Hơn 40 năm về trước, nhằm mục đích “đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá” và buộc ta phải ký kết Hiệp định Pa-ri theo những điều khoản do Mỹ định ra, từ ngày 18/12 đến ngày 30/12 năm 1972, Tổng thống Mỹ Nich-xơn đã ra lệnh ném bom hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và một số tỉnh miền BÁc bằng máy bay chiến lược B52. Đây là một chiến dịch sử dụng B52 lớn nhất từ trước đến nay với quy mô, cường độ và số lượng phương tiện chiến tranh, số lượng bom đạn khổng lồ. Những cái đầu nóng ở Nhà Trắng khi đó tin chắc rằng: Hà Nội sẽ không thể chịu nổi một chiến dịch ném bom như vậy và nhất định sẽ bị khuất phục, phải ký Hiệp định theo ý đồ của Mỹ. Hơn 600 lần chiếc B52, hàng nghìn lần chiếc các loại máy bay hiện đại khác đã liên tục trong 12 ngày đêm rải xuống Hà Nội, Hải Phòng hàng vạn tấn bom đạn; phá hủy nhiều khu phố, nhà cửa, bệnh viện, trường học, công trình kinh tế, quốc phòng...và gây thương vong cho hàng nghìn người, trong đó có rất nhiều người già, phụ nữ, trẻ em. Đó là một tội ác “Trời không dung, đất không tha”, mãi mãi nhân dân ta không thể quên.
Nhưng chiến dịch 12 ngày đêm đánh trả B52 năm 1972 cũng chứng minh hùng hồn sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân Việt Nam: Quân và dân ta đã vượt qua vô vàn khó khăn, không sợ hy sinh, chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, đập tan cuộc không kích dã man và làm nên chiến thắng lịch sử, làm nên một trận “Điện Biên Phủ trên không ” vang dội năm châu; mở ra trang mới cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri theo những điều kiện của ta…
Hơn 40năm đã trôi qua, nhưng chiến thắng của chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa lịch sử; vẫn không phai mờ trong ký ức bao người; vẫn là một trong những chiến công vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Phát huy truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, nhằm tri ân công lao to lớn các thế hệ ông cha đã ngã xuống vì nền độc lập tự do của Tổ quốc và tiếp nối những công trình xuất bản Văn hóa uống nước nhớ nguồn do Dự án Văn hóa Trí tuệ Việt – Trung tâm Thông tin Truyền thông Vì môi trường phát triển, thuộc Liên hiệp các Hội KH&KT Hà Nội chủ trì thực hiện; hòa cùng dòng chảy Kỷ niệm 40 năm chiến thắng lịch sử Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không, tháng 12/1972 -12/2012, Dự án Văn hóa uống nước nhớ nguồn đã xuất bản tập sách đầy ý nghĩa nhân văn, đó là cuốn Huyền thoại Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không.
Cuốn sách vừa tái hiện phần nào lịch sử các trận chiến oanh liệt của quân và dân ta trong suốt thời kỳ kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đặc biệt là 12 ngày đêm của tháng 12 năm 1972. Đồng thời lần đầu tiên, Huyền thoại Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không đã ghi danh và trang trọng đăng các dòng tên của hơn 7000 liệt sĩ – những người con ưu tú của khắp mọi miền Tổ quốc đã anh dũng chiến đấu và hy sinh cao cả bảo vệ sự bình yên của bầu trời Tổ quốc qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta. Cuốn sách được xuất bản ghi đậm tâm tư, tình cảm và ý thức trách nhiệm của tập thể cán bộ lãnh đạo, PV, BTV Trung tâm Thông tin truyền thông Vì MTPT nhằm bảo tồn trong ký ức người đang sống hôm nay, với mong muốn: Hãy làm gì để luôn xứng đáng với sự hy sinh cao cả của các thế hệ đi trước; góp phần làm vơi đi những nỗi đau thương mất mát của thân nhân các gia đình liệt sĩ!
Sau đây Ban Biên tập Trang tin điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh xin giới thiệu cùng bạn đọc Cuốn sách Huyền thoại Hà Nội - Điện Biên phủ trên không (Theo Tạp chí Trí thức và Phát triển - Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, Bộ Sách điện tử Huyền thoại Điện Biên - Trang http://uongnuocnhonguon.vn).
Bối cảnh chung trước cuộc tập kích bằng B52
của không quân Mỹ vào Hà Nội
Chiến dịch tập kích bằng máy bay chiến lược B52 của không quân Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng năm 1972 hàm chứa một mưu đồ thâm hiểm và tàn bạo. Nó được tiến hành trong bối cảnh Mỹ - Ngụy đang tiếp tục bị thất bại nặng nề ở miền Nam trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và sự bế tắc theo hướng bất lợi cho Mỹ tại Hội nghị Pa-ri. Do bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mỹ vẫn muốn dùng vũ lực thông qua sức mạnh được coi là “bất khả chiến bại” của máy bay B52 ném bom hủy diệt Hà Nội nhằm buộc Việt Nam phải ký hiệp định Pari theo sự dàn xếp của Mỹ...Nhưng, những cái đầu hiếu chiến đã tính toán nhầm: Mỹ đã chuốc lấy thất bại thảm hại trong chiến dịch 12 ngày đêm ném bom hủy diệt Hà Nội!
