Ngày 01-12
“Khen hay chê đều phải đúng mức”.
Ngày 01-12-1919, báo cáo theo dõi của mật thám Pháp cho biết có một cuộc tụ họp người Việt Nam tại nơi cư trú của Nguyễn Ái Quốc ở Pari.
Ngày 01-12-1922, tham dự cuộc họp của Ban Thư ký Hội Liên hiệp Thuộc địa kiểm điểm hoạt động của tổ chức này, Nguyễn Ái Quốc đề nghị nên lập một tổ chức trong hội chuyên lo tìm công ăn việc làm cho những người dân các xứ thuộc địa đang sinh sống trên nước Pháp.
Ngày 01-12-1931, liên quan đến “Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông”, đơn kháng án của Tống Văn Sơ (bí danh của Nguyễn Ái Quốc) gửi lên Hội đồng Cơ mật Hoàng gia Anh được Tòa án Tối cao Hồng Kông chấp thuận.
Ngày 01-12-1940, Nguyễn Ái Quốc viết bài “Bịa đặt” đăng trên tờ Cứu vong nhật báo tố cáo thủ đoạn chiến tranh tâm lý của phát xít Nhật. Bài báo viết: "... Dù bịa đặt về phương diện nào thì cũng không ngoài mục đích gây chia rẽ. Kết luận của chúng ta là: Điều bịa đặt còn độc hại hơn cả hơi độc. Chúng ta phải đề cao cảnh giác, chỗ nào cũng phải đề phòng, đừng bị mê hoặc bởi những lời bịa đặt”1.
Ngày 01-12-1942, Hồ Chí Minh bị giải đến nhà ngục Thiên Giang (Quảng Tây - Trung Quốc). Tại đây, Bác viết bài thơ “Thiên Giang ngục" (Nhà lao Thiên Giang). Bài thơ được Băng Thanh dịch:
“Ngoài lao sáu chín chiếc ang người,
Chồng chất trong lao biết mấy mươi;
Nhà ngục mà như nhà chế thuốc,
Gọi là hàng chĩnh cũng không sai”2.
Ngày 01-12-1949, báo Vệ Quốc quân đăng bài “Giải thưởng cháu Bác Hồ” của Bác, cho biết nhi đồng tại một địa phương đã gửi tới Bác một tấm áo và một món tiền tiết kiệm để tặng “đơn vị nào giết được nhiều Tây nhất. Vậy tôi để cả áo lẫn tiền - tôi thêm 600 đồng nữa cho đầy 2.000 đồng - làm giải thưởng gọi là “Giải thưởng cháu Bác Hồ” cho bộ đội Vệ Quốc quân và dân quân du kích nào... giết nhiều giặc, cướp nhiều súng, lập nhiều công nhất ở mặt trận Trung du. Các em nhi đồng đang mong đợi. Các anh lớn càng phải cố gắng thi đua lập nhiều công”3.
Ngày 01-12-1953, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội Khóa I, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày báo cáo “Tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất”.
Ngày 01-12-1954, Bác viết bài “Nam bộ anh hùng” đăng trên Báo Nhân Dân biểu dương nữ liệt sỹ Võ Thị Sáu của Nam bộ, coi đó là tấm gương cho thanh thiếu niên cả nước học tập.
Ngày 01-12-1962, nói chuyện với Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III, Bác nêu rõ: “Rõ ràng là dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng... Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta, những tác phẩm ca tụng chân thật những người mới, việc mới chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau... Khen hay là chê đều phải đúng mức. Khen quá lời thì người được khen cũng hổ ngươi. Mà chê quá đáng thì người bị chê cũng khó tiếp thu... Để làm trọn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp; phải hết lòng giúp đỡ thanh niên, làm cho văn nghệ nước nhà ngày càng thêm trẻ thêm Xuân”4.
Ngày 02-12
“Phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng”.
Ngày 02-12-1920, báo cáo theo dõi của mật thám Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc vừa nhận được tờ La Revue Communiste (Tạp chí Cộng sản).
Ngày 02-12-1940, “Cứu vong Nhật báo” đăng bài “Nhân dân Việt Nam và báo chí Trung Quốc” của Nguyễn Ái Quốc, trong đó, tác giả vạch rõ: “Phong trào giải phóng của Việt Nam là đội quân đồng minh trong cuộc kháng chiến chống Nhật của Trung Quốc. Về tinh thần cũng như về vật chất, chúng ta đều cần phải cổ vũ và giúp đỡ. Quốc phụ (chỉ Tôn Trung Sơn) từng dạy chúng ta: Giúp đỡ các dân tộc nhỏ yếu, cùng nhau phấn đấu giành lấy tự do độc lập. Cơ hội để thực hiện lời di huấn đó đã đến”5.
Ngày 02-12-1942, từ nhà ngục Thiên Giang (Quảng Tây - Trung Quốc), Hồ Chí Minh bị giải đi Liễu Châu rồi tới Lai Tân trên một toa xe lửa chở than. Tình cảnh gian khó này được tả lại trong bài thơ “Tháp hỏa xa võng lai tân” (Đáp xe lửa đi Lai Tân) được Đỗ Văn Hỷ và Huệ Chi dịch:
“Cuốc bộ mấy mươi ngày vất vả,
Hôm nay được bước lên xe hỏa;
Dù rằng chỉ ngồi trên đống than,
Sang gấp mấy lần khi cuốc bộ”6.
Tháng 12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu mới thành lập với những lời động viên và căn dặn: Bộ Tổng Tham mưu là cơ quan cơ mật giúp Trung ương và Chính phủ xây dựng và điều chỉnh bộ đội, bày mưu tính kế để đánh thắng kẻ thù. Muốn thắng địch phải biết địch biết ta, nắm chắc ý định cấp trên, có kế hoạch tổ chức thực hiện cụ thể... Vừa kháng chiến lại vừa phải kiến quốc, nhiệm vụ chính của quân đội là chống giặc ngoại xâm, song không được coi nhẹ các việc khác như: Công tác vận động quần chúng, tổ chức quần chúng tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.
Ngày 02-12-1948, Bác viết thư gửi Bộ trưởng Canh nông Cù Huy Cận, góp ý kiến rất cụ thể và chi tiết về bản “Nội quy kiểu mẫu Quỹ nghĩa thương”7 (một hình thức tương trợ luơng thực ở nông thôn) và căn dặn: “Nói tóm lại: Phải làm Nội quy giản đơn hơn, thì dân mới dễ hiểu, dễ làm hơn”8.
Ngày 02-12-1961, Bác dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6 thảo luận một số vấn đề của Đại hội XXII Đảng Cộng sản Liên Xô và bàn việc đưa Đảng bộ miền Nam ra công khai. Trong bối cảnh phức tạp của tình hình cách mạng, Bác căn dặn: “Trong lời nói cũng như bài viết, trước hết là của các đồng chí Trung ương phải hết sức cẩn thận. Lúc này, một cái gì không thận trọng thì sẽ bị hiểu lầm ngay”9.
Ngày 02-12-1965, phát biểu tại Đại hội những phụ nữ xuất sắc trong phong trào “Ba đảm đang” của Thủ đô, Bác biểu dương: “Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng, thanh niên Việt Nam là thanh niên anh hùng, phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng. Hai nghìn năm trước đây, ta có các nữ anh hùng Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong kháng chiến chống giặc Pháp trước kia và trong kháng chiến chống giặc Mỹ ngày nay, ta cũng có nhiều anh hùng là phụ nữ. Trên thế giới chưa có nơi nào phụ nữ làm Phó Tổng Tư lệnh như ở miền Nam nước ta... Khó khăn đến mấy chúng ta cũng vượt qua được và nhất định chúng ta đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược”10.
Ngày 03-12
“Hòa bình phải do đấu tranh gian khổ mới giành được”.
Ngày 03-12-1925, từ Quảng Châu, với bí danh “Nilovski”, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân báo cáo về việc thực thi nhiệm vụ thu thập thông tin về nông dân Trung Quốc và về số bán nguyệt san về nông dân đang được thực hiện.
Đầu tháng 12-1944, Hồ Chí Minh triệu tập Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh đến Pác Bó (Cao Bằng) nghe báo cáo về tình hình phong trào cách mạng ở 3 tỉnh Cao -Bắc - Lạng và chủ trương phát động chiến tranh du kích đồng thời phân công Võ Nguyên Giáp đảm nhiệm công tác thành lập lực lượng vũ trang tập trung. Khi tiễn Võ Nguyên Giáp trở về tổng Hoàng Hoa Thám thực hiện nhiệm vụ, Bác căn dặn: “Nhớ bí mật: Ta ở Đông, địch tưởng ta ở Tây. Lai vô ảnh, khứ vô hình”11.
Ngày 03-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam: “Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa”12. Về nhiệm vụ của Chính phủ, Bác nhấn mạnh: “Anh em thiểu số chúng ta sẽ được: 1. Dân tộc bình đẳng: Chính phủ sẽ bãi bỏ hết những điều hủ tệ cũ, bao nhiêu bất bình (đẳng) trước sẽ sửa chữa đi. 2. Chính phủ sẽ gắng sức giúp cho các dân tộc thiểu số về mọi mặt: a) Về kinh tế, sẽ mở mang nông nghiệp cho các dân tộc được hưởng. b) Về văn hóa, Chính phủ sẽ chú ý trình độ học thức cho dân tộc. Các dân tộc được tự do bày tỏ nguyện vọng và phải cố gắng để cùng giành cho bằng được độc lập hoàn toàn, tự do và thái bình”13. Cũng trong một bức thư viết cùng ngày gửi đồng bào thiểu số, Bác thông báo rằng ngày 03 tháng 12 năm nay (1945) “là một ngày rất vẻ vang cho nước Việt Nam... Hơn 20 dân tộc, họp lại một nhà, tay bắt mặt mừng, rất là thân ái. Đó là một cuộc Đại hội xưa nay chưa từng có, một cuộc thân thiện làm cho cả nước vui mừng”14.
Ngày 03-12-1953, Bác dự kỳ họp thứ 3 của Quốc hội Khóa I, khi trình bày về chính sách đối ngoại đã nhắc lại câu trả lời phỏng vấn của một nhà báo Thụy Điển: “Chúng ta ủng hộ phong trào hòa bình thế giới. Nhưng chúng ta tuyệt đối chớ có ảo tưởng rằng hòa bình là một việc dễ dàng. Hòa bình phải do đấu tranh gian khổ mới giành được”15.
Ngày 03-12-1954, dự cuộc họp của Bộ Chính trị bàn về công tác đấu tranh nhằm thi hành Hiệp định Giơnevơ, Bác phát biểu: “Chính sách của ta bây giờ là chĩa mũi nhọn vào Mỹ. Đối với Pháp, ta cố gắng gây không khí hòa dịu, nhất là các báo, đài phát thanh phải chú ý khi nào cần nói hãy nói... Về đối nội, nhiệm vụ quan trọng là giải quyết vấn đề lương thực, việc làm và thuế. Người lưu ý hoạt động của các ngành văn hóa, nghệ thuật cũng phải phục vụ nhiệm vụ chống Mỹ”16.
Ngày 03-12-1961, Bác tiếp tục dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6 bàn về việc Đảng bộ miền Nam ra công khai và đưa ra quan điểm: “Miền Nam đã có Mặt trận Dân tộc Giải phóng thì cũng cần có chính đảng cách mạng của mình”17.
Ngày 04-12
“Người mà quyết chí thì trời phải thua”.
Ngày 04-12-1922, báo L’Humanité (Nhân Đạo) đăng bài “Những quan tòa thuộc địa tốt bụng của chúng ta” của Nguyễn Ái Quốc bình luận về những nhân vật bất hảo vừa được Chính phủ Pháp bổ nhiệm làm quan tòa ở các thuộc địa để đi đến một kết luận mỉa mai: “... Có thể nói rằng vận mệnh của nền văn minh tối cao, cũng như số phận của dân bản xứ ở các thuộc địa đều nằm trong những bàn tay đáng tin cậy”18.
Ngày 04-12-1923, cũng trên báo L’Humanité, Nguyễn Ái Quốc viết bài “Tình hình ở Trung Quốc” trong đó nêu rõ: “Rất may mắn là tiếng vang của Cách mạng Nga hình như đã thức tỉnh thế hệ mới của Trung Quốc. Lực lượng trẻ mới ra đời có đầy nhiệt tình và sức sống. Điều này thể hiện đặc biệt rõ rệt nhất là Hội sinh viên cách mạng”19.
Tháng 12-1923, trên tờ Le Paria (Người cùng khổ) Nguyễn Ái Quốc viết bài: “Tình cảnh nông dân An Nam” tố cáo: “Người An Nam nói chung, phải è cổ ra mà chịu những công ơn bảo hộ của nước Pháp. Người nông dân An Nam nói riêng, lại càng phải è cổ ra mà chịu sự bảo hộ ấy một cách thảm hại hơn: Là người An Nam, họ bị áp bức; là người nông dân, họ bị người ta ăn cắp, cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản... Phác qua như thế, chúng ta thấy rằng dưới chiêu bài dân chủ, đế quốc Pháp đã đem vào An Nam tất cả cái chế độ trung cổ đáng nguyền rủa,...”20.
Ngày 04-12-1940, trên tờ “Cứu vong nhật báo”, với bút danh “Bình Sơn”, Hồ Chí Minh viết bài “Ca dao Việt Nam và cuộc kháng chiến của Trung Quốc” nêu rõ: “Đại đa số nhân dân Việt Nam đều hết sức đồng tình với cuộc kháng chiến của Trung Quốc”21 và dẫn ra một bài ca dao lưu hành ở Việt Nam có nhan đề là “Cứu Trung Quốc là tự cứu mình” trong đó có đoạn:
“... Giặc Nhật tấn công cả thế giới,
Là kẻ thù chung toàn nhân loại.
Mau đứng lên giúp đỡ Trung Hoa,
Anh chị em Việt Nam ta hỡi!”...22.
Ngày 04-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho chiến sỹ cùng đồng bào Nam bộ và Nam Trung bộ động viên cuộc kháng chiến tuy có khó khăn nhưng nhất định thắng lợi. Cùng ngày, Bác tham dự họp Hội đồng Chính phủ bàn việc mời các thân sĩ ra ứng cử Quốc hội, lập ra Ban Báo chí và ấn định tạm thời chế độ kiểm duyệt, quyết định trợ cấp cho các bà vợ của các cựu hoàng Thành Thái và Duy Tân...
Tháng 12-1948, Bác viết thư gửi Trại dinh điền Sông Soi ở Liên khu I với nội dung: “Cảm ơn các bạn đã gửi cam biếu tôi. Mong các bạn đều xung phong thi đua ái quốc, khai khẩn cho nhiều đất ruộng, và làm cho tốt, để giúp cho kinh tế Chính phủ, và làm kiểu mẫu cho đồng bào. Các bạn phải gắng làm tròn nhiệm vụ của chiến sỹ trên mặt trận kinh tế ”23.
Ngày 04-12-1959, Báo Nhân Dân đăng bài “Phải ra sức chống hạn” với bút danh “Trần Lực”, Bác biểu dương thắng lợi của vụ mùa vừa qua:
“Dù cho hạn hán khắp nơi,
Người mà quyết chí, thì trời phải thua.
