (các điều 381, 382, 383, 384, 386, 387).
- Sửa đổi, bổ sung tội dùng nhục hình (Điều 386) và tội bức cung (Điều 387) trên tinh thần cập nhật nội dung Công ước chống tra tấn mà nước ta là thành viên.
- Sửa đổi, bổ sung tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc (Điều 388) theo hướng mở rộng chủ thể tội này, theo đó, ngoài Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự thì những người khác có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp cũng có thể trở thành chủ thể của tội này vì họ có cơ hội tiếp xúc với hồ sơ vụ án, vụ việc.
- Bổ sung tội không tôn trọng Toà án (Điều 404).
d) Những nội dung sửa đổi, bổ sung BLHS nhằm nội luật hóa các qui định có liên quan của điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, góp phần tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về chuẩn bị phạm tội theo hướng bên cạnh các hành vi chuẩn bị phạm tội đã được quy định như: tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm thì dự thảo Bộ luật còn bổ sung thêm hành vi thành lập, tham gia nhóm tội phạm để thực hiện một tội phạm cụ thể (Điều 14). Quy định này tạo cơ sở pháp lý để chủ động ngăn chặn sớm tội phạm xảy ra, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm, đồng thời phù hợp với tinh thần của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia mà nước ta là thành viên.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung tội mua bán người, tội mua bán trẻ em trên tinh thần Nghị định thư về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em mà nước ta là thành viên (Điều 149 và Điều 150).
Thứ ba, bổ sung tội bắt cóc con tin (Điều 314) và tội cướp biển (Điều 315) trên tinh thần các quy định của Công ước chống bắt cóc con tin năm 1979 và Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982 mà nước ta là thành viên.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung tội rửa tiền và bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội rửa tiền nhằm đáp ứng đầy đủ yêu cầu của các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) về phòng, chống rửa tiền mà nước ta phải tuân thủ với tư cách là thành viên APG (Điều 336).
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung các tội phạm về chức vụ (chương XXIII) theo hướng mở rộng khái niệm tội phạm về chức vụ bao gồm cả một số hành vi tội phạm về chức vụ xảy ra trong khu vực tư (ngoài Nhà nước) như: tham ô tài sản; nhận hối lộ; đưa hối lộ; môi giới hối lộ (Điều 365) nhằm góp phần thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
đ) Những nội dung sửa đổi, bổ sung BLHS góp phần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đồng thời thể hiện chính sách xử lý đối với những người có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, khắc phục hậu quả của hành vi phạm tội theo tinh thần Kết luận số 21-KL/TƯ của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI)
Thứ nhất, bổ sung quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng nhằm góp phần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng (Điều 28). Trên tinh thần đó, đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng sẽ không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội: nhận hối lộ và đưa hối lộ (Điều 367 và Điều 377).
Thứ ba, quy định là tình tiết giảm nhẹ đối với trường hợp người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm (Điều 51); bổ sung quy định về việc không thi hành án tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân trong trường hợp sau khi bị kết án tử hình, người bị kết án đã chủ động khắc phục hậu quả của tội phạm do mình gây ra, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (khoản 3 Điều 39).
e) Những nội dung sửa đổi, bổ sung BLHS góp phần hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự theo hướng nâng cao tính minh bạch, khả thi và tính dự báo trong các quy định của BLHS; bảo đảm tính thống nhất về mặt kỹ thuật giữa Phần chung và Phần các tội phạm cụ thể của BLHS và giữa BLHS với các luật khác
Thứ nhất, dự thảo Bộ luật được thiết kế gồm 03 phần: 1) Phần thứ nhất - Những quy định chung quy định các vấn đề về chính sách hình sự, những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt; 2) Phần thứ hai - Các tội phạm quy định 14 nhóm tội phạm bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội; 3) Phần thứ ba - Điều khoản thi hành là phần mới được bổ sung quy định về hiệu lực của Bộ luật hình sự và điều khoản chuyển tiếp để thay cho Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự như trước đây, bảo đảm phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, trong một số chương của dự thảo Bộ luật tách thành các mục theo từng nhóm vấn đề, nhóm tội phạm.
- Chương VIII - Quyết định hình phạt được tách thành 02 mục: 1) quy định chung về quyết định hình phạt; 2) quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể.
- Chương XII - Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội được tách thành 5 mục: 1) quy định chung về xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội; 2) các biện pháp thay thế xử lý hình sự; 3) các biện pháp tư pháp; 4) hình phạt; 5) quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, miễn giảm hình phạt, xoá án tích.
- Chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được tách thành 3 mục: 1) nhóm các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại; 2) nhóm các tội phạm trong lĩnh vực thế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; 3) nhóm các tội khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
- Chương XXI - Các tội xâm phạm an toàn công công, trật tự công cộng được tách thành 4 mục: 1) nhóm các tội xâm phạm an toàn giao thông; 2) nhóm các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông, mạng internet; 3) nhóm các tội phạm khác xâm phạm an toàn công cộng; 4) nhóm các tội phạm khác xâm phạm trật tự công cộng.
Thứ ba, dự thảo Bộ luật tách 21 tội ghép trong BLHS hiện hành thành 52 tội danh riêng để có chính sách xử lý phù hợp hơn, cụ thể:
- Tách tội phạm quy định tại Điều 91 BLHS hiện hành thành hai tội: tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân và tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 120 và Điều 121), đồng thời, điều chỉnh mức hình phạt đối với tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân theo hướng giảm mức tối đa khung 1 từ 12 năm tù xuống 10 năm tù và mức tối đa của khung 2 từ hai mươi năm tù hoặc tù chung thân xuống 15 năm tù.
- Tách tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120 BLHS hiện hành) thành 03 tội danh: tội mua bán trẻ em; tội đánh tráo trẻ em và tội chiếm đoạt trẻ em (các điều 150, 151, 152).
- Tách tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân (Điều 129 BLHS hiện hành) thành 02 tội danh: tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân và tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác (Điều 162 và Điều 163).
- Tách 04 tội ghép trong chương các tội phạm về ma túy (các Điều 194, 195, 196, 200 BLHS hiện hành) thành 14 tội danh khác nhau, đồng thời cụ thể hóa các hành vi phạm tội. Đó là các tội liên quan đến tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy; tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy; cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (các điều từ 250 đến 261 và các điều 264, 265).
- Tách 04 tội ghép trong chương các tội xâm phạm an toàn công công, trật tự công cộng (các Điều 205, 211, 215 và Điều 249 BLHS hiện hành) thành 08 tội danh khác nhau, đồng thời cụ thể hóa hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Đó là các tội: điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ; giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ; điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường sắt; giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường sắt; điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường thuỷ; giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường thuỷ; tổ chức đánh bạc; gá bạc (các điều 272, 273, 279, 280, 284, 285, 333, 334).
- Tách 03 tội ghép trong chương các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính (các Điều 263, 270, 275 BLHS hiện hành) thành 07 tội danh khác nhau, đồng thời cụ thể hóa hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Đó là các tội: cố ý làm lộ bí mật nhà nước; mua bán bí mật nhà nước; chiếm đoạt, tiêu hủy bí mật nhà nước; vi phạm các quy định về quản lý nhà ở; xây dựng, sửa chữa công trình xây dựng trái phép; xây dựng trên đất cấm xây dựng; tổ chức người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép; cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (các điều 348, 349, 355, 356, 357, 362, 363).
- Tách 03 tội ghép trong chương các tội xâm phạm trách nhiệm, nghĩa vụ của quân nhân (các Điều 327, 328, 336 BLHS hiện hành) thành 06 tội danh khác nhau, đồng thời cụ thể hóa các hành vi phạm tội. Đó là các tội: cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác quân sự ; vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự; cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh; chiếm đoạt hoặc huỷ hoại di vật của tử sỹ (các điều 419, 420, 421, 422, 432, 433).
- Tách tội tuyển mộ lính đánh thuê; tội làm lính đánh thuê quy định tại Điều 344 của BLHS hiện hành thành 02 tội danh độc lập: tội tuyển mộ lính đánh thuê (Điều 439) và tội làm lính đánh thuê (Điều 440), đồng thời, bổ sung mục đích của tội làm lính đánh thuê là nhằm chống lại một nước bạn của Việt Nam hoặc một phong trào giải phóng dân tộc tương tự như tội tuyển mộ lính đánh thuê.
Thứ tư, dự thảo Bộ luật đã giảm số lượng các điều luật có quy định tình tiết định tội là "đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm" thuộc chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của BLHS hiện hành từ 19 điều xuống còn 08 điều (các điều 191, 199, 201 - 203, 209, 221, 226).
Thứ năm, dự thảo BLHS (sửa đổi) đã điều chỉnh, cập nhật các từ ngữ trong các điều khoản của Bộ luật, nhất là các điều khoản quy định về các tội phạm trong các lĩnh vực chuyên ngành để bảo đảm sự thống nhất về thuật ngữ, thuận tiện cho việc áp dụng trên thực tế (ví dụ các tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, môi trường, công nghệ thông tin, an toàn giao thông, .....).