Sân bay Utapao, Thái Lan, 1966; nơi xuất phát những chuyến B52 đến Việt Nam
Trong những năm 1969 - 1972, cùng với quá trình rút dần quân Mỹ về nước nhằm thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, chính quyền Nich-xơn đã sử dụng không quân như một công cụ chiến lược để thực hiện kế hoạch này với mục tiêu không thay đổi là tiếp tục bám giữ miền Nam Việt Nam - Một mục tiêu mà khi còn 50 vạn quân viễn chinh Mỹ ở đó, cũng không thực hiện được. Cho nên ngay từ những ngày đầu bước chân vào Nhà Trắng, đặc biệt là thời gian trước tháng 12/1972, Tổng thống Mỹ Ních-xơn đã không ngớt đưa ra những lời đe dọa: “Nếu Bắc Việt Nam không chịu đàm phán theo các điều kiện của Mỹ thì sẽ phải đứng trước khả năng bị xóa sạch bằng những cuộc tấn công ném bom tăng cường bằng B52 vô cùng ác liệt!”.
Bối cảnh chung và mưu đồ thâm độc của Mỹ
Năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã bước vào giai đoạn quyết định, nhưng cũng vô cùng gay go ác liệt. Ở miền Nam, cuộc tiến công chiến lược của quân và dân ta mùa Xuân năm 1972 làm cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Trước tình hình đó, để hòng cứu vãn tình thế, từ ngày 6 tháng 4 năm 1972, đế quốc Mỹ lại huy động lực lượng lớn không quân tập trung đánh phá trở lại miền Bắc lần thứ hai với quy mô lớn hơn và ác liệt hơn rất nhiều so với lần trước. Mặc dù vậy, không quân Mỹ vẫn không tránh khỏi bị tổn thất nặng nề; chỉ tính từ 9/5/1972 đến 20/10/1972 quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 561 máy bay các loại của Mỹ, diệt và bắt sống hàng trăm giặc lái...
Thực trạng trên chiến trường đã buộc chính quyền Ních-xơn phải “Mỹ hóa” trở lại bằng không quân và hải quân nhằm tiếp tục thực hiện và cứu vãn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và tìm mọi cách ngăn chặn cuộc tiến công của quân và dân ta; đặc biệt là ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam. Mặt khác, cuộc đàm phán ở Hội nghị 4 bên tại Pari đã kéo dài 4 năm mà vẫn chưa thể kết thúc khiến Mỹ bị mất uy tín trong nội bộ người Mỹ... Tất cả những yếu tố đó đã đặt chính quyền Mỹ lúc bấy giờ trước những sức ép không nhỏ và buộc Tổng thống Mỹ Ních-xơn phải cử Kít-xinhgiơ đến Pari để nối lại cuộc đàm phán.
Sau nhiều phiên họp kín căng thẳng, vào các ngày 8, 9, 10 tháng 10 năm 1972, phái đoàn ta đã đưa ra bản dự thảo hiệp định “Về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Phía Mỹ đã chấp nhận bản hiệp định này, nhưng lại lấy đó làm một con bài để lừa dư luận Mỹ, phục vụ cho cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm đó. Với bản chất phản động, ngoan cố, ngày 23 tháng 10 năm 1972 (chỉ 1 ngày sau khi Mỹ tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra), Mỹ đã tráo trở, dây dưa trì hoãn việc ký kết Hiệp định Pari như đã cam kết trước đó…
Vậy, vì sao Mỹ lại tráo trở không ký hiệp định như đã cam kết và đưa B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng?
Khi đó Mỹ đổ tại Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống chính quyền Sài Gòn không chịu ký. Thực ra, chuyện Nguyễn Văn Thiệu phản ứng kịch liệt với quan thầy Ních-xơn là điều có thật. Tuy nhiên, mọi người đều thừa hiểu rằng Thiệu làm sao có thể chống lại được quyết định của ông chủ Mỹ. Nhưng, vừa để khỏi bị mang tiếng là bỏ rơi “đồng minh”, vừa để gây sức ép tối đa buộc phía ta phải chấp nhận những điều kiện của Mỹ, một âm mưu cực kỳ hiểm độc đã hình thành trong bộ óc tàn bạo của Tổng thống Mỹ Ních-xơn; đó là đưa B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng, dùng sức mạnh hủy diệt của B52 làm áp lực để buộc chúng ta phải quỳ gối. Đó chính là lý do của sự bội ước trắng trợn của Mỹ sau ngày 20 tháng 10 năm 1972, mà về sau chúng ta mới rõ thêm.
Không thể đợi chờ và nín nhịn được nữa trước sự bội ước và thủ đoạn tráo trở của chính quyền Ních-xơn, ngày 26 tháng 10 Chính phủ ta ra tuyên bố công khai lên án sự quay quắt lật lọng của chính quyền Mỹ. Người phát ngôn của Chính phủ ta, trước đông đảo các nhà báo quốc tế ở Pari đã lên tiếng tố cáo: “Hòa bình đã ở đầu ngọn bút”, nhưng chính phủ Mỹ đã trở mặt, phản lại những điều đã thỏa thuận. Dư luận Mỹ và thế giới xôn xao.
Bị ta vạch mặt, Kít-xinh-giơ buộc phải tổ chức họp báo. Vốn là một kẻ gian ngoan, để che giấu âm mưu đen tối, một mặt Kít-Xinh-giơ thừa nhận nội dung của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra là đúng, mặt khác ông ta lại ỡm ờ thanh minh và lập lờ tuyên bố: “... Sau mười năm diễn biến, cuộc chiến tranh đã đến hồi kết thúc. Chúng ta tin rằng Hòa bình đang ở trong tầm tay”.
