Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969) là người con ưu tú của dân tộc và là một vĩ nhân của thời đại. Người là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trái tim, khối óc của Người luôn dành cho dân tộc Việt Nam cũng như giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới một tình yêu bao la.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - một con người mà tên tuổi và sự nghiệp gắn bó với vận mệnh của cả dân tộc, cả đất nước. Hồ Chí Minh với 79 mùa Xuân của cuộc đời mình đã để lại dấu ấn đậm nét không chỉ trong lịch sử dân tộc Việt Nam mà đối với cả lịch sử thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi trọn 79 mùa Xuân, đi trọn vào lòng đồng bào, sống mãi trong trái tim nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Đối với dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người anh hùng của sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi chế độ thực dân Pháp, chấm dứt chế độ quân chủ từng tồn tại ngàn năm, xác lập nền Độc lập và thể chế Dân chủ Cộng hòa trên đất nước ta. Bao trùm lên tất cả, Hồ Chí Minh là một phần của lịch sử dân tộc Việt Nam, là con người để lại nhiều dấu ấn trong lòng các tầng lớp nhân dân thuộc thế hệ đương thời và một tấm gương cùng nhiều bài học sâu sắc như một giá trị di sản của ký ức dân tộc.
Đã có nhiều tác phẩm nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, với nhiều chuyên đề có nội dung phong phú do các tác giả trong và ngoài nước viết. Với một cách tiếp cận mới, định vị theo thời gian mỗi ngày trong năm, xuyên suốt “79 mùa Xuân” của cuộc đời Bác Hồ, cuốn sách này hy vọng mang lại một cảm xúc và một công dụng mới đối với người đọc. Đây là sự tập hợp theo một hệ thống về thời gian của từng ngày trong một năm (có lựa chọn cho phù hợp với khuôn khổ của sách) những hoạt động, những câu chuyện, những câu nói hay đoạn viết hay của Bác Hồ, có giá trị đọng lại lâu dài trong ký ức nhân dân. Cuốn sách này, thừa hưởng những người đi trước trong công việc sưu tập, nghiên cứu hay sáng tác liên quan đến nhân vật lịch sử này, nhưng nó được trình bày, dẫn dắt theo cách sắp đặt “ngày này năm xưa” nay cũng khá quen thuộc trong các xuất bản phẩm và truyền thông (Theo Nhà sử học Dương Trung Quốc).
Để giúp bạn đọc hiểu rõ ý nghĩa cao đẹp, những giá trị lâu dài đó, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh - ngày này năm xưa” do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp với Tạp chí Xưa và Nay, báo Sài Gòn Giải phóng, đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Nai biên soạn, phát hành.
Phần 1
Ngày 01/01
“Năm nay là rất vẻ vang”
Ngay đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc từ Tĩnh Tây (Trung Quốc) quay lại Cao Bằng để chuẩn bị tập hợp lực lượng và soạn thảo đường lối cứu nước. Tháng 5 năm đó, tổ chức Mặt trận và Cương lĩnh Việt Minh ra đời. Phấn khởi trước tiền đồ dân tộc, ngày 01/01/1942, Nguyễn Ái Quốc làm bài thơ “Chúc năm mới” đầu tiên đăng trên báo “Việt Nam độc lập” với những lời cổ vũ đầy hào khí:
“Tháng ngày thấm thoát chóng như thoi,
Năm cũ qua rồi, chúc năm mới:
Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong!
Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi!
Chúc đồng bào ta đoàn kết mau!
Chúc Việt Minh ta càng tấn tới!
Chúc toàn quốc ta trong năm này,
Cờ đỏ ngôi sao bay phất phới!
Năm này là năm rất vẻ vang,
Cách mệnh thành công khắp thế giới”1.
Kể từ năm ấy, hàng năm vào ngày đầu tiên của dương lịch hay ngày Tết âm lịch, Bác Hồ đều có lời chúc Tết. Với vị Chủ tịch Nước, thơ chúc Tết chỉ là một tình cảm khiêm nhường:
“Mấy lời thân ái nôm na
Vừa là kêu gọi, vừa là mừng Xuân”2 .
Từ mùa Xuân năm Nhâm Ngọ (1942) đến năm Kỷ Dậu (1969), chỉ trừ 3 năm 1955, 1957 và 1958, còn năm nào vị Chủ tịch Nước cũng có lời chúc Tết ngay cả khi không có mặt ở trong nước như Tết dương lịch 1952 đang thăm Nam Ninh (Trung Quốc).
Ngày 01/01/1969, vào mùa Xuân thứ 79 của Bác, thư chúc mừng năm mới Xuân Kỷ Dậu đó trở thành lời chúc lần cuối nhưng vẫn hừng hực khí thế cổ vũ con đường đi đến toàn thắng của sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước:
“Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào,
Bắc - Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!”3
Có ba ngày đầu năm dương lịch để lại dấu ấn trong cuộc đời của Bác như những sự kiện lịch sử trọng đại. Đó là ngày Tết dương lịch đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, 01/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chính phủ Liên hiệp lâm thời bao gồm nhiều nhân sĩ thuộc nhiều đảng phái, khuynh hướng chính trị biểu thị khối đại đoàn kết dân tộc đó ra mắt tại quảng trường Nhà Hát lớn Hà Nội làm lễ tuyên thệ trước quốc dân.
Đó cũng là ngày đầu năm của năm 1954, Bộ Chính trị họp để chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ định cơ quan lãnh đạo mặt trận. Chính tại cuộc họp này, Bác đã giao nhiệm vụ cho Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp: “Trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng! Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”4 .
Và đúng một năm sau đó, ngày 01/01/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có mặt trên lễ đài tại Quảng trường Ba Đình lịch sử trong ngày lễ ra mắt đồng bào Thủ đô sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ngày 02/01
“Kháng chiến đến cùng, kháng chiến đến thắng lợi”
Ngày 02/01/1946, Báo “Cứu Quốc” - cơ quan của Tổng bộ Việt Minh đăng “Lời cảm ơn” của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Hội của một số quan lại cũ được thành lập sau Cách mạng Tháng Tám 1945 nhằm động viên tầng lớp này ủng hộ chính sách của Chính phủ cách mạng. Bằng những lời lẽ chân tình, Bác viết:
“Tôi trân trọng cảm ơn quý Hội đã quyên nhà, quyên tiền giúp cho quỹ Cứu tế, quỹ Kháng chiến và quỹ Độc lập.
Có người nói: “Hồ Chí Minh không biết làm gì, chỉ nay cảm ơn người này, mai cảm ơn người khác”. Vâng! Tôi vui lòng nhận lời phê bình ấy! Hơn nữa, tôi mong rằng ngày nào tôi cũng phải viết nhiều thư cảm ơn, vì như thế chứng minh rằng đồng bào ta đã sốt sắng thực hành cái khẩu hiệu:
“Ai có tiền giúp tiền, ai có sức giúp sức”.
Quốc dân ta đã hiệp lực đồng tâm, đã đoàn kết chặt chẽ, thề kháng chiến nhất định thắng lợi, kiến quốc nhất định thành công...”5.
Kết thúc bức thư, người đứng đầu nhà nước chân thành bày tỏ “Tiếc vì bận quá, tôi không cảm ơn khắp được. Vậy tôi xin các đồng bào tha lỗi cho”6 .
Vào thời điểm đất nước mới thoát khỏi chế độ thuộc địa và phong kiến, ứng xử của vị nguyên thủ quốc gia thực sự gây ấn tượng mạnh mẽ đối với nhân dân đang chứng kiến những đổi thay của đất nước theo tinh thần dân chủ.
Ngày 02/01/1947, nhân dịp Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Mariút Mutờ (Marius Moutet), người đã ký kết Tạm ước 14/9/1946 sang Đông Dương, qua một cuộc phỏng vấn báo chí, Bác Hồ đã đưa ra những thông điệp: "Việt Nam không chiến tranh chống nước Pháp và dân Pháp và ta muốn hai dân tộc Việt - Pháp cộng tác thật thà.
Nhưng tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc... Hễ một dân tộc đã đứng lên kiên quyết tranh đấu cho Tổ quốc họ thì không ai, không lực lượng gì chiến thắng được họ. Dân Việt Nam muốn hòa bình, nhưng vì vận mệnh của Tổ quốc, của giống nòi, thì sẽ kháng chiến đến cùng, kháng chiến đến thắng lợi”7 .
Trước đó một ngày, Bác đã gửi thư đến Chính phủ và nhân dân Pháp: “Tôi kêu gọi nhân dân Pháp để chấm dứt cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn và năm 1947 mang lại nền hòa bình và tình hữu nghị giữa nước Pháp và nước Việt Nam”8 . Đó là những bằng chứng khẳng định trách nhiệm của chủ nghĩa thực dân đã đi ngược lại khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam mà Hồ Chí Minh là hiện thân.
Tuy nhiên, thực dân Pháp vẫn điên cuồng tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược. Trước tình hình ấy, ngày 02/01/1950, Bác Hồ rời Tân Trào đi Trùng Khánh bắt đầu chuyến thăm Trung Quốc và Liên Xô nhằm tìm kiếm sự ủng hộ quốc tế.
Cách mạng Cuba thành công ngày 01/01/1959, ta lập quan hệ ngoại giao với Cuba từ năm 1960. Kể từ đó, vào ngày 02/01 hàng năm cho đến trước khi qua đời, Bác thường đến Đại sứ quán Cuba tại Hà Nội để bày tỏ tình cảm đoàn kết của nhân dân Việt Nam.
Ngày 03/01
“Những công việc cấp bách”
Ngày 03/01/1946, Bác Hồ chủ trì cuộc họp của Hội đồng Chính phủ bàn những công việc cấp bách và kết luận: “Chính phủ đã phải đối phó với hai sự khó khăn, trong Nam: Họa ngoại xâm; ngoài Bắc: Nạn đói. Nhờ sự ủng hộ của quốc dân, công việc đã có kết quả khả quan”9.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Thông đạt” gửi tới các Bộ trưởng liên quan đến quy định bảo quản tài liệu lưu trữ. Đây là một văn kiện lịch sử của ngành Lưu trữ nước ta, nó cho thấy tầm nhìn xa của người đứng đầu một quốc gia non trẻ chưa có kinh nghiệm hành chính.
Bản Thông đạt viết: "Xét rằng một vài công sở đã tự tiện huỷ bỏ hay bán các công văn và hồ sơ cũ. Hành động ấy có tính cách phá hoại, vì sẽ làm mất những tài liệu có giá trị đặc biệt về phương diện kiến thiết quốc gia.
Vậy yêu cầu các ông Bộ trưởng ban chỉ thị cho nhân viên các sở phải gìn giữ tất cả các công văn, tài liệu và cấm không được huỷ những công văn, tài liệu ấy nếu không có lệnh trên rõ rệt cho phép huỷ bỏ... Những viên chức không tuân lệnh này sẽ bị nghiêm trị”10.
Chỉ một năm sau đó, ngày 03/01/1947, Chính phủ của nước Việt Nam độc lập đã phải di chuyển lên Việt Bắc, Hà Nội đang chìm trong khói lửa chiến tranh. Vào thời điểm ấy, Mariút Mutờ (Marius Moutet) là người Bác từng quen biết trong Đảng Xã hội Pháp, lúc này lại đang là Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại đang có mặt tại Hà Nội. Hy vọng tranh thủ được ông Mutờ (Moutet), Bác Hồ viết một lá thư trong đó có đoạn:
“Tôi lấy làm vui mừng được biết ngài tới Hà Nội. Xin có lời chào mừng ngài, vì ngài vừa là bạn cũ, vừa là đại diện cho nước Pháp mới, vừa là sứ giả của hòa bình.
Tôi rất mong và rất sung sướng được hội kiến với ngài lâu một chút để tỏ rõ ý muốn thành thực hòa bình và cộng tác của chúng tôi, và để chuyển đến với ngài những đề nghị của chúng tôi về việc lập lại sự giao hảo giữa hai nước chúng ta”11.
Bức thư đó không được hồi âm. Mutờ (Moutet) đến Hà Nội giữa cảnh đổ nát và trong vùng vẫy của giới thực dân mà đầu xỏ là Đô đốc Đácgiăngliơ (D’ Argenlieu). Ngày 08/01, Mutờ (Moutet) về nước mà không tìm ra giải pháp nào.
40 năm sau (1988), nhà sử học Pháp Philớp Đờvinlơ (Philippe Devillers) đã chứng minh rằng toàn bộ những thông điệp của Hồ Chí Minh trong thời gian này đều bị Đácgiăngliơ (D’Argenlieu) phong tỏa, kể cả một “gói hàng” mà ngày 03/01/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho người chuyển tới phía Pháp để trao tận tay vị Bộ trưởng. Trong một bức thư gửi tướng Đờ Gôn (De Gaulle), viên Đô đốc “diều hâu” này hí hửng: Nhờ ơn Chúa, Mutờ đã không có một cuộc tiếp xúc cá nhân nào với nhóm ông Hồ Chí Minh. Đó là một điểm thắng lợi đầu tiên.
Nhưng cái mà Đácgiăngliơ cho là thắng lợi đầu tiên ấy thì cũng khởi đầu cho một thảm bại cuối cùng khi quân Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ sau đó 7 năm!
Ngày 04/01
"Chúng thiếu một vũ khí khá quan trọng nhất: Tinh thần”
Ngày 04/01/1920, Nguyễn Ái Quốc đi xem một cuộc triển lãm hàng không tại Pari cùng với một người tên là Giăng (Jean). Nhưng Giăng (Jean) lại chính là một viên mật thám nên trong báo cáo gửi cấp trên y cho biết: Ông Quốc đã ở 6 năm tại Mỹ, 4 năm ở bên Anh, ông đã làm bất cứ nghề gì để sống và để học hỏi. Ông đã để ý đặc biệt vấn đề chính trị thuộc địa của người Anh và Mỹ, Tây Ban Nha cùng Italia. Ông nói và viết được tiếng Anh, đọc được tiếng Italia và Tây Ban Nha12 ...
Ngày 04/01/1924, Tờ “La Vie d’ Ouvrière” (Đời sống công nhân) ở Pháp đăng một lúc 2 bài báo của Nguyễn Ái Quốc lúc này đang ở Liên Xô, viết về “Tình cảnh của người nông dân An Nam” và “Tình cảnh của người nông dân Trung Quốc”.