Không mưa mà vẫn được mùa”24.
Bác đã động viên quyết tâm chống hạn để vụ chiêm sắp tới cũng được mùa.
Ngày 04-12-1962, trong bài báo “Ủng hộ Cuba chống đế quốc Mỹ” đăng trên Báo Nhân Dân, Bác kết luận: “Khi phải đương đầu với kẻ địch hung ác, một dân tộc dù bé nhỏ, nếu luôn luôn cảnh giác, đoàn kết nhất trí, kiên quyết và bền bỉ đấu tranh, thì cuối cùng nhất định thắng lợi”25.
Ban Biên tập (tổng hợp)
Còn nữa
Chú thích
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 183.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 377.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 714.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 646-647.
5,6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 185, 378.
7,8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 528-529.
9 . Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 159.
10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 621.
11. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 2, tr. 223.
12,13. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 110, 110-111.
14 Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 92-93.
15 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 175.
16 Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 534.
17. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 159.
18,19,20. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 127, 222, 227-229.
21.22. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 186, 187.
23. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 539.
24. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 568.
25. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 652.
Ngày 05-12
“Phải bảo đảm chất lượng sản phẩm của mình”.
Ngày 05-12-1940, trên tờ Cứu vong nhật báo đăng bài “Mắt cá giả ngọc trai” của Nguyễn Ái Quốc kêu gọi cảnh giác trước âm mưu quân Nhật Bản gài người để phá hoại các tổ chức cách mạng. Bài báo chỉ rõ: “Đối với nhân dân Việt Nam, đối với phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam, chúng ta phải giúp đỡ bằng mọi khả năng có thể. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải cẩn thận, phải vạch trần cái trò mắt cá giả ngọc trai đó”26.
Tháng 12-1943, trên báo Đồng Minh của Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội phát hành ở Liễu Châu, Trung Quốc, đăng bài “Libăng” giới thiệu cuộc đấu tranh của nhân dân Libăng chống thực dân Pháp và đi đến kết luận: “Bất kỳ bọn Pêtanh hay bọn Đờ Gôn cũng vẫn mang tâm lang sói, khư khư trong cái khuôn khổ đế quốc chủ nghĩa, đều là kẻ thù chung của những dân tộc các xứ thuộc địa hay bảo hộ... Việt Nam hiện đang chuẩn bị đánh Nhật, đuổi Pháp để giành lấy sự độc lập tự do, vậy nên vô luận gần hay xa và bất cứ dân tộc nào nổi lên chống với đế quốc xâm lược đều là bạn thân của dân tộc Việt Nam ta vậy”27.
Ngày 05-12-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới Chủ tịch Mao Trạch Đông mừng ngày thành lập Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bức điện có đoạn: “Hai dân tộc Việt - Hoa có mối quan hệ anh em trải mấy nghìn năm lịch sử. Từ đây, mối quan hệ ấy sẽ càng mật thiết để phát triển tự do và hạnh phúc của hai dân tộc ta, và để bảo vệ dân chủ thế giới và hòa bình lâu dài”28 .
Tháng 12-1949, được tin vợ chồng Luật sư Phan Anh có thêm cậu con trai, Bác Hồ mừng một vần thơ: “Chú thím thêm một con/ Các cháu thêm một em/ Bác Hồ thêm một cháu/ Nước nhà thêm một công dân/ Tương lai thêm một chiến sỹ”29. Cùng khoảng thời gian này, nhận được tấm áo do anh chị em thương binh gửi biếu, Bác viết thư cảm ơn, động viên anh chị em thương binh đã có nhiều đóng góp cho kháng chiến và đề nghị: “Các bộ áo anh em gửi biếu, không nhận chúng thì anh em tủi. Nhận chúng thì tôi không yên lòng. Tôi định giải quyết thế này: Nhờ các đoàn thể bán đấu giá bộ áo ấy, được bao nhiêu tiền thì đưa dùng vào việc nghĩa”30.
Tháng 12-1950, Bác gửi thư tới các chiến sỹ và cán bộ tham gia chiến dịch Trung du, căn dặn: “Các chú đã cố gắng. Kết quả sự cố gắng đó là thắng lợi trong chiến dịch giải phóng biên giới vừa rồi. Lần này các chú phải cố gắng hơn nữa, vì chiến dịch này rất là quan trọng. Vả chăng, chiến dịch này là lần đầu tiên ta đánh ở đồng bằng, và địch thì có chuẩn bị. Chính vì lẽ đó mà ta quyết phải thắng... Mỗi một người, mỗi một đơn vị, mỗi một bộ phận đều phải: Bí mật hơn. Nhanh chóng hơn. Kiên quyết hơn. Chiến dịch này, các chú nhất định phải đánh thắng”31.
Ngày 05-12-1962, Báo Nhân Dân đăng bài viết “Cần phải nâng cao chất lượng hàng hóa”, với bút danh “T.L.”, Bác phê phán nhiều mặt hàng phục vụ sinh hoạt hàng ngày của nhân dân “đã không bảo đảm được chất lượng do một số cán bộ, công nhân kém tinh thần trách nhiệm, làm ẩu, làm dối, chỉ biết chạy theo số lượng... trái hẳn với chính sách của Đảng và Chính phủ, đã làm thiệt hại đến lợi ích của nhân dân”32 và yêu cầu “mỗi xí nghiệp, mỗi hợp tác xã phải bảo đảm chất lượng những sản phẩm của mình”33.
Ngày 06-12
“Chỉ có Quốc hội ta thực sự đem lại quyền lợi cho nhân dân”.
Ngày 06-12-1945, tại Nhà hát Lớn Thành phố Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự lễ tuyên thệ ủng hộ Chính phủ của Hội Cựu binh sỹ Cứu quốc và dự họp Hội đồng Chính phủ bàn về quy chế tài chính liên quan đến đường sắt Hải Phòng - Vân Nam, quy định bầu cử cho những người Cao Miên đã nhập quốc tịch Việt Nam.
Cùng ngày, Bác còn công bố thư gửi hai nhân vật Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh kêu gọi đoàn kết và đưa ra những đề nghị cụ thể: “a) Xin mời các đồng chí Quốc dân đảng tham gia việc Tổng tuyển cử ở các nơi. b) Xin cho chúng tôi biết những đồng chí ra ứng cử ấy muốn ứng cử ở nơi nào để cho tiện việc biên tên vào danh đơn ứng cử. c) Các ông ấy được hoàn toàn tự do hoạt động ứng cử cũng như các đảng phái khác. Chúng tôi xin phụ trách bảo vệ và giúp đỡ các ông ấy. d) Từ ngày nay cho đến ngày Quốc hội khai mạc, hai bên tuân thủ bản điều kiện đã cùng nhau ký tại ngày 24 tháng 11, tức là “không công kích nhau bằng lời nói và hành động"34. Văn kiện cho thấy thiện chí của Việt Minh nhưng phía Quốc dân đảng, ỷ vào thế lực của Trung Hoa Quốc dân đảng vẫn bất hợp tác để cuối cùng 72 đại biểu của tổ chức này được “mời” vào Quốc hội không qua bầu cử.
Ngày 06-12-1946 trên Báo Cứu Quốc đăng bài “Chiến đấu vì chính nghĩa” của Bác nhìn nhận thực tế: “Rõ ràng quân đội Pháp đã thẳng tay tiến công, bất chấp tín nghĩa. Đối với cuộc chiến đấu tự vệ của ta, quốc dân đã theo dõi từng ly từng tý, nhưng không khỏi hoang mang. Vậy đứng về phương diện chiến lược, chúng ta thử xét sau này tình thế sẽ biến chuyển ra sao”35. Bài báo phân tích chiến thuật phòng ngự được coi là phương cách để trừ diệt địch để đi đến nhận định: “Ngoài điều kiện nhân hòa, chúng ta còn có điều kiện địa lợi và thiên thời. Từ hang cùng ngõ hẻm, núi sâu rừng rậm, đâu đâu cũng là đất nước Việt Nam, đâu đâu cũng có dân Việt Nam ở... Có đủ ba điều kiện nhân hòa, địa lợi và thiên thời như trên, cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam nhất định sẽ thành công”36.
Ngày 06-12-1953, Bác cùng Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tư lệnh và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Bác đã chỉ thị cho Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hòan thành cho kỳ được”37. Cùng ngày, trên Báo Nhân Dân, Bác viết bài “Hội nghị đại biểu toàn quốc “bù nhìn” vạch trần thủ đoạn của thực dân cho thành lập tổ chức “Hội nghị đại biểu toàn quốc” của chính quyền Bảo Đại. Bài báo kết luận: "Chỉ có Quốc hội ta là Quốc hội thực sự đem lại quyền lợi cho nhân dân"38.
Ngày 06-12-1958, đến thăm Hội nghị cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14, Bác nhấn mạnh: “Phải làm cho tư tưởng chính trị của nhân dân ta chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, có như thế chúng ta mới phát huy được hết thuận lợi, khắc phục được mọi khó khăn, hoàn thành tốt kế hoạch Nhà nước ba năm và chuẩn bị tốt cho kế hoạch dài hạn về sau”39.
Ngày 07-12
“Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình”.
Ngày 07-12-1945, trên tờ báo Tấc Đất của Bộ Canh nông, Bác đăng thư “Gửi Nông gia Việt Nam” trong đó chỉ rõ: “Hiện nay chúng ta có hai việc quan trọng nhất: Cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam”40 đồng thời kêu gọi nông dân: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”41.
Ngày 07-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra “Lời kêu gọi gửi Quốc hội và Chính phủ Pháp” khẳng định: "Người Việt Nam và người Pháp đã đổ máu nhiều rồi, đã chịu tai vạ chiến tranh nhiều rồi... Tôi yêu Tổ quốc và đồng bào tôi, tôi cũng yêu nước Pháp và nhân dân Pháp. Vì vậy tôi thiết tha kêu gọi Quốc hội và Chính phủ Pháp nghĩ đến lợi quyền chung tối cao của hai dân tộc Pháp - Việt, hạ lệnh cho đương cục Pháp khôi phục tình trạng trước ngày 20-11-1946, để cùng Chính phủ Việt Nam thi hành Tạm ước, để xây đắp sự cộng tác Pháp - Việt thân thiện và lâu dài”42.
Cùng ngày, “Lời kêu gọi Liên hợp quốc” của Bác được công bố để đưa ra thông điệp: “Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố rằng nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước. Đồng thời, trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc dưới đây: 1. Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền. 2. Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực...”43.
Cùng ngày, Bác tiếp Cục trưởng Cục Châu Á của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mới tới Hà Nội. Còn với nhà báo Bécna Đrăngbê (Berna Draber), phóng viên của tờ “Pari - Sài gòn”, Bác đưa ra thông điệp: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Tôi biết là nhân dân Pháp không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách… Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm... Nước Pháp có những phương tiện ghê gớm, và cuộc chiến đấu sẽ khốc hại, nhưng dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng chịu đựng tất cả, chứ không chịu mất tự do... Cả nước Pháp lẫn nước Việt Nam đều không thể phí sức gây một cuộc chiến tranh khốc hại, và nếu phải kiến thiết trên đống hoang tàn thì thật là một điều tai hại”44.
Ngày 07-12-1963, trước cuộc thảo luận gay gắt trong Hội nghị Trung ương lần thứ 9, Bác nhắc nhở: “Người làm chính trị cương vị càng cao thì càng phải bình tĩnh... Mục đích của ta là vì đoàn kết. Vì đoàn kết mà phải tranh đấu. Tranh đấu để đi đến đoàn kết chứ không nói xấu ai... Phải làm sao cho trong Đảng và trong nhân dân giữ được lòng yêu mến và biết ơn các nước bạn anh em..., đó là “thiên kinh địa nghĩa”, đồng thời không nên coi sự bất đồng là chuyện lạ...”45 .
Ngày 08-12
“Trồng cây gây rừng là rất quan trọng”.
Ngày 08-12-1919, báo cáo của mật thám Pháp chuyên theo dõi cho biết Nguyễn Ái Quốc đang sống ở Pari vừa nhận được một bức thư của Phan Chu Trinh gửi tới. Cũng trong tháng 12-1919, báo cáo của mật thám cho biết Nguyễn Ái Quốc bày tỏ ý muốn lập một Hội tương tế Đông Dương nhằm giúp những người dân thuộc địa đang sống ở Pháp giữ gìn và phát triển tốt những kiến thức thu lượm được ở đây.
Tháng 12-1940, từ Nam Ninh (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đóng vai một nhà báo, cùng Phạm Văn Đồng, Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp đi tìm Vũ Anh từ trong nước sang rồi đi tiếp tới Tĩnh Tây (Trung Quốc). Tại đây, có thêm Võ Nguyên Giáp bàn việc mở lớp huấn luyện, gặp Lê Thiết Hùng giao nhiệm vụ quân sự.
Tháng 12-1943, tại Liễu Châu (Trung Quốc), trong thời gian tham gia Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội với cương vị là Phó Chủ tịch, Hồ Chí Minh dự tiệc do Hầu Chí Minh, Chủ nhiệm Cục chính trị Đệ tứ chiến khu của Quốc dân đảng Trung Hoa chiêu đãi. Trong bữa tiệc, Nguyễn Hải Thần - Chủ tịch của tổ chức này ra vế thách đối: “Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh”46 (Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, hai vị đồng chí, chí đều sáng), mọi người đang suy nghĩ thì Bác ung dung đối lại: “Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách”47 (Anh cách mạng, tôi cách mạng, mọi người cách mạng, mạng phải cách) khiến mọi người khâm phục.
Ngày 08-12-1947, trước tin tức về việc cố vấn Vĩnh Thụy lúc này đang ở Hồng Kông có cuộc gặp gỡ với quan chức cao cấp của Pháp, Bác tuyên bố: “Chính phủ ta và nhân dân ta rất mong cố vấn Vĩnh Thụy không những có hành động trái ngược với những lời cố vấn đã thề trước Tổ quốc và trước đồng bào, trái với nguyện vọng của dân tộc. Dù sao vận mệnh của dân tộc sẽ không vì một người, hoặc một nhóm người mà thay đổi”48. Cùng ngày, Bác viết thư cho Giám mục Lê Hữu Từ: “Nhân dịp Lễ Nôen, tôi kính chúc cụ mọi sự lành để phụng sự Đức Chúa và để lãnh đạo đồng bào công giáo tham gia kháng chiến, đặng tranh lại thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”49.