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN QUỐC HỘI
Trong quá trình soạn thảo, góp ý, các ý kiến đều thể hiện sự tán thành với mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, phạm vi sửa đổi, bổ sung và nhiều nội dung của dự thảo BLHS (sửa đổi). Tuy nhiên, dự thảo Bộ luật có một số vấn đề mới quan trọng làm thay đổi chính sách hình sự mà các ý kiến còn khác nhau, Chính phủ xin báo cáo Quốc hội như sau:
1. Về vấn đề quy định tội phạm và hình phạt trong luật chuyên ngành
Các ý kiến đều nhất trí cần phải có cơ chế sửa đổi, bổ sung BLHS sao cho linh hoạt hơn, đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là trong các lĩnh vực, quan hệ xã hội mới cũng như để thực hiện các cam kết trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên. Tuy nhiên, về cách thức sửa đổi, bổ sung BLHS như thế nào thì còn ý kiến khác nhau, cụ thể như sau:
Loại ý kiến thứ nhấtcho rằng, nên dùng luật chuyên ngành để sửa đổi, bổ sung BLHS, theo đó, BLHS cần ghi nhận về mặt nguyên tắc cho phép trong trường hợp thật cần thiết khi ban hành luật chuyên ngành, Quốc hội có thể quy định điều khoản sửa đổi, bổ sung BLHS về các tội phạm cụ thể ngay trong luật chuyên ngành đó mà không cần phải ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS như đã làm trong thời gian qua. Điều này góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quy trình sửa đổi, bổ sung BLHS và tiết kiệm chi phí. Đây cũng là cách thức được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Theo loại ý kiến thứ hai thì nên tham khảo kinh nghiệm các nước (Nga, Trung quốc, Đức Pháp, Nhật, Úc, Cămpuchia, ...) là cho phép quy định tội phạm và hình phạt trong luật chuyên ngành, mà không cần phải sửa đổi, bổ sung điều khoản cụ thể của BLHS. Sau một thời gian thực hiện quy định của luật chuyên ngành (có thể là 5 năm) sẽ tiến hành tổng kết, nếu thấy ổn định và phát huy hiệu quả trên thực tế thì sẽ tiến hành sửa đổi, bổ sung trực tiếp vào BLHS. Điều này cũng góp phần bảo đảm tính ổn định của BLHS với tính cách là văn bản mang tính pháp điển hóa cao.
Chính phủ thấy rằng, BLHS quy định tội phạm và hình phạt thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tương đối ổn định nhưng có lĩnh vực lại có tính biến động cao như các lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ,... Khi một lĩnh vực nào đó có sự thay đổi thì đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung BLHS, nếu không sẽ nảy sinh bất cập. Còn nếu liên tục ban hành các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS để đáp ứng yêu cầu thực tiễn thì sẽ gây tốn kém và phức tạp về thủ tục hành chính (mỗi lần sửa, dù chỉ 01 điều cũng phải bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập riêng và việc soạn thảo, chuẩn bị hồ sơ dự án luật, thẩm định, thẩm tra dự án luật thường kéo dài thời gian). Việc cho phép sửa đổi, bổ sung BLHS ngay trong luật chuyên ngành là nhằm góp phần khắc phục tình trạng này nhưng vẫn bảo đảm được quy trình sửa đổi, tính thống nhất của BLHS.
Trên tinh thần đó, dự thảo Bộ luật thể hiện theo loại ý kiến thứ nhất theo hướng cho phép trong trường hợp thật cần thiết khi ban hành luật chuyên ngành, Quốc hội có thể quy định điều khoản sửa đổi, bổ sung BLHS về các tội phạm cụ thể ngay trong luật chuyên ngành đó với những điều kiện chặt chẽ (Điều 443) mà không phải ban hành luật riêng để sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS như thời gian qua.
2. Về vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân và phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân
a) Về trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, việc quy định trách nhiệm hình sự pháp nhân trong BLHS là cần thiết. Thực tế trong những năm qua đã xảy ra những vụ việc do pháp nhân thực hiện gây hậu quả hết sức nghiêm trọng như các vụ việc của Công ty Vedan (Đồng Nai), Công ty Nicotex (Thanh hóa), làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Việc áp dụng các chế tài hành chính, dân sự không đủ sức răn đe sự vi phạm nên cần có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn sự vi phạm này.