Khi đề cập tình cảnh người nông dân trên Tổ quốc của mình, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “... Là người An Nam, họ bị áp bức; là người nông dân, họ bị người ta ăn cắp, cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản. Chính họ là những người phải làm mọi công việc nặng nhọc, mọi thứ lao dịch. Chính họ làm ra cho lũ người ăn bám, lũ người lười biếng, lũ người đi khai hóa và những bọn khác hưởng mà chính họ thì lại phải sống cùng khổ trong khi những tên đao phủ của họ sống rất thừa thói; hễ mất mùa thì họ chết đói... Đế quốc Pháp đã đem vào An Nam tất cả cái chế độ trung cổ đáng nguyền rủa...”13.
Còn tình cảnh của người nông dân Trung Quốc cũng chịu hậu quả bởi chế độ quân phiệt, ách bóc lột địa tô của chế độ cũ cộng với sự bóc lột của chế độ tư bản cũng như bộ máy quan liêu. Bài báo kết luận rằng: “Muốn xóa bỏ tất cả những điều đó, các đồng chí Trung Quốc của chúng ta phải tiến hành mạnh mẽ một cuộc vận động khẩn trương để giáo dục quần chúng, làm cho quần chúng thấy thật rõ sức mạnh của mình, quyền lợi của mình, và có đủ khả năng thực hiện được khẩu hiệu: “Tất cả ruộng đất về tay nông dân!”14.
Có thể nói rằng, vấn đề nông dân và giải phóng người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian học tập lý luận tại nước Nga Xô viết cũng như trong thực tiễn vận động cách mạng sau này.
22 năm sau, ngày 04/01/1946, Bác Hồ viết thư yêu cầu và khích lệ các ứng cử viên ra mắt tiếp xúc với cử tri tại nơi công cộng và gặp một số nhân vật của Bộ Ngoại giao Chính phủ Trung Hoa Dân quốc tại Hà Nội nhằm tranh thủ sự ủng hộ nền độc lập của Việt Nam trong bối cảnh Pháp và Trung Hoa đang mặc cả với nhau về lợi ích ở Đông Dương.
20 năm tiếp sau, ngày 04/01/1966, Báo Nhân Dân đăng bài “Quân Mỹ chết nhăn răng, tướng Mỹ nhăn răng cười”. Bằng cách viết hài hước nhưng căn cứ vào những số liệu và dẫn liệu rất cụ thể, Bác phân tích thế của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam đang xuống vì “chúng thiếu một thứ vũ khí quan trọng nhất, chúng thiếu tinh thần”15.
Ngày 04/01/1967, Bác Hồ đến dự và nói chuyện với Đại hội Anh hùng và Chiến sỹ thi đua chống Mỹ cứu nước và chụp ảnh với các cháu học sinh xuất sắc.
Chú thích
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 3, tr. 210.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 11, tr. 187.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t.12, tr. 426.
4. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 5, tr. 416.
5,6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 4, tr. 143.
7,8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 3, 7.
9. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 3, tr. 117.
10 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 4, tr. 144.
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 9.
12. Thu Trang, Nguyễn Ái Quốc tại Pari (1917-1923), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 121.
13. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 1, tr. 227-229, 232.
14,15. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 12, tr. 8.
Ngày 05/01
“Nếu cần, hy sinh cả tính mạng tôi cũng không từ”.
Ngày 05/01/1925, từ Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang làm phiên dịch cho Bôrôđin, cố vấn của Liên Xô bên cạnh Chính phủ của Tôn Trung Sơn, đã gửi một bức thư cho Quốc tế Cộng sản báo tin rằng “Quốc dân đảng Đông Dương vừa được thành lập vào ngày 03 tháng này”16.
Đây là nhóm chiến sỹ trẻ yêu nước chịu ảnh hưởng của Phan Bội Châu sang Trung Quốc hoạt động.
16 năm sau đó, cũng ngày này năm 1941, Nguyễn Ái Quốc lại có mặt ở Tĩnh Tây (Trung Quốc) đã gặp Hoàng Văn Thụ được Thường vụ Đảng Cộng sản Đông Dương cử sang báo cáo công việc chuẩn bị Hội nghị Trung ương 8 để quyết định những vấn đề trọng đại cho công cuộc giải phóng.
Và cũng chỉ 5 năm sau đó, ngày 05/01/1946, nước Việt Nam độc lập đó bước vào ngày hôm trước của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên. Sáng hôm đó, báo chí nhất loạt đăng “Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó viết: “Ngày mai, là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình...”17.
Chiều hôm đó, tiếp xúc với 2 vạn cử tri tại khu Việt Nam học (nay thuộc khu vực Đại học Bách khoa - Hà Nội), ứng cử viên Hồ Chí Minh tuyên bố: “Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên bầu. Ngày mai không ai bán, không ai mua, toàn dân sẽ thực hiện cái quyền dân chủ ấy”18.
Rời cuộc tiếp xúc, Bác đến thăm chùa Bà Đá và trụ sở Hội Phật giáo Cứu quốc đặt tại chùa Quán Sứ và trịnh trọng tuyên bố: “Nói hy sinh phấn đấu thì dễ, nhưng làm thì khó. Trước Phật đài tôn nghiêm, trước quốc dân đồng bào có mặt tại đây, tôi xin thề hy sinh đem thân phấn đấu để giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc. Hy sinh, nếu cần đến hy sinh cả tính mạng, tôi cũng không từ”19.
Ngày 05/01/1958, “Lời kêu gọi nông dân và cán bộ quyết tâm chống hạn, đẩy mạnh sản xuất vụ Đông Xuân”20 được đăng trên các báo và trong ngày hôm đó Bác Hồ về Hưng Yên động viên nhân dân đang chống hạn và tặng bức trướng thêu 4 chữ: Chống hạn giỏi nhất.
Ngày 05/01/1959, Bác đến khánh thành Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, viết lời đề từ: Viện Bảo tàng là một trường học tốt về lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam ta, và tặng bảo tàng một kỷ vật riêng của mình: Một chiếc lược làm bằng đồi mồi cất trong một túi vải.
Ngày 05/01/1960, tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng (thời đó xác định là ngày 06/01/1930), Bác đã đọc lời khai mạc và kết thúc bằng lời thơ: Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho sử vàng.
Ngày 06/01
“Ngày tổng tuyển cử tưng bừng và vui vẻ”.
Một sự kiện quan trọng sau lễ Tuyên ngôn Độc lập diễn ra vào ngày 02/9/1945 chỉ hơn 4 tháng là cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội diễn ra trên cả nước vào ngày 06/01/1946. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích: Đây là lần đầu tiên người dân Việt Nam được thể hiện quyền làm chủ của mình trong một quốc gia theo chính thể Cộng hòa - Dân chủ.
Theo những số liệu được công bố ngày hôm đó, một cuộc phổ thông đầu phiếu diễn ra trên cả nước đã bầu chọn 333 đại biểu Quốc hội đại diện cho nhiều địa phương, đảng phái chính trị, tầng lớp xã hội. Ngày hôm đó, hòa theo những người dân tham gia bầu cử, ứng cử viên Hồ Chí Minh đến phòng bỏ phiếu đặt tại nhà số 10 phố Hàng Vôi, Hà Nội để thực hiện nghĩa vụ công dân của mình. Sau đó, vị Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã thăm các địa điểm bỏ phiếu tại các phố Hàng Bạc, Hàng Gai, Hàng Trống, Thụy Khuê, làng Hồ Khẩu và Ô Đống Mác.
Bác cũng không quên đến thăm và động viên các cháu thiếu nhi đang đi cổ động cho bầu cử tại khu vực Lò Đúc, và viết thư gửi Ban âm nhạc Vệ Quốc quân lời cảm ơn và khen ngợi: Anh em đã náo nức đi cổ động khắp Thủ đô từ sáng đến chiều làm cho ngày Tổng tuyển cử được tưng bừng vui vẻ và kết quả.
Cũng trong ngày bận rộn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành cơ hội trả lời phóng viên tờ báo cánh tả của Pháp “Kháng chiến” (La Resistance) để một lần nữa khẳng định rằng nước Việt Nam độc lập không đi ngược lại với lợi ích và mong muốn hợp tác với nước Pháp một cách trung thực và “cùng nhau dàn xếp”.
Trước đó chỉ 5 năm, ngày 06/01/1941, với bí danh Đồng chí Vương, Nguyễn Ái Quốc đó cùng các đồng chí hoạt động ở trong nước như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên và Đặng Văn Cáp do Hoàng Sâm dẫn đường đã đến một ngôi làng bên kia biên giới Việt - Trung để chuẩn bị cho chuyến trở về nước của nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Cách cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (06/01/1946) đúng 14 năm, cuộc bầu cử Quốc hội Khóa II diễn ra ngày 06/01/1960. Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm một địa điểm niêm yết danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu tại đơn vị bầu cử đặt tại đình Ngõ Phát Lộc, Hà Nội. Buổi tối, Bác thăm các đại biểu phụ nữ theo Đạo Thiên Chúa toàn miền Bắc đang họp tại Hà Nội. Cũng trong ngày hôm đó, báo chí đăng “Lời kêu gọi toàn dân hưởng ứng một tháng trồng cây” lấy thành tích chào mừng 30 năm Ngày thành lập Đảng Lao động Việt Nam.
Ngày 06/01/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm và nói chuyện với Hội nghị trí thức Việt Nam chống Mỹ cứu nước do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triệu tập tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Ngày này ba năm sau đó, 06/01/1969, Chủ tịch Nước dự phiên họp đầu năm của Hội đồng Chính phủ và đây cũng là lần cuối cùng Bác có cơ hội chúc Tết những người đồng chí thân thiết của mình trong Chính phủ.
Ngày 07/01
“Muốn làm được ta phải: Quyết tâm, tận tâm, đồng tâm”.
Ngày 07/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Chính phủ để nghe báo cáo của các Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Canh nông sau chuyến kinh lý tại Ninh Bình và Thanh Hóa, Nghệ An và bàn việc động viên nhân dân cả nước hướng về và chi viện cho Nam bộ. Tại cuộc họp này, người đứng đầu nhà nước đã vạch ra một nhiệm vụ cấp bách là cần phải thống nhất quân đội ngay để có thể tiếp viện cho Nam bộ.
Cùng ngày hôm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai giảng Trường Cán bộ Tự vệ Hồ Chí Minh. Trước 75 học viên của khoá cán bộ đầu tiên được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, Bác căn dặn: “Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đó. Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân”21. Phân tích yếu tố tinh thần, Bác Hồ đưa ra một nguyên lý sáng suốt: “Muốn làm được, ta phải: Quyết tâm, tận tâm và đồng tâm”22.
Những thiện chí của chúng ta không ngăn được chiến tranh đã lan rộng ra cả nước. Ngày 07/01/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Chính phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp nêu rõ lập trường rất mềm mỏng: "Chính phủ và nhân dân Pháp chỉ cần có một cử chỉ công nhận độc lập và thống nhất của nước Việt Nam là chấm dứt được những tai biến này; hòa bình và trật tự sẽ trở lại ngay tức khắc. Dân tộc Việt Nam đang chờ đợi cử chỉ đó"23.
12 năm sau sự kiện trên, mục tiêu thống nhất vẫn chưa hoàn thành, ngày 07/01/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị để bàn về “Đường lối Cách mạng miền Nam” và đưa ra ý kiến chỉ đạo: “Phải lấy chính trị, lực lượng quần chúng là chính. Phải đoàn kết toàn dân, trừ bọn phản dân. Đề án viết phải có lý, có tình. Cũng có thể nói: Giải phóng miền Nam là nhiệm vụ thần thánh của nhân dân ta"24.
Nửa thập kỷ sau đó đó diễn ra một cao trào từ phong trào Đồng Khởi đến cuộc đương đầu chống “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ mà đỉnh cao là hai chiến thắng vang dội từ Ấp Bắc (1963) đến Bình Gió (cuối 1964). Với bút danh “Chiến Sĩ”, Bác viết bài đăng báo “Quân đội nhân dân” ngày 07/01/1965 với đầu đề “Điện Biên Phủ nhỏ và Nhịp cầu vàng”. Bài báo một mặt vinh danh hai trận thắng trên là “Điện Biên Phủ nhỏ” nhưng để đi đến thắng lợi hoàn toàn còn cần bắc một “Nhịp cầu vàng” để nước Mỹ rút lui khỏi cuộc chiến tranh mà không bị mất mặt”.
Thực tiễn cho thấy, sau cuộc Tổng tiến công Mậu Thân (1968), Mỹ đã phải bước vào bàn đàm phán tại Pari và 5 năm sau đó (1973) “Nhịp cầu vàng” đã tạo cơ hội cho Mỹ “rút lui mà không bị mất mặt”... Để rồi không đầy hai năm sau (1975), miền Nam hoàn toàn giải phóng...
Ngày 08/01
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Ngày 08/01/1920, Nguyễn Ái Quốc cùng một số trí thức Việt Nam đang ở Pari tham dự một cuộc thảo luận tại Hội Địa dư Pháp về quyền tự quyết của người Triều Tiên, cũng nhằm tranh thủ nêu vấn đề về quyền tự quyết của người Đông Dương.
26 năm sau, ngày 08/01/1946, chỉ hai ngày sau cuộc Tổng tuyển cử, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đi thăm Trại giam Hỏa Lò ở Hà Nội. Báo chí mô tả người đứng đầu Nhà nước đã thăm khu nhà giam, nhà tắm, lớp học, buồng làm việc, trạm xá, nhà bếp và lắng nghe các phạm nhân phân trần, rồi Người khuyên họ “gắng sửa tội lỗi để xứng đáng là công dân của một nước độc lập”25. Chủ tịch nhắc Giám đốc trại giam xem xét lại các án tù và xin cơ quan thẩm quyền tha bớt những người nhẹ tội.
Sau đó, Chủ tịch thăm Sở Cảnh sát Trung ương đóng ở phố Hàng Trống và căn dặn: Ngoài việc giữ trật tự còn phải tuyên truyền, phải đoàn kết và hợp tác với tự vệ và nhân dân thành phố. Đến Bộ Tuyên truyền, Chủ tịch nhắc nhở phải giữ thái độ khoan dung với kiều dân Pháp và trong việc tuyên truyền phải tôn trọng sự thật, có vậy mới có nhiều người nghe.
Cũng trong ngày hôm đó, đáp lại việc nữ sĩ Hằng Phương gửi tặng cam cho Chủ tịch Nước, trên tờ “Tiếng gọi Phụ nữ” (số 11) Bác đăng bài thơ “Cảm ơn người tặng cam” bằng những câu thơ ý nhị và sâu sắc:
“Cảm ơn bà biếu gói cam,
Nhận thì không đúng, từ làm sao đây!