Đáng tiếc là thủ đoạn xảo trá của Kít-xinh-giơ, thông qua màn khói “Hòa bình trong tầm tay” đã đánh lừa và trấn an được dư luận Mỹ. Niềm hy vọng của nhân dân Mỹ lại được hâm nóng: Chiến tranh ở Việt Nam sắp chấm dứt; Con em họ sắp được trở về. Kết quả là Ních-xơn đã tái đắc cử Tổng thống Mỹ. Không phải ngẫu nhiên mà Mắc Ga-vơn đã gọi: “Ních-xơn là tên gian dối! Ních-xơn là tên lừa bịp”.
Ngay sau đó, trong khi chuẩn bị tiến hành một cuộc ném bom xuống Thủ đô Hà Nội, Ních-xơn cho Kít-xinh-giơ bay sang Pari họp tiếp, nhưng với nhiệm vụ trì hoãn và gây bế tắc hội nghị.
Thậm chí Ních-xơn còn bảo Chánh văn phòng Hen-đơ-men (H.R.Handerman) gọi điện mật nhắc nhở Kít-Xinh-giơ thêm: “Cần tránh những điều gì tỏ ra là chúng ta phá vỡ thương lượng. Nếu xảy ra tan vỡ thì phải là do phía Hà Nội gây ra. Trong bất cứ trường hợp nào phía chúng ta cũng không được tỏ ra là bên có sáng kiến chấm dứt thương lượng” (Chú thích: Theo Hồi ký của Ních Xơn).
Những ngày của tháng 11 năm 1972 ở Thủ đô nước Pháp, Kít-xinh-giơ đã gây ra lắm điều rắc rối cho hội nghị và liên tiếp giở trò “gắp lửa bỏ tay người”.
Ông ta đòi sửa 69 điều trong những điều mà hai bên đã thỏa thuận hồi tháng 10, lại đòi miền Bắc cùng rút quân, đòi miền Nam phải là một quốc gia riêng. Phía ta không nghe thì ông ta đổ tội cho ta là thiếu thiện chí, là cản trở cuộc hội đàm tiến triển.
Trong cuộc họp ngày 24 tháng 11, Kít-xinh-giơ hăm dọa: “Nếu các ông không tỏ ra biết điều, Tổng thống chúng tôi buộc sẽ ra lệnh ngừng đàm phán và tiếp tục các hành động quân sự mà hậu quả sẽ khó lường”.
Những ngày đầu của tháng 12/1972, Kít-xinh-giơ vẫn nhiều lần dọa dẫm: nếu cuộc thương lượng bị tan vỡ thì chiến tranh sẽ tiếp diễn với cường độ mạnh hơn... Và, đến lúc đó cuộc chiến tranh sẽ thay đổi tính chất, cuộc thương lượng cũng sẽ thay đổi tính chất. Mỹ sẽ không bàn bạc về hiệp định này nữa!
Ngày 7 tháng 12, Ních-xơn gửi điện mật báo cho Kít-xinh-giơ: “Chúng ta sẽ ném bom dữ dội Bắc Việt, nhưng sẽ không thông báo cho công chúng biết trước”. Nhưng ông ta lại chỉ thị Kítxinh- giơ vẫn phải tỏ ra mềm dẻo, tiếp tục “giữ cầu” đàm phán thêm một thời gian nữa. Thật là quỷ quyệt hết chỗ nói.
Để có thể đi đến ký kết hiệp định hòa bình, trong những ngày này, phía ta đã có nhiều nhân nhượng, nhưng cũng có những điều không thể nào nhân nhượng nổi. Cuối cùng đến ngày 13 tháng 12, cuộc đàm phán hoàn toàn bế tắc, phải dừng lại.
Cố vấn Lê Đức Thọ nhìn thẳng vào mặt Kít-xinh-giơ cảnh báo: “Các ông gieo gió ắt phải gặt bão”. Hôm đó, Cố vấn Lê Đức Thọ lên máy bay về Hà Nội, còn Kít-xinh-giơ bay về Oa-sinhtơn.
Ngày 14 tháng 12, dã tâm đen tối của Ních-xơn đã mở bung ra. Ông ta chính thức ra lệnh: “Hải quân tiếp tục rải thủy lôi phong tỏa các cảng biển và các cửa sông của Bắc Việt. Không quân bắt đầu cuộc tiến công bằng B52 vào Hà Nội, Hải Phòng”.
Theo đó, một kế hoạch chiến dịch được Lầu Năm Góc chuẩn bị hết sức chu đáo, tỉ mỉ từ trước (Chú thích: Kế hoạch tuyệt mật này được thông qua ngày 30/11/1972, với sự tham gia bàn bạc của Tổng thống Ních-xơn, cố vấn Kítxinh- giơ, Bộ trưởng Quốc phòng Le-dơ (Laird), Thứ trưởng Quốc phòng Hâygơ (Hang) và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (Mo-rơ) Moorer.), các tàu chiến Mỹ tiến hành việc thả thủy lôi, còn các phi công chiến lược ở Guam và U-ta-pao thì chuẩn bị sẵn sàng, để đến ngày 18 tháng 12 (theo giờ Hà Nội) lái những chiến oanh tạc cơ khổng lồ ầm ầm lao tới Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chiều 18 tháng 12, chiếc máy bay chở Cố vấn Lê Đức Thọ hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm thì chỉ mấy giờ sau, những loạt bom đầu tiên của B52 Mỹ đã dội xuống Hà Nội, mở màn cho một chiến dịch ném bom ác liệt chưa từng có trong lịch sử chiến tranh của Mỹ và đặc biệt là của lực lượng máy bay chiến lược B52. Chiến dịch 12 ngày đêm ném bom hủy diệt Hà Nội của đế quốc Mỹ là như vậy.