Theo loại ý kiến thứ hai thì không nên quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vì theo quan niệm truyền thống thì chỉ truy cứu TNHS đối với cá nhân. Hơn nữa, hiện nay chúng ta đã có các chế tài hành chính, dân sự để xử lý các pháp nhân vi phạm. Ngoài ra, việc áp dụng chế tài hình sự sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
Chính phủ thấy rằng, vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân đã được ghi nhận trong pháp luật hình sự của nhiều nước. Qua nghiên cứu, hiện nay trên thế giới có 119 nước quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân (ví dụ: Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Australia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Vương quốc Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Slovakia, Hungari, Lavia, Estonia, Croatia,…), trong đó, khu vực ASEAN có 06 nước (Xin-ga-po, Ma-lai-xia, Thái Lan, Phi-li-pin, In-do-ne-xia và Căm-pu-chia). Đặc biệt,Trung Quốc là nước có nhiều nét tương đồng về truyền thống lập pháp với nước ta cũng đã có quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Ở nướcta, vấn đề này cũng đã được đặt ra từ khi xây dựng BLHS năm 1999. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, tình hình vi phạm của pháp nhân, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường, ... chưa đến mức nghiêm trọng và phổ biến như hiện nay và đề xuất quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân ở thời điểm đó cũng chưa xác định rõ phạm vi trách nhiệm và loại pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự. Hơn nữa, trách nhiệm hình sự của pháp nhân là một vấn đề phức tạp, cần có thời gian nghiên cứu thấu đáo hơn về mặt lý luận và thực tiễn. Do vậy, BLHS năm 1999 chưa quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Vấn đề này tiếp tục được đặt ra trong lần sửa đổi, bổ sung BLHS vào năm 2009, tuy nhiên, do việc sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2009 chỉ tập trung vào một số vấn đề cấp bách trước mắt mà thực tiễn đặt ra cần phải giải quyết ngay, nên vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân cũng vẫn chưa được giải quyết.
Chính phủ thấy rằng, trong thời điểm hiện nay, việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân là phù hợp, xuất phát từ các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, tình hình vi phạm pháp luật của pháp nhân kinh tế ở Việt Nam trong những năm gần đâyđang có chiều hướng gia tăng với mức độ nguy hiểm ngày càng nghiêm trọng, phổ biến là các vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, kinh doanh, thương mại, thuế, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, gây thiệt hại nghiêm trọng cho kinh tế - xã hội và cho đời sống của người dân, đòi hỏi cần phải có giải pháp mạnh để phòng ngừa và đấu tranh.
Thứ hai, thực tế cho thấy, cơ chế xử phạt vi phạm hành chính và bồi thường thiệt hại áp dụng đối với pháp nhân vi phạm tỏ ra bất cập, kém hiệu quả. Mặc dù quy trình xử phạt vi phạm hành chính đối với pháp nhân có ưu điểm là nhanh, kịp thời nhưng lại thiếu tính chuyên nghiệp, minh bạch và không giải quyết được triệt để quyền lợi của người dân bị thiệt hại mà họ phải tự chứng minh thiệt hại để yêu cầu bồi thường. Cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính không có đội ngũ cán bộ chuyên trách để điều tra, chứng minh vi phạm cũng như hậu quả của vi phạm. Vì vậy, cần quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân; góp phần xử lý mạnh mẽ hơn, nghiêm khắc hơn các pháp nhân vi phạm thông qua cơ chế tố tụng chặt chẽ, minh bạch với đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng chuyên nghiệp. Đây cũng là cách làm của Trung Quốc trong thời gian qua.
Thứ ba, trong điều kiện chúng ta đang triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua đã có nhiều đổi mới theo hướng mở rộng quyền cho các doanh nghiệp, đồng thời, theo mô hình doanh nghiệp hiện nay, nhiều quyết định quan trọng của pháp nhân là doanh nghiệp do tập thể thông qua (Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị hoặc Đại hội cổ đông). Vì vậy, nếu trong trường hợp này chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân thì sẽ không công bằng. Hơn nữa, có trường hợp khó xác định được cụ thể người phải chịu trách nhiệm chính để xử lý hình sự. Ngoài ra, trên thực tế cũng đã có trường hợp cá nhân lợi dụng danh nghĩa tập thể để thực hiện hành vi phạm tội nhằm trốn tránh trách nhiệm.