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai!”26
Một năm sau, ngày 08/01/1947, Bác lại đăng một bài thơ gửi tặng Báo “Độc Lập” cơ quan ngôn luận của giới trí thức và công thương mang tinh thần cổ vũ cho một năm mới đầu tiên cả nước bước vào cuộc kháng chiến gian khổ:
“Năm mới thế cho năm đã cũ.
Báo “Độc lập” của Đảng Dân chủ.
Kêu gọi toàn thể dân Việt Nam,
Đoàn kết và thắt chặt hàng ngũ,
Kiên quyết kháng chiến đến kỳ cùng,
Để giữ chủ quyền và lãnh thổ.
Chờ ngày độc lập đó thành công.
Tết ấy tha hồ bàn với cỗ”27.
Cũng nhân dịp chuẩn bị đón Tết Nguyên đán, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lời kêu gọi hô hào đồng bào phải hết sức tiết kiệm, để dành tiền bạc, cơm gạo cho cuộc kháng chiến lâu dài..., ra sức thi đua tăng gia sản xuất và quan tâm đến các chiến sỹ ngoài chiến trường. Cùng ngày, Bác Hồ còn viết thư khen ngợi các chiến sỹ bị thương xứng đáng với Tổ quốc, và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên những người con yêu quý như thế…, đồng thời khích lệ các thầy thuốc và khán hộ đã hết lòng chăm sóc thương binh: “Thế là các bạn cũng trực tiếp tham gia kháng chiến cứu quốc”28.
Ngày 08/01/1959, Xưởng may 10 của Tổng cục Hậu cần có vinh dự được Bác Hồ đến thăm. Từ đó đến nay, nhà máy này29 không ngừng trưởng thành đến nay đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng trong ngành May mặc nước ta.
Chú thích:
16. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 2, tr. 18.
17,18,19. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 4, tr. 145, 147, 148.
20. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 9, tr. 5.
21, 22. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 4, tr. 150.
23. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 12.
24. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2009, t. 7, tr. 203.
25. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 3, tr. 124.
26. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 3, tr. 125
27,28. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 14, 13.
29. Hiện nay là Công ty may 10 (BT)
Ngày 09/01
“Một dân tộc có con cháu như vậy là một dân tộc chắc thắng lợi”.
Ngày 09/01/1921, Nguyễn Ái Quốc lúc này đã tham gia sáng lập và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp nhưng vẫn đi cùng Phan Châu Trinh đến dự một cuộc họp do Chi bộ của Đảng Xã hội lúc này đã tham gia phân bộ Xã hội Cách mạng của Quốc tế III. Điều đó cho thấy sự phân hoá của tổ chức mà trước đó Nguyễn Ái Quốc đã từng tham gia là Đảng Xã hội cũng như mối quan hệ của Nguyễn Ái Quốc với những xu hướng tích cực của tổ chức này vẫn được duy trì.
Ngày 09/01/1923, Báo “L’Humanité” (Nhân đạo) của Đảng Cộng sản Pháp đăng bài “Vực thẳm thuộc địa” của Nguyễn Ái Quốc. Bài báo tố cáo giới thực dân một mặt khai thác thuộc địa và bóc lột dân bản xứ một cách thậm tệ để làm giàu không phải chỉ cho nước Pháp mà cho chính bọn chúng. Trong khi đó thì chúng lại yêu cầu chính quốc phải đầu tư nhiều tỷ đồng cho các thuộc địa. Như vậy, thực chất là chúng bòn rút chính nhân dân Pháp để phục vụ vào những việc làm lãng phí, xa xỉ, nơi bộ máy quan liêu và ăn bám. Tác giả đưa ra nhiều dẫn chứng với những con số thuyết phục trong đó có cuộc Triển lãm Thuộc địa vô cùng tốn kém đang diễn ra ở nước Pháp. Đây là thời điểm Nguyễn Ái Quốc có rất nhiều bài viết đăng trên nhiều tờ báo tố cáo chế độ thực dân mà sau này là chất liệu để sau đó không lâu đã hình thành tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (Le Procốs de la Colonisation franônaise) nổi tiếng.
Ba ngày sau cuộc Tổng tuyển cử, ngày 09/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ký Sắc lệnh số 3 về việc triệu tập Quốc hội vào ngày Chủ nhật 03/3/1946. Để chuẩn bị cho sự kiện quan trọng này, một Ủy ban trù bị khai mạc Quốc hội gồm các nhà trí thức có danh tiếng đương thời như Võ Nguyên Giáp, Vũ Đình Hòe, Cù Huy Cận, Dương Đức Hiền…
Hồ sơ trong các cơ quan lưu trữ còn bảo tồn được bức thư Bác viết ngày 09/01/1947 gửi người đồng chí gần gũi trong Văn phòng của mình là Hoàng Hữu Nam tức Phan Bùi trong đó nhắc Bộ Nội vụ cho đăng báo bài “Lời kêu gọi những người có văn hóa đăng ký phục vụ Tổ quốc”30. Rất tiếc văn kiện này đến nay vẫn chưa sưu tầm được, nhưng chủ đề của lời kêu gọi cho thấy quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc đoàn kết và phát huy đóng góp của tầng lớp trí thức “người có văn hóa” cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, điều mà người đứng đầu nước đó nhiều lần đề cập.
Ngày 09/01/1952, Báo Cứu Quốc dưới bút danh “Đ.X” trong bài viết: “Thanh niên oanh liệt” Bác bày tỏ cảm xúc và ca ngợi tinh thần một học sinh tên là Nguyễn Quốc Ân đã chấp nhận bị tra tấn và hy sinh khi bị buộc phải viết bài văn “So sánh Hồ Chí Minh với Quốc trưởng Bảo Đại” tại một trường ở vùng tạm bị chiếm thuộc tỉnh Hưng Yên, trong đó không chịu bôi nhọ lãnh tụ. Kết luận bài báo tác giả viết: "Một dân tộc có con cháu như vậy là một dân tộc chắc chắn thắng lợi"31.
Ngày 10/01
“Dân chỉ biết giữ của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc ấm”.
Từ Quảng Châu (Trung Quốc), ngày 10/01/1923, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Quốc tế Cộng sản hỏi về việc có thể nhận bao nhiêu sinh viên Việt Nam vào học Trường Đại học Cộng sản Mát-xcơ-va.
23 năm sau, ngày 10/01/1946, tại Hà Nội, trong cương vị là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh đã tham dự phiên họp đầu tiên của Uỷ ban Nghiên cứu Kế hoạch Kiến quốc là một tổ chức tập hợp đông đảo các nhà chuyên môn, các nhân sỹ để tư vấn kế hoạch xây dựng đất nước. Tại cuộc họp này, Bác Hồ chỉ rõ: “Chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”32. Có thể nói đây là quan điểm nhất quán đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời triệu tập chỉ một ngày sau Lễ Độc lập (03/9/1945).
Sau đó, Bác lên đường thăm tỉnh Hưng Yên mà không báo trước. Tiếp các vị thân hào tới chào mừng, Bác nói rằng: “... Bây giờ ta được độc lập, công việc đắp đê không phải là việc riêng của Chính phủ mà là của tất cả mọi quốc dân”33. Bác động viên các thân hào có của, người lao động có công cùng nhau tham gia củng cố đê điều. “Nước sông cao bao nhiêu đi nữa, mà lòng nhiệt tâm của các bạn cao hơn thì không bao giờ có lụt nữa”34.
Bác đi thăm quãng đê vỡ ở Hưng Nhân cách thị xã 6 km, tự thân lội nước thăm hỏi những người đang tham gia hàn đê rồi lên đường đi Thái Bình tiếp đó là Nam Định nhằm vận động các nguồn lực để củng cố đê điều cho tới khuya mới về đến nhà.
Một năm sau, khi chiến tranh đã lan rộng cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên trì đấu tranh ngoại giao, tranh thủ mọi cơ hội để đàm phán mong lập lại hòa bình. Nhưng người đứng đầu cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam cũng cảnh cáo giới thực dân hiếu chiến trong lá thư đề ngày 10/01/1947 rằng: “Nếu không, chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu đến cùng để giải phóng hoàn toàn đất nước. Nước Việt Nam có thể bị tàn phá, nhưng nước Việt Nam sẽ lại hùng mạnh hơn sau cuộc tàn phá đó. Còn nước Pháp chắc chắn sẽ mất hết và sẽ biến hẳn khỏi cõi Á châu”35. Lời tiên đoán ấy về sau đã thành sự thật.
Ngày 10/01/1960, vị nguyên thủ quốc gia xuống bến Sửu Kho (Hải Phòng) để đón chuyến tàu biển đầu tiên đưa bà con Việt kiều từ Thái Lan trở về nước. Trước đó một ngày, với bí danh V.K, Bác đã viết bài “Kiều bào ta ở Thái Lan luôn luôn hướng về Tổ quốc” đề cập lịch sử di dân, biểu dương truyền thống đoàn kết ủng hộ sự nghiệp cách mạng ở trong nước và khích lệ bằng mấy vần thơ:
Mình tuy nương náu đất người,
Nhưng lòng yêu nước không nguôi bao giờ.
Bấy lâu xa cách nước nhà
Nay về quê cũ thế là vẻ vang.
Ngày 11/01
“Hồ Chí Minh hoàn toàn giống một vị thánh”.
Ngày 11/01/1933, dưới cái tên Tống Văn Sơ, Nguyễn Ái Quốc đang chuẩn bị cho chuyến trở về nước Nga Xô viết. Bị bắt từ ngày 06/6/1931 khi đang hoạt động ở Hồng Kông, qua 9 phiên xét xử, được sự giúp đỡ của một số luật sư tiến bộ người Anh trong đó có ông Lôdơbi, ngày 28/12/1932, Nguyễn Ái Quốc được thả tự do. Lập luận của các luật sư là bộ máy cảnh sát và tư pháp của Hồng Kông đã vi phạm bộ “Luật Bảo thân” (Habeas Corpus). Từ thời điểm đó đến ngày 11/01/1933, được sự giúp đỡ của những luật sư người Anh và một số cơ sở cách mạng của người Việt Nam, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc tìm cách rời Hồng Kông tiếp tục hoạt động trong chuyến tàu khởi hành vào ngày hôm sau trên hành trình đến nước Nga, nhưng ghé qua cảng Xingapo.
Ngày 11/01/1946 từ Thái Bình, Bác đi thăm tỉnh Nam Định, 7 giờ sáng, đông đảo nhân dân đã tề tựu trước Ủy ban Hành chính thành phố nghe vị Chủ tịch Nước nói chuyện với đồng bào về những nhiệm vụ kháng chiến, cứu đói. Sau đó, Bác đến thăm và chia quà cho trẻ em ở Trại trẻ mồ côi Nam Định. Tại đây, Bác cảm động nói với bà Phước: “Tôi ghé qua đây thăm bà và các cháu. Tôi thay mặt các cháu không cha, không mẹ đó cảm ơn bà đã trông nom cho chúng như một người mẹ. Chúng tội tình gì mà tội nghiệp quá”36. Rời Nam Định, Bác đi thăm Phủ Lý và nói chuyện với dân chúng đến chào đón vị Chủ tịch Nước.
Theo hồi ký của một sĩ quan Mỹ trong đơn vị thuộc Cơ quan Tình báo chiến lược của Mỹ (OSS)37 mang bí danh “Con Bê” (The Cown Team) là Gioúcgiơ Úychcơ (Georges Wickes) đang đóng tại Sài Gòn được lệnh ra Hà Nội vào đầu năm 1946 để thực hiện cuộc phỏng vấn người đứng đầu nhà nước Việt Nam. Sau đó, Úychcơ (Wickes) đã viết một bức thư gửi cho mẹ nói về cảm nhận của mình đối với nhân vật lần đầu được tiếp xúc (bức thư về sau được công bố khi tác giả đã trở thành một giáo sư đại học). Thư viết: Ông Hồ mặc quân phục, nhưng một cách giản dị không có bất kỳ phù hiệu nào... Khi hỏi rằng ông có phải là người cộng sản không? Ông Hồ không hề dấu giếm sự thật. Nhưng khi hỏi rằng phải chăng điều đó có nghĩa là Việt Nam sẽ trở thành đất nước cộng sản, ông nói rằng ông không phải là người xác định điều này, bản sắc chính trị của đất nước phải được quyết định bởi nhân dân... Hồ Chí Minh hoàn toàn giống vị thánh tử đạo và trong thực tế ông đã cống hiến hầu như toàn bộ 60 năm kỳ diệu của đời mình cho sự nghiệp của dân tộc nhưng tốt đẹp hơn những kẻ cuồng tín mà như một người ông nhân hậu với đồng bào của mình...
Và khi được hỏi rằng Hồ Chí Minh là một người như thế nào? Con sẽ mô tả ông như sự kết hợp giữa Thánh Francis xứ Assisi và Abraham Lincohn (Thánh Phranxớt (Francis) là vị thánh biểu trưng cho tình nhân ái, chống bạo lực và thân thiện với thiên nhiên; còn A.Lincon (A.Lincohn) là vị Tổng thống đoàn kết toàn dân xây dựng thể chế dân chủ - BT).
Ngày 12/01
“Tôi sống rất bình yên và giản dị”.
Ngày 12/01/1933, sau khi Tòa án Anh ở Hồng Kông đã ra lệnh thả, Nguyễn Ái Quốc quyết định đi Anh, nhưng tàu vừa cập bến cảng Xingapo thì chính quyền sở tại theo yêu cầu của nhà cầm quyền ở Hồng Kông ra lệnh cho nhà cách mạng Việt Nam phải quay lại nơi xuất phát. Cách đó mới hơn một năm (tháng 6/1931), Bộ Thuộc địa Pháp đó cảnh báo: Việc trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc chỉ có thể làm trầm trọng thêm những hoạt động có hại của phong trào Đông Dương mà các Sở an ninh Đông Dương đều biết là ông ta đã tập trung tất cả trò thông minh, quyền lực và sự nổi tiếng của mình38.
14 năm sau, ngày 12/01/1947, lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh đã lan rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời một nhà báo Mỹ trong đó một lần nữa bày tỏ “Việt Nam hy vọng Mỹ sẽ giúp các dân tộc nhỏ giành độc lập như Tổng thống Rudơven đã thường nói”39 đồng thời sẵn sàng tiếp đón những phóng viên Mỹ muốn đến tìm hiểu tình hình Việt Nam.