Ngày 08-12-1961, Bác về thăm quê hương Nam Đàn. Nói chuyện với Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An, Bác nhấn mạnh: “Tất cả cái gì về quốc kế dân sinh ở Nghệ An là các cô, các chú phụ trách. Muốn như thế thì phải nắm vững nguyên tắc gì? Một là, nguyên tắc đoàn kết nội bộ. Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Muốn làm tốt việc ấy, còn phải gì nữa? Phải dân chủ nội bộ. Muốn dân chủ nội bộ tốt thì cần gì nữa? Phải phê bình, tự phê bình. Cái này nó dính cái khác”50. Bác đặc biệt quan tâm đến vấn đề: “Trồng cây gây rừng là rất quan trọng... Bác có kinh nghiệm trồng cây trong 5 năm là có thu hoạch... Nếu trồng cây nào tốt cây ấy thì trong 5 năm lợi rất to... Nông thôn của ta, nhà ở của đồng bào phần nhiều đang ọp ẹp, tối tăm, chẳng ra sao... Dân sinh là cái gì? Là cái ăn, cái mặc, cái ở. Ba cái đó đều quan trọng. Ăn, mình tăng gia sản xuất được. Mặc, mình tăng gia sản xuất được. Chứ còn nhà ở thì sao? Muốn làm nhà ở phải có cái gì? Gỗ. Muốn có gỗ thì phải trồng cây. Nếu bây giờ trở đi không trồng cây cho tốt thì lấy gỗ đâu?”51.
Ngày 09-12
“Con hơn cha là nhà có phúc”.
Ngày 09-12-1919, báo cáo theo dõi của mật thám Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc có 2 lần đến Thư viện Thánh Giơnơvievơ (Sainte Genevieve) ở Pari.
Ngày 09-12-1927, nhận sự phân công của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc có mặt trong ngày khai mạc Đại hội đồng của Liên đoàn chống đế quốc họp tại Brúcxen (thủ đô Vương quốc Bỉ). Cũng tại Hội nghị này, nhà cách mạng Việt Nam đã gặp một số nhân vật như: Môlitan Nêru (thân sinh Thủ tướng Ấn Độ G. Nêru sau này), Xucacnô (sau trở thành Tổng thống Inđônêxia), Tống Khánh Linh (vợ Tôn Trung Sơn), Katayama Xen (chính khách cánh tả Nhật Bản)...
Ngày 09-12-1942, Hồ Chí Minh bị giải đến giam ở Liễu Châu và làm bài thơ chữ Hán “Đáo Liễu Châu” (Đến Liễu Châu) được Nam Trân dịch:
“Muôn cay nghìn đắng đâu vô hạn,
Mồng chín ta vừa đến Liễu Châu;
Ngoảnh lại hơn trăm ngày ác mộng,
Tỉnh ra, trên mặt vẫn vương sầu”52.
Ngày 09-12-1958, tại lễ khai mạc kỳ họp thứ 9 của Quốc hội Khóa I, thay mặt Ban sửa đổi Hiến pháp, Bác “hứa với Quốc hội sẽ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Quốc hội đã giao phó cho: dự thảo một bản Hiến pháp xứng đáng với sự tiến bộ của nhân dân ta, của Tổ quốc ta”53 .
Ngày 09-12-1959, chủ tọa phiên họp của Hội đồng Chính phủ thảo luận về việc soạn thảo Luật Hôn nhân và gia đình, Bác đã phát biểu Dự luật Hôn nhân gọi nôm na là dự luật lấy vợ lấy chồng, nhằm xây dựng hạnh phúc chung, nhưng trước hết là nhằm giải phóng chị em phụ nữ, cho nên khi giải thích, tuyên truyền, chị em phụ nữ phải ra sức hoạt động nhiều để tinh thần luật được thấm nhuần đến mọi tầng lớp trong xã hội, đến từng người, từng địa phương...
Cùng ngày, Báo Nhân Dân đăng bài “Tiêu chuẩn của người đảng viên”. Trong đó, Bác viết: “Khi phát triển Đảng cần phải chọn lọc rất cẩn thận, phải xem trọng chất lượng quyết không nên làm một cách ồ ạt, không nên tham nhiều... Đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh. Đảng mạnh thì mới làm trọn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang...”54.
Ngày 09-12-1961, Bác về thăm Nghệ An, tại xã Kim Liên quê nhà, Bác căn dặn: “Nay dân đã là chủ. Nhưng phải cho ra người chủ, chứ không thể phất phơ được. Mọi người đều có trách nhiệm làm cho dân giàu nước mạnh, quốc phòng vững mạnh”55. Tại nhà máy Cơ khí Vinh, Bác nhấn mạnh: “Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, phải làm thế nào xứng đáng là lãnh đạo để người ta tin cậy... Công nông liên minh chứ không phải “nông công liên minh”56. Còn tại trường Sư phạm miền núi Nghệ An, Bác nói: “... Bây giờ các dân tộc đều là anh em cả. Dân tộc nào đông hơn, nhiều người hơn, tiến bộ hơn thì phải giúp đỡ các dân tộc khác để đều tiến bộ như nhau, đều đoàn kết như anh em một nhà”57.
Cùng ngày, gặp mặt với cán bộ, đảng viên lâu năm, Bác căn dặn: “Các đồng chí già là rất quý, là gương bền bỉ đấu tranh, dìu dắt, bồi dưỡng, đào tạo thêm đồng chí trẻ... Như thế đòi hỏi ở đồng chí già phải có thái độ độ lượng, dìu dắt đồng chí trẻ. Đó cũng là một tiêu chuẩn đạo đức cộng sản chủ nghĩa... Nếu thế hệ già khôn hơn thế hệ trẻ thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt… Người ta thường nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”58.
Ngày 10-12
“Đồng bào miền Nam rất anh hùng”.
Từ ngày 10-12-1942, Hồ Chí Minh bắt đầu những ngày bị giam cầm tại Liễu Châu (Trung Quốc). Trong thời gian này, nhiều bài thơ được sáng tác, trong đó có bài “Tứ cá nguyệt liễu” (Bốn tháng rồi) nhìn lại một chặng đường đầy gian khó, được Nam Trân dịch:
"Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài"
Lời nói người xưa đâu có sai;
Sống khác loài người vừa bốn tháng,
Tiều tụy còn hơn mười năm trời.
Bởi vì:
Bốn tháng cơm không no,
Bốn tháng đêm thiếu ngủ,
Bốn tháng áo không thay,
Bốn tháng không giặt giũ.
Cho nên:
Răng rụng mất một chiếc,
Tóc bạc thêm mấy phần,
Gầy đen như quỷ đói,
Ghẻ lở mọc đầy thân.
May mà:
Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân,
Vật chất tuy đau khổ,
Không nao núng tinh thần”59.
Ngày 10-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội đồng Chính phủ bàn về Tổng tuyển cử, đưa ra đề nghị tập trung bàn về các nội dung: Làm thế nào để các ủy ban làng tổ chức cuộc bầu cử cho đúng? Làm thế nào để các cử tri biết cách bỏ phiếu? Làm thế nào để cử tri đi bỏ phiếu thật đông?.
Ngày 10-12-1951, đáp lại thư của các chiến sĩ báo công thắng trận, Bác viết “Thư trả lời chiến sỹ” động viên: “Luôn luôn giữ vững tinh thần khắc khổ, tinh thần quyết chiến quyết thắng. Luôn luôn giúp đỡ nhân dân, đi sát với nhân dân. Chớ vì thắng mà kiêu, chớ chủ quan khinh địch. Với lính Pháp và ngụy binh ta bắt được, đối đãi họ tử tế và thuyết phục họ. Mong các cháu cố gắng để thắng nhiều trận nữa”60.
Cùng ngày, Bác viết “Thư gửi các họa sĩ nhân dịp Triển lãm hội họa 1951” nêu rõ: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sỹ khác, chiến sỹ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh... Nghệ thuật cũng cần tiến bộ mạnh, muốn tiến bộ mạnh, tiến bộ mãi, thì anh chị em nghệ thuật cần phải dùng phương pháp tự phê bình và phê bình. Chắc có người nghĩ: Cụ Hồ đưa nghệ thuật vào chính trị. Đúng lắm. Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Tiền đồ dân tộc ta rất vẻ vang, tiền đồ nghệ thuật ta rất rộng rãi. Chúc anh chị em mạnh khỏe, tiến bộ, thành công”61.
Ngày 10-12-1954, dự họp Bộ Chính trị ngay sau ngày Thủ đô giải phóng, bàn về khôi phục kinh tế, Bác phát biểu: “... Mấy năm kháng chiến, ta chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành thị... Nếu muốn công nghiệp hóa gấp thì là chủ quan. Cho nên trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp. Làm trái với Liên Xô, đó cũng là mácxít... Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi tiến đến thủ công nghiệp, sau mới đến công nghiệp nặng”62.
Ngày 10-12-1963, dự họp Bộ Chính trị bàn về tình hình mới sau khi ở miền Nam, Ngô Đình Diệm bị Mỹ lật đổ, Bác nhấn mạnh: “Nói thuận lợi, nhưng đồng thời phải nói rõ khó khăn. Nên thêm về công tác dân vận… Nên nêu khẩu hiệu: “Người Việt không đánh người Việt”. Làm sao động viên tiêu diệt cho được nhiều Mỹ: Mỹ rất sợ chết. Ta vừa tiêu diệt vừa tuyên truyền... Đồng bào miền Nam rất anh hùng, cán bộ, đảng viên rất anh dũng. Phải đoàn kết, quyết tâm, tin tưởng, dù Mỹ có tăng gấp 10 lần ta cũng thắng!”63.
Ban Biên tập (tổng hợp)
Còn nữa
Chú thích:
26,27. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 189, 443-444.
28. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 717.
29,30. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 383, 380.
31 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 138.
32,33. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 320.
34. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 113.
35,36. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 462, 464.
337,38. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 403.
39. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 266.
40,41,42. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, t. 114, 115, 466.
43,44. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 469-470, 473.
45 Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 467-468.
46. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 2, tr. 201-202.
47. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 2, tr. 201-202.
48,49. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 310-312.
50,51. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 443, 446.
52. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 381.
53,54. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 269, 571.
55,56,57. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 455, 459, 460-461.
58. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 463-465.
59. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 388.
60,61. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 344, 368-369.
62 Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 538-539.
63. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 469.
Ngày 11-12
“Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng”.
Ngày 11-12-1919, báo cáo theo dõi của mật thám Pháp cho biết, Nguyễn Ái Quốc thường xuyên đến thư viện Thánh Geneviève và gặp nhiều người Việt đang sống ở Pari.
Ngày 11-12-1920, mật thám Pháp ghi nhận Nguyễn Ái Quốc đã dự cuộc họp của Chi bộ 13 Đảng Xã hội Pháp.
Ngày 11-12-1923, Nguyễn Ái Quốc đang có mặt tại Mátxcơva tạm thời được biên chế vào Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản và tạm trú tại Khách sạn Lux.
Ngày 11-12-1953, với bút danh “C.B.”, Bác viết bài báo có nhan đề “Một phút đồng hồ” đăng trên Báo Nhân Dân nhắc nhở: Muốn tiết kiệm thời giờ, mọi người phải chuẩn bị sẵn sàng, đầy đủ và phải có tinh thần phụ trách và phải coi “Một phút đồng hồ, một nén vàng”64.
Tháng 12-1958, nói chuyện với Lớp nghiên cứu Khóa I và Lớp bổ túc văn hoá Khóa VI Trường Công an Trung ương, Bác căn dặn: “Công an đánh địch bên ngoài đã khó, đánh địch bên trong người còn khó khăn hơn. Vì vậy, phải nâng cao kỷ luật, tính tổ chức, chống ba phải, nể nang. Công tác phải đi sâu và thiết thực. Làm việc phải có điều tra, nghiên cứu, không được tự kiêu, tự đại. Phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân thì khuyết điểm mới có thể khắc phục được và ưu điểm mới có thể phát huy được. Phải đi đường lối quần chúng thì nhân dân mới tin yêu, giúp công an và công an mới thành công được. Phải đoàn kết nội bộ, đoàn kết với nhân dân và với các ngành khác thì công việc mới thắng lợi”65.
Cũng trong tháng 12-1958, trên Tạp chí Học tập cơ quan lý luận của Đảng, với bút danh “Trần Lực”, Bác viết bài “Đạo đức cách mạng” trình bày hệ thống quan điểm của mình về một vấn đề được coi là “nền tảng” của sự nghiệp cách mạng. Bài báo có đoạn viết: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói quen... Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân... Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... Có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Đó cũng là biểu hiện của đạo đức cách mạng”66.
Ngày 11-12-1965, Bác dự họp của Bộ Chính trị thảo luận về tính chất cuộc chiến tranh Mỹ tiến hành ở Việt Nam. Trong ý kiến trao đổi, Bác giải thích về những thuật ngữ như “chiến tranh cục bộ”, “chiến tranh đặc biệt”: “Đó là cách nói chữ của Mỹ. Còn ta cứ nói là “chiến tranh xâm lược”... Dù với hình thức chiến tranh nào, nhân dân ta cũng quyết đánh, quyết thắng”67 và dự đoán: “Thời gian đến khi bầu cử Tổng thống, nội bộ chúng sẽ mâu thuẫn”68 nhưng cũng nhắc nhở phải chuẩn bị tinh thần ứng phó với việc Mỹ có thể ném bom Hà Nội, Hải Phòng (điều mà sau đó không lâu đã trở thành hiện thực).
Ngày 12-12
“Mau mau đoàn kết lại!”
Ngày 12-12-1919, báo cáo của mật thám Pháp theo dõi cho biết Nguyễn Ái Quốc đến Thư viện Thánh Geneviève và Văn phòng Hội Liên minh Nhân quyền và một vài người Việt Nam đang sống ở Pari.
Ngày 12-12-1921, Nguyễn Ái Quốc dự cuộc họp của Ủy ban Liên Công đoàn quốc tế quận 17 ở Pari.
Ngày 12-12-1926, trên báo Thanh Niên xuất bản tại Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc viết bài báo có nhan đề là “Trưng Trắc” (ký bút danh H.T). Sau khi thuật lại tiểu sử và hành trang của Bà, tác giả ca ngợi: “Can đảm thay! Phận thuyền quyên vì nước quên mình! Tuy chỉ trong 3, 4 năm nhưng cũng đủ làm cho bọn tu mi quân giặc mất vía. Như buổi ấy là buổi phong kiến mà đàn bà, con gái còn biết K.m. (cách mạng). Huống chi bây giờ hai chữ “nữ quyền” đã rầm rầm khắp thế giới, chị em ta lại gặp cảnh nước suy vi, nỡ lòng nào ngồi yên được! Chị em ơi! Mau mau đoàn kết lại!”69.
Ngày 12-12-1945, tại Tòa Thị chính Thành phố, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp mặt của các vị ứng cử đại biểu Quốc hội ở Hà Nội. Các ứng cử viên cùng thảo luận hai vấn đề chính: Lập một ban liên lạc trung gian và lập một chương trình của Mặt trận Liên hiệp Quốc dân với nguyên tắc chung là: Thống nhất, kháng chiến, độc lập hoàn toàn, tăng gia sản xuất, xây dựng kinh tế.
Ngày 12-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời trên Báo Cứu quốc về chính kiến của lãnh tụ Đảng Xã hội Pháp Lêông Blum khi cho rằng phương pháp duy nhất để giữ ảnh hưởng và lợi ích của Pháp là “hợp tác thật thà trên nền tảng độc lập, tức là lòng tin nhau và nghĩa thân thiện”70. Tán thành quan điểm ấy, Bác bày tỏ: “Việt Nam quyết lòng thật thà cộng tác với nhân dân Pháp như anh em, trên nền tảng độc lập, bình đẳng, quyết lòng tôn trọng lợi ích văn hóa và vật chất của nước Pháp ở đây. Nhưng Việt Nam cũng quyết lòng không để cho ai chinh phục bằng âm mưu hoặc bằng vũ lực”71.