Thứ tư, thực tiễn cho thấy có một số khoảng trống trong việc xử lý vi phạm của pháp nhân, nhất là trong lĩnh vực tham nhũng, rửa tiền, buôn bán người, khủng bố, tài trợ khủng bố ..... thể hiện ở chỗ đối với cá nhân có hành vi vi phạm này thì bị xử lý hình sự, trong khi đó nếu pháp nhân cũng thực hiện các hành vi này, thậm chí là ở quy mô và mức độ nghiêm trọng hơn thì không xử lý được kể cả hình sự lẫn hành chính. Đây là bất cập cần được khắc phục và điều này cũng góp phần thực thi điều ước có liên quan mà nước ta là thành viên.
Thứ năm, với tư cách là quốc gia thành viên APG, nước ta có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), trong đó có Khuyến nghị 2 liên quan đến việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân". Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, nhất là vào cuối năm nay sẽ hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN, cơ hội các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài đầu tư, làm ăn ngày càng nhiều và ngược lại các doanh nghiệp nước ngoài cũng vào Việt Nam đầu tư, làm ăn. Nếu ta chỉ áp dụng cơ chế xử phạt hành chính đối với pháp nhân vi phạm thì sẽ có sự bất công là cùng hành vi vi phạm nghiêm trọng tương tự nhau mà doanh nghiệp nước ta hoạt động ở nước ngoài thì bị xử lý hình sự theo pháp luật của nước sở tại (nhất là ở 06 nước ASEAN có quy định xử phạt hình sự pháp nhân), còn đối với doanh nghiệp hoạt động ở nước ta (kể cả doanh nghiệp Việt Nam lẫn doanh nghiệp nước ngoài) thì chỉ bị xử phạt hành chính.
Ngoài ra, trong thời gian qua chúng ta đã tập trung nghiên cứu các vấn đề về lý luận liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân, như: loại pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự; loại tội mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự; các chế tài áp dụng đối với pháp nhân,... cũng như kinh nghiệm của một số nước về vấn đề này để có thêm những cơ sở, luận cứ cho việc bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân.
Trên tinh thần đó, dự thảo Bộ luật bổ sung Chương XI. “Những quy định đối với pháp nhân là các tổ chức kinh tế phạm tội” với một hệ thống các chế tài tương đối đa dạng và nghiêm khắc hơn các chế tài xử phạt hành chính thể hiện ở chỗ: 1) mức phạt tiền hình sự cao hơn mức phạt tiền hành chính áp dụng đối với pháp nhân; 2) dự thảo Bộ luật quy định một số chế tài không có trong cơ chế xử phạt vi phạm hành chính, như: tước quyền sử dụng giấy phép vĩnh viễn hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn. Đây là những biện pháp mạnh nhằm xử lý nghiêm, đồng thời ngăn ngừa khả năng pháp nhân tái phạm.
b) Về phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân là vấn đề mới, chưa có tiền lệ, do vậy cần phải hết sức thận trọng, có lộ trình, bước đi phù hợp, tránh gây xáo trộn lớn trong việc tổ chức thi hành chính sách về hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự. Trước mắt nên tập trung vào nhóm tội hiện đang gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo vệ sức khỏe cộng đồng cũng như đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Trên tinh thần đó, việc giới hạn phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với 15 tội danh thuộc nhóm tội phạm về kinh tế, môi trường, tham nhũng và tội rửa tiền, tài trợ khủng bố như dự thảo Bộ luật quy định là phù hợp.
Theo loại ý kiến thứ hai thì ngoài 15 tội như đề xuất trong dự thảo, cần nghiên cứu, mở rộng thêm diện các tội danh mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự nhằm bảo đảm bao quát đầy đủ các hành vi pháp nhân có thể vi phạm đến mức phải bị xử lý hình sự, như: đối với hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả hay hành vi vi phạm quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp quý hiếm được ưu tiên bảo vệ; vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm... để phù hợp với thực tiễn.
Chính phủ thấy rằng, việc bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân là vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp. Do vậy, cần phải thận trọng trong việc xác định phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo hướng chủ yếu tập trung vào nhóm tội phạm về kinh tế, môi trường và một số tội phạm khác theo yêu cầu hội nhập quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu hết các nước lần đầu quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đều thể hiện “sự thận trọng cần thiết” bằng cách khoanh vùng một số tội danh mà pháp nhân thường hay vi phạm (tính phổ biến), có mức độ nguy hiểm nhất định và dễ chứng minh trên thực tế. Việc dự thảo Bộ luật thể hiện phương án quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với 15 tội danh là thể hiện sự thận trọng cần thiết đối với một vấn đề phức tạp này (các điều 190, 204, 213, 214, 215, 220, 231, 232, 236, 239, 240, 313, 336, 367 và 377). Đây cũng là phương án được thể hiện trong Đề án về trách nhiệm hình sự của pháp nhân mà Ban cán sự Đảng Chính phủ đã trình xin ý kiến Bộ Chính trị và được nhiều ban, ngành trung ương liên quan nhất trí, trong đó có Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương.