Vậy mà 20 năm sau đó, Mỹ chẳng những không ủng hộ nền độc lập của Việt Nam mà còn trở thành kẻ trực tiếp tiến hành cuộc chiến tranh khốc liệt trên cả hai miền Nam và Bắc nước ta. Đó cũng là lúc phong trào chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đang dâng cao trên khắp thế giới.
Với một tầm nhìn xa, một mặt Bác cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của quân dân trên các chiến trường, mặt khác lại rất quan tâm chỉ đạo việc mở ra mặt trận ngoại giao nhân dân. Ngày 12/01/1967, Bác tiếp Giáo sư H.S. Atxmôrơ chủ bút tờ “Nhật báo Acansot” cùng hai nhân vật nữa là những người đã nhận sứ mạng của Bộ Ngoại giao Mỹ thăm dò khả năng chấm dứt chiến tranh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm hiểu một cách chân tình và thẳng thắn: “Tôi chưa có thời gian nào để lấy vợ và lập gia đình. Tôi nói với thanh niên Việt Nam rằng họ là con cháu tôi, vì vậy tôi rất bình yên và giản dị. Tôi ngủ rất ngon, ngay cả khi có việc ném bom của các ông”.
"Chúng tôi không đánh nước Mỹ. Chúng tôi không phạm một hành động đối địch nào vào lãnh thổ các ông... Trong khi những hành động chiến tranh còn tiếp diễn thì các ông đừng mong đợi chúng tôi đến bàn thương lượng. Làm như vậy không phải là thương lượng một giải pháp mà đó là đi xin hòa bình, là đầu hàng... Khi nào chấm dứt ném bom, cuộc nói chuyện sẽ bắt đầu", "Nhân dân chúng tôi là người có lý trí biết suy nghĩ, yêu hòa bình. Chúng tôi muốn kết thúc cuộc chiến tranh này, nhưng nền độc lập, tự do của Việt Nam không bao giờ lại bị đưa ra thương lượng một lần nữa"40.
Cuộc tiếp xúc này là tín hiệu để phía Mỹ nhận thức được thiện chí có nguyên tắc của phía Việt Nam nhằm đi đến bàn hội nghị đó diễn ra tại Pari ngay sau cuộc Tổng tấn công và nổi dậy vào mùa Xuân năm Mậu Thân (1968).
Chú thích
30. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Sdd, 2006, t. 4, tr. 18.
31. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Sdd, 2007, t. 5, tr. 145.
32, 33. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 4, tr. 152, 154.
34. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 4, tr. 154.
35 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 19.
36. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 3, tr. 128.
37. OSS (viết tắt từ “Office of Strategic Services”): Cơ quan Tình báo chiến lược Mỹ - tiền thân của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ ngày nay (“Central Intelligence Agency” - CIA).
38. Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông (1931-1933) tư liệu và hình ảnh, Nxb. Chính trị quốc gia, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004, tr. 57.
39. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 20.
40. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2009, t. 10, tr. 12-13.
Ngày 13/01
“Thủ đô phải là thành phố gương mẫu của cả nước”.
Hồ sơ mật thám của Pháp cho biết, ngày 13/01/1923, Nguyễn Ái Quốc nhận được tập “Kỷ yếu nhân quyền” và tham dự một buổi họp của chi bộ cộng sản vùng Xen (Seine) tại trụ sở số 100 đường “Cardinet” (Pari). Cũng bản báo cáo này cho biết trong thời gian đó, Nguyễn Ái Quốc thường xuyên đến nhà của Luật sư Phan Văn Trường, trong ngày hôm ấy đã dùng cơm trưa với Nguyễn Thế Truyền và Phạm Cao Lục. Nguyễn Thế Truyền vào thời điểm này đang cộng tác với Bác để làm tờ “Việt Nam Hồn”. Cũng trong ngày 13/01, Nguyễn còn tham gia sinh hoạt “Hội của những người An Nam làm nghề nấu bếp và giúp việc nhà”.
Thời gian này, Nguyễn Ái Quốc càng quan tâm đến vấn đề nông dân nên ngày 13/01/1926, Nguyễn Ái Quốc viết thư tới Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân tha thiết đề nghị cung cấp tài liệu về nông dân để “có thể dịch sang tiếng Trung Quốc dùng cho việc tuyên truyền...”41.
Năm 1947, chiến tranh đã lan rộng trên cả nước, bên cạnh việc chỉ đạo cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nỗ lực thúc đẩy các hoạt động ngoại giao nhằm tranh thủ hòa bình, đặc biệt là hướng về các nước láng giềng Châu Á, ngày 13/01/1947, Chủ tịch Nước Việt Nam viết “Thư gửi lãnh tụ và nhân dân các nước” trong đó nêu rõ: Việt Nam chỉ muốn hòa bình và độc lập để cộng tác thân thiện với các dân tộc trên thế giới, trước là với dân tộc anh em Á Đông và dân tộc Pháp... Vì Tổ quốc, vì tự do, nhân dân Việt Nam kiên quyết kháng chiến đến cùng. Vì nhân đạo vì chính nghĩa, vì hòa bình chung và lợi ích chung, nhân dân Việt Nam mong các vị giúp đỡ mọi phương diện.
Ngày 13/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ban bố Luật Hôn nhân gia đình. Trong bài nói tại Đại hội đại biểu nhân dân Hà Nội diễn ra vào buổi tối cùng ngày ký sắc lệnh, Bác Hồ nêu rõ ý nghĩa lịch sử của đạo Luật này: “Có quan hệ mật thiết đến mọi người dân trong nước, đến cả nòi giống Việt Nam ta. Đạo luật ấy làm cho gái trai thật sự bình quyền, gia đình thật sự hạnh phúc. Toàn thể đồng bào ta đều nhiệt liệt hoan nghênh đạo luật chí tình chí lý ấy”42.
Cũng trong bài phát biểu này, người đứng đầu Nhà nước chỉ thị: “Đồng bào Thủ đô phải thật gương mẫu trong mọi công tác. Thủ đô phải là thành phố gương mẫu cho cả nước”43.
2 năm sau, trong phát biểu tại cuộc họp của Bộ Chính trị (ngày 13/01/1962) khi bàn về ngân sách nhà nước, Bác nhấn mạnh đến nguyên tắc “khai nguyên tiết lưu”. “Cái gì cần tập trung thì tập trung, cái gì giảm được thì kiên quyết giảm. Làm sao cho dưới thông, dân thông... Chống lãng phí tham ô cần có biện pháp...”44.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động” cho Thiếu tá Iuri Gagarin, phi công vũ trụ Liên Xô, con người đầu tiên được phóng lên vũ trụ trên con tàu “Phương Đông I” ngày 12/4/1961.
Ngày 14/01
“Tôi chẳng sợ chết cũng chẳng sợ tù đầy”.
Ngày 14/01/1920, Nguyễn Ái Quốc lúc này là Thư ký “Nhóm người cách mạng An Nam” tại Pháp có một cuộc diễn thuyết vào 20h30 tại số 3 đường Chateau, Pari với đề tài: “Sự tiến triển trong xã hội của những dân tộc vùng Châu Á và những lời yêu cầu của xứ An Nam”45. Theo báo cáo của mật thám Pháp, vài ngày hôm sau (19/01), trả lời câu hỏi của một người đồng bào tên là Lâm e ngại việc làm của Nguyễn Ái Quốc là quá mạnh, nhà cách mạng trẻ thẳng thắn trả lời: Nếu ai hỏi tôi là “Nhóm người cách mạng An Nam” ở đâu, tôi sẽ trả lời là 20 triệu người ở trong nước, họ đã phản đối hàng ngày, nhưng bị đàn áp, bị dìm đi. Nói cho cùng, ai làm gì tôi? Lưu đầy tôi ư? Hoặc cắt đầu tôi? Điều ấy có xẩy đến tôi cũng bất cần!.
Một năm sau, ngày 14/01/1921, Nguyễn Ái Quốc vào bệnh viện Côsanh ở Pari để mổ áp xe vai. Ca mổ thực hiện vào ngày 19/01 và phải điều trị tại đó cho đến 25/3/1921. Trong thời gian này mật thám Pháp luôn theo dõi sát sao những tiếp xúc của nhân vật trong Đại hội Tua (Tours) cuối năm trước đã bỏ phiếu theo Quốc tế III. Dưới đây là đoạn trích trong đối thoại của Nguyễn Ái Quốc với viên mật thám giả là khách đến thăm:
... Tại sao ông lại thích làm chính trị? Ông không sợ bị theo dõi, ông không sợ người ta làm hại ông?
(Nguyễn Ái Quốc): Chẳng hề chi, tôi thích làm chính trị thì tôi chẳng sợ chết cũng chẳng sợ tù đầy. Trong đời này, chúng ta chỉ chết có một lần, tại sao lại sợ? ... Tôi vẫn luôn luôn có ý thành lập một tổ chức dưới hình thức một hội thân hữu để tất cả những người Đông Dương tại Pháp gặp gỡ nhau, học hỏi về chính trị. Không cần đông lắm. Để thành một lực lượng mạnh mẽ, điều cần thiết là phải đồng ý với nhau về quan điểm và có tinh thần yêu nước...
5 năm sau, 14/01/1926, Nguyễn Ái Quốc đã ở Trung Quốc với bí danh là Vương Văn Đạt được mời đến phát biểu tại Đại hội lần thứ II của Quốc dân Đảng Trung Hoa. Kết thúc bài phát biểu, đại biểu Vương kêu gọi: “Tất cả các dân tộc bị áp bức nào, hễ cùng bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, thì phải cùng nhau liên hiệp lại. Đả đảo đế quốc Pháp! Đả đảo chủ nghĩa đế quốc trên thế giới!... Không phân biệt nước nào, dân tộc nào, tất cả hãy đứng lên chống kẻ thù chung của chúng ta!”46.
10 năm tiếp theo, ngày 14/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 4 về việc cử người vào Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch và kiến thiết, một cơ quan tư vấn được thành lập từ cuối năm 1945. Trong danh sách bổ sung có nhiều nhà trí thức lớn như Đào Duy Anh, Đặng Văn Hưởng, Nguyễn Cao Luyện, Bùi Công Trừng, Nghiêm Xuân Yêm, Trần Đăng Khoa, Trường Chinh, Nguyễn Thiệu Lâu, Hoàng Văn Đức...
Sức thu hút nhân tài của Bác Hồ không chỉ mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân mà thực sự đã quy tụ được trí tuệ của dân tộc.
Ngày 15/01
“Lê-nin dạy chúng ta chống quan liêu, tham ô, lãng phí!.
Ngày 15/01/1923, Nguyễn Ái Quốc với tư cách là một đảng viên thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp tích cực hoạt động nhằm thu hút sự chú ý của chính giới đối với vấn đề thuộc địa nói chung, xứ sở Đông Dương của mình núi riêng. Vào ngày 15/01/1923, bài báo “Những người bản xứ được ưa chuộng” đăng trên tờ báo “Người Cùng khổ”(Le Paria). Bằng một giọng văn hài hước sắc sảo và sâu cay, tác giả lấy tích truyện “Ôtenlô” của đại văn hào Xếchxpia để liên tưởng đến thân phận những người da màu trên nước Pháp hiện đại, bóc trần những thủ đoạn và sự tuyên truyền lừa bịp về nền dân chủ và công lý...
23 năm sau, ngày 15/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 5, huỷ bỏ quyền quản lý và sử dụng đường sắt Hải Phòng - Vân Nam của Công ty Hoả xa Vân Nam. Đây là một trong những thế lực mạnh của nền kinh tế thuộc địa. Nó độc quyền khai thác con đường huyết mạch nối vùng Tây Nam Trung Quốc thông ra biển ra cảng Hải Phòng. Không chỉ người Pháp mà lúc này Trung Hoa Quốc dân Đảng cũng muốn nắm. Theo Sắc lệnh này thì toàn bộ tài sản của Công ty nay thuộc quyền sở hữu và sử dụng của Nhà nước Việt Nam.
Để ổn định trị an, Bác cũng ký Sắc lệnh số 6 về hình phạt đối với tội trộm cắp, tự ý phá hủy, cắt dây điện thoại hoặc tàng trữ các loại vật tư có liên quan; và sắc lệnh bổ sung về chức năng của Toà án quân sự. Trong lưu trữ hiện còn một lá thư đề ngày này năm 1947, yêu cầu Văn phòng Chính phủ chuẩn bị soạn thảo sắc lệnh lưu ý trong các văn bản của nhà nước nên viết ngắn gọn, dễ hiểu và “không dùng tiếng Tây”.
Ngày 15/01/1950, trong thư viết cho Hội nghị Công an toàn quốc (lần thứ 5) Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Xây dựng bộ máy Công an nhân dân. Tức là công an phải có tinh thần phục vụ nhân dân, là bạn dân... Tổ chức công an phải giản đơn, thiết thực, tránh cái tệ quá hình thức, giấy má. Lề lối làm việc phải dân chủ. Phải hoan nghênh nhân dân phê bình công an, để đi đến hiểu công an, yêu công an, và giúp đỡ công an"47.
Ngày 15/01/1952, Bác Hồ ký Sắc lệnh truy tặng Huân chương Độc lập hạng Ba cho nữ Anh hùng dân quân Bùi Thị Cúc, quê ở Hưng Yên đã giữ vững khí tiết người chiến sỹ cách mạng khi bị giặc Pháp bắt và giết hại một cách dã man.
Ngày này một năm sau đó (1953) chuẩn bị kỷ niệm lần thứ 30 ngày V.I.Lê-nin mất (21/01/1924 - 21/01/1954), Bác viết bài “Kỷ niệm Lê-nin” đăng trên Báo Nhân Dân. Bài báo nêu lên những bài học sâu sắc: “Lê-nin dạy chúng ta phải ra sức chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Dù vô tình hay là cố ý, duy trì 3 bệnh ấy tức là giúp sức cho kẻ địch và làm hại cho nhân dân, cho Chính phủ, cho Đảng... Chúng ta kỷ niệm đồng chí Lê-nin, thương nhớ đồng chí Lê-nin thì càng phải học tập và thực hành chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đó là con đường duy nhất cho chúng ta đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công”48.
Chú thích:
41. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 1, tr. 346.
42. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 10, tr. 29, 30.
43,44. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2008, t. 8, tr. 180.
45. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 1, tr. 88.
46. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 2, tr. 217.
47 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 6, tr. 9-10.
48. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 7, tr. 4.
Ngày 16/01
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải lấy cần làm gốc”.
Ngày 16/01/1935, Nguyễn Ái Quốc lúc này đang ở Liên Xô đã viết “Thư gửi Ban Phương Đông” của Quốc tế Cộng sản nêu lên tình trạng thiếu lý luận cách mạng của đa số cán bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương, Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, v.v. và cho rằng nhiều vấp váp sai lầm hay bế tắc của phong trào cộng sản ở đây đều bắt nguồn từ “trình độ lý luận rất thấp” và yêu cầu “phải giúp đỡ các đồng chí của chúng ta khắc phục những khó khăn ấy bằng cách tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp thụ được những kiến thức sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sỹ đều phải có”49.
Nguyễn Ái Quốc còn nêu tên các tài liệu cần được xuất bản dưới dạng các cuốn sách nhỏ như Tuyên ngôn Cộng sản, Lịch sử Quốc tế cộng sản, Luận cương và nghị quyết về vấn đề thuộc địa. Bức thư kết luận rằng đó là những “biện pháp duy nhất có hiệu quả” để chấm dứt tình trạng lạc hậu về lý luận cách mạng ở các nước thuộc địa như Đông Dương nơi mà Đảng phải hoạt động bất hợp pháp và trình độ văn hóa của người lao động còn thấp.
12 năm sau, ngày 16/01/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo “Lời kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến”.
Sau “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” ngày 19/12/1946 thì đây là một văn kiện quan trọng kêu gọi toàn dân tiếp tục cuộc kháng chiến bằng những việc làm cụ thể. Văn kiện viết: “Vì sao ta phải kháng chiến? Vì không kháng chiến, thì Pháp sẽ cướp nước ta lần nữa. Chúng sẽ bắt dân ta làm nô lệ lần nữa... Vì ta không chịu làm trâu ngựa cho Pháp, vì ta phải giữ gìn non sông đất nước ta, cho nên ta phải đánh bọn thực dân Pháp. Đánh thì phải phá hoại... Ta vì nước hy sinh, chịu khổ một lúc. Đến ngày kháng chiến thắng lợi, ta sẽ cùng nhau kiến thiết sửa sang lại, nào có khó gì”50.
Trên Báo Nhân Dân ra ngày 16/01/1960, Bác viết bài báo “Lấy Cần làm gốc” phân tích những cách nhìn nhận phiến diện về chủ nghĩa xã hội và cho rằng: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải lấy cần làm gốc, cần là lao động: Lao động cần cù và sáng tạo. Năng suất lao động ngày càng tăng là nguồn no ấm của chúng ta”51.
Ngày 16/01/1961, Bác đến thăm Viện Đông y và căn dặn: “Thầy thuốc cắt thuốc mà sắc không tốt thì chữa bệnh cũng chưa tốt. Thầy thuốc cắt thuốc tốt và sắc thuốc tốt, nhưng nấu ăn không tốt, để giường có rệp, muỗi cắn hút máu của người bệnh thì chữa bệnh cũng không tốt. Cho nên phải đoàn kết trên dưới thành một khối như chiếc máy đồng hồ”52.
Ngày 16/01/1966, Bác nói chuyện với Hội nghị cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị 12 của Trung ương Đảng. Phân tích sự can thiệp và mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ, Bác khẳng định: "Bây giờ Mỹ có 20 vạn quân ở miền Nam, nó có thể đưa thêm vào hơn nữa đến 30, 40, 50 vạn quân. Ta vẫn thắng, nhất định ta thắng"53 . Lịch sử đã chứng minh nhận định trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành hiện thực.
Ngày 17/01
“Đánh kẻng còn hơn gảy đàn!”
Ngày 17/01/1926, trên Báo Thanh niên xuất bản tại Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc viết bài “Báo chí bình dân” đưa ra một quan niệm về báo chí cách mạng. Bài báo viết: “Chúng tôi bất chấp (xem thường) việc sử dụng những từ mỹ miều, văn phong lịch lỡm, câu chữ đong đưa, nhịp câu đăng đối song hành, những sự tô vẽ văn chương mà các nhà nho ham chuộng. Nhưng ngược lại chúng tôi gắng sức, vì lợi ích của tất cả mọi người, dùng một văn phong sáng sủa, chính xác và dễ hiểu.
Vì mục đích của chúng tôi là: 1- Đánh trả sự tàn bạo của người Pháp, 2- khích lệ dân tộc An Nam kết liên lại, 3- Làm cho họ thấy được nguyên nhân những đau khổ, đói nghèo của họ và chỉ ra cho họ làm cách nào để tránh được những điều đó, nên bản báo chúng tôi làm trên nhiệm vụ là hồi kẻng báo động... Tiếng đàn cầm chắc chắn hay hơn tiếng kẻng; nhưng trước mối họa đang đe dọa chúng ta, tốt nhất là đánh kẻng còn hơn gẩy đàn”54.
20 năm sau sự kiện trên, ngày 17/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện văn tới Bộ trưởng Ngoại giao các nước Liên Xô, Hoa Kỳ và đại diện Trung Quốc tại Liên hợp quốc thiết tha yêu cầu công nhận nền độc lập và nhận Việt Nam vào Hội đồng Liên hợp quốc. Đây là lần đầu tiên Chính phủ Việt Nam gửi một văn bản chính thức đặt vấn đề với ba quốc gia sáng lập Liên hợp quốc: Sự có mặt của chúng tôi trong Hội nghị sẽ có ích nhiều trong việc giải quyết một cách nhanh chúng và hòa bình các vấn đề ở Đông Nam Châu Á hiện nay. Lịch sử cho thấy, phải bằng một cuộc đấu tranh lâu dài tới 31 năm sau đó (20/9/1977) Việt Nam mới chính thức gia nhập Liên hợp quốc với tư thế của một quốc gia độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Cùng ngày, tham dự cuộc họp Giám đốc và Chủ tịch các ủy ban công sở ở Hà Nội, Bác có “Lời khuyên anh em viên chức” (về sau đăng thành một bài báo) trong đó nhấn mạnh đến bốn đức tính là: “Cần, kiệm, liêm, chính. Cần, anh em viên chức phải tận tâm làm việc, một người làm bằng hai, ba người. Và phải tôn trọng kỷ luật. Anh em phải theo nguyên tắc là có việc mới cần đến người, chứ không phải là có sẵn người nên phải tìm việc cho làm. Kiệm, phải biết tiết kiệm đồng tiền kiếm được, cũng như các vật liệu và đồ dùng trong các sở. Giảm bớt hết những gì không cần thiết, chớ hao phí giấy tờ và các thứ của công. Hao phí những thứ đó tức là hao phí mồ hôi nước mắt của dân nghèo. Chớ tưởng tiết kiệm những cái cỏn con như mẩu giấy, ngòi bút là không có ảnh hưởng. Một người như thế, trăm người như thế, vạn người như thế, công quỹ đó bớt được một số tiền đáng kể, lấy ở mồ hôi nước mắt dân nghèo mà ra. Có cần, có kiệm, không tiêu đến nhiều tiền, anh em viên chức mới có thể trở nên liêm, chính để cho người ngoài kính nể được”55.
Ngày 18/01
“Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân!”
Ngày 18/01/1923, hồ sơ mật thám của Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc tham dự kỳ họp hàng tháng của Hội Liên hiệp Thuộc địa. Đây là tổ chức được thành lập từ năm 1921 tập hợp đông đảo thành viên là người dân các thuộc địa đang sống ở nước Pháp. Tại kỳ họp này cùng với Nguyễn Ái Quốc là người tham gia sáng lập còn có Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Ái, Trần Tiến Nam, và một người tên là Toàn Hải (có tài liệu cho đó là con trai của nhà báo cấp tiến Nguyễn Văn Vĩnh?) cùng nhiều bạn đồng chí các nước khác.
23 năm sau, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh đang chèo chống con thuyền cách mạng và bảo vệ nền độc lập của nước Việt Nam trước mối đe dọa của chủ nghĩa thực dân. Ngày 18/01/1946, nhân dịp Liên Hợp quốc họp ở Luân Đôn, thủ đô nước Anh, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Tổng thống Mỹ H.Truman lên án hành động chiến tranh của thực dân Pháp đồng thời yêu cầu người đứng đầu Nhà nước Mỹ hãy “can thiệp ngay lập tức và có giải pháp để nhân dân Việt Nam thoát ra khỏi cuộc chiến tranh đó”. Người nêu rõ: “Sự giúp đỡ to lớn của Cộng hòa Mỹ, của Trung Quốc và Liên Hợp quốc về tài chính và kỹ thuật, Cộng hòa Việt Nam chúng tôi sẽ có đủ khả năng góp phần xây dựng nền hòa bình và thịnh vượng chung trên thế giới”56.
Miền Bắc giờ đây đã bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu xây dựng con người mới, lối sống mới trở thành mối quan tâm của Bác Hồ. Thời gian này trên nhiều tờ báo, Bác thường viết những bài báo nhỏ đề cập những vấn đề đời thường và thời sự.
10 ngày trước Tết Canh Tý, ngày 18/01/1960, Bác Hồ đó viết bài “Mừng Tết Nguyên đán như thế nào?” đăng trên Báo Nhân Dân nêu những điều đáng khen, đáng chê trong việc ăn Tết, nhắc nhở cán bộ phải làm gương, hướng dẫn nhân dân ăn Tết vui vẻ, tiết kiệm và kết luận bằng câu thơ:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Cần kiệm xây dựng nước nhà mới ngoan.
Mừng Xuân, Xuân cả thế gian,
Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân”57.
Cũng trong ngày bài báo được đăng, Bác đi thăm tỉnh Kiến An (nay là huyện thuộc thành phố Hải Phòng) gặp gỡ cán bộ và nhân dân tỉnh, Bác nhắc nhở đảng viên phải “thường thường ôn lại, tự liên hệ và giữ đúng những tiêu chuẩn của người đảng viên”58. Cùng ngày Bác thăm và nói chuyện với học sinh Trường miền Nam số 12, Hải Phòng.
Một năm sau, ngày 18/01/1961, cũng trên tờ báo của Đảng, Bác Hồ đó viết bài “Một lòng một dạ phục vụ nhân dân” để phê phán một số hiện tượng tiêu cực, cửa quyền của những cán bộ ngành Thương nghiệp quốc doanh. Bài báo có đoạn: “Đảng và Chính phủ dạy chúng ta phải kính trọng nhân dân, phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Không thể tha thứ những thái độ khinh miệt nhân dân, những việc làm dối trá với nhân dân...”59.
Ngày 19/01
“Khi đặt kế hoạch thì phải nhìn xa, trông rộng”.
Tối ngày 19/01/1920, Nguyễn Ái Quốc đi cùng một đồng bào người Việt xem tại Nhà hát “Nouveau Lirique” ở Pari. Trong khi theo dõi sự kiện này viên mật thám đó phát hiện ý định của Nguyễn Ái Quốc đang viết một cuốn sách dự kiến mang tên là “Les Opprimés” (Những kẻ bị áp bức). Nguyễn Ái Quốc tỏ ra quyết tâm thực hiện bằng được. Khi được hỏi lấy tiền đâu để in, Nguyễn Ái Quốc đã trả lời: Khi nào tôi hoàn thành xong quyển sách ấy, tôi sẽ đem bản thảo đến một đảng viên xã hội hay bất cứ ai khác. Sau khi biết tiền để in, tôi sẽ bán thân tôi cho họ như một người đầy tớ. Chả nhẽ tôi không biết đánh giày hay dọn nhà hay sao? và thổ lộ mối quan tâm lớn nhất là: Làm sao để đưa cuốn sách về trong nước60.
8 năm sau đó, ngày 19/01/1933 từ con tàu “Ho Sang” mới cập bến, Nguyễn Ái Quốc một lần nữa lại bị cảnh sát Hồng Kông bắt lại. Thêm một lần nữa, Bác lại thoát hiểm sau khi viết một bức thư gửi luật sư Lôdơbi và nhờ sự can thiệp của vị luật sư này, Nguyễn Ái Quốc lập tức được thả ngay trong ngày bị bắt.
Ngày 19/01/1946, tại Bắc bộ phủ, Bác tiếp các phóng viên khẳng định rằng quyết tâm bảo vệ nền độc lập là một quyền chính đáng “cũng như dân Pháp mong muốn độc lập khi bị Đức chiếm đóng”61 và tỏ rõ quan điểm “nước Pháp không thể nào trở lại thống trị nước Việt Nam một lần nữa, vì nước Pháp ngày nay không như xưa, cũng như nước Việt Nam bây giờ không phải là nước Việt Nam ngày trước”62.
Ngày 19/01/1955, Bác Hồ đến dự lễ khai giảng khóa I của Trường Đại học Nhân dân. Tại buổi lễ, Bác nói: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đó cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn?”63.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, vào dịp Tết Kỷ Hợi (1959), Bác Hồ phát động Tết trồng cây, ngày 19/01/1960, Báo Nhân Dân đăng bài “Tết trồng cây đã thắng lợi bước đầu”. Bài báo nêu gương một số địa phương và nhắc nhở phải “xem trọng chất lượng, nghĩa là trồng cây nào chắc cây ấy, không nên tham trồng quá nhiều mà không ra sức bảo vệ và trông nom cây” và “thực hiện Tết trồng cây cùng với kế hoạch trồng cây gây rừng của Nhà nước một cách liên tục, bền bỉ và vững chắc”64.
Ngày 19/01/1965, bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ hai giữa lúc đế quốc Mỹ phát động cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc, Bác Hồ nói chuyện với Hội nghị phổ biến kế hoạch nhà nước năm 1965, đề cập một số tư tưởng trong chỉ đạo thực hiện kế hoạch: “Đặt ra kế hoạch thật tốt, thật sát là rất cần, nhưng đó chỉ là bước đầu. Kế hoạch 10 phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo thực hiện sát sao phải 30 phần. Có như thế mới chắc chắn hoàn thành tốt kế hoạch. Khi đặt kế hoạch phải nhìn xa. Có nhìn xa mới quyết định đúng đắn thời kỳ nào phải làm công việc gì là chính. Phải thấy rộng. Có thấy rộng mới sắp đặt các ngành hoạt động một cách cân đối. Khi đi vào thực hiện thì mỗi ngành, mỗi nghề phải rất tỉ mỉ, chu đáo, thật sát với mỗi cơ sở. Đó là “một bộ ba” để hoàn thành tốt kế hoạch”65.