Ngày 12-12-1947, Bác viết thư “Gửi Chính phủ Cao Miên giải phóng”, nhiệt liệt hoan nghênh việc thành lập Ủy ban Giải phóng Việt - Miên - Lào nhằm đoàn kết ba dân tộc trong cuộc chiến đấu chung: “Tôi tin chắc rằng các dân tộc ta, đã có sẵn một tinh thần đấu tranh cao, lại gắng đi tới một sự cộng tác chặt chẽ thì thắng lợi thế nào cũng về ta, và chúng ta nhất định sẽ giành được độc lập cho đất nước”72.
Ngày 12-12-1953, trong thư gửi cho đồng bào và cán bộ tỉnh Lai Châu miền Tây Bắc, nơi đã được chọn làm hướng tiến công chiến lược, Bác căn dặn: “1. Đoàn kết thân ái giúp đỡ lẫn nhau. 2. Giúp đỡ bộ đội diệt phỉ, trừ gian, giữ gìn trật tự. 3. Ra sức tăng gia sản xuất để mọi người được ấm no. 4. Hết sức trung thành với Tổ quốc và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Còn đối với những người trước đây đã lầm đường theo giặc nếu trở về với Tổ quốc thì Chính phủ sẽ khoan hồng”73.
Tháng 12-1953, Bác gửi thư động viên cán bộ, chiến sỹ Mặt trận Điện Biên Phủ: “... Năm nay, sau những cuộc chỉnh huấn chính trị và quân sự, các chú đã tiến bộ hơn. Các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh: Quyết tâm tiêu diệt địch, Quyết tâm giữ vững chính sách, Quyết tâm tranh nhiều thắng lợi!”74.
Ngày 13-12
“Phải dựa vào dân, không được xa rời dân”.
Ngày 13-12-1919, báo cáo của mật thám Pháp theo dõi cho biết Nguyễn Ái Quốc sau khi đến Thư viện Thánh Geneviève đã đến Vườn hoa Luýchxămbua ở Pari.
Ngày 13-12-1946, Báo Cứu quốc đăng hai bài viết của Bác. Trong bài “Chiến lược của quân ta và của quân Pháp” nêu rõ: "Chiến lược của chúng là chiến lược tiến công, đánh chớp nhoáng”75, còn “chiến lược của ta là chiến lược phòng ngự. Về phương pháp tác chiến, chúng ta áp dụng vận động chiến song song với du kích chiến”76, vì vậy, ta phải kháng chiến lâu dài mà “kháng chiến lâu dài cần phải chuẩn bị đầy đủ và tất nhiên phải qua nhiều giai đoạn khổ sở, gian lao... chúng ta nhất định sẽ thắng trong cuộc chiến đấu tự vệ của chúng ta”77.
Còn trong bài “Động viên kinh tế” đưa ra những quan điểm về nguồn lực của cuộc kháng chiến và kết luận: “Cuộc kháng chiến lâu dài của chúng ta được thắng lợi là do nơi chúng ta động viên kinh tế được thành công, vì chúng ta có biết động viên kinh tế một cách khôn khéo, thực lực của chúng ta mới được đầy đủ và bền bỉ. Rất mong toàn thể quốc dân gắng gỏi trong công việc này”78.
Ngày 13-12-1951, Bác viết bài “Tinh thần trách nhiệm” đăng trên Báo Nhân Dân với lời kết luận: “... Với lòng kiên quyết dùi mài tinh thần trách nhiệm của cán bộ, chúng ta nhất định chiến thắng khuyết điểm cũng như nhất định chiến thắng thực dân”79.
Tháng 12-1951, Bác viết “Thư gửi toàn thể chiến sĩ và cán bộ Đại đoàn 312”, biểu dương những thành tích đạt được trong Chiến dịch mang tên Lý Thường Kiệt và “Bác mong các chú thật thà tự kiểm thảo lại, kiểm thảo theo đúng dân chủ từ trên xuống và từ dưới lên, để rút kinh nghiệm, để sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm”80.
Năm 1951, Bác có cuộc nói chuyện tại Trường Công an trung cấp Khóa 2, trong đó, đưa ra những quan điểm: “Làm công an không phải làm “quan cách mạng”. Làm công an là để giữ trật tự an ninh cho nhân dân, xem xét tìm tòi âm mưu phản động làm hại nhân dân. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa... Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân... Phải làm sao có hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được. Muốn như vậy, phải dựa vào dân, không được xa rời dân...”81.
Ngày 13-12-1958, tiếp các đại biểu Quốc hội nhân kết thúc kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa I, Bác động viên: “Nếu toàn dân cố gắng, toàn Đảng cố gắng, Chính phủ cố gắng, ta sẽ có dịp ăn mừng những thắng lợi to lớn hơn nữa”82.
Ngày 13-12-1960, phát biểu tại cuộc họp của Bộ Chính trị bàn về kế hoạch nhà nước, Bác nói: “Ta muốn làm nhiều việc nhưng phải có thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Hiện nay nhân hòa còn kém, phải làm sao giữa nông dân và Nhà nước ăn khớp... phải làm sao cho mỗi người từ trên xuống dưới, phải có trách nhiệm thực hiện kế hoạch… phải chú trọng tới chi bộ, công đoàn; hợp tác xã phải củng cố cho vững mạnh hơn nữa và chú ý cải tạo con người”83.
Ngày 14-12
“Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Ngày 14-12-1919, báo cáo của mật thám Pháp theo dõi ghi nhận Nguyễn Ái Quốc nhận được thư của Toà soạn tờ L’Humanité (Nhân Đạo) của Đảng Xã hội Pháp, đến toà soạn tờ “La Dépêche Coloniale”(Tin điện Thuộc địa) và gặp gỡ một số người...
Tháng 12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các chiến sỹ Nam bộ và Nam phần Trung bộ biểu dương: “Từ ba tháng nay, các anh chị em đã đem xương máu ra để giữ lấy từng tấc đất của Tổ quốc. Tôi, và tất cả đồng bào ở Bắc Bộ, và phía Bắc Trung Bộ, đã bao nhiêu lần tức giận khi nghe bọn thực dân Pháp đạp lên lãnh thổ của ông cha ta, giết hại nòi giống ta. Đã bao nhiêu lần phấn khởi khi nghe những chiến công oanh liệt do những vị vô danh và hữu danh anh hùng của dân tộc tạo nên, đã bao nhiêu lần hồi hộp cảm động trước những gương hy sinh vô cùng dũng cảm của những người con yêu của Tổ quốc. Do đó, tôi càng tin chắc rằng: Với một nước đã có những người con hy sinh như thế, anh hùng như thế, đã có một khối toàn dân đoàn kết như thế, nước ta nhất định không bị mất lại một lần nữa... Các bạn ở tiền tuyến không bao giờ cô độc, vì đã có cả một khối toàn dân đoàn kết làm hậu thuẫn cho mình. Thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”84.
Ngày 14-12-1954, Báo Nhân Dân đăng trả lời phỏng vấn qua thư của Bác cho phóng viên báo “Regards” thêm một lần khẳng định: “Chúng tôi hết sức làm việc để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước Việt Nam... Chúng tôi muốn lập với nước Pháp những mối quan hệ kinh tế và văn hóa trên cơ sở bình đẳng, hai bên đều có lợi và cộng tác thẳng thắn và tin cậy nhau”85.
Ngày 14-12-1958, Bác tiếp tục dự kỳ họp thứ 9 Quốc hội Khóa I, đã thông qua nghị quyết: Giao cho Chính phủ nghiên cứu thảo một đạo luật về hôn nhân và gia đình để trình Quốc hội... Trước khi có đạo luật hoàn chỉnh, Chính phủ nên có những biện pháp thích đáng nhằm ngăn chặn những việc không hợp lý còn tồn tại trong xã hội ta về hôn nhân và gia đình.
Cũng trong tháng 12-1958, trong bài “Đạo đức cách mạng” đăng trên Tạp chí Học tập của Bác, có đoạn viết: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn. Nhưng có đồng chí học thuộc lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác - Lênin. Họ tự cho mình là hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin hơn ai hết. Song khi gặp việc thực tế, thì họ hoặc là máy móc, hoặc là lúng túng. Lời nói và việc làm của họ không nhất trí. Họ học sách vở Mác - Lênin, nhưng không học tinh thần Mác - Lênin. Học để trang sức, chứ không phải để vận dụng vào công việc cách mạng. Đó cũng là chủ nghĩa cá nhân... Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”86.
Ngày 15-12
“Đã là người tự do thì phải làm thế nào cho xứng đáng”.
Ngày 15-12-1912, với tên ký là “Paul Tất Thành”, Nguyễn Tất Thành gửi thư cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm người cha là Phó bảng Nguyễn Sinh Huy. Đáng chú ý là, thư được gửi từ thành phố Niu Oóc. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành còn gửi thư cho người anh trai là ông Nguyễn Sinh Khiêm đang làm việc tại Tòa Khâm sứ Trung Kỳ đặt vấn đề xin vào học Trường Thuộc địa ở Pari.
Ngày 15-12-1919, mật thám Pháp theo dõi cho biết Nguyễn Ái Quốc vẫn quan hệ với báo L’Humanité (Nhân Đạo) của Đảng Xã hội, vẫn đều đặn đến Thư viện Thánh Geneviève và tiếp xúc với nhiều người Pháp. Ngày 15-12-1921, Nguyễn Ái Quốc dự họp với Đoàn Thanh niên Cộng sản quận 13, ở Pari.
Khoảng giữa tháng 12-1944, Nguyễn Ái Quốc gửi một bức thư nhỏ đặt trong bao thuốc lá cho đồng chí Võ Nguyên Giáp. Đó là bản Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân có ba nội dung chính: “1. Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền… có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên. Nguyên tắc tổ chức lực lượng là “sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực”. 2. Đối với các đội vũ trang địa phương: tập trung huấn luyện… trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến. 3. Về chiến thuật: “vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông, mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô hình”87. Chỉ thị khẳng định: “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”88. Từ Chỉ thị này, ngày 22-12-1944, lực lượng vũ trang chính quy của cách mạng đã ra đời và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Ngày 15-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào ngoại thành Hà Nội với nội dung: “Tôi rất cảm động thấy toàn thể đồng bào ngoại thành Hà Nội đã có lòng quá yêu tôi, mà quyết nghị tôi không phải ứng cử trong kỳ Tổng tuyển cử sắp tới. Nhưng tôi là một công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nên không thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử đã định. Tôi đã ứng cử ở Thành phố Hà Nội, nên không thể ra ứng cử ở nơi nào khác nữa. Tôi xin thành thực cảm tạ toàn thể đồng bào nam, phụ, lão, ấu khu vực ngoại thành Hà Nội”89.
Ngày 15-12-1954, Bác đến thăm Bệnh viện Bạch Mai căn dặn cán bộ và nhân viên y tế mới tiếp quản bệnh viện từ phía ban điều hành của Pháp: “Đã là người tự do, người chủ trì thì phải làm thế nào cho xứng đáng. Từ công việc, tư tưởng đến thái độ đều phải có tư cách người chủ”90.
Ngày 15-12-1966, Bác gửi thư khen ngợi quân dân Thủ đô đã bắn rơi chiếc máy bay thứ 1.600 trên miền Bắc và tặng Hà Nội lá cờ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”91.
Ban Biên tập (tổng hợp)
Còn nữa
Chú thích:
64. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 189.
65, 66. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 280, 283-284.
67, 68. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 9, tr. 327, 328.
69. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 457.
70, 71. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 472.
72. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 139.
73, 74. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 406, 413.
75, 76, 77, 78. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 474, 475, 476, 479.
79. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 347.
80, 81. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 364, 365-366.
82, 83. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 7, tr. 185, 574-575.
84. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 134.
85. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 385-386.
86. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 292-293.
87, 88. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 2, tr. 223-224.
89. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 116.
90. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 542.
91. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 175.
Ngày 16-12
“Muốn ăn quả thì phải trồng cây”.
Ngày 16-12-1927, từ Béclin (Đức), Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân báo tin dự định trở về đất nước và đề nghị được giúp đỡ.
Ngày 16-12-1945, báo Chiến Thắng của Vệ Quốc đoàn đã đăng bài “Hồ Chủ tịch khuyên răn bộ đội”, trong đó, nêu rõ những khuyết điểm mà bộ đội phải sửa ngay: “1. Ham hình thức mà không chú ý đến những điều thiết thực... 2. Không bí mật: Phải làm sao cho mình biết địch mà địch không biết mình. 3. Cẩu thả... 4. Công tác chính trị đối với dân chúng rất kém; có đồng chí cố ý tỏ ra là quan, là lính cho dân sợ. 5. Hiểu nhầm chữ “tự do”: Quân đội không thể vô chính phủ được, phải có kỷ luật. 6. Làm việc không có kế hoạch...”92 . Để khắc phục, Bác yêu cầu: “1. Phải gắng sức học tập. 2. Kỷ luật nghiêm: Ai nấy đều phải tuân theo kỷ luật; không thể trì hoãn, phải làm kiên quyết và mau mắn. 3. Chịu khó chịu khổ… Phải tham gia sản xuất...”93.
Ngày 16-12-1949, Bác chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ, biên bản ghi nhận: “Sang năm mới, nhân dân Việt Nam, mọi người, mọi ngành, mọi nơi đều phải ra sức thi đua chuẩn bị đầy đủ, để mau chuyển sang tổng phản công, để chơi cho giặc Pháp một nước pháo trùng, thì giặc Pháp nhất định sẽ hoàn toàn thất bại, kháng chiến nhất định sẽ hoàn toàn thành công”94.
Ngày 16-12-1954, Bác viết “Thư gửi các đơn vị miền Nam tập kết”, thăm hỏi và căn dặn: “Các chú cần phải đoàn kết hơn nữa, đoàn kết chặt chẽ giữa chiến sỹ với nhau, giữa cán bộ với nhau, giữa chiến sỹ và cán bộ, giữa quân và dân. Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi. Cần phải giữ vững truyền thống anh dũng, tác phong đúng đắn, tinh thần chịu đựng gian khổ, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ. Nói tóm lại: Giữ vững và phát triển đạo đức cách mạng của Quân đội nhân dân...”95.
Ngày 16-12-1961, về thăm và nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Thanh Hóa, Bác nêu vấn đề: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là xây dựng đời sống no ấm và hạnh phúc cho nhân dân. Muốn ăn quả thì phải trồng cây. Muốn có quả ngon thì phải ra sức săn sóc cho cây tốt. Muốn xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội thì nhân dân ta phải nâng cao tinh thần làm chủ. Mọi người phải làm tròn nhiệm vụ của người chủ: Cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội...”96 .