3. Về vấn đề hạn chế hình phạt tử hình
Giảm tử hình là một chủ trương lớn của Đảng được thể hiện trong các nghị quyết về cải cách tư pháp và trong thực tiễn lập pháp hình sự nước ta. Chủ trương này hoàn toàn phù hợp với tinh thần bảo vệ các quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp năm 2013 và xu hướng hội nhập quốc tế của nước ta. Vì vậy, việc tiếp tục giảm hình phạt tử hình nhận được sự đồng thuận tuyệt đối của các cơ quan, tổ chức ở Trung ương và địa phương trong quá trình xây dựng dự án BLHS (sửa đổi). Các ý kiến đều thống nhất quan điểm về tiêu chí giảm tử hình cũng như chủ trương sửa đổi, bổ sung các quy định của BLHS về hình phạt tử hình theo hướng: 1) quy định rõ, cụ thể và chặt chẽ các điều kiện áp dụng hình phạt tử hình nhằm thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt này, theo đó hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với một số đối tượng (người tổ chức, người phạm tội có tính chất côn đồ, tái phạm nguy hiểm, người thực hiện tội phạm một cách man rợ, dã man, tàn bạo hoặc có nhiều tình tiết tăng nặng) phạm một số loại tội đặc biệt nghiêm trọng; 2) mở rộng diện đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình; 3) mở rộng các trường hợp không thi hành án tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân không giảm án nhằm góp phần hạn chế hình phạt tử hình trên thực tế; 4) thu hẹp diện các tội danh có quy định hình phạt tử hình.
Tuy nhiên, về các phương án đề xuất bỏ hình phạt tử hình đối với các tội danh cụ thể thì vẫn còn có ý kiến khác nhau.
Loại ý kiến thứ nhất nhất trí đề xuất bỏ hình phạt tử hình đối với 7,5 tội trong số 22 tội danh có quy định hình phạt tử hình trong BLHS hiện hành. Đó là các tội: cướp tài sản; phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; chống mệnh lệnh; đầu hàng địch; phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược; chống loài người, tội phạm chiến tranh (các Điều 167, 316, 407, 413, 436, 437 và Điều 438) và tội vận chuyển trái phép chất ma túy (tách từ Điều 194 BLHS hiện hành thành Điều 251 dự thảo).
Theo loại ý kiến thứ hai thì ngoài 7,5 tội danh nêu trên, cần bỏ hình phạt tử hình đối với 03 tội danh sau đây của BLHS hiện hành: 1) sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; 2) tham ô tài sản; 3) nhận hối lộ (các Điều 157, 278, 279 BLHS hiện hành), bởi vì, suy cho cùng thì các tội phạm này mang tính chất kinh tế, vì vụ lợi, người thực hiện hành vi phạm tội này nhằm mục đích thu lợi.
Ngoài ra, có ý kiến cho rằng, chưa nên bỏ tử hình đối với tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia.
Chính phủ thấy rằng, hiện nay chúng ta đang nỗ lực đấu tranh không khoan nhượng tệ nạn tham nhũng. Nhiều biện pháp đã được ban hành nhưng chưa có hiệu quả. Việc đặt vấn đề bỏ hình phạt tử hình đối với tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ - hai tội phạm tham nhũng đặc trưng nhất, nghiêm trọng nhất là chưa phù hợp, sẽ dẫn đến cách hiểu là pháp luật nương tay với các quan chức tham nhũng.
Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh: Đây là tội phạm hiện nay đang khá phổ biến và tạo ra nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khỏe của nhiều người. Do đó, cần tiếp tục duy trì hình phạt tử hình đối với tội phạm này.