Chú thích:
49. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 3, tr. 84-85.
50 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 25.
51. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2009, t. 7, tr. 405.
52. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2008, t. 8, tr. 8.
53. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 12, tr. 15.
54. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 2, tr. 446.
55 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 4, tr. 158.
56 . Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 3, tr. 135.
57. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 10, tr. 39.
58. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2009, t. 7, tr. 406.
59. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2008, t. 8, tr. 10.
60. Thu Trang, Nguyễn Ái Quốc tại Pari (1917-1923), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 137.
61, 62. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 3, tr. 136.
63. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 7, tr. 455.
64. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2009, t. 7, tr. 408.
65 . Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 11, tr. 366, 367.
Ngày 20/01
“Tuổi trẻ là mùa Xuân của xã hội”.
Vào dịp Xuân đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ gửi thư tới thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết sắp đến. Bức thư khởi đầu bằng những lời lẽ hết sức sâu sắc nhằm động viên giới trẻ bước vào cuộc vận động “Đời sống mới” mà người đứng đầu Nhà nước phát động và đặt nhiều kỳ vọng:
“Một năm khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa Xuân của xã hội. Vậy qua năm mới, các cháu phải xung phong thực hành “đời sống mới”. Đời sống mới là: - Hăng hái, kiên quyết, không sợ khó, không sợ khổ - Phải siêng học, phải siêng làm, phải tiết kiệm - Việc nên làm (như ủng hộ kháng chiến, tăng gia sản xuất) thì ta không chờ ai nhắc nhủ - Việc nên tránh (như tự tư tự lợi) thì ta không đợi ai ngăn ngừa.
Năm mới, chúng ta thực hành đời sống mới để trở nên những công dân mới, xứng đáng với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”66.
Một năm sau đó, Toàn quốc kháng chiến đó bùng nổ được gần một tháng, ngày 20/01/1947, Bác còn không quên viết thư cho người chuyển vào thành phố nơi chiến sự đương diễn ra ác liệt để khuyên sư cụ chùa Ngũ Xá nên tản cư. Chiều hôm đó, con đường đến Hà Đông lầy lội đến mức các đại biểu, kể cả vị Chủ tịch Nước không đến nổi địa điểm cuộc họp đầu tiên của Chính phủ dự kiến triệu tập vào buổi chiều hôm đó chỉ cách Hà Nội hơn một chục cây số.
Một năm tiếp sau, Bác và đầu não của cuộc kháng chiến đã xây dựng căn cứ vững chắc trên chiến khu Việt Bắc, ngày 20/01/1948, Bác ký nhiều sắc lệnh quan trọng trong đó có việc phong quân hàm Đại tướng cho Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân tự vệ Võ Nguyên Giáp (số 109), phong quân hàm cấp Thiếu tướng cho một loạt các nhà lãnh đạo quân sự sau này trở thành những tướng lĩnh nổi tiếng như Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm, Chu Văn Tấn, Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng, Lê Hiến Mai, v.v.. Đây là một sự kiện lịch sử đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ sau một năm đã vượt qua những thử thách vô cùng khắc nghiệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc vừa giành được và quyết tâm thực hiện mục tiêu thống nhất nước nhà.
Ngày 20/01/1962, tại Hà Nội, Bác dự họp Bộ Chính trị bàn vấn đề chống tham ô lãng phí. Tại đây, Bác phát biểu: “Quan liêu, lãng phí tham ô làm hại cho dân. Phải hiểu vì dân mà chống tham ô lãng phí. Tham ô lãng phí là một tội đối với nhân dân. Ai cũng phải chống... Phong trào phải làm từ trên xuống, dưới lên, dân chủ và phải trường kỳ... Trung ương có hội, có nghị, có quyết mà không hành là do mình không cương quyết... Không gấp nhưng phải làm cho kỳ được”67.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh phong danh hiệu Anh hùng Lao động cho Thiếu tá Gherman Titov, phi công vũ trụ Liên Xô đã thực hiện chuyến bay quanh Trái đất trong nhiều ngày trên con tàu vũ trụ “Phương Đông II”.
Ngày 21/01
“Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý...”.
Ngày 21/01/1926, nhân hai năm ngày V.I.Lê-nin mất, Nguyễn Ái Quốc, lúc này đang hoạt động ở Trung Quốc đã viết bài báo “Lê-nin và phương Đông” đăng trên tờ “Tiếng Còi”(Liên Xô) trong đó khẳng định: “Lê-nin là người đầu tiên đã đặt cơ sở cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa… Đối với tất cả các dân tộc bị áp bức và bị nô dịch, Lênin đã thể hiện một bước ngoặt trong lịch sử cuộc đời đau khổ và bị mất quyền của họ, là tượng trưng cho một tương lai mới, xán lạn”68.
Hai thập kỷ sau, ngày 21/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của các nhà báo nước ngoài và công bố rộng rãi như một tuyên ngôn cá nhân vào thời điểm cuộc Tổng tuyển cử đã thành công: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận... Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với danh lợi... Nay tôi chỉ có một tin tưởng vào dân tộc độc lập. Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của Đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài"69.
Ngày 21/01/1947, ứng với ngày 30 Tết Đinh Hợi, cái Tết kháng chiến đầu tiên nhưng Bác vẫn chủ trì Chính phủ họp tại Phủ Quốc Oai bàn về vấn đề tản cư dân, động viên dân chúng và tăng gia sản xuất.
19 năm sau, ngày 21/01/1966, cũng lại là ngày mồng Một Tết Bính Ngọ, cả nước đón thơ chúc mừng năm mới của Bác Hồ. Vẫn là những vần thơ mang tính thời sự nóng bỏng:
“Mừng miền Nam rực rỡ chiến công,
Nhiều Dầu Tiếng, Bàu Bàng, Plây Me, Đà Nẵng...
Mừng miền Bắc chiến đấu anh hùng,
Giặc Mỹ leo thang ngày càng thua nặng.
Đồng bào cả nước đoàn kết một lòng,
Tiền tuyến hậu phương, toàn dân cố gắng.
Thi đua sản xuất chiến đấu xung phong,
Chống Mỹ, cứu nước, ta nhất định thắng”70.
Ngày 21/01/1966, Bác Hồ về thăm Trại Kim Đồng (Hà Tây) nhân Tết Bính Ngọ.
Ngày 22/01
“Công nông ở tất cả các nước đoàn kết lại!”
Ngày 22/01/1924, Nguyễn Ái Quốc đang học và làm việc tại Liên Xô thì nhận được tin V.I.Lê-nin đó từ trần vào đêm hôm trước (21/01/1924). Nguyễn Ái Quốc đã tới trụ sở Quốc tế Nông dân ở Mátxcơva để dự phiên họp bất thường. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc được phân công cùng một số đồng chí khác viết “Lời kêu gọi của Quốc tế Nông dân”. Văn kiện kêu gọi: “Nghĩa vụ thiêng liêng của chúng ta là thực hiện những lời khuyên quan trọng nhất của Lê-nin. Điểm quan trọng nhất trong di huấn chính trị của Người là thực hiện liên minh công nông, củng cố khối đoàn kết nông dân ở nông thôn và công nhân ở thành thị... Hãy cất lên thật to, thật mạnh giữa quần chúng nông dân lời kêu gọi: Nông dân và công nhân ở tất cả các nước hãy đoàn kết lại!”.
9 năm sau, ngày 22/01/1933, lúc 5 giờ chiều, Tống Văn Sơ (bí danh của Nguyễn Ái Quốc) trong bộ cánh cải trang một thương nhân giàu có bí mật cùng thư ký riêng của Luật sư Lôdơbi rời bến bằng một chiếc thuyền riêng do Thống đốc Hồng Kông bố trí để lên con tàu “An Huy” đỗ sẵn ở ngoài khơi lên đường đi Hạ Môn, từ đó đến Thượng Hải và sang Nga, kết thúc “Vụ án Hồng Kông” phá âm mưu trục xuất Nguyễn Ái Quốc để giao cho mật thám Pháp ở Đông Dương thực hiện bản án tử hình vắng mặt của Tòa án Nam triều đã tuyên từ năm 1929. Theo dõi rất sát vụ án này, nhưng phải đến hơn hai tháng sau (25/3) Pháp mới biết Nguyễn Ái Quốc đã thoát khỏi Hồng Kông và phát lệnh truy nã!
Tết Đinh Hợi nhằm đúng ngày 22/01/1947, Tết cả nước kháng chiến. Mặt trận Hà Nội vẫn đang rền tiếng súng xen lẫn pháo đón giao thừa của các chiến sĩ quyết tử. Bài thơ “Chúc Tết” của vị Chủ tịch Nước Việt Nam độc lập thực sự là một hiệu kèn xung trận:
“Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió,
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông.
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
Chí ta đã quyết lòng ta đã đồng.
Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào!
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông.
Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi!
Thống nhất độc lập, nhất định thành công!”71
Nhật ký của thư ký Vũ Kỳ cho biết, ngày hôm ấy Bác dậy sớm như thường lệ đi thăm và chúc Tết các nhà hàng xóm... Bác viết lên tấm giấy điều hàng chữ Hán “Cung hỷ tân Xuân” mừng gia đình chủ nhà rồi cùng các đồng chí thân thiết ngồi bàn việc nước bên bếp lửa hồng cho đến 1 giờ sáng hôm sau, ngày Tết, vị Chủ tịch “khai bút” bằng Sắc lệnh cử cụ Bùi Bằng Đoàn làm Chủ tịch Ủy ban Tản cư và di cư để lo an toàn cho dân ở các vùng chiến sự.
Ngày 22/01/1952, được tin Thứ trưởng Bộ Giao thông công chính, kỹ sư Đặng Phúc Thông qua đời, Bác gửi điện chia buồn: “Tôi rất thương tiếc, vì chú Thông là một cán bộ cao cấp xuất sắc của Chính phủ, một chiến sỹ trung thành của dân tộc và một người bạn tốt của tôi”72.
Ngày 23/01
“Tất cả các thanh niên Việt Nam là con cháu tôi”.
Ngày 23/01/1924 vẫn là những ngày lễ tang V.I.Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc cùng các bạn học của Trường Đại học Phương Đông có mặt trong đám đông đứng đón linh cữu của Lê-nin từ Gorơki theo đường sắt đến ga Pavilexki ở Thủ đô Mat-xcơ-va để chuyển tới đặt tại Hội trường Nhà Công đoàn ngay tại Hồng trường để dân chúng đến viếng. Xếp trong hàng người dài dằng dặc dưới giá lạnh âm 30 độ của mùa Đông nước Nga, cuối cùng nhà cách mạng trẻ tuổi đến từ đất nước Việt Nam xa xôi với lòng mong muốn đến quê hương của cuộc Cách mạng Tháng Mười để được gặp V.I.Lê-nin đó chỉ có cơ hội được đứng trước linh cữu của người thầy vĩ đại ấy.
Trở về nơi cư trú là khách sạn Lux chân tay đã tê cúng, trời đã khuya, tại căn buồng số 176, Nguyễn Ái Quốc ngồi viết bài báo: “Lê-nin và các dân tộc thuộc địa” với câu kết thúc: “Lê-nin sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.
Ngày 23/01/1947, Bác Hồ đã gửi thư và giao cho người mang vào Phát Diệm trao tận tay Giám mục Lê Hữu Từ chân thành đề nghị tiếp tục ủng hộ Chính phủ kháng chiến cũng như đã từng giúp trong các thương thảo ngoại giao và: “Nhờ cụ cầu Đức Chúa ban phúc cho Tổ quốc...”73 . Sau đó, Bác còn viết nhiều lá thư để kiên trì giải thích: “Trong Hiến pháp ta đã định rõ: Tín ngưỡng tự do. Nếu ai làm sai Hiến pháp, khiêu khích Công giáo thì sẽ bị phạt... Việt Nam độc lập đồng minh là cốt đoàn kết tất cả đồng bào để làm cho Tổ quốc độc lập, chứ không phải để chia rẽ, phản đối tôn giáo... hơn ai hết, đồng bào Công giáo càng mong cho Tổ quốc độc lập, cho tôn giáo được hoàn toàn tự do; và tôi chắc ai cũng tuân theo khẩu hiệu: Phụng sự Thượng đế và Tổ quốc...”74.
Đây cũng là lúc thực dân Pháp đang tìm mọi thủ đoạn chia rẽ lương - giáo và lôi kéo nhân vật này để rồi sau đó không lâu, Giám mục Lê Hữu Từ đó từ bỏ hàng ngũ kháng chiến theo giặc Pháp chống phá quyết liệt cách mạng. Tuy vậy, trước sau Bác vẫn giữ vào lòng tin đối với các chức sắc và bà con giáo dân. Cũng trong những ngày cuối tháng Giêng năm đó, Bác nhận được tin con trai duy nhất của Bác sĩ Vũ Đình Tụng, một trí thức theo đạo Thiên Chúa, lúc đó đang đảm trách là Hội trưởng Hội Hồng Thập tự Việt Nam, vừa hy sinh ngoài mặt trận. Bác đã viết lá thư chia buồn với những lời lẽ thống thiết và sâu sắc:
“Thưa ngài,
Tôi được báo cáo rằng: Con trai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc.
Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột...
Ngài đã đem món của quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ quốc. Từ đây chắc ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng...”75.
Chú thích
66. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 4, tr. 167.
67. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2008 , t. 8, tr. 181.
68. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 2, tr. 219, 220.
69. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 4, tr. 161-162.
70. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 12, tr. 1.
71. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 4, tr. 25.
72. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 6, tr. 384.
73. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 4, tr. 27.
74,75. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 44, 40.
Ngày 24/01
Bác Hồ “vi hành” thăm chợ Tết.
Ngày 24/01/1931, giữa lúc cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh đang dâng cao ở Việt Nam, thì ở nước Nga, Nguyễn Ái Quốc viết văn kiện “Phong trào cách mạng ở Đông Dương”. Bài viết biểu dương cao trào đấu tranh của công, nông, lên án tội ác thực dân, phong kiến và kêu gọi: “Nhiệm vụ cấp thiết của giai cấp vô sản thế giới - đặc biệt là giai cấp vô sản Pháp - là chìa bàn tay hữu nghị anh em và giúp đỡ tới Đông Dương, để chứng tỏ tình đoàn kết thực sự và tích cực của họ, Đông Dương bị áp bức và cách mạng cần điều ấy!”76.