Ngày 16-12-1965, Bác dự họp của Bộ Chính trị trao đổi ý kiến về việc Mỹ tuyên bố ngừng tạm thời việc ném bom miền Bắc nước ta. Bác đề nghị: “Ta nên có tuyên bố trả lời Mỹ. Nói thế nào cho cứng cỏi nhưng dễ nghe, trong đó nêu rõ ra là nhân dân Việt Nam muốn hòa bình, cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Mỹ kết cục cả hai bên đều thiệt hại... Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố rằng: Chỉ khi nào Chính phủ Mỹ chấm dứt vĩnh viễn và không điều kiện các cuộc ném bom... công nhận lập trường 4 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chứng tỏ bằng việc làm thì mới có thể tính đến một giải pháp chính trị về vấn đề Việt Nam”97.
Ngày 16-12-1968, Bác đến Hội trường Ba Đình, Hà Nội dự lễ truy điệu Bác sĩ Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch hy sinh trong khi thực hành nhiệm vụ tại mặt trận phía Nam.
Ngày 17-12
“Làm cho mọi người dân hiểu chính sách của Chính phủ”.
Ngày 17-12-1919, báo cáo theo dõi của mật thám Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc đã đến Thư viện Thánh Gienevieve, đến trụ sở Hạ viện Pháp gặp Mácxen Casanh và đến văn phòng các tờ báo cánh tả là “L’Humanité” (Nhân Đạo) và “Le Populaire” (Dân Chúng).
Ngày 17-12-1921, mật thám Pháp bám sát mọi hành trang của Nguyễn Ái Quốc, cho biết đảng viên thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp mới thành lập này đã dự cuộc họp Chi bộ quận 17 và phát biểu về nguồn gốc chiến tranh và phê phán Thủ tướng Pháp Poanhcarê đã bỏ trách nhiệm trước những động thái của quân Đức.
Ngày 17-12-1931, liên quan đến “Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông”, Thái tử Cường Để dưới cái tên “Phúc Dân” đã gửi thư tới Tống Văn Sơ lúc này đang bị chính quyền Hồng Kông quản thúc vì liên quan đến một vụ án đang trong quá trình xét xử. Bức thư với lời lẽ: Gửi đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tôi vừa được biết đồng chí đang ốm nặng tại Hồng Kông và tin này làm tôi vô cùng lo lắng. Cho phép tôi gửi đồng chí kèm theo đây 300 yên để đồng chí mua thuốc men. Mong đồng chí tích cực chữa bệnh. Điều đó cần cho sự nghiệp của Tổ quốc. Chúc đồng chí sớm bình phục - Phúc Dân. Nội dung thư cho thấy mối quan hệ giữa hai nhân vật lịch sử vào thời điểm này. Bức thư khiến cho giới thực dân Pháp giận dữ và lo ngại.
Ngày 17-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo tại Hội đồng Chính phủ về những yêu sách của Việt Nam Quốc dân đảng liên quan đến Tổng tuyển cử và quyết định hoãn cuộc tuyển cử đến ngày 06-01-1946.
Ngày 17-12-1949, Bác điều khiển cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, khi tổng kết phiên họp đã chỉ thị: “1. Cần hợp lý hóa việc họp hành; 2. Chính quyền và đoàn thể nhân dân phải liên lạc mật thiết và thiết thực hơn nữa. Làm cho mọi người dân đều hiểu về chính sách của Chính phủ; 3. Hoạt động của các bộ phải ăn khớp với nhau; 4. Tổ chức thi đua ái quốc giữa các bộ”98. Cùng ngày, Bác ký Sắc lệnh thành lập Cơ quan Thanh tra Chính phủ cử Hồ Tùng Mậu làm Tổng Thanh tra và Trần Đăng Ninh làm Phó Tổng Thanh tra.
Ngày 17-12-1951, trong bài viết “Mình làm mình chịu” của Bác đăng trên Báo Cứu Quốc, sau khi phân tích chính sách gây chiến của Mỹ, bài báo kết luận: “Mỹ gieo hạt chiến tranh thì được hứng chiến tranh”99.
Ngày 17-12-1960, dưới bút danh “T.L”, Bác viết bài “Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đoàn kết, đấu tranh, thắng lợi” đăng trên Báo Nhân Dân giới thiệu nội dung của Bản Tuyên bố chung của 81 Đảng Cộng sản và công nhân vừa họp tại Mátxcơva (Liên Xô). Bài báo đưa ra những đánh giá: “Nhiệm vụ của những người cộng sản chẳng những là tiêu diệt nạn bóc lột và nghèo nàn và vĩnh viễn tiêu diệt mọi loại chiến tranh, mà còn phải ra sức phấn đấu cho loài người trong thời đại này tránh khỏi tai họa chiến tranh thế giới... Muốn thắng lợi, các dân tộc thuộc địa cần phải đoàn kết mọi lực lượng chống đế quốc thành một mặt trận thống nhất rộng rãi lấy liên minh công nông làm nền tảng và có cả tầng lớp tư sản yêu nước... Tình hình và thời gian có lợi cho ta... Chúng ta nhất định thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình thế giới, cho độc lập dân tộc, cho chủ nghĩa xã hội...”100.
Ngày 18-12
“Thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc”.
Ngày 18-12-1919, báo cáo của mật thám Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc gặp Khánh Ký, một người Việt Nam làm nghề nhiếp ảnh hoạt động trong “Nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp”. Tại cuộc gặp này, Nguyễn Ái Quốc cho biết đã tiếp cận với các tờ báo “L’Humanité” (Nhân Đạo) và “Le Populaire” (Dân Chúng) để tìm việc cho Phan Chu Trinh.
Ngày 18-12-1921, báo cáo của mật thám Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc tham gia buổi thảo luận của Thư ký Liên đoàn công nhân xe lửa về chủ đề: Quyền bãi công.
Ngày 18-12-1924, từ Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo tới Quốc tế Cộng sản cho biết đã triển khai những nhiệm vụ được trao, yêu cầu các đại diện của Quốc tế Cộng sản tại Trung Quốc cần quan tâm đến Đông Dương, đồng thời, cũng cho biết lúc này đang đóng vai một người Trung Hoa với bí danh là “Lý Thụy”.
Ngày 18-12-1940, trên tờ “Cứu vong nhật báo”, Nguyễn Ái Quốc viết bài “Việt Nam “phục quốc quân” hay “mại quốc quân” tố cáo âm mưu của phát xít Nhật sử dụng một số tay sai người Việt xây dựng nhóm vũ trang mang tên “Phục quốc quân” để gây sức ép với đế quốc Pháp cũng như hướng phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam phục vụ cho mưu đồ của Nhật Bản. Bài báo cảnh tỉnh: “Chúng ta cần phân biệt rõ các đoàn thể chính trị và vũ trang của Việt Nam, không nên nhầm các tổ chức Việt gian thành “phong trào dân tộc”, càng không nên nhầm phong trào dân tộc chân chính của Việt Nam là “bọn thổ phỉ” hoặc “bị kẻ địch xúi giục”101.
Ngày 18-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tướng Trần Tư Hòa, đại diện Bộ Tư lệnh quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng tại Việt Nam yêu cầu lùi thời gian tiến hành Tổng tuyển cử và có đại biểu đảng phái chính trị tham gia thành lập Chính phủ Liên hiệp. Cùng ngày, Bác ký Sắc lệnh lùi ngày Tổng tuyển cử tới ngày 06-01-1946.
Ngày 18-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) Thường vụ Trung ương Đảng họp dưới sự chủ tọa của Bác đã quyết định tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước. Cùng ngày, Bác vẫn gửi tiếp một bức điện cho Thủ tướng Pháp Lêông Blum nhằm cứu vãn tình hình bằng việc hoan nghênh ý tưởng cử “một phái đoàn Quốc hội Pháp sang Việt Nam mang tinh thần hữu nghị của nhân dân Pháp tới nhân dân Việt Nam và để nắm bắt tình hình”102.
Ngày 18-12-1954, tại Thủ đô mới giải phóng, Bác đến thăm và nói chuyện với thầy trò các trường phổ thông: Chu Văn An, Nguyễn Trãi và Trưng Vương. Bác nói: “Thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc. Dân tộc bị nô lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải phóng, thanh niên mới được tự do. Vì vậy thanh niên phải hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của dân tộc… Ngày nay, ta đã được độc lập, tự do, thanh niên mới thật là người chủ tương lai của nước nhà. Muốn xứng đáng vai trò người chủ thì phải: Học tập... Học phải đi đôi với hành...”103.
Ngày 18-12-1964, đến thăm và nói chuyện với Hội nghị sơ kết cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ “Bốn tốt” ở khu vực ngoại thành Hà Nội, Bác căn dặn: “... Cần lãnh đạo đưa phong trào ngoại thành tiến lên mạnh mẽ hơn nữa, làm cho ngoại thành thật sự trở thành vành đai đỏ của Thủ đô xã hội chủ nghĩa”104.
Ngày 19-12
“Giờ cứu nước đã đến!”
Ngày 19-12-1919, báo cáo theo dõi của mật thám cho biết trong ngày Nguyễn Ái Quốc có nhiều hành trạng: Đến thư viện, hiệu sách, đến Hạ viện gặp Nghị sĩ Mácxen Casanh (sau này trở thành một lãnh tụ cộng sản), Bảo tàng Luvơrơ và buổi tối đến nhà số 6 phố “Vila đê Gôbơlanh” tranh luận cùng Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường.
Ngày 19-12-1924, từ Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế Cộng sản bản báo cáo về “Tình hình Đông Dương” tháng 11 và 12-1924, trong đó đặc biệt lưu ý đến sự xuất hiện các tổ chức chính trị mới và cho biết: “Hai trăm học sinh trẻ tuổi của tỉnh ở Nam Kỳ đã biểu tình trước đồn cảnh sát đòi thả hai người bạn của họ bị bắt giữ… Đấy là lần đầu tiên, ở Đông Dương xảy ra một việc như vậy. Đó là một dấu hiệu của thời đại”105.
Ngày 19-12-1946, trước việc không thể cứu vãn được một cuộc chiến tranh sẽ bùng nổ do sự cố tình của giới thực dân Pháp, đêm hôm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” và công bố vào rạng sáng hôm sau. Lời kêu gọi viết: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước... Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!...”106.
Ngày 19-12-1947, kỷ niệm tròn một năm Toàn quốc Kháng chiến, trả lời báo chí, Bác khẳng định: “... Kết quả địch sẽ thất bại, vì: a) ... chúng hết thiên thời; b) ... quân địch không có địa lợi; c) ... địch không có nhân hòa”107.
Cùng ngày, trong bài viết “Kỷ niệm ngày thành lập Giải phóng quân”, Bác căn dặn: “Vệ quốc quân, dân quân du kích phải luôn luôn phát triển cái kỷ luật nghiêm như sắt, cái tinh thần vững như đồng, cái chí khí quật cường tất thắng, cái đạo đức: Trí, dũng, liêm, trung của Giải phóng quân”108.
Ngày 19-12-1950, Bác gửi thư tới Quân đội quốc gia, bộ đội địa phương và dân quân Việt Nam nêu rõ: “Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân nên hy sinh kham khổ... Với quân đội ấy, kháng chiến nhất định thắng lợi”109. Cùng ngày, Bác ký Sắc lệnh tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp Huân chương Hồ Chí Minh hạng Ba.
Ngày 19-12-1954, trong lời kêu gọi, Bác nhấn mạnh: “So với đấu tranh vũ trang trong kháng chiến, thì đấu tranh chính trị trong hòa bình cũng phải trường kỳ và gian khổ và còn gay go, phức tạp hơn...”110. Cùng ngày, Bác chuyển chỗ ở từ khu vực Đồn Thủy về căn nhà nhỏ của người thợ chữa điện nước của Phủ Toàn quyền cũ nay dùng làm Phủ Chủ tịch.
Ban Biên tập (tổng hợp)
Còn nữa
Chú thích
92,93. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 101-102.
94 Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 372.
95. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 396-397.
96. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 484-485.
97. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 9, tr. 330.
98. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 372.
99. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 127.
100. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 232-236.
1 01. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 194.
102. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3, tr. 394.
103. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 398-399.
104. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 9, tr. 163-164.
105. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 1, tr. 300.
106. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 480.
107,108,109. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 141, 140, 490.
110. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 400.
Ngày 20-12
“Thanh niên ta có vinh dự to thì cũng có trách nhiệm lớn”.
Ngày 20-12-1919, báo cáo mật thám Pháp theo dõi cho biết Nguyễn Ái Quốc tiếp tục thường xuyên đến Thư viện Thánh Gienevievơ, đọc báo “L’ Humanité” (Nhân Đạo) và chơi bida với Phan Chu Trinh.
Ngày 20-12-1950, tại Chiến khu Việt Bắc, Bác tiếp Đoàn đại biểu Liên khu IV do Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Liên khu IV làm Trưởng đoàn. Cùng ngày, Bác ký Sắc lệnh về việc truy tố trước Tòa án Quân sự những kẻ đầu cơ tiền tệ, làm tiền giả và các tội phá hoại nền tài chính quốc gia.
Ngày 20-12-1954, trong bài báo có nhan đề “Từ ngày nhân dân ta bắt đầu kháng chiến, đế quốc Mỹ đã nhúng tay vào chiến tranh xâm lược Đông Dương”, với bút danh “C.B”, Bác khẳng định: “Sự can thiệp của đế quốc Mỹ đã làm cho cuộc chiến đấu của nhân dân Đông Dương kéo dài và gặp thêm nhiều khó khăn, nhưng chúng không thể ngăn cản nổi nhân dân Đông Dương đánh cho bọn xâm lược những đòn chí tử, không ngăn cản nổi nhân dân Đông Dương giành những thắng lợi oanh liệt và nhất định sẽ thu được thắng lợi cuối cùng”111.
Ngày 20-12-1961, Bác đến thăm và nói chuyện với Đại hội lần thứ 2 của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Bài nói tập trung vào chủ đề “Bác rất yêu quý thanh niên... Bác rất yêu mến thanh niên. Vì thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai - tức là các cháu nhi đồng. Vì thanh niên là người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa... Vì thanh niên là lực lượng cơ bản trong quân đội, công an và dân quân tự vệ, đang hăng hái giữ gìn trật tự, trị an, bảo vệ Tổ quốc. Vì trong mọi công việc, thanh niên thi đua thực hiện khẩu hiệu: “Đâu cần, thanh niên có; việc gì khó, thanh niên làm”... Thanh niên ta có vinh dự to thì cũng có trách nhiệm lớn...”112.
Ngày 20-12-1963, trả lời các nhà báo Xô viết nhân kỷ niệm 3 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Bác nêu rõ: “Do sự đoàn kết chặt chẽ và chiến đấu anh dũng của mình và sự nhiệt tình ủng hộ của nhân dân yêu chuộng chính nghĩa và hòa bình trên thế giới, nhân dân miền Nam Việt Nam nhất định sẽ thắng lợi, đế quốc Mỹ và bọn tay sai nhất định sẽ thất bại”113.
Ngày 20-12-1966, trong “Thư khen Hợp tác xã Tân Phong (Thái Bình) đạt năng suất lúa cao nhất miền Bắc”, Bác viết: “Bác nhắc các cô, các chú xã viên và cán bộ Tân Phong không nên chủ quan tự mãn với những thắng lợi bước đầu... Nội bộ phải đoàn kết chặt chẽ và thật sự dân chủ...”114.
