Chỉ mục bài viết

huyen thoai duong HCM tren b

Cách đây hơn 50 năm thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 23-10-1961, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoàng Văn Thái thay mặt Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân ngày nay.  Với tên gọi “Đoàn tàu Không số”, trong một điều kiện vô cùng gian khổ và thiếu thốn, với sự sáng tạo tài tình, mưu trí, các chiến sĩ  đã vận dụng nhiều cách thức đi biển rất linh hoạt, kết hợp cả các yếu tố vừa công khai vừa bí mật để có thể vận chuyển hàng hóa một cách an toàn mà vô cùng hiệu quả, nhằm chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam.

Trong suốt 14 năm liên tục (từ năm 1961 cho đến ngày toàn thắng lịch sử 30/4/1975), Đoàn tàu Không số đã dệt nên huyền thoại Đường Hồ Chí Minh trên biển, tạo ra một hướng tiếp tế chiến lược hết sức quan trọng, đưa hàng trăm ngàn tấn vũ khí, hàng hóa vào các chiến trường xa - nơi mà tuyến vận tải chiến lược đường bộ chưa với tới, với một số lượng vũ khí còn lớn hơn cả số đưa vào bằng đường bộ trong cùng một thời gian.

Tổng cộng, Đoàn tàu Không số đã vận chuyển được hơn 150.000 tấn vũ khí, trang thiết bị và đưa hàng chục ngàn lượt cán bộ từ miền Bắc vào chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam. Trong các chuyến đi, Đoàn tàu Không số đã phải khắc phục hơn 4.000 quả thủy lôi; chống chọi với nhiều cơn bão; đánh trả hơn 30 lần tàu địch bao vây; chiến đấu với hơn 1.200 lần máy bay địch tập kích; bắn rơi 5 chiếc máy bay và bắn cháy nhiều tàu thuyền của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, góp phần quan trọng vào chiến thắng lịch sử 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Qua các cuộc hành trình trên biển của Đoàn tàu Không số, nhiều cán bộ, chiến sỹ hy sinh anh dũng, nằm lại giữa lòng biển bao la để bảo vệ an toàn cho Đoàn tàu Không số và con đường huyền thoại. Đất nước và dân tộc ta sẽ mãi mãi ghi ơn các anh, cũng như huyền thoại về Đoàn tàu Không số và Đường Hồ Chí Minh trên biển - bản hùng ca của sự sáng tạo và ý chí Việt Nam.

Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 – 23/10/2011), để tri ân những con người đã làm nên tuyến đường huyền thoại năm xưa, Dự án văn hóa Uống nước nhớ nguồn – Trung tâm thông tin truyền thông vì môi trường phát triển – Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Hà Nội phối hợp với Nhà xuất bản Thông tấn vừa thực hiện cuốn sách lớn Huyền thoại Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đây là công trình xuất bản thứ tám về đề tài Tri ân – Đền ơn đáp nghĩa của Dự án văn hóa Uống nước nhớ nguồn. Cuốn sách đã phản ánh tương đối hệ thống, toàn diện và sâu sắc về đường Hồ Chí Minh trên biển và trong đó còn bao gồm những hồi ức, những câu chuyện có thật do các cựu chiến binh "Đoàn tàu Không số" và các những người làm nhiệm vụ trên các bến… viết hoặc kể lại. Đây là bức tranh sinh động, là bài ca hào hùng về cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của quân và dân ta trên tuyến vận chuyển chiến lược biển Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. 

Sau đây Ban Biên tập Trang tin điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh xin giới thiệu cùng bạn đọc Cuốn sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển (Theo Tạp chí Trí thức và Phát triển - Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, Bộ Sách điện tử Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển - Trang http://uongnuocnhonguon.vn).

ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN một sáng tạo chiến lược của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bài học còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Đại tướng Phùng Quang Thanh Ủy viên Bộ Chính trị,
 Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

Cách đây tròn 50 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân được thành lập, đánh dấu sự ra đời của lực lượng vận tải quân sự chiến lược trên biển. Từ đây mở ra đường Hồ Chí Minh trên biển - con đường nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam; con đường thể hiện ý chí, khát vọng độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc của toàn dân tộc ta. Tuyến đường với những con tàu không số đã gắn liền với tên tuổi, địa danh và biết bao chiến công hiển hách của những anh hùng liệt sỹ của quân và dân các địa phương, đặc biệt là Bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. 50 năm đã qua nhưng đường Hồ Chí Minh trên biển đã và sẽ mãi mãi trở thành biểu tượng của ý chí sắt đá, lòng dũng cảm, sức sáng tạo phi thường của toàn Đảng, toàn  dân và toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Mãi mãi là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên lớn lao đối với Bộ đội Hải quân và nhân dân các tỉnh duyên hải nơi tuyến đường đi qua.

dai-tuong-phung-quang-thanh

Thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, tôi bày tỏ sự tri ân và tôn vinh đối với những đóng góp và hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu Không số và các lực lượng làm nhiệm vụ trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển đã xả thân vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trang vàng chói lọi, một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, của lòng dũng cảm, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam. Chiến thắng đó còn đi vào lịch sử thế giới như một trong những chiến công vĩ đại nhất của thế kỷ XX - một sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc. Có được thành quả cách mạng vĩ đại ấy, dân tộc ta