Đối với tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia: Đây là tội phạm trước đây là một tội thuộc chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Đến năm 1999, tội phạm này được chuyển về chương các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Như vậy, đã có sự chuyển đổi nhận thức về khách thể xâm hại của tội này từ an ninh quốc gia sang trật tự, an toàn xã hội và do vậy, mức độ và yêu cầu bảo vệ khách thể đối với tội này cũng đã có sự thay đổi không còn ở mức cao như trước đây. Đối tượng xâm hại của tội này là tài sản dưới dạng các công trình, phương tiện tuy có tầm quan trọng về an ninh quốc gia, nhưng thuộc nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Do vậy, hình phạt tù chung thân đối với tội phạm này là đủ nghiêm khắc. Thực tiễn cũng cho thấy, trong khoảng 10 năm trở lại đây, các Tòa án không áp dụng hình phạt tử hình đối với những người phạm tội này. Trong một số trường hợp nhất định, người thực hiện hành vi phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia có thể bị xử lý về các tội phạm tương ứng trong BLHS, ví dụ: tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước CHXHCN Việt Nam (Điều 85 BLHS hiện hành) hoặc tội khủng bố (Điều 230a BLHS hiện hành) và do vậy, Tòa án vẫn có thể áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm các tội này.
Dự thảo Bộ luật thể hiện theo loại ý kiến thứ nhất, theo đó, dự kiến bỏ hình phạt tử hình đối với 7,5 tội /22 tội danh vẫn còn quy định hình phạt tử hình trong BLHS. Ngoài ra, đối với các tội danh chưa bỏ tử hình, dự thảo Bộ luật (Điều 63) cũng bổ sung quy định về việc áp dụng tù chung thân không giảm án đối với trường hợp người bị kết án tử hình được Chủ tịch nước ân giảm xuống tù chung thân nhằm bảo đảm rằng, những người này được giữ lại mạng sống nhưng bị cách ly hoàn toàn và vĩnh viễn ra khỏi đời sống xã hội.
Liên quan đến việc bỏ hình phạt tử hình, cũng có ý kiến đề nghị, ngoài 7,5 tội danh dự kiến bỏ hình phạt tử hình, thì cần tiếp tục rà soát để mở rộng hơn nữa diện các tội danh bỏ hình phạt tử hình mà thay vào đó là hình phạt tù chung thân không giảm án với tính cách là giải pháp thay thế cho hình phạt tử hình.
4. Về việc bổ sung cơ chế chuyển phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ thành tù trong trường hợp người bị kết án không chấp hành án phạt tiền, án cải tạo không giam giữ
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, trong thời gian qua, nhất là qua tổng kết thực thi BLHS cho thấy hình phạt tiền và hình phạt cải tạo không giam giữ tính khả thi không cao, hiệu quả kém, vì thế đã phần nào làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật. Thêm vào đó, một trong những định hướng lớn của việc sửa đổi BLHS lần này là bảo đảm tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội theo hướng ”giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm”. Theo đó, dự thảo Bộ luật có nhiều khoản quy định hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ là hình phạt chính. Tuy nhiên, để khắc phục những bất cập nêu trên, cần thiết bổ sung cơ chế chuyển phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ thành tù trong trường hợpngười bị kết án không chấp hành án phạt tiền, án cải tạo không giam giữ để bảo đảm tăng tính răn đe, phòng ngừa của hai hình phạt này. Nếu chờ để xử lý về tội không chấp hành án thì quá lâu, không hiệu quả và hầu như tội này không được xét xử trên thực tế. Đây cũng là kinh nghiệm của một số nước như Nhật, Đức, Pháp.
Theo loại ý kiến thứ hai thì cần phải cân nhắc hết sức thận trọng việc bổ sung quy định này bởi lẽ: 1) đây là việc chuyển đổi hình phạt theo hướng nặng hơn (từ không tù trở thành tù); 2) nếu chuyển đổi thì tỷ lệ chuyển đổi là bao nhiêu, đặc biệt là tỷ lệ chuyển tiền thành tù và trong trường hợp khung hình phạt được áp dụng không có quy định hình phạt tù; thủ tục, thẩm quyền chuyển đổi như thế nào cần phải được làm rõ; 3) quan hệ giữa quy định này với quy định của BLHS về tội không chấp hành án và quy định của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án cũng cần phải được làm rõ.
Chính phủ thấy rằng, việc bổ sung cơ chế chuyển phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ thành tù trong trường hợpngười bị kết án không chấp hành án phạt tiền, án cải tạo không giam giữ có tác dụng góp phần bảo đảm tính khả thi, tăng tính răn đe, phòng ngừa của hai hình phạt này. Trên tinh thần đó, dự thảo Bộ luật thể hiện theo loại ý kiến thứ nhất, theo đó, bổ sung quy định về chuyển đổi hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù trong trường hợp người bị kết án không chấp hành hai hình phạt này (khoản 4 Điều 35 và khoản 5 Điều 36).