Cùng ngày, trong thư cảm ơn một nhóm báo chí Nhật Bản đã gửi thư bày tỏ tình cảm tốt đẹp với nhân dân ta, Bác viết: “Tôi hoan nghênh nhân dân Nhật Bản đã dũng cảm đấu tranh cho độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập của mình. Thay mặt nhân dân Việt Nam, tôi nhờ quý báo chuyển lời cảm ơn nhân dân Nhật Bản đã nghiêm khắc lên án đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam và mạnh mẽ ủng hộ nhân dân Việt Nam chúng tôi trong cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước”115. Còn trong trả lời phỏng vấn của báo “Acahata”(Cờ Đỏ), cơ quan của Đảng Cộng sản Nhật Bản, Bác khẳng định: “Vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, vì hòa bình ở Châu Á và thế giới, nhân dân Việt Nam không sợ hy sinh gian khổ, quyết đánh, quyết thắng và nhất định sẽ thắng giặc Mỹ xâm lược”116.
Ngày 20-12-1968, trong ngày, Bác tiếp 30 cán bộ và chiến sỹ thuộc Binh chủng Đặc công đến từ Mặt trận miền Nam và các diễn viên đoàn Chèo Nam Định.
Ngày 21-12
“Cơ hội giải phóng đến rồi!
Mau mau đoàn kết lại!!!”
Ngày 21-12-1941, Báo "Việt Nam Độc lập" đăng bài “Thế giới đại chiến và phận sự dân ta” của Nguyễn Ái Quốc. Sau khi phân tích nguy cơ chiến tranh, bài báo nêu câu hỏi “Thế thì dân ta nên làm sao để tránh khỏi cái nạn ấy?” và trả lời: “Dân ta nên làm hai việc: 1 là - Bất kỳ quân đội nào tới gần vùng mình, dân ta phải làm cách “nhà không vườn trống”... Chỉ bao giờ Việt Minh có lệnh giúp cho quân đội nào thì dân ta sẽ giúp cho quân đội ấy. 2 là - Dân ta phải mau mau tổ chức lại. Nông dân phải vào “Nông dân Cứu quốc hội”. Thanh niên phải vào “Thanh niên Cứu quốc hội”. Phụ nữ vào “Phụ nữ Cứu quốc hội”... Các bậc phú hào, văn sĩ vào “Việt Nam Cứu quốc hội”... Hỡi đồng bào! Cơ hội giải phóng đến rồi, mau mau đoàn kết lại!!!”117.
Ngày 21-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp của Hội đồng Chính phủ bàn về canh nông, việc Việt Nam Quốc dân đảng tham gia Chính phủ Liên hiệp, vấn đề tuyển chọn thẩm phán... và ký Sắc lệnh thành lập các thành phố trực thuộc Trung ương hoặc các kỳ.
Ngày 21-12-1946, hơn một ngày sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ trên cả nước, Bác viết thư “Gửi dân chúng Việt Nam, dân chúng Pháp, dân chúng các nước Đồng Minh”. Trong đó nêu rõ: “Dân tộc Việt Nam nay bị đặt trước hai đường: Một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập. Không! Dân tộc Việt Nam không để cho người ta trở lại thống trị nữa. Không! Dân tộc Việt Nam không bao giờ muốn trở lại nô lệ nữa. Dân tộc Việt Nam thà chết chứ không chịu mất độc lập và tự do... Tất cả quốc dân Việt Nam phải đứng dậy bảo vệ Tổ quốc!”118.
Ngày 21-12-1951, Báo Cứu quốc đăng bài “4 thành 0, 6 thành 4” của Bác kêu gọi: “Quân ta hăng hái thi đua giết giặc lập công. Dân ta hăng hái thi đua nộp thuế nông nghiệp để nuôi bộ đội giết giặc. Thì giặc Pháp sẽ hết ngõ, cùng đường”119.
Tháng 12-1951, trong lá thư gửi đồng bào công giáo nhân dịp lễ Nôen, Bác viết: “Một lần nữa chúng ta chúc mừng ngày Sinh nhật Đức Chúa trong khói lửa chiến tranh mà giặc Pháp đã gây ra. Đức Chúa đã giáng thế và đã hy sinh cho tự do và bác ái giữa loài người... Trong ngày lễ Nôen, tôi mong đồng bào nhớ cầu nguyện cho những chiến sỹ giáo và lương đã kháng chiến anh dũng và đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Nhớ cầu nguyện cho những vị giáo sĩ và bà phước từ Bắc đến Nam, đã vì chính nghĩa mà bị giặc Pháp giết hại. Tôi mong đồng bào đoàn kết thêm chặt chẽ trong công cuộc kháng chiến để phụng sự Đức Chúa, phụng sự Tổ quốc, và để thực hiện lời Chúa dạy: “Hòa bình cho người lành dưới thế ”120.
Ngày 21-12-1954, Bác viết bài “Đế quốc Mỹ ráo riết phá Hội nghị Giơnevơ nhưng chúng đã thất bại nhục nhã” đăng trên Báo Nhân Dân, khẳng định: “Thành công của Hội nghị Giơnevơ là thắng lợi vĩ đại của nhân dân Đông Dương, nhân dân Pháp và nhân dân thế giới”121.
Ngày 21-12-1960, Báo Nhân Dân đăng bài có nhan đề “Tiết kiệm” của Bác với lời kết luận: “Thực hành tiết kiệm tức là trực tiếp góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Đồng bào ta nên luôn luôn ghi nhớ điều đó!”122.
Ngày 22-12
“Quân đội ta anh hùng trong kháng chiến mà cũng anh hùng trong hòa bình”.
Ngày 22-12-1919, báo cáo theo dõi của mật thám Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc dự cuộc mít tinh do Công đoàn CTG tổ chức và phân phát tại đây một số bản in “Yêu sách của Nhân dân An Nam”.
Ngày 22-12-1924, từ Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc viết thư tới Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản thông báo việc đã tập hợp một số đồng chí từ Đông Dương sang và yêu cầu chỉ thị cho các đồng chí người Nga đang công tác ở Quảng Châu hỗ trợ.
Ngày 22-12-1945, Báo Cứu quốc đăng đoạn thư “Gửi các chiến sỹ miền Nam”, viết: “Chính phủ Dân chủ Cộng hòa rất khen ngợi chiến sỹ ở các mặt trận miền Nam, đặc biệt là các chiến sỹ ở Nha Trang và ở Trà Vinh, đã làm gương anh dũng cho toàn quốc. Tổ quốc biết ơn các bạn, toàn thể đồng bào noi gương các bạn”123 và ký tên “Hồ Chí Minh”.
Ngày 22-12-1949, gửi thư cho bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, Bác xác định: “Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân, cho nên hy sinh kham khổ. Quân đội ta luôn luôn giữ gìn và phát triển truyền thống anh dũng của Quân Giải phóng Việt Nam và đạo đức cách mạng gồm trong 10 điều kỷ luật”124.
Tháng 12-1953, trong thư gửi “Cán bộ và chiến sỹ Mặt trận Điện Biên Phủ”, Bác căn dặn: “Phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh: Quyết tâm tiêu diệt địch; quyết tâm giữ vững chính sách; quyết tâm tranh nhiều thắng lợi...”125. Với “Thư gửi lớp chỉnh Đảng Liên khu V”, Bác nhấn mạnh: “Mục đích chỉnh Đảng là để dùi mài cán bộ và đảng viên thành những chiến sỹ xứng đáng là người đày tớ của nhân dân... Phải thật sự thi hành dân chủ trong Đảng và trong quần chúng...”126.
Ngày 22-12-1954, trong bài viết “Mừng ngày sinh nhật Quân đội nhân dân” đăng trên Báo Nhân Dân, với bút danh “C.B”, bài báo ôn lại: “10 năm trước đây, quân đội Nhật Pháp tung hoành, nhân dân Việt Nam khốn khổ. Trong lúc đó ở Lạng Sơn, Cao Bằng, vài nhóm du kích bắt đầu tổ chức. Tuy cái gì cũng thiếu nhưng dũng cảm có thừa. Hồi đó có người nói với một giọng thương hại: “Châu chấu sao đấu nổi ông voi!”. Bác trả lời một cách đanh thép: “Bây giờ chúng ta mới có vài chục người du kích, chắc chắn sau này chúng ta sẽ có hàng chục vạn hùng binh”. Rất tin tưởng, đồng bào Cao - Lạng trả lời bằng cách khuyên con em tham gia các đội du kích và hết lòng ủng hộ các chiến sỹ như cha mẹ săn sóc đàn con cưng...”127, và bài báo kết luận bằng câu thơ:
“Quân ta công trạng lớn lao,
Mười năm lịch sử biết bao nhiêu tình!”128.
Ngày 22-12-1958, tại lễ phong quân hàm lần thứ hai trong lịch sử Quân đội nhân dân, Bác căn dặn: “Dù ở cương vị nào, các đồng chí đều phải luôn luôn gương mẫu, luôn luôn xứng đáng là người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”129.
Ngày 22-12-1959, tại lễ chiêu đãi nhân Ngày thành lập Quân đội, Bác biểu dương: “Quân đội chúng ta anh hùng trong kháng chiến mà cũng anh hùng trong hòa bình”130.
Ngày 22-12-1968, lần cuối cùng Bác đến Nghĩa trang Liệt sỹ Hà Nội thắp hương tưởng niệm nhân Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam lần thứ 24.
Ngày 23- 12
“Miền Nam tất thắng”.
Ngày 23-12-1923, trên số báo “Ogniok” xuất bản tại nước Nga Xô viết đã đăng bài báo có nhan đề “Thăm một chiến sỹ Quốc tế Cộng sản - Nguyễn Ái Quốc” của nhà thơ Xô viết Êxớp Manđenxtam, thuật lại cuộc gặp gỡ giữa tác giả và Nguyễn Ái Quốc trong đó nhà cách mạng Việt Nam đã bày tỏ: “Thật thú vị là chính quyền Pháp đã dạy cho những người nông dân chúng tôi biết những từ “bônsêvích” và “Lênin”. Chúng lùng bắt những người cộng sản trong dân chúng, trong khi chẳng có người cộng sản nào, hoàn toàn không có ngay cả trong ý niệm, và như vậy chính chúng đã tuyên truyền cho chủ nghĩa bônsêvích và Lênin”131 . Còn tác giả bài viết thì đưa ra nhận xét: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai... Dân An Nam là một dân tộc giản dị và lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”132.
Ngày 23-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp với các đảng phái bàn về việc thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc, cùng đưa ra “Văn kiện 14 điều thỏa thuận” trong đó nhất trí “Trong Chính phủ liên hiệp chính thức, Hồ Chí Minh tiên sinh làm Chủ tịch, Nguyễn Hải Thần tiên sinh làm Phó Chủ tịch...”133 .
Chiều 23-12-1946, Bác thảo văn kiện có nhan đề “Hỏi và trả lời” nhằm giải thích và tuyên truyền cho cuộc kháng chiến toàn quốc mới bùng nổ. Văn kiện viết: “Có người hỏi kháng chiến sẽ bao giờ thắng lợi. Tôi trả lời: Giồng khoai 3 tháng mới có củ, giồng lúa 4 tháng mới được ăn... Thử xem Trung Quốc kháng chiến 8 năm mới thắng lợi... Muốn trị lửa phải dùng nước. Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng...”134. Trả lời nhiều câu hỏi như: “Toàn dân kháng chiến là thế nào?”135, Bác trả lời rồi đưa ra câu thơ:
“Dân ta phải giữ nước ta,
Dân là con nước, nước là Mẹ chung”136.
Trả lời câu hỏi: “Đồng bào ở hậu phương nên làm việc gì?”137, Bác cũng có mấy vần thơ:
“Tiền phương chiến sỹ hy sinh,
Đem xương máu mình giữ nước non ta.
Hậu phương sản xuất tăng gia,
Cũng là kháng chiến, cũng là vẻ vang”138.
Ngày 23-12-1963, trong bài viết có nhan đề “Miền Nam tất thắng”, đăng trên Báo Nhân Dân, bình luận về cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Bác nhận định “chúng sẽ đảo lẫn nhau và cuối cùng nhân dân sẽ đảo cả lũ chúng”139.
Ngày 23-12-1964, Báo Nhân Dân công bố trả lời của Bác với Hãng Thông tấn Côplây (Hồng Kông), trong đó khẳng định: “Nếu Mỹ tiến công Bắc Việt Nam, chúng tôi sẽ kiên quyết đánh lại”140. Để giải quyết vấn đề Việt Nam “chỉ có một cách là Mỹ phải tôn trọng Hiệp định Giơnevơ..., phải chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam..., chấm dứt những hành động chiến tranh đối với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”141.
Ban Biên tập (tổng hợp)
Còn nữa
Chú thích:
111. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 548.
112. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 488-489.
113. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 472.
114,115. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 177, 178.
116. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 9, tr. 495.
117. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 2, tr. 152-153.
118. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 483-484.
119,120. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 356, 359.
121 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 409.
122. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 7, tr. 577.
123. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 120.
124 . Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 376.
125,126,127,128. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, 198, 200, 411, 412.
129 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 275.
130. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 600.
131,132. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 479, 478.
133 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 521.
134,135,136,137,138. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 485-486.
139,140,141. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 182, 351.
Ngày 24-12
“Độc lập trên hết, đoàn kết trên hết”.
Ngày 24-12-1919, báo cáo của mật thám Pháp cho biết, Nguyễn Ái Quốc vẫn thường xuyên đến thư viện và đọc các tờ báo cánh tả như L’Humanité (Nhân Đạo) và “Le Libertaire” (Người Tự Do).
Ngày 24-12-1926, bài thứ 4 trong loạt bài chung nhan đề “Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi” của Nguyễn Ái Quốc được gửi về trong nước tiếp tục phản ánh các biến cố chính trị của một quốc gia có mối quan hệ lịch sử lâu dài với Việt Nam.
Ngày 24-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng thủ lĩnh các đảng phái khác cùng ký tên công nhận các thỏa thuận nhằm “độc lập trên hết, đoàn kết trên hết”, “đôi bên phải ủng hộ một cách thiết thực cuộc Tổng tuyển cử, Quốc hội và kháng chiến” và “đôi bên đều đình chỉ hết thảy những việc công kích nhau”142.
Ngày 24-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Thư gửi đồng bào nhân Ngày lễ Thiên Chúa Giáng sinh”, bày tỏ: “Gần 20 thế kỷ trước, một vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời Ngài chỉ lo cứu thế độ dân, hy sinh cho tự do, bình đẳng. Trong lúc này, thực dân Pháp gây cuộc chiến tranh, chúng mong cướp nước ta lần nữa. Chúng làm trái hẳn với lòng bác ái của Đức Giêsu. Toàn thể đồng bào ta, không chia lương giáo, đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, để giữ gìn non sông Tổ quốc, mà cũng để giữ gìn quyền tôn giáo tự do. Nhân dịp này, tôi thay mặt Chính phủ và quốc dân trân trọng chúc phúc toàn thể đồng bào công giáo. Đồng thời tôi kính cẩn cầu Đức Thượng đế phù hộ dân tộc Việt Nam và giúp cho Việt Nam đi đến cuộc thắng lợi cuối cùng. Thượng đế và Tổ quốc muôn năm!”143.