Chiến dịch mang tên Linebacker II:
Chiến dịch Linebacker II là chiến dịch quân sự cuối cùng của Mỹ chống lại miền Bắc Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam, từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972 sau khi Hội nghị Pari bế tắc và đổ vỡ. Chiến dịch này là sự nối tiếp của chiến dịch ném bom Linebacker I diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1972, nhưng có điểm khác biệt lớn là lần này trọng tâm sẽ là các cuộc tấn công dồn dập bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 thay vì các máy bay ném bom chiến thuật và mục đích là dùng sức mạnh và biện pháp không hạn chế đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tại chiến dịch này Hoa Kỳ đã sử dụng lực lượng không quân chiến lược với B-52 làm nòng cốt ném bom rải thảm huỷ diệt xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và các mục tiêu khác liên tục trong 12 ngày đêm. Đây là những cuộc ném bom dữ dội nhất trong Chiến tranh Việt Nam và là một trong những cuộc tập kích có cường độ cao nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh. Trong 12 ngày đêm ném bom hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng, Mỹ đã ném khoảng 17.000 tấn bom đạn.
Thực ra, trước khi tiến hành chiến dịch dùng B52 ồ ạt ném bom Hà Nội, Hải Phòng, Mỹ đã mở một đợt đánh phá dữ dội các chân hàng và các tuyến giao thông của ta ở khu vực Tân Kỳ, Đô Lương (Nghệ An). Đó có thể coi là nước cờ thăm dò cuối cùng mà Mỹ tiến hành nhằm hai mục đích là: Cắt đứt sự chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc cho chiến trường lớn miền Nam; làm suy yếu khả năng tấn công mùa khô của quân giải phóng và kéo lực lượng phòng không ở địa bàn Hà Nội vào đây. Theo đó, chỉ riêng trong tháng 11 năm 1972, Mỹ đã sử dụng 1.213 lần chiếc B52 đánh phá khu 4...
Sau này, khi đã rời ghế Tổng thống Mỹ, Nich-xơn còn viết trong hồi ký của mình: “Ngày 14 tháng 12 năm 1972, tôi ra lệnh tiếp tục thả mìn cảng Hải Phòng và tiến công bằng B52 vào khu vực Hà Nội, Hải Phòng. Ba ngày sau có hiệu lực. Đây là quyết định khó khăn nhất của tôi trong cuộc chiến này”. Cái mà ông Nich-xơn gọi là “quyết định khó khăn nhất” chính là chiến dịch Linebaker II - Cuộc tập kích chiến lược của Mỹ bằng B52 vào Hà Nội, Hải Phòng diễn ra từ 18/12/1972.
Theo các tài liệu của chính đối phương thì trong Chiến dịch Linebacker II, Mỹ đã huy động một lực lượng khổng lồ máy bay, tàu chiến loại hiện đại nhất khi đó để thực hiện cuộc ném bom hủy diệt với quyết tâm cao nhất nhằm “đè bẹp đối phương” trong một thời gian ngắn.
Đã có 1.192 máy bay các loại và nhiều loại vũ khí, trang bị khí tài hiện đại khác tham gia chiến dịch này. Về lực lượng cụ thể gồm có:
Máy bay B52: Có 193 chiếc/tổng số 400 chiếc (gần 50% tổng số máy bay B52 mà Mỹ có lúc đó) cùng với 250 tổ lái.
Không quân chiến thuật: Có 1.077 chiếc máy bay các loại/tổng số 3.043 chiếc (xấp xỉ 31% tổng số máy bay chiến thuật của Mỹ).
Tàu sân bay: Có 6/14 chiếc tham gia (bằng 34% tổng số tàu sân bay của Mỹ đã từng tham chiến ở Việt Nam).
Hơn 50 máy bay tiếp dầu trên không và một số loại máy bay phục vụ khác như: Máy bay gây nhiễu từ xa, máy bay trinh sát chiến lược, trinh sát chiến thuật, máy bay chỉ huy, máy bay liên lạc dẫn đường, cấp cứu... Ngoài ra còn 60 tàu chiến các loại của Hạm đội 7 ở Thái Bình Dương. Hàng loạt căn cứ ở nhiều nơi đã được huy động phục vụ cho chiến dịch Linebacker II.
Đây là một cuộc huy động lực lượng lớn chưa từng có của không quân Mỹ từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai cho một trận tập kích đường không chiến lược. Không những thế, cường độ tấn công và số lượng bom đạn mà Mỹ tập trung cho cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm cũng rất lớn. Cụ thể: Cường độ xuất kích của máy bay chiến lược B52:
+ Đêm 18/12: 90 lần chiếc
+ Đêm 19/12: 87 lần chiếc
+ Đêm 20/12: 93 lần chiếc
+ Đêm 21/12: 24 lần chiếc
+ Đêm 22/12: 24 lần chiếc
+ Đêm 23/12: 33 lần chiếc
+ Đêm 24/12: 33 lần chiếc
+ Đêm 26/12: 105 lần chiếc
+ Đêm 27/12: 54 lần chiếc
+ Đêm 28/12: 60 lần chiếc
+ Đêm 29/12: 60 lần chiếc
Cường độ xuất kích của không quân chiến thuật:
+ Cao nhất: 465 lần chiếc (ngày 19/12)
+ Trung bình: 300 - 400 lần chiếc/ngày đêm; riêng F111 xuất kích trung bình 17 - 19 lần chiếc/ đêm, cao nhất là 25 lần chiếc/ đêm (20/12).
Tổng số lần xuất kích của các loại máy bay là 4.583 lần chiếc; trong đó 663 lần chiếc B52, 3920 lần chiếc không quân chiến thuật (trung bình 326,6 lần chiếc/ ngày).