16 năm sau, ngày 24/01/1947, tức là 30 Tết Âm lịch, Bác viết riêng một bức “Thư chúc Tết đồng bào và chiến sỹ Nam bộ”. Để đả phá luận điệu tuyên truyền của thực dân rằng nếu thống nhất thì những người theo Pháp sẽ bị khủng bố; người Nam sẽ bị người Bắc cai trị; Chính phủ chỉ toàn Việt Minh, bức thư nêu rõ: “... Một dân tộc đã tự cường, tự lập, dân chủ cộng hòa thì không làm những việc nhỏ nhen, báo thù báo oán... Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ làng xã đến toàn quốc những người chức trách đều do dân cử ra. Dân tin cậy ai thì người ấy trúng cử và bổn phận những người trúng cử là làm đầy tớ công cộng cho dân chứ không phải làm quan phát tài... Trong Chính phủ có đủ những người các đảng phái, như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, Đảng Quốc dân, Đồng minh hội, lại có những người không thuộc đảng phái nào. 5 vị Bộ trưởng và Thứ trưởng là những người quê quán ở Nam bộ... Sự thật là rất giản đơn như thế, mong đồng bào hiểu rõ, chớ mắc lừa bọn thực dân”77.
Ngày 24/01/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Nha Bình dân học vụ, thông báo việc Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến cho phong trào xóa nạn mù chữ. Trong thư, Bác biểu dương: “Từ ngày nhân dân ta nắm chính quyền đến nay, 13 triệu nam, nữ đồng bào đã được học, đã biết chữ. Đó là một thắng lợi vẻ vang, to lớn.
Nhưng chúng ta phải cố gắng nữa, phải làm thế nào cho trong một thời gian gần đây, tất cả đồng bào Việt Nam từ 8 tuổi trở lên đều biết đọc biết viết. Ngày ấy mới là hoàn toàn thắng lợi trên mặt trận diệt giặc dốt”78 .
Ngày 24/01/1963, là ngày 29 Tết Quý Mão, buổi sáng vị nguyên thủ quốc gia đã “vi hành” thăm chợ Đồng Xuân. Trong bộ quần áo gụ đã bạc màu, ngoài khoác áo mưa vải bạt, cổ quàng khăn len, mắt đeo kính trắng và chân đi dép cao su, Bác cùng 2 cảnh vệ đi thăm cảnh đồng bào sắm Tết. Tối hôm ấy, Bác lại đi thăm và chúc Tết một số nơi trong đó có gia đình Bác sĩ Hồ Đắc Di.
Ngày 24/01/1966, Bộ Chính trị bàn về công tác đấu tranh ngoại giao và các phương án chọn nơi tiến hành đàm phán Việt - Mỹ. Tại cuộc họp này, Bác tiên liệu: “Mỹ có thể sẽ lại ném bom miền Bắc, thậm chí cả Hà Nội, Hải Phòng. Vì vậy không được chủ quan”79. Dự báo sớm ấy đó giúp quân dân ta chủ động phòng chống giặc thắng lợi.
Ngày 25/01
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”.
Ngày 25/01/1924, báo “Đời sống thợ thuyền” (La Vie Ouvrière) đăng bài báo của Nguyễn Ái Quốc có nhan đề là “Phong trào công nhân Viễn Đông”. Bài báo nhắc đến phong trào công nhân Nhật Bản tại thành phố Ôsaka một trung tâm công nghiệp lớn ở Nhật Bản mà ở đó sức mạnh đoàn kết giai cấp đã buộc giới chủ phải hoảng sợ. Đó là những nét mới trong phong trào công nhân ở Viễn Đông, xứ sở gần gũi với Đông Dương.
9 năm sau đó, ngày 25/01/1933 là ngày 30 Tết Quý Dậu, Nguyễn Ái Quốc trên đường từ Hồng Kông cập bến Hạ Môn và lưu lại qua Tết tại đây để tìm cách liên lạc với tổ chức và tránh bị màng lưới mật thám theo dõi.
Cả hai ngày 25/01 ứng vào ngày Tết Nguyên đán, đó là vào năm Giáp Thân (1944) và Quý Mão (1963). Ngày 25/01/1944 là ngày đầu năm Giáp Thân, trong khi đang tiến hành vận động quốc tế, từ Liễu Châu (Trung Quốc) Bác gửi lời chúc qua tờ “Đồng Minh” với nhan đề “Chào Xuân”:
“… Rót cốc rượu Xuân, mừng cách mạng.
Viết bài chào Tết, chúc thành công!”80.
20 năm sau, ngày mồng Một Tết Quý Mão (25/01/1963), trong “Lời chúc mừng năm mới”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Càng thương đồng bào miền Nam, chúng ta càng phải lao động cần cù, phấn đấu hăng hái hơn nữa cho Bắc Nam mau được sum họp một nhà”81 và nhắc lại cái chân lý mà cách đó 17 năm (1946) Bác đó từng nêu lên:
”Nước Việt Nam ta là một,
Dân tộc Việt Nam ta là một.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Nhân dân Nam, Bắc là con một nhà”82.
Ngày 25/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thông tư cho Ủy ban Trung bộ chỉ đạo việc đối xử đối với một số quan lại trong chế độ cũ đã tham gia các vụ đàn áp phong trào cách mạng. Thông tư yêu cầu “các Ủy ban địa phương cần phải tỏ rõ thái độ rộng lượng với các cựu công chức và quan lại ấy. Nếu không thấy nhân dân oán hờn thì cứ để họ sống yên ổn” vì “Chính phủ muốn để cho họ cơ hội được giác ngộ khiến họ tự ý tham gia vào phong trào kháng chiến kiến quốc một cách thành thực và mong chuộc lại những lỗi lầm”83.
Ngày 25/01/1948, Bác gửi tới cụ Ưng Úy, một cựu quan lại cao cấp và là người của Hoàng tộc nhà Nguyễn cũ, thân sinh ra nhà bác học Bửu Hội đang sống tại Huế một bức thư “… Xin mời cụ tham gia kháng chiến để chúng ta tiếp tục sự nghiệp bỏ dở của các vị tiền bối Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân là đánh đuổi thực dân Pháp để giành độc lập cho dân tộc, cho Tổ quốc”84. Đáp lại, cụ Ưng Úy đã lên chiến khu và ra lời tuyên bố: Tôi vốn là cựu quan chức Nam triều và là người trong Hoàng gia. Nay thực dân Pháp thực hiện mưu mô lấy người Việt trị người Việt, tôi phẫn uất quá nên tôi phải dời nhà lên chiến khu, nguyện theo Chính phủ để giúp một phần hiểu biết vào công cuộc kháng chiến cho đỡ nỗi phẫn uất trong lúc tuổi già...
Ngày 26/01
“Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh”.
Ngày 26/01/1924, Nguyễn Ái Quốc tham dự phiên họp đặc biệt của Đại hội Xô viết Toàn Nga lần thứ 11 làm Lễ truy điệu V.I.Lê-nin tại Nhà Hát lớn Mátxcơva. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc được nghe những nhà lãnh đạo cao nhất của Liên Xô như Kalinin và Xtalin đọc lời điếu và lời tuyên thệ vĩnh biệt V.I.Lê-nin.
Liên quan đến vụ án “Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông”, sau 9 phiên xử, Tòa án của thành phố nhượng địa này vẫn chưa đủ căn cứ kết án Tống Văn Sơ (tức Nguyễn Ái Quốc), phải chấp nhận đương sự được kháng án sang tận nước Anh. Ngày 26/01/1931, Hội đồng Cơ mật của Hoàng gia Anh đó nhận được đơn kháng án của “nhà yêu nước người An Nam” mở đầu cho hơn một năm đấu tranh pháp lý để cuối cùng Nguyễn Ái Quốc thoát hiểm với sự giúp đỡ của những luật sư tiến bộ của nước Anh.
Ngày 26/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký một văn kiện quan trọng. Đó là Quốc lệnh quy định những trường hợp thưởng và phạt. Quan điểm cơ bản của văn kiện này được nêu rõ: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”85. Quốc lệnh quy định 10 trường hợp thưởng (như nhà có 3 người tòng quân, vì nước hy sinh, làm việc công một cách trong sạch ngay thẳng, bỏ tiền xây công trình công cộng, v.v.) và 10 trường hợp phạt đến mức xử tử (tư thông với giặc, phản quốc, trái quân lệnh, phá hoại giao thông, huỷ hoại quân khí, để bộ đội hại dân, v.v.).
Ngày 26/01/1949, cũng là ngày 28 Tết Canh Dần, kết thúc kỳ họp của Chính phủ, Bác tham dự đêm lửa trại trước khi chia tay. Nhật ký của Bộ trưởng Lê Văn Hiến thuật lại: “Đêm nay, một bữa tiệc nhỏ long trọng để đưa các đại biểu Nam bộ, đồng thời là bữa “ăn Tết” của Chính phủ. Bữa tiệc vừa vui vừa cảm động. Sau bữa tiệc có buổi lửa trại. Nhiều trò vui đã được diễn và Hồ Chủ tịch đã có lúc phải cười nhiều nhưng vừa cười vừa chảy nước mắt. Anh em diễn ngày kháng chiến thắng lợi Hồ Chủ tịch vào thăm “Thành phố Hồ Chí Minh”(Sài Gòn) và trước máy truyền thanh chào mừng đồng bào Nam bộ”86.
Ngày 26/01/1956, trên Báo Nhân Dân, Bác viết bài báo có nhan đề “Các cụ già nhiều tuổi nhất của nước ta”. Bài báo đưa ra một danh sách 12 cụ tuổi từ 81 tuổi cho đến cao nhất là 123 tuổi, trong đó có 10 cụ là phụ nữ và nêu lên một vài tấm gương tuổi già nhưng vẫn sống khoẻ, sống có ích. Bài báo kết bằng lời đề nghị các cụ ngoài 80 tuổi hãy viết thư cho báo để Nhà nước nắm được.
Ngày 26/01/1965, Bác Hồ đến phát biểu tại Hội nghị bồi dưỡng chỉnh huấn do Trung ương triệu tập, nhấn mạnh: “Muốn giữ gìn sự trong sáng chủ nghĩa Mác - Lê-nin thì trước hết tự mình phải trong sáng. Muốn đánh thắng kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân”87.
Ngày 27/01
“Các em quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh!”
Ngày 27/01/1924, Nguyễn Ái Quốc có mặt tại Hồng trường Mátxcơva dự Lễ tang V.I.Lê-nin. Cùng ngày hôm đó trên tờ báo Sự Thật, cơ quan của Đảng Cộng sản Liên Xô, đăng bài viết “Lê-nin và các dân tộc thuộc địa” của Nguyễn Ái Quốc. Bằng lời lẽ chân thành và thống thiết, Bác viết: “Người lãnh tụ vĩ đại này sau khi giải phóng nhân dân mình, còn muốn giải phóng các dân tộc khác nữa. Người đã kêu gọi các dân tộc da trắng giúp đỡ các dân tộc da vàng và da đen thoát khỏi ách áp bức của bọn rumi, của tất cả bọn rumi: Toàn quyền, công sứ v.v... Và để thực hiện mục đích ấy, Người đã vạch ra một cương lĩnh cụ thể...
... Khi còn sống, Người là người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội.
Lê-nin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”88.
Ngày 27/01/1931, trong khi đang ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo cho Quốc tế Cộng sản về việc đón nhận 11 đồng chí bị Chính phủ Xiêm (Thái Lan) trục xuất về Sơn Đầu, để chăm sóc và tiếp tục huấn luyện cho họ.
10 năm sau đó, ngày 27/01/1941 là ngày 29 Tết, tại một khu rừng bên rìa làng Nậm Quang, bên kia biên giới (thuộc Tĩnh Tây), lớp huấn luyện đầu tiên cho 43 học viên đã diễn ra. Trong lễ bế giảng, Bác Hồ với bí danh là Hồ Quang cùng các trợ giảng của mình như Phùng Chí Kiên, Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), v.v... đã phân công các lực lượng triển khai ở trong và ngoài nước để chuẩn bị cho cơ hội đang đến gần.
Ngày 27/01/1947, Bác viết thư động viên những chiến sỹ quyết tử đang anh dũng chiến đấu trong lòng Thủ đô Hà Nội giữa những ngày Tết cổ truyền: “Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau”89. Bức thư còn báo tin: Bản thân Bác và nhân viên Chính phủ vì nhớ đến các em cho nên cũng không ai nỡ ăn Tết. Còn 90 phần trăm đồng bào ở hậu phương cũng giảm bớt 90 phần trăm mâm cỗ tiệc tùng, ai cũng tiết kiệm để dự bị công cuộc trường kỳ kháng chiến... Các em hăng hái tiến lên, lòng Già Hồ, lòng Chính phủ và lòng toàn thể đồng bào luôn luôn ở bên cạnh các em.
Ngày 27/01/1952 là ngày mồng Một Tết Nhâm Thân, Báo Nhân Dân đăng bài thơ Bác chúc Tết:
“Xuân này, Xuân năm Thân
Kháng chiến vừa 6 năm
Trường kỳ và gian khổ
Chắc thắng trăm phần trăm.
Chiến sỹ thi giết giặc
Đồng bào thi tăng gia
Năm mới thi đua mới
Thắng lợi ắt về ta.
Mấy câu thành thật nôm na
Vừa là kêu gọi, vừa là mừng Xuân”90.
Chú thích:
76. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 3, tr. 60.
77. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 30-31.
78. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 6, tr. 147-148.
79. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2008, t. 9, tr. 362.
80. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 3, tr. 449.
81, 82. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 11, tr. 10.
83. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 3, tr. 141.
84. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 4, tr. 153.
85. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 4, tr. 163.
86. Lê Văn Hiến, Nhật ký của một bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 2004, tr. 16.
87. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 11, tr. 373.
88. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 1, tr. 236-237.
89. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 35.
90. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 6, tr. 390.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - ngày này năm xưa: Tháng 01, phần 8
Ngày 28/01
“Mong đồng bào ra sức giúp tôi sửa chữa những khuyết điểm”.
Ngày 28/01/1941, trên đường về nước, Bác dừng lại bên cột mốc biên giới Việt - Trung số 108 tại xóm Trường Hà (Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng). Như thế là đúng 30 năm kể từ mùa Hè năm 1911 xuống Bến cảng Nhà Rồng ở phương Nam để rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, nay, Bác lại trở về từ một địa đầu phương Bắc, khởi động cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc bước vào một thời kỳ quyết định.