Cùng ngày, Bác cũng viết hai lá thư “gửi các tù binh Pháp” và “gửi các kiều dân Pháp” đều toát lên tinh thần: “Tôi mong một ngày rất gần đây, hai dân tộc Pháp - Việt có thể cùng cộng tác trong vòng hòa bình và thân ái để mưu hạnh phúc chung cho hai dân tộc”, “Tôi biết không phải là lỗi tại các bạn, song cũng như chúng tôi, các bạn là nạn nhân của bọn thực dân phản động, chúng chỉ vì quyền lợi cá nhân ích kỷ mà gây ra chiến tranh xâm lược”… “Trong khi chờ đợi, chúng tôi không hề coi các bạn là tù nhân. Các bạn hãy yên tâm ở dưới sự che chở của chúng tôi cho đến hết chiến tranh. Khi đó các bạn sẽ được tự do”144...
Nhân ngày Nôen năm 1947, trong thư gửi đồng bào theo Đạo Thiên Chúa, Bác viết: “Chúng ta toàn dân, giáo cũng như lương, đoàn kết kháng chiến để Tổ quốc được độc lập, tôn giáo được tự do. Đức Chúa phù hộ chúng ta, chúng ta chắc sẽ thắng lợi”145.
Ngày 24-12-1949, Bác viết thư gửi nhân dân Pháp khẳng định: “Các bạn thiết tha mong đợi hòa bình. Chúng tôi cũng muốn hòa bình. Vậy chúng ta hãy hợp sức lại... Thực dân phản động sẽ bị thất bại. Lúc đó hai dân tộc chúng ta sẽ có thể bắt tay nhau trong hòa bình và nhất trí”146.
Tháng 12-1953, Bác gửi thư mừng lễ Noen tới đồng bào theo Đạo Thiên Chúa: “Phúc âm dạy chúng ta rằng: Chúa Cơ Đốc sinh ra làm gương mọi giống phúc đức như: Hy sinh vì nước vì dân, làm gương lao động, công bằng ruộng đất, tin thờ Chúa bằng tinh thần. Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế là những việc Chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần Phúc âm”147.
Ngày 25-12
“Đã nói thì phải làm, nói ít mà làm nhiều, đừng nói nhiều mà làm ít”.
Ngày 25-12-1920, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp với tư cách là đại biểu Đông Dương và là đại biểu thuộc địa duy nhất có mặt tại Đại hội. Chính tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định sự lựa chọn chính trị của mình: Đi theo con đường của Lênin.
Ngày 25-1-1921, Nguyễn Ái Quốc được bầu làm đại biểu chính thức tham dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp họp tại Mácxây, một thành phố cảng ở miền Nam nước Pháp và được cử vào Ban Nghiên cứu thuộc địa.
Ngày 25-12-1945, nhân ngày Thiên Chúa Giáng sinh đầu tiên kể từ khi nước nhà độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư mừng tới các chức sắc và bà con tín đồ Công giáo: “Cách một nghìn chín trăm bốn mươi nhăm năm trước, cũng ngày hôm nay, một vị thánh nhân là đức Chúa Giêsu ra đời. Suốt đời Ngài chỉ hy sinh phấn đấu cho tự do, cho dân chủ. Từ ngày Ngài giáng sinh đến nay đã gần 2000 năm, nhưng tinh thần thân ái của Ngài chẳng những không phai nhạt mà tỏa ra đã khắp, thấm vào đã sâu... Tinh thần hy sinh phấn đấu tức là noi theo tinh thần cao thượng của đức Chúa Giêsu. Trong lịch sử Việt Nam ta, lần này là lần đầu mà đồng bào công giáo ta làm lễ Nôen một cách vui vẻ sung sướng trong nước Việt Nam độc lập tự do”148.
Ngày 25-12-1946, trong bối cảnh chiến tranh mới bùng nổ, Bác viết thư tới đồng bào Công giáo nhân lễ Nôen: “Trong lúc này, thực dân Pháp gây cuộc chiến tranh, chúng mong cướp nước ta lần nữa. Chúng làm trái hẳn với lòng bác ái của Đức Giêsu. Toàn thể đồng bào ta, không chia lương, giáo, đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, để giữ gìn non sông Tổ quốc, mà cũng để giữ gìn quyền tôn giáo tự do... Thượng đế và Tổ quốc muôn năm!”149.
Ngày 25-12-1948, trong thư mừng Thiên Chúa giáng sinh, Bác viết: “Hôm nay, đồng bào lễ Chúa trong một bầu không khí chiến tranh, vì giặc Pháp còn đang giày xéo trên đất nước ta. Song rồi đây, thắng lợi sẽ cho chúng ta lễ Chúa long trọng hơn, trong một bầu không khí vui vẻ và tươi sáng của một nước hoàn toàn thống nhất và độc lập. Vậy đồng bào hãy cùng tôi cầu nguyện Chúa cho ngày thắng lợi sắp tới của dân tộc. Tôi cầu nguyện Chúa luôn luôn ban phúc lành cho đồng bào”150.
Ngày 25-12-1958, Bác về thăm công trường xây dựng công trình thuỷ lợi Bắc - Hưng - Hải và Nhà máy Cơ khí Hà Nội. Nói chuyện với cán bộ và công nhân nhà máy, Bác phân tích rằng mọi thành công đều do tư tưởng thông, do Đảng lãnh đạo tốt, do đảng viên và đoàn viên thanh niên lao động gương mẫu.
Ngày 25-12-1961, phát biểu tại cuộc họp của Bộ Chính trị bàn về kế hoạch nhà nước năm 1962, Bác yêu cầu: “Ta đã nói thì phải làm, nói ít làm nhiều, đừng nói nhiều làm ít. Tập trung lực lượng vào làm cho được những cái chính... Xây dựng phải bảo đảm chất lượng. Phải có chính sách nhưng đồng thời phải có biện pháp và không nên có biện pháp nửa vời... Trong công tác xây dựng Đảng, cái gốc là chi bộ...”151.
Ngày 25-12-1967, tại lễ kỷ niệm ngày Toàn quốc kháng chiến và thành lập quân đội, Bác khẳng định: “31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31 triệu chiến sỹ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng”152.
Ngày 26-12
“Thực lực như cái chiêng, ngoại giao như cái tiếng”.
Ngày 26-12-1920, tại phiên họp buổi chiều ngày khai mạc Đại hội Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII, Nguyễn Ái Quốc phát biểu khẳng định mục đích: “Tôi đến đây với tư cách là đảng viên xã hội, để phản kháng những tội ác ghê tởm trên quê hương tôi... Chủ nghĩa tư bản Pháp... đã dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tôi... Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức... Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa... đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa... Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: “Các đồng chí hãy cứu chúng tôi!”153. Đáp lại, Chủ tịch phiên họp đã lên tiếng: “... Toàn thể Đảng Xã hội đều đứng về phía đồng chí để phản đối những tội ác của giai cấp tư sản”154.
Ngày 26-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của các tờ báo liên quan đến việc thành lập Chính phủ Liên hiệp. Trả lời câu hỏi vì sao dành 70 ghế Quốc hội cho Việt Quốc và Việt Cách có phải là không dân chủ hay không?, Bác trả lời: “Muốn đi tới dân chủ nhiều khi phải làm trái lại. Thí dụ, muốn đi tới hòa bình có khi phải chiến tranh”155. Trả lời câu hỏi vì sao không tự chỉ định mình làm Chủ tịch, Bác trả lời “Vì tôi không muốn làm như Vua Lu-i thập tứ”156 (Vua Pháp Lui XIV điển hình cho một vua chuyên quyền độc đoán). Về công tác ngoại giao, Bác nói: “Thực lực như là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn... Nhìn qua lịch sử thế giới thì rõ. Muốn được các nước công nhận phải qua một thời gian khá lâu”157.
Ngày 26-12-1963, Bác thăm và chúc Tết Hội đồng Chính phủ đang họp phiên cuối năm và nhắc nhở: "Hiện nay, chúng ta làm 3 xây, 3 chống còn kém. Anh chị em công nhân và nhân viên ở cơ sở thì rất hăng hái, nhưng từ cấp giám đốc lên đến bộ trưởng, thứ trưởng thì còn nhiều người chưa chuyển, cho nên có chỗ cuộc vận động bị tắc lại. Bây giờ phải làm 3 xây, 3 chống cả hai chiều, từ dưới lên và từ trên xuống. Bản thân các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng, các cán bộ lãnh đạo phải 3 xây, 3 chống. Hơn ai hết, người lãnh đạo phải nhận rõ cuộc vận động 3 xây, 3 chống này rất quan trọng để làm cho tốt... Phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: Cần kiệm liêm, chính, chí công vô tư... Có như thế mới xứng đáng với đồng bào miền Nam đang chiến đấu vô cùng anh dũng... Nhân dân ta rất tốt. Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”158.
Ngày 26-12-1965, tiếp tục dự họp Hội nghị Trung ương lần thứ 12, Bác khẳng định nhân dân Việt Nam kiên quyết chiến đấu trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhưng vẫn sẵn sàng giải quyết cuộc chiến tranh bằng thương lượng hòa bình, “nếu Mỹ thực sự xin ra thì ta còn tặng hoa cho họ nữa”159. Cùng ngày, trong bài báo có nhan đề “Kẻ cướp nói chuyện hòa bình” với bút danh “Chiến Sĩ”, Bác khẳng định: “Với tinh thần gang thép, chúng ta vừa dũng cảm chiến đấu, vừa ra sức sản xuất và tiết kiệm, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh thì chắc chắn là Mỹ nhất định thua. Ta nhất định thắng!”160.
Ngày 27-12
“Mong cho ai cũng đua nhau làm việc nghĩa”.
Ngày 27-12-1919, báo cáo của mật thám Pháp theo sát mọi hành trạng của Nguyễn Ái Quốc cho thấy trong ngày, nhà cách mạng trẻ đi rất nhiều nơi và luôn làm cho mật thám săn đuổi bị mất dấu tích.
Trong thời gian diễn ra Đại hội lần thứ I Đảng Cộng sản Pháp, họp tại Mácxây tháng 12-1921, đại biểu thuộc địa Nguyễn Ái Quốc đã tham gia dự thảo “Nghị quyết về chủ nghĩa cộng sản và các thuộc địa”, trong đó khẳng định: “Bằng bất cứ cách nào những khó khăn đó cũng không thể biện minh cho việc Đảng Cộng sản từ bỏ một chính sách thuộc địa thực tế và có kết quả”161. Dự thảo cũng đề cập tới việc phát động “một phong trào đối kháng mang tinh thần Cộng sản, chống chủ nghĩa tư bản”162, thành lập cơ quan đặc biệt chuyên nghiên cứu và sưu tập tài liệu, tích cực công tác tuyên truyền và dành một mục riêng về thuộc địa trên báo Đảng và các ấn phẩm của Đảng...
Cũng trong ngày, Đại hội ra “Lời kêu gọi” có sự tham gia soạn thảo của Nguyễn Ái Quốc: “Nếu câu phương ngôn “Đoàn kết làm ra sức mạnh” không phải là một câu nói suông. Nếu đồng bào muốn giúp đỡ lẫn nhau. Nếu đồng bào muốn bênh vực cho quyền lợi của bản thân mình, cũng như quyền lợi của tất cả đồng bào ở các xứ thuộc địa. Hãy gia nhập Hội Liên hiệp thuộc địa!”163.
Ngày 27-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn một số nhà hữu sản có tâm đức đã đi đầu trong việc đóng góp cho phong trào nhường cơm sẻ áo cứu giúp đồng bào đói khổ. Thư có đoạn: “Trong sự sẻ áo nhường cơm cứu giúp nạn đói, người có nhiều giúp nhiều, người có ít giúp ít. Tuy có người ít, người nhiều, nhưng ai cũng sẵn sàng giúp đỡ những đồng bào đói khổ... Ngoài sự tỏ rõ tấm lòng bác ái, sự giúp quyên của các ngài và các bà lại còn có ý nghĩa khác: 1) Là làm gương cho các nhà phú hộ khác, mong cho ai cũng đua nhau làm việc nghĩa, 2) Là tỏ rõ rằng các phú hộ tiên tiến Việt Nam ta đã thực hành câu: “Cứu một người hơn mười đám cháy”, 3) Là chứng tỏ rằng toàn quốc đồng bào ta, từng lớp nào cũng sẵn lòng giúp Chính phủ; vì trách nhiệm của Chính phủ là phải giúp dân, các ngài, các bà giúp đồng bào tức là giúp Chính phủ. Vì vậy, tôi xin thay mặt Chính phủ và các đồng bào đói khổ mà cảm tạ tấm lòng vàng ngọc của các ngài và các bà”164.
Ngày 27-12-1946, trong bài viết “Một vài ý kiến về các Ủy ban Kiến thiết, động viên dân chúng, tăng gia sản xuất, Ủy ban tản cư”, Bác đưa ra khẩu hiệu:
“Tiền phương ra sức chiến đấu,
Hậu phương tăng gia sản xuất,
Tiền hậu phương đều kháng chiến.
Thì kháng chiến quyết thắng lợi!”165.
Ngày 27-12-1951, Báo Nhân Dân đăng “Thư gửi toàn thể chiến sỹ và cán bộ nhân dịp kỷ niệm Ngày thành lập Quân Giải phóng Việt Nam” Bác nhắc nhở “cần phải phát huy tinh thần anh dũng của Quân Giải phóng, cần phải thấm nhuần tư tưởng kháng chiến nhất định thắng lợi nhưng phải trường kỳ và gian khổ, cần phải nâng cao tinh thần trách nhiệm và đi sát với nhân dân, để thắng nhiều trận to hơn nữa, để tiêu diệt sinh lực địch, để đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn”166.
Ngày 27-12-1967, Bác gửi thư khen đồng bào và chiến sỹ Quân khu IV dũng cảm, kiên cường, đánh giỏi, thắng lớn đã bắn rơi 1.000 máy bay trong đó có 2 pháo đài bay B.52 và bắn chìm nhiều tàu chiến của địch.
Ban Biên tập (tổng hợp)
Còn nữa
Chú thích
142. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 3. tr. 107.
143,144. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 490, 488-489.
145 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 333.
146 Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 4, tr. 377.
147. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 197.
148. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 121-122.
149. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 490.
150. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 5, tr. 538.
151. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 170-171.
152. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 323.
153,154. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 22-24.
155. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 125.
156,157. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 125, 126.
158,160. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 185, 570.
159 Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 9, tr. 338.
161,162,163. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 444, 445, 447.
164, 165. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 123, 495.
166. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 357.
Ngày 28-12
“Cán bộ phải thật gương mẫu”
Ngày 28-12-1919, mật thám Pháp theo dõi cho biết Nguyễn Ái Quốc vẫn thường xuyên mua các tờ báo cánh tả như “L’Humanité” (Nhân Đạo) và “Journal du Peuple” (Nhật báo Dân chúng) và luôn sử dụng tàu điện ngầm để thoát ra khỏi sự bám đuổi của mật thám.