B52 cất cánh từ GUAM
Sử dụng những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật và huy động đến mức cao nhất sức mạnh của không lực Hoa Kỳ, đế quốc Mỹ đã trút hàng vạn tấn bom đạn xuống những khu vực đông dân chứ không chỉ nhằm vào các mục tiêu quân sự như chúng vẫn biện minh.
Bằng việc làm đó, đế quốc Mỹ đã đạt đến đỉnh cao của sự tàn bạo, như Nghị quyết Hội nghị 40 nước không liên kết họp tại Niu Yoóc ngày 3 tháng 1 năm 1973 đã lên án là “vượt qua bất cứ sự tàn bạo nào mà loài người từng biết đến”.
Đế quốc Mỹ toan tính rằng, bằng sự tàn sát dã man của B52, chúng có thể buộc nhân dân ta phải khuất phục, phải rút bớt mục tiêu trong đàm phán, sửa đổi lại văn bản hiệp định có lợi cho Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn. Bản chất và âm mưu của đế quốc Mỹ qua chiến dịch tập kích B52 được Giắc Ri-xơn, một nghị sĩ
Thụy Điển khái quát khá đầy đủ: “Đến nay, tất cả mọi người đều thấy rõ Ních- xơn không tôn trọng lời hứa, từ chối không ký bản Hiệp định mà ông ta đã chấp nhận hồi tháng 10. Ních- xơn khi thấy không thể giành được trên bàn hội nghị những điều Mỹ đã mất trên chiến trường thì một lần nữa lại đi theo “giải pháp” quân sự. Thực tế Ních-xơn bằng cách leo thang trong cuộc chiến tranh không quân, lần đầu tiên dùng máy bay B52 đánh phá Hà Nội hòng buộc Hà Nội chấp nhận điều kiện hòa bình của Mỹ, buộc nhân dân Việt Nam thừa nhận điều kiện hòa bình của Mỹ kiểm soát miền Nam Việt Nam bằng cách giết hại vô vàn dân thường và phá hủy tất cả những gì chúng chưa phá hủy hết”.
Nếu đế quốc Mỹ thành công trong cuộc tập kích bằng B52 thì hậu quả thật khôn lường. Báo Nhân đạo (Pháp) đã viết: “Tấn thảm kịch Việt Nam đang trải qua cho ta hương vị của cái mà trái đất chúng ta sẽ nếm trải nếu nước đế quốc mạnh nhất đặt được nền thống trị độc tôn của nó!”.
Thế nhưng, “thần tượng B52” - con át chủ bài trong bộ ba chiến lược của đế quốc Mỹ đã phải sụp đổ trước ý chí kiên cường và trí tuệ thông minh tuyệt vời của dân tộc Việt Nam. Chỉ trong 12 ngày đêm, lưới lửa phòng không dày đặc của ta đã xé tan xác 81 máy bay của giặc Mỹ, trong đó “siêu pháo đài bay” B52 là 34 chiếc, F111 là 5 chiếc và 42 máy bay chiến thuật khác. Theo các tài liệu quân sự Mỹ, trong chiến dịch này, tỉ lệ máy bay rơi đạt kỷ lục cao nhất từ trước tới nay (25%), khiến các nhà quan sát quân sự Mỹ phải thú nhận: “Cứ cái đà mất máy bay, người lái này và nếu Mỹ còn tiếp tục ném bom thì chỉ đến ngày 28 tháng 4 năm 1973 toàn bộ lực lượng không quân chiến lược Mỹ ở vùng Đông Nam Á sẽ hết nhẵn”.
B.52 (trên) và máy bay tiếp dầu KC-135 tại căn cứ Ut apao Thái Lan
Cuộc tập kích đường không bằng B52 của Mỹ đã thất bại thảm hại. Tin máy bay B52 bị bắn rơi, giặc lái bị diệt từ Việt Nam dội về Oa-sinh-tơn như cú sét giáng xuống Nhà Trắng và Lầu Năm Góc khiến Ních-xơn choáng váng, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân và Bộ chỉ huy không quân chiến lược Mỹ rụng rời. Kết cục sau cuộc tập kích là uy tín của Mỹ trên trường quốc tế bị giảm sút, thanh danh nước Mỹ bị bôi nhọ. Liên đoàn thế giới các nhà khoa học cho rằng “các cuộc ném bom khủng bố kinh tởm xuống các vùng đông dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã bôi nhọ thanh danh nước Mỹ”. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Mỹ G. Hôn nhận định: “Kết quả việc Mỹ ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam là uy tín của Mỹ trên thế giới tụt xuống mức thấp chưa từng có.
Phản ứng trên khắp thế giới càng thêm gay gắt”. Trước những hành động tội ác của đế quốc Mỹ, Đảng xã hội Áo yêu cầu: “Chính phủ Mỹ hãy chấm dứt lập tức những cuộc ném bom giết người này đối với một nước nhỏ đã được thử thách bằng một cuộc chiến tranh kéo dài hàng chục năm, hãy ký kết hiệp định ngừng bắn”. Trung ương Đảng Cộng sản Nhật Bản cho rằng: “Trong lúc tình hình Việt Nam đang đứng trước một cục diện mới nghiêm trọng do chính quyền Ních-xơn mở rộng chiến tranh xâm lược, việc khẩn cấp và quan trọng đối với tất cả các lực lượng chống đế quốc, bảo vệ hòa bình và dân chủ trên thế giới là lên án những hành động dã man của Níchxơn, đòi đình chỉ tất cả những hành động xâm lược, tăng cường vô điều kiện và đến mức tối đa sự giúp đỡ về chính trị, về vật chất mang tính nhân đạo đối với nhân dân Việt Nam. Đó là vấn đề chung quốc tế số một quan trọng nhất, cấp bách nhất, hơn bất cứ vấn đề nào khác”.