Chỉ 5 năm sau, ông Ké trên chiến khu năm nào nay đã trở thành vị nguyên thủ quốc gia. Ngày 28/01/1946, trên Báo Cứu Quốc đăng bài báo ký tên “Hồ Chí Minh” có tựa đề là “Tự phê bình” kiểm điểm lại tình hình đất nước sau bốn tháng phấn đấu không biết mệt mỏi của nhân dân và Chính phủ. Tuy đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng trong văn kiện này, người đứng đầu Chính phủ tự nhận: “Trước hoàn cảnh khó khăn đó, đồng bào đã cố gắng, người giúp sức, kẻ giúp tiền. Còn tôi thì lo lắng đêm ngày để làm tròn nhiệm vụ của mình, sao cho khỏi phụ lòng đồng bào toàn quốc. Chỉ vì tôi tài hèn, đức mọn, cho nên chưa làm đầy đủ những sự mong muốn của đồng bào... Chính phủ do tôi đứng đầu, chưa làm việc gì đáng kể cho nhân dân ”…
“Có thể nói rằng: Những khuyết điểm đó là vì thời gian còn ngắn ngủi, vì nước ta còn mới, hoặc vì lẽ này, lẽ khác. Nhưng không, tôi phải nói thật: Những sự thành công là nhờ đồng bào cố gắng. Những khuyết điểm kể trên là lỗi tại tôi. Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không biết kiên quyết sửa nó đi. Từ nay, tôi mong đồng bào ra sức giúp tôi sửa chữa những khuyết điểm đó bằng nhiều cách, trước hết là bằng cách thi hành cho đúng và triệt để những mệnh lệnh của Chính phủ.
Vận mệnh nước ta ở trong tay ta. Chúng ta đồng tâm nhất trí, trên dưới một lòng, thì chúng ta nhất định thắng lợi”91.
Ngày 28/01/1958, Bác đến thăm và nói chuyện tại Trường Công an Trung ương: "Chủ nghĩa cá nhân như vi trùng đẻ ra nhiều bệnh khác: Sợ khó, sợ khổ; tự do chủ nghĩa; vui thì làm, không vui thì không làm, thích thì làm, không thích không làm... Muốn phục vụ nhân dân tốt phải đi đường lối quần chúng. Được nhân dân tin, yêu, phục thì việc gì cũng làm được..."92 và tặng mấy câu văn vần:
”Đoàn kết, cảnh giác,
Liêm, chính, kiệm, cần.
Hoàn thành nhiệm vụ,
Khắc phục khó khăn,
Dũng cảm trước địch,
Vì nước quên thân,
Trung thành với Đảng,
Tận tuỵ với dân”93.
Ngày 28/01/1960 là mồng Một Tết Canh Tý, Bác Hồ có “Thơ mừng năm mới”:
"Mừng Nhà nước ta 15 Xuân xanh!
Mừng Đảng chúng ta 30 tuổi trẻ!
Chúc đồng bào ta đoàn kết thi đua,
Xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Chúc đồng bào ta bền bỉ đấu tranh,
Thành đồng miền Nam vững bền mạnh mẽ.
Cả nước một lòng, hăng hái tiến lên,
Thống nhất nước nhà, Bắc Nam vui vẻ!"94.
Ngày 29/01
“Người người thi đua, ngành ngành thi đua, ngày ngày thi đua”.
Ngày 29/01, ứng với hai ngày mồng Một Tết Nguyên đán năm Kỷ Sửu (1949) và Mậu Thân (1968). Tết Kỷ Sửu vào thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã vượt qua thử thách của thời kỳ cầm cự, bài “Thơ chúc Tết” mang đầy tinh thần khích lệ:
“Kháng chiến lại thêm một năm mới,
Thi đua ái quốc thêm tiến tới.
Động viên lực lượng và tinh thần.
Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi.
Người người thi đua.
Ngành ngành thi đua.
Ngày ngày thi đua.
Ta nhất định thắng.
Địch nhất định thua”95.
Ngày 29/01/1960, Bác đến thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám và đặc biệt quan tâm đến những tấm bia Tiến sĩ và gặp gỡ các học sinh Trường Phan Châu Trinh.
Ngày 29/01/1968, chính là ngày “Tết Mậu Thân” gắn liền với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn bộ chiến trường miền Nam. Theo thư ký thân cận là Vũ Kỳ thì vào thời điểm giao thừa Bác không có mặt ở trong nước. Ông viết: “Tối nay từ Bắc Kinh xa xôi, hai bác cháu lại ngồi im lặng bên nhau nghe tin tức, ca nhạc và nghe ngâm thơ Tết, chờ đón giao thừa. Chắc Bác đang nhớ về đất nước, nhớ chiến sỹ và đồng bào, nhớ các cháu thiếu nhi... Chỉ có mùa Xuân này Bác phải xa Tổ quốc... Có tiếng pháo nổ ran tiễn Đinh Mùi và đón Mậu Thân. Cùng lúc, từ chiếc đài bán dẫn, lời chúc Tết của Bác Hồ vang lên sang sảng:
“Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên toàn thắng ắt về ta”.
Trong căn phòng chỉ có 2 người, khi đài phát xong câu cuối của bài thơ, tôi bỗng nghe Bác nói khẽ: “Giờ này, miền Nam đang nổ súng...”96. Cuộc Tổng tiến công Mậu Thân dù phải chịu đựng nhiều hy sinh nhưng nó đã tạo nên một bước ngoặt chiến lược đánh bại ý chí xâm lược và buộc Mỹ phải bước vào cuộc đàm phán ở Pari.
Vào tháng 01/1923, Nguyễn Ái Quốc dốc toàn tâm vào việc cổ động cho hai tờ báo do mình sáng lập. Đó là tờ Le Paria (Người cùng khổ) ra bằng tiếng Pháp và tờ báo quốc ngữ Việt Nam Hồn...
Trong tờ truyền đơn được Nguyễn Ái Quốc soạn và phân phát nêu rõ mục đích của báo Le Paria là: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”97.
Còn với tờ Việt Nam Hồn phát hành chủ yếu trong giới lao động người Việt nên Nguyễn Ái Quốc sử dụng một ngôn ngữ bình dân:
... Cũng vì nghĩ thế, tôi muốn làm ra
Một báo tiếng ta, cho đồng bào đọc
Chẳng nói khó nhọc, dám kể công trình
Mong mỏi người mình, mở mày mở mặt.
Báo này sẽ đặt, tên “Việt Nam Hồn”
Mỗi tháng hai lần, một lần trăm bản...
Đó là hai tờ báo tiên phong trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam.
Ngày 30/01
“Đời sống mới không phải là phá đình, phá chùa...”.
Ngày 30/01/1919, Văn phòng Tổng Giám đốc Sở An ninh Pháp viết một bản báo cáo về phong trào đòi độc lập của người Đông Dương đang cư ngụ ở Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc dùng tiền riêng của mình thuê in 6.000 bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” để phân phát trong các cuộc mít tinh ở Pari và một số thành phố khác.
Ngày 30/01/1946, để kiện toàn bộ máy nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các sắc lệnh thành lập Nha Thể dục Trung ương (số 15), bãi bỏ thuế thổ trạch tại thôn quê (kể từ 01/01/1946) và thành lập Phòng Canh nông Bắc bộ V (số 16). Cũng trong ngày, tại Bắc bộ phủ, Bác tiếp đại biểu của thanh thiếu niên, nhi đồng Trung bộ đến chúc Tết. Trong câu chuyện, Bác căn dặn: “Năm mới phải có đời sống mới. Mới đây không phải là phá đình, phá chùa, không tôn giáo”98.
Vào tháng 01/1947, nhân danh Chính phủ, Bác viết thư cho các chiến sỹ Vệ quốc Đoàn, Tự vệ và Dân quân toàn quốc. Tựa như một bài hịch động viên binh sỹ, bức thư viết: “Từ 19 tháng Chạp, thực dân Pháp đánh úp ta, các anh em là những người đầu tiên, lập tức đứng lên chiến đấu.
Sau 85 năm nước ta bị chiếm, các anh em là những người đầu tiên đứng lên đánh thực dân Pháp, một cách nhất trí, khắp Bắc, Trung, Nam.
Vẻ vang thay! Cái nhiệm vụ của anh em. Ăn gió nằm sương, xung phong ham trận, các anh em không quản gian lao. Máu trôi lửa cháy, mưa đạn rừng bom, các anh em không quản nguy hiểm. Các anh em chỉ biết đua nhau giết giặc.
Oanh liệt thay! Cái trọng chí của anh em. Càng đánh càng mạnh, kinh nghiệm càng nhiều. Khi thắng không kiêu, khi lui không nản! Các anh em quyết kháng chiến cho đến thắng lợi.
Mặc kệ tàu bay, thiết giáp, các anh cứ tiến lên, cứ xông vào! Anh dũng thay! Lòng quyết thắng của anh em. Các chiến sĩ là đàn con anh hùng của Tổ quốc. Các chiến sĩ quyết đem xương máu để giữ vững non nước Lạc Hồng!
Các chiến sỹ cứ tiến lên! 20 triệu đồng bào đang hoan hô anh em và quyết làm hậu thuẫn cho anh em. Chính phủ luôn nhớ đến anh em...”99.
Năm 1963 là năm miền Bắc bị hạn hán nặng nề. Ngày 30/01/1963, Bác Hồ đến thăm tỉnh Hà Đông là một tỉnh có tới 21.000 ha bị hạn nặng. Bác đã đi đến các trạm bơm ở huyện Ứng Hòa, xắn quần cùng tát nước với người dân trên một cánh đồng ở huyện Thường Tín... Và trước một vạn người dân tề tựu tại xã Quyết Tiến, Bác căn dặn: “Chống hạn cũng như đánh giặc. Phải hết sức cố gắng, phải đồng tâm hiệp lực đánh cho kỳ thắng giặc hạn".
Trong kháng chiến, vì chúng ta đoàn kết mà thắng lợi. Bây giờ chống hạn, chúng ta đồng tâm hiệp lực thì nhất định cũng thắng lợi. Bác có một câu thơ để tặng cho tỉnh Hà Đông, mong đồng bào tỉnh nhà ra sức chống hạn thắng lợi để xứng đáng với vinh dự ấy:
“Hà Đông anh dũng tuyệt vời
Vắt đất ra nước thay trời làm mưa”100.
Ngày 31/01
“Tại sao dưới động, trên không động, nhỏ động, lớn không động?”.
Ngày 31/01/1927, dưới bút danh là “X.” Nguyễn Ái Quốc viết bài cuối cùng trong loạt 6 bài đăng trên tờ L, Annam (An Nam) với chung một đầu đề là “Các sự biến ở Trung Quốc”. Bài báo đầu tiên viết ngày 13/11/1926 đăng trên số báo ra ngày 02/12/1926, còn bài báo này viết ngày 31/01/1927 và đăng trên số báo ra ngày 14/3/1927.
Đây là thời điểm mà chính trường Trung Quốc đang diễn ra những biến cố sôi động do ảnh hưởng đường lối cách mạng của vị lãnh tụ của nền dân chủ Trung Hoa là Tôn Trung Sơn mới tạ thế (1925), đặc biệt là ở vùng phía Nam Trung Hoa. Chủ nghĩa dân tộc, chống những hiệp ước bất bình đẳng ký với các nước thực dân phương Tây đang dâng cao, đồng thời nguy cơ của một cuộc nội chiến cũng đang đe doạ... Tình hình ấy sẽ có những tác động mạnh mẽ vào Đông Dương.
Đáng lưu ý là người chủ trương tờ L, Annam lại là một người đồng chí cũ của Bác đã từng gắn bó trong những hoạt động của “Nhóm người Việt Nam yêu nước ở Pháp”. Đó là luật sư Phan Văn Trường. Chính trên tờ báo này và trước đó là tờ La Cloche Felée (Tiếng chuông rè) một số bài viết về Cách mạng Nga và toàn văn Tuyên ngôn Cộng sản đã đăng tải giữa Sài Gòn.
7 năm sau, ngày 31/01/1933, kết thúc Vụ án Hồng Kông, Thống đốc Hồng Kông Uyliam Pin đã gửi văn bản tới Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Anh báo cáo lại toàn bộ những giải pháp mà chính quyền “buộc phải giúp đỡ để đưa Nguyễn Ái Quốc trở về với nước Nga” vào một tuần trước đó (22/01), sau khi Tòa án Hoàng gia đã phán quyết phải trả tự do cho nhân vật mà bộ máy mật thám của Pháp đang truy nã.
Ngày 31/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp của Hội đồng Chính phủ để ứng phó với sức ép của Việt Nam Quốc dân Đảng đòi nhanh chóng thành lập ngay một Chính phủ chính thức thay thế Chính phủ lâm thời theo thỏa thuận đã ký kết với Việt Minh hồi cuối năm trước. Quan điểm nhất quán của vị Chủ tịch Chính phủ lâm thời là một Chính phủ chính thức chỉ có thể bầu ra khi Quốc hội đã được triệu tập.
Tại cuộc họp của Bộ Chính trị ngày 31/01/1964, bàn về cuộc vận động “Ba xây, Ba chống”, Bác phát biểu: “Tại sao dưới động, trên không động, nhỏ động, to không động?”101. Về những việc đó làm được chỉ nên nói là kết quả bước đầu... Bác phê bình những cán bộ làm việc không hết lòng hết sức, sợ quần chúng, không dám phát động phong trào và đề nghị phát hành loại sách nhỏ, bài ngắn để tuyên truyền giải thích cho quần chúng...
Đã thành tập quán, vào dịp giáp Tết, Chủ tịch Nước tham gia Tết trồng cây. Ngày 31/01/1965, Bác đến Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) cùng 1.500 cán bộ và đồng bào địa phương trồng cây tại vùng cố đô xưa. Sau đó, Bác tham gia trồng cây tại Hợp tác xã Phù Diễn (Từ Liêm, Hà Nội), thăm nơi ở của dân, khuyên và hướng dẫn dân cách đào giếng, xây các công trình vệ sinh cho bà con nông dân./.
91. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 4, tr. 165-166.
92, 93. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 9, tr. 31, 33.
94. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 10, tr. 1.
95. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 557.
96. Vũ Kỳ, Càng nhớ Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2008, tr. 102-103.
97. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 1, tr. 461.
98 . Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2006, t. 3, tr. 142.
99. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 5, tr. 42, 43.
100. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 11, tr. 18-19.
101. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sdd, 2008, t. 9, tr. 15.
Ban Biên tập
Còn nữa