5. Về việc lấy ý kiến Nhân dân đối với dự án BLHS (sửa đổi)
BLHS có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật cũng như trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; củng cố và thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Do đó, Chính phủ thấy rằng, cần tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Bộ luật này và trân trọng đề nghị Quốc hội xem xét, ban hành Nghị quyết về việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân trong khoảng thời gian 02 tháng đối với BLHS (sửa đổi) sau khi đã được chỉnh lý một bước trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 9; giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội chủ trì việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp kết quả lấy ý kiến Nhân dân, Chính phủ sẽ chỉ đạo Cơ quan chủ trì soạn thảo dự án BLHS (sửa đổi) phối hợp với Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan, tổ chức liên quan để tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Bộ luật trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp sau.
Trên đây là nội dung cơ bản của dự án BLHS (sửa đổi), Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
(Xin gửi kèm theo: (1) Dự thảo Bộ luật; (2) Bản thuyết minh về dự thảo Bộ luật; (3) Bảng so sánh dự thảo Bộ luật; (4) Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo Bộ luật; (5) Báo cáo lồng ghép giới trong xây dựng dự án Bộ luật; (6) Báo cáo của Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp; (7) Báo cáo thẩm định dự án Bộ luật; (8) Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của Hội đồng thẩm định; (9) Báo cáo tổng hợp và tiếp thu, giải trình ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương; (10) Báo cáo tổng kết thi hành BLHS năm 1999; (11) Tài liệu tham khảo pháp luật hình sự của một số nước)./.
TM. CHÍNH PHỦ |
|
Nơi nhận: - Như trên; - Ban Bí thư (để b/c); - Thủ tướng và các Phó Thủ tướng CP (để b/c); - UBTP, UBPL, UBQP&AN, UBCVĐXH của QH; - Ban Nội chính TW; - Văn phòng Trung ương Đảng; - Văn phòng Quốc hội; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Bộ Tư pháp; - VPCP: BTCN, các PCN, các Vụ: TH, KGVX, V.III; - Lưu: VT, PL (3). |
TUQ. THỦ TƯỚNG BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
(Đã ký)
Hà Hùng Cường |
[1] Bộ Tư pháp đã nhận được Báo cáo tổng kết thi hành Bộ luật hình sự của 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 21/21 Bộ, ngành, tổ chức có liên quan ở Trung ương.
[2] Bộ Tư pháp đã nhận được công văn của 08 Bộ, ngành phản ánh về những bất cập, hạn chế của Bộ luật hình sự hiện hành và đề xuất sửa đổi, bổ sung.
[3] Quyết định số 344/QĐ-BTP ngày 5/3/2012 thành lập Tổ biên tập BLHS (sửa đổi).
[4] Quyết định số 2574/QĐ-BSTBLHS(SĐ) ngày 24/9/2012 ban hành Quy chế hoạt động của Ban soạn thảo, Tổ biên tập Bộ luật hình sự (sửa đổi).
[5] Quyết định số 2636/QĐ-BTP ngày 07/11/2013 thành lập Nhóm chuyên gia tư vấn xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi).
[6] Theo số liệu do Cơ quan phòng chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc (UNODC) tại Hà Nội cung cấp thì tính đến thời điểm 30/6/2014 đã có 162 quốc gia và vùng lãnh thổ đã bãi bỏ án tử hình theo luật hoặc trên thực tế, trong đó:
- Có 100 nước đã bãi bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình.
- Có 55 nước có quy định hình phạt tử hình nhưng không áp dụng trên thực tế.
- Có 7 nước đã bãi bỏ hình phạt tử hình đối với "các tội thông thường", duy trì hình phạt tử hình đối với các tội ngoại lệ như một số tội theo luật quân sự trong hoàn cảnh đặc biệt.
- Có 37 nước và vùng lãnh thổ vẫn còn duy trì hình phạt tử hình đối với các tội phạm thông thường.
- Trong 10 nước thành viên ASEAN, có 2 nước đã bãi bỏ hình phạt tử hình (Căm-pu-chia và Phi-lip-pin); có 03 nước vẫn còn duy trì hình phạt tử hình hoặc có quy định hình phạt tử hình nhưng không áp dụng trên thực tế.
[7] Hiện nay, Bộ Công an cũng đang xây dựng Đề án thực hiện cơ chế tạm tha có điều kiện trong thi hành án phạt tù. Dự thảo Đề án này đã được Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương cho ý kiến tại phiên họp thứ 18 (ngày 30/01/2015).
[8] Qua rà soát, hiện có 119/173 quốc gia thành viên UNCAC có quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Trong hiệp hội các quốc gia ASEAN, hiện có 05 nước chính thức và 02 nước đang trong quá trình xem xét (trong đó có Việt Nam).