Cuộc ném bom của đế quốc Mỹ tuy có gây những tổn thất nặng nề cho nhân dân ta, nhưng đã không làm thay đổi được lập trường của Trung ương Đảng ta về vấn đề cơ bản của hiệp định hoà bình, đồng thời nó gây một làn sóng bất bình lớn của người Mỹ, dư luận và chính giới của các nước trên thế giới, trong đó có cả các đồng minh lâu dài của Mỹ, uy tín của Chính phủ Mỹ bị xuống thấp nghiêm trọng. Bị phản đối trong nước, bị cô lập trên trường quốc tế, gặp phải sự chống trả hiệu quả gây thiệt hại lớn cho lực lượng không quân chiến lược, lại không thể buộc đối phương thay đổi lập trường, Tổng thống Mỹ Nich-xơn đã phải ra lệnh chấm dứt chiến dịch tàn bạo này vào ngày 30 tháng 12, đề nghị nối lại đàm phán tại Pari và cuối cùng nhanh chóng ký kết Hiệp định Pari trên cơ sở dự thảo của ta mà phía Mỹ trước đó đã từ chối ký kết. Sau chiến dịch ném bom dã man của không quân Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng, dư luận quốc tế đều đánh giá rất cao chiến thắng của quân và dân ta mà việc hạ được “Thần tượng B52” là một kỳ tích.
Tờ Bưu điện Oa-sinh-tơn (Washington Post), dưới dòng tít lớn: “Đợt ném bom khủng bố nhân danh hòa bình”, đã viết: “Thất bại này buộc Tổng thống Ních-xơn và cố vấn của Tổng thống phải chấp nhận trở lại những điều khoản mà cách đây ba tháng họ đã bác bỏ”.
“... Lẽ ra nếu Ních-xơn không tráo trở, lật lọng, không phá vỡ “thỏa thuận tháng 10” không ra lệnh tiến công Hà Nội, Hải Phòng bằng B-52 thì ông ta có thể thua trong danh dự. Làm ngược lại, ông ta đã thua trong bi thảm tột cùng...” Trở lại với chiến dịch tập kích tàn bạo của không quân Mỹ. Cùng với việc huy động tới 193 máy bay B52 toàn nước Mỹ, xuất kích tới 663 lần chiếc, tập trung chủ yếu vào khu vực Hà Nội tới 444 lần chiếc..., đây là lần đầu tiên Mỹ sử dụng cả một biên đội F-111 (khoảng 50 chiếc) xuất kích mỗi đêm từ 10 đến 25 lần chiếc, hoạt động xen kẽ giữa các lần đánh của B52. Đồng thời Mỹ cũng đã huy động tới hơn 1.000 máy bay chiến thuật của không quân và hải quân ở các căn cứ Thái Lan và 6 tàu sân bay ngoài biển Đông, xuất kích tới 3.920 lần/chiếc để bảo vệ B52 và thực hiện đánh sân bay, các trận địa phòng không và các mục tiêu của ta. Có những đêm, Mỹ đã thực hiện tới 105 phi vụ B52. Riêng trên vùng trời Hà Nội, đã sử dụng tới 66% các phi vụ, “Không quân Mỹ đã ném hàng vạn tấn bom xuống 140 mục tiêu lớn nhỏ (riêng B52 đánh 64 mục tiêu) bằng sức công phá của 5 quả bom nguyên tử đã ném xuống Hi-rô-si-ma”. Gần đây, trong cuốn sách Encyclopedia of the Vietnam War, các tác giả đã đưa ra một vài con số liên quan tới chiến dịch tàn bạo này của Mỹ. Theo đó, “từ ngày 18 đến ngày 29 tháng 12 năm 1972, B52 đã ném 17.000 tấn bom xuống Hải Phòng và Hà Nội, làm 1.300 người bị chết... Năm 1972, bom Mỹ đã ném xuống miền Bắc với số lượng lớn hơn nhiều so với thời gian từ năm 1965 đến năm 1968. Chỉ riêng các cuộc oanh tạc trong tháng 12 năm 1972 đã có tới 40.000 tấn bom được ném xuống Hà Nội, và 15.000 tấn bom được ném xuống Hải Phòng”. Theo nhận định của tác giả cuốn sách này, “do có sự chuẩn bị trước và tài mưu lược của các vị lãnh đạo Bắc Việt Nam”, nên cuối cùng, chiến dịch tập kích vào Hà Nội, Hải Phòng của đế quốc Mỹ bị đánh bại hoàn toàn.
USS Sterett (DLG-31, CG-31), Belknap-class cruiser. Tàu được trang bị các radar kiểm soát không lưu AN/ SPS-48E, AN/SPS-49, có 1 trực thăng LAMPS Kaman SH-2 Seasprite và trong chiến tranh Việt Nam thường đóng vai trò các trạm PIRAZ (Positive Identification RADAR Advisory Zone), tàu tìm kiếm cứu nạn phi công trên biển (SAR - Sea Air Rescue) và yểm trợ hỏa lực (SSS - Strike Support Ship).
Chiến thắng B52 trên bầu trời Hà Nội không phải tự nhiên mà có. Đó là kết quả của tinh thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của quân và dân ta. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ, chúng ta đã USS Sterett (DLG-31, CG-31), Belknap-class cruiser. Tàu được trang bị các radar kiểm soát không lưu AN/SPS-48E, AN/SPS-49, có 1 trực thăng LAMPS Kaman SH-2 Seasprite và trong chiến tranh Việt Nam thường đóng vai trò các trạm PIRAZ (Positive Identification RADAR Advisory Zone), tàu tìm kiếm cứu nạn phi công trên biển có sự chuẩn bị từ trước cho trận chiến đấu quyết liệt này. Ngay từ những năm 1965, khi đế quốc Mỹ bắt đầu sử dụng máy bay B52 đánh phá miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”. Từ nhận định tài tình đó của Bác, ngay từ năm 1965 đó, quân đội ta đã tập trung tìm hiểu, nghiên cứu cách đánh loại máy bay hiện đại này của không quân chiến lược Mỹ. Từ tháng 5 năm 1966, theo Chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, “Quân chủng Phòng không - Không quân đã tổ chức một trung đoàn tên lửa cơ động phục kích, trực tiếp nghiên cứu, đánh B52 tại chiến trường Vĩnh Linh” để rút kinh nghiệm. Như vậy, “Chúng ta đã chuẩn bị trận “Điện Biên Phủ trên không” từ rất sớm... Bản kế hoạch đánh B52 ngày 27 tháng 2 năm 1968 có được chính là dựa trên cơ sở bản báo cáo kinh nghiệm đánh B52 dày 38 trang của đoàn công tác B do đồng chí Hoàng Văn Khánh làm trưởng đoàn từ Vĩnh Linh mang về”. Bản kế hoạch này thực chất là một tài liệu nghiên cứu về cách đánh B52. Qua nhiều lần bổ sung, hoàn chỉnh và kiểm nghiệm trên thức tế, bản kế hoạch đó được xây dựng thành tài liệu “Cách đánh B52” - một tài liệu chính thức hướng dẫn cách đánh máy bay B52 cho toàn quân chủng.
Với quyết tâm “Kiên quyết không để bị bất ngờ, kiên quyết bắn rơi tại chỗ máy bay chiến lược B52” cùng với ý chí “Quyết tử cho Hà Nội quyết sinh” của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, 34 “pháo đài bay” B52 của đế quốc Mỹ đã bị phơi xác trong cuộc tập kích chiến lược đường không tháng 12 năm 1972.
Chiến thắng trong chiến dịch 12 ngày đêm đánh B52 cho thấy: ta đã hoàn toàn chủ động bước vào cuộc đọ sức quyết liệt với một lực lượng lớn không quân chiến lược của Mỹ. Trong cuộc đọ sức đó, như các nguồn sử liệu đã chứng tỏ, quân và dân ta đã giành thắng lợi oanh liệt, làm thất bại các mục tiêu chiến dịch, chiến lược mà phía Mỹ đặt ra cho con “át chủ bài” B52.
Cũng cần nói thêm về loại máy bay chiến lược B52 của Mỹ mà không phải ở đâu và lúc nào cũng có thể bắn hạ được; từng được coi là một “Thần tượng” trên bầu trời. B-52 Stratofortress (Pháo đài bay B52) là máy bay ném bom chiến lược tầm xa của không quân Mỹ, do hãng Bôinh sản xuất; chiếc đầu tiên được bay thử vào năm 1952 (nên gọi là B52). Năm 1955 thì B52 được đưa vào sử dụng.
Từ tối 18/12/1972, không lực Mỹ dùng máy bay chiến lược B52
và hàng ngàn chiến đấu cơ tiêm kích chiến thuật, cùng sự hỗ trợ
của tàu sân bay, ồ ạt ném bom, bắn phá các thành phố Hà Nội, Hải Phòng
B-52 được coi là niềm tự hào của ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ. Với chiều dài gần 50m, cao 12,4m, sải cánh 56,4m, trọng lượng cất cánh tối đa trên 200 tấn, B-52 được xem là máy bay ném bom lớn nhất trên thế giới lúc đó. Sau 20 năm, năm 1972, B-52 đã qua 8 lần được cải tiến, từ B-52A đến B-52G, B-52H. Mỗi chiếc B-52G hoặc H (loại bị bắn rơi tại Hà Nội tháng 12/1972) có thể mang trên dưới 100 quả bom với tổng trọng lượng từ 17 đến 30 tấn cùng nổ chỉ trong phạm vi 3 đến 10 giây đồng hồ. Mỗi B-52 được trang bị 15 máy điện tử phát nhiễu chống các loại ra đa của đối phương. Khi B-52 tấn công mục tiêu còn có máy bay EB66 gây nhiễu phía ngoài và nhiều tốp F4 thả nhiễu tiêu cực là những bó sợi hợp đến 70km, dày khoảng 2km để gây nhiễu. Trung bình mỗi B- 52 đi chiến đấu có 7 máy bay chiến thuật đi kèm. Hiện nay, B52 vẫn nằm trong trang bị của lực lượng máy bay ném bom chiến lược của Mỹ.
Máy bay B52 ném bom tàn phá Hà Nội trong
Chiến dịch Linebacker II từ ngày 18/12 đến 29/12/1972
Máy bay B52G/H có những tính năng kỹ chiến thuật sau:
+ Kíp bay 6 người
+ Sải cánh 56,39m
+ Chiều dài 49,05m
+ Chiều cao 12,4m
+ Trọng lượng cất cánh Max: 221.350kg
+ Vmax = 960km/h
+ Hmax = 16.750m, thông thường H = 10.000 – 13.000m
+ Tầm bay xa: 12.000km (B52G), 16.000km (B52H).
+ Tải trọng vũ khí: 18-30 tấn bom, có thể mang 12 - 20 quả tên lửa hành trình ALEM hoặc 8 tên lửa hành trình (tàng hình) ACM, 4 pháo 20mm hoặc 1 pháo 20mm 6 nòng.
+ Trang bị: Thiết bị tác chiến điện tử AN/ALQ 117, 122, 153, 172, (12-16 máy gây nhiễu tích cực).
+ Tên lửa chống rađa HARM; thiết bị phóng nhiễu tiêu cực ALE 24 (21 bộ), thiết bị gây nhiễu hồng ngoại (12 bộ) AL-20; hệ thống quan sát vô tuyến truyền hình AVQ-22 và quan sát hồng ngoại ELIR AAQ-6, hệ thống dẫn đường từ vệ tinh NAVSTAR; hệ thống quan sát quang điện tử AN/ASQ-151, ASQ-38…
B52 có thể bay liên tục 9 giờ không cần tiếp dầu, nếu được tiếp dầu có thể bay lâu và xa hơn.
C hính vì B52 có những ưu thế như vậy mà các nhà cầm quân của Mỹ từng cho rằng: “Đối phương không thể có cách chống đỡ và không còn một sinh vật nào tồn tại nổi dưới những trận mưa bom kinh khủng của loại B-52 bất khả xâm phạm”.
Cùng với B52, không lực của Mỹ nói chung đều bao gồm những loại máy bay và những phương tiện kỹ thuật hiện đại, tối tân bậc nhất thế giới.
Không chỉ vậy, cả về quy mô, số lượng cũng rất hùng hậu, không quốc gia nào sánh được. Cho nên khi thực hiện chiến dịch tập kích bằng B52 vào Hà Nội, Hải Phòng tháng 12/1972, Mỹ luôn tin rằng sẽ thắng, Việt Nam sẽ không thể đứng vững…
Khi tiến hành ném bom hủy diệt Hà Nội, B52 của không lực Mỹ còn có 2 thế mạnh khác nữa, đó là:
+ Luôn được bảo vệ bằng một hàng rào máy bay tiêm kích vây quanh. Mỗi khi đi ném bom như vậy, B52 thường bay theo đội hình lớn, tối thiểu là một tốp 3 chiếc, trung bình là 6 tốp, tức là từ 18 đến 21 chiếc, lúc cao nhất có thể lên tới 31 đến 33 tốp, tức là từ 93 đến 105 chiếc như trong đêm 20 và 26 tháng 12 năm 1972 trên bầu trời Hà Nội; như thế để thấy lượng bom địch rải xuống Hà Nội lớn như thế nào. Đi kèm B52 là một lực lượng máy bay rất đông gồm F4, F8, F105… bao quanh tạo thành hàng rào “không thể chọc thủng” và có thể chặn đứng máy bay của đối phương tấn công B52. Mặt khác, máy bay cánh cụp cánh xòe F111 còn được giao nhiệm vụ bay đến trước, bay thật thấp để tránh ra đa phát hiện rồi bất ngờ ném bom phá hủy sân bay đối phương nhằm không để cho máy bay đối phương có thể cất cánh; nhiều máy bay khác nữa như F105, F111, F4, A6… được giao nhiệm vụ bắn phá, ném bom các trận địa tên lửa, pháo phòng không của ta…
+ Máy bay B52 được che giấu bằng một hệ thống nhiễu điện tử cực mạnh. Đây cũng được coi là một ưu thế. Bởi với hệ thống này, trong cùng một lúc nhiễu sẽ tác động lên một dải tần số của ra đa đối phương, khiến ra đa hoàn toàn mất mục tiêu của B52. Nhiễu điện tử đã trở thành một trong những thủ đoạn chủ yếu trong chiến dịch 12 ngày đêm. Không phải vô cớ mà Tư lệnh không quân chiến lược Mỹ đã nói rằng: “Chúng ta coi chiến tranh điện tử là con đường sống còn của không lực Hoa Kỳ”. Về vấn đề này, giới lãnh đạo của Lầu Năm góc Mỹ cũng từng tuyên bố: “…Giờ đây không quân Mỹ có thể ném bom vào bất cứ mục tiêu nào trên lãnh thổ Bắc Việt Nam như đi dạo chơi vào chỗ trống”; “B52 chỉ có thể bị rơi do thời tiết, hoặc do trục trặc kỹ thuật chứ quyết không thể bị bắn rơi vì hỏa lực của bộ đội phòng không – không quân Bắc Việt”. Ngay Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ Hen-ri Kít-xinh-giơ cũng nói: “Nước Mỹ chúng ta mạnh đến mức trong vấn đề Việt Nam, từ “thất bại” không bao giờ thuộc về chúng ta”…
Dĩ nhiên sức mạnh của không lực Mỹ như đã nêu vài nét ở trên hoàn toàn không phải là hoang đường mà là một thực tế. Nhưng dù sao lý thuyết là vậy. Thực tế diễn ra trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm của tháng 12 năm 1972 lại hoàn toàn trái với sự kỳ vọng và mong muốn của nhà cầm quyền Mỹ lúc bấy giờ. Việt Nam - Hà Nội đã chiến thắng oanh liệt. Cho nên trong cuốn sách “B52 trong vai trò chiến thuật”, tác giả Gơ-rin-út đã viết: “Các chiến thuật gây nhiễu điện tử bằng nhiều biện pháp và bằng các khí tài hiện đại nhất của không lực Mỹ đều đã thất bại trước trí tuệ của người Việt Nam”.
Đúng vậy, chúng ta đã chiến thắng bằng lòng dũng cảm và trí thông minh trong cuộc đối đầu quyết liệt với lực lượng không quân hùng hậu của Mỹ.
Thanh Quỳnh (st)
Còn nữa