Ngày 28-12-1922, báo cáo theo dõi của mật thám Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc đã gặp Uylixơ Lơrisơ (Ulisse Leriche) là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp trong Ban Biên tập tờ “L’Humanité” và là Trưởng ban Nghiên cứu Thuộc địa của Đảng.
Ngày 28-12-1932, liên quan đến “Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông”, Tống Văn Sơ được đưa ra khỏi bệnh viện và được tự do theo sự phán xét của Tòa án, tuy nhiên thực dân Pháp vẫn bám sát theo dõi. Chỉ nhờ sự giúp đỡ tận tình của gia đình Luật sư Lôdơbi, nhà cách mạng Việt Nam mới thoát.
Ngày 28-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn việc lập Tòa án ở các cấp địa phương và bàn vấn đề can thiệp để Chính phủ Xiêm (Thái Lan) thả chính trị phạm Việt Nam về nước.
Ngày 28-12-1946, Bác viết “Thư gửi anh em Hoa kiều” nhằm bày tỏ sự thông cảm đối với tầng lớp xã hội này trong thời thuộc địa đồng thời biểu dương: “Trong cơn hoạn nạn, Hoa - Việt, anh em cảm tình càng nồng, đoàn kết càng chặt”167.
Trong “Nhật ký của một bộ trưởng”, ông Lê Văn Hiến chép: Ngày 28-12-1946... Được thư Cụ dặn cho Vũ Đình Huỳnh ra phụ trách chăm sóc tù binh Pháp, trong thư dặn kỹ về sự đối đãi tù binh và thường dân. Theo ý Cụ phải chăm sóc hết sức chu đáo và đối đãi thật nhã nhặn để tỏ sự ân cần của ta đối với người Pháp, và cũng để cho họ thấy rõ sở dĩ ta chiến đấu là vì tiền đồ của quốc gia và dân tộc Việt Nam, chớ vốn không có ý ghét bỏ người Pháp... Ta có thể chịu kham khổ được nhưng đối với họ phải rộng rãi hơn. Còn trong thư gửi Chánh Văn phòng Hoàng Hữu Nam, Bác nhắc: Cần có sự giúp đỡ để Hội nghị trí thức và quan lại cũ thành công.
Ngày 28-12-1951, trong bài báo “Nhi đồng xã Hiệp Hòa” đăng trên Báo “Cứu Quốc”, Bác kết luận: “Nếu được cán bộ, thanh niên và phụ nữ khéo tổ chức và hướng dẫn phong trào Trần Quốc Toản chắc sẽ lan rộng và lên cao”168.
Ngày 28-12-1954, Bác viết bài “Thuần phong mỹ tục” đăng trên Báo Nhân Dân nêu vấn đề: Cần phải giữ gìn nền nếp, khuyên dân ta ăn nói cho đúng với thuần phong mỹ tục, bỏ lối xưng hô coi rẻ như thời đế quốc, phong kiến.
Ngày 28-12-1959, Bác tiếp tục dự phiên họp toàn thể của Quốc hội. Sau khi nghe Thư ký đoàn đọc lá thư của một công nhân Sài Gòn gửi Quốc hội nhiệt liệt hoan nghênh bản Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, Bác cho rằng: “Có thể nói đồng bào miền Nam thông qua bản Hiến pháp mới của chúng ta”169.
Ngày 28-12-1962, Bác viết bài “Phải thật sự bảo đảm quyền lợi của phụ nữ” đăng trên Báo Nhân Dân nhấn mạnh: “Lợi quyền của phụ nữ cần được thật sự bảo đảm. Bản thân phụ nữ thì phải đấu tranh tự cường tự lập để giữ lấy lợi quyền của mình”170.
Ngày 28-12-1967, tham dự cuộc họp của Bộ Chính trị quyết định chủ trương mở đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), Bác chỉ thị: “Kế hoạch phải thật tỉ mỉ. Hợp đồng phải thật khớp. Bí mật phải thật tuyệt đối. Hành động phải thật kiên quyết. Cán bộ phải thật gương mẫu”171.
Ngày 29-12
“Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”
Ngày 29-12-1920, Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tiến hành bỏ phiếu lựa chọn con đường giữa Quốc tế II và Quốc tế III, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định đứng vào hàng ngũ những người tiên phong gia nhập Quốc tế Cộng sản. Giải thích với nữ đồng chí ghi biên bản cho cuộc họp về sự lựa chọn này, người đại biểu thuộc địa trả lời: "Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác! Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa... Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu"172.
Phát biểu tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc bày tỏ: Tôi vui sướng biết chừng nào khi được dự đại hội đầu tiên của những người cộng sản. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của chủ nghĩa xã hội Pháp, một đồng chí bản xứ thực sự tham gia vào công việc của đại hội. Tôi cũng phải nói đó là dấu hiệu tốt, bởi điều đó xác nhận rằng, chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản người ta mới thấy tình hữu ái thực sự và quyền bình đẳng, và cũng chỉ có nó chúng ta mới có thể thực hiện được sự hòa hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở các thuộc địa.
Ngày 29-12-1952, chủ tọa phiên họp của Hội đồng Chính phủ tổng kết tình hình và thảo luận kế hoạch năm 1953, Bác kết luận: Khuyết điểm còn tồn tại trong năm 1952 là lãnh đạo không sát dẫn đến tội quan liêu, tham ô, lãng phí, (ý nói đến vụ án Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu phải lãnh án tử hình) và đưa ra chủ trương: “Chúng ta đã bắt đầu tiến hành ba chống (chống tham ô, lãng phí, quan liêu). Năm 1953, phải cố gắng làm ba chống triệt để - cán bộ lãnh đạo phải xung phong gương mẫu đi đầu trong phong trào... Phải có chính sách cán bộ: Cải tiến sinh hoạt, cất nhắc khen thưởng, giáo dục đào tạo, mạnh dạn cất nhắc cán bộ mới, cân nhắc đức, tài173.
Ngày 29-12-1959, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình, Bác phát biểu: Đây là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử. Thi hành tốt Luật hôn nhân và gia đình là nhiệm vụ của toàn dân.
Ngày 29-12-1960, nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Đảng Cộng sản Pháp, Bác viết bài trên Báo Nhân Dân trong đó có đoạn: “Riêng về cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý chủ nghĩa Mác - Lênin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sỹ xã hội chủ nghĩa”174.
Ngày 29-12-1965, Bác Hồ gửi tặng Binh chủng Công binh Bằng khen và dòng chữ: Binh chủng Công binh Quân đội nhân dân Việt Nam đã nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, dũng cảm vượt mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ, công tác, phục vụ kịp thời chiến đấu, góp phần vào chiến thắng chung của toàn quân, toàn dân.
Ngày 29-12-1966, phát biểu tại phiên họp cuối năm của Chính phủ, khi nói đến công tác lưu thông phân phối, Bác nhắc nhở phải nhớ hai điều quan trọng là: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”175.
Ngày 30-12
“Phải thực hiện dân chủ rộng rãi với nhân dân”
Ngày 30-12-1920, tại phiên họp cuối cùng của Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc quyết định sự lựa chọn chính trị bằng việc biểu quyết tán thành Quốc tế III và tham gia vào tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản, tiền đề cho sự ra đời Đảng Cộng sản Pháp. Kể từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã đứng vào hàng ngũ những chiến sỹ cộng sản quốc tế và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Ngày 30-12-1951, trên đường sang gặp các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô để tranh thủ sự ủng hộ cho nhân dân Việt Nam kháng chiến, Bác đến chúc Tết lãnh đạo tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).
Ngày 30-12-1954, Báo Nhân Dân đăng bài “Tên các đường phố” trong đó Bác đặt vấn đề cần xóa tên những người nước ngoài đi ngược lại nền độc lập dân tộc đặt tên cho các đường phố và thay bằng các danh nhân của dân tộc.
Ngày 30-12-1961, Bác viết bài “Tết trồng cây” đăng trên Báo Nhân Dân nhắc đến khẩu hiệu “Yêu cây như yêu con” và nhắc nhở: “Tết Trồng cây cũng như mọi việc khác, các cấp ủy Đảng phải lãnh đạo cụ thể và chặt chẽ thì sẽ thành công”176.
Ngày 30-12-1965, tại cuộc họp của Bộ Chính trị, Bác phân tích thái độ của ta đối với những tuyên bố của Chính phủ Mỹ về vấn đề thương lượng hòa bình, Bác đề nghị “Ta phải đánh thật mạnh để cho phe chủ hòa ở Mỹ thắng thế… nên đưa “Tuyên bố bốn điểm” của Chính phủ ta trả lời trước dư luận Mỹ và thế giới thì tự nhiên tuyên bố của Mỹ sẽ như ném hạt cát vào mắt người ta”177.
Ngày 30-12-1967, phát biểu tại phiên họp của Hội đồng Chính phủ, Bác đề cập sự hài hòa giữa các thế hệ: “Chúng ta là những người đã từng tham gia cách mạng lâu, đã chống Pháp thắng lợi, cứ tưởng là chúng ta có nhiều kinh nghiệm rồi, nhưng bây giờ phải học tập các chiến sỹ, học tập thanh niên. Có một số đồng chí tự cho mình là đã cống hiến nhiều rồi, bây giờ sinh ra lề mề, không có khí thế vươn lên như các cháu thanh niên xung phong, như các chiến sỹ. Thanh niên ta bây giờ rất hăng say làm việc, không kể giờ giấc, ngày đêm, dám đánh giặc không sợ chết. Một người đã không sợ chết, một dân tộc đã không sợ hy sinh gian khổ thì nhất định sẽ chiến thắng”178. Bác cũng thẳng thắn đề nghị: “Tôi đề nghị các vị Bộ trưởng nên luyện cho mình có đôi chân hay đi, đôi mắt hay nhìn, cái óc hay nghĩ, không nên chỉ ngồi ở bàn giấy, theo kiểu “đạo nhân phòng thủ”179. Đồng thời, Bác chỉ thị: “Chúng ta phải gương mẫu trong quản lý và bảo vệ của công, chống lại sự phá hoại của địch, chống việc tham ô”180 và phê phán “có tình trạng là hội mà không nghị, nghị mà không quyết, quyết rồi mà không làm”181.
Ngày 30-12-1968, làm việc với Đoàn cán bộ Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa, Bác động viên “Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa đã chiến đấu tốt. Cả tỉnh bắn rơi 297 máy bay giặc Mỹ. Riêng Hàm Rồng bắn rơi 99 chiếc...”182 nhưng căn dặn: “Để phát triển ưu điểm, điều quan trọng nhất là để cho dân nói. Dân biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết. Việc gì cũng bàn với dân, dân sẽ cho ý kiến hay... Thanh Hóa dân đông, đất rộng, rừng vàng, biển bạc, đủ điều kiện để trở thành một tỉnh giàu đẹp và kiểu mẫu. Để tiến lên, các cấp và cán bộ Thanh Hóa phải thực hiện dân chủ rộng rãi với nhân dân; đảng viên, đoàn viên phải gương mẫu với nhân dân”183.
Ngày 31-12
“Tiếng thơm của các liệt sỹ sẽ muôn đời lưu truyền với sử xanh”
Ngày 31-12-1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản thông báo một số động thái của các chiến sỹ cách mạng Việt Nam và báo tin đã viết nhiều bài báo nhưng chưa thấy được đăng trên cơ quan lý luận của Quốc tế Cộng sản.
Ngày 31-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Ý nghĩa Tổng tuyển cử” đăng trên Báo Cứu Quốc nêu rõ: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết… Tôi mong rằng toàn thể quốc dân sẽ hăng hái tham gia cuộc Tổng tuyển cử này”184.
Cùng ngày, Bác viết bài “Thế giới với Việt Nam” điểm lại quan điểm của các nước lớn đối với cuộc vận động cách mạng của Việt Nam như Trung Hoa, Hoa Kỳ, Nga Xôviết, Anh, với các nước nhỏ yếu và Hội nghị Tam cường (Liên Xô, Mỹ, Anh) về vấn đề Viễn Đông để đi đến kết luận: “Chúng ta cứ bền gan, vững chí xây đắp thực lực để kiên quyết chiến đấu, sức chiến đấu ấy sẽ làm cho hoàn cầu thừa nhận nền độc lập hoàn toàn của chúng ta”185.
Cũng trong ngày này, Bác ký nhiều sắc lệnh quan trọng trong đó có việc thành lập Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch kiến thiết và sắc lệnh cử hai ông Bùi Bằng Đoàn nguyên Chánh nhất Tòa Thượng thẩm Hà Nội và Bộ trưởng Canh nông Cù Huy Cận vào Ban Thanh tra đặc biệt có trách nhiệm chuyên xử lý các quan chức làm sai pháp luật.
Ngày 31-12-1954, nhân ngày cuối năm của năm đầu Thủ đô Giải phóng, Bác đến đặt hoa tại Đài liệt sỹ, trong diễn từ do Bác viết có đoạn: “Hỡi các liệt sỹ! Ngày mai là năm mới, là ngày đồng bào và bộ đội mừng Chính phủ về Thủ đô. Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc... Máu nóng của các liệt sỹ đã nhuộm lá quốc kỳ vẻ vang càng thêm thắm đỏ. Tiếng thơm của các liệt sỹ sẽ muôn đời lưu truyền với sử xanh”186.
Ngày 31-12-1958, nói chuyện với thầy và trò Trường Chu Văn An, Hà Nội, Bác dạy: “Nhà trường xã hội chủ nghĩa là nhà trường: Học đi với lao động. Lý luận đi với thực hành. Cần cù đi với tiết kiệm. Muốn xã hội chủ nghĩa, phải có: Người xã hội chủ nghĩa. Muốn có người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa trái hẳn với cá nhân chủ nghĩa. Cái gì không phải xã hội chủ nghĩa là cá nhân chủ nghĩa”187.
Ngày 31-12-1959, kỳ họp lần thứ 11 Quốc hội Khóa I thông qua Bản Hiến pháp sửa đổi. Phát biểu về sự kiện trọng đại này, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ban sửa đổi Hiến pháp kết luận: “Ngày mai là năm mới, nhân dân ta có bản Hiến pháp mới, đó là một kỷ nguyên mới, đẩy mạnh tiến bộ mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà...”188. Tiếp đó, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Tôn Đức Thắng phát biểu: Ngày mai đây, ngày mở đầu năm 1960 là năm Hồ Chủ tịch sẽ công bố Hiến pháp mới. Năm 1960 là năm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 15 tuổi. Năm 1960 lại là năm kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng và năm mà vị lãnh tụ yêu mến của chúng ta là Hồ Chủ tịch lên 70 tuổi. Lịch sử Đảng và lịch sử Hồ Chủ tịch không thể tách rời nhau./.
Ban Biên tập (tổng hợp)
Chú thích
167. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 496.
168. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 362.
169. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 7, tr. 388.
170. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 662.
171. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 10, tr. 155.
172. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2006, t. 1, tr. 111-112.
173. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2007, t. 5, tr. 269-270.
174. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 241.
175. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 185.
176. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 8, tr. 178.
177. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2008, t. 9, tr. 343.
178,179,180, 181. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, 2009, t. 10, tr. 156, 157.
182. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 419.
183. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 420-422.
184. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 133.
185. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 132.
186. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 427.
187,188. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 295-296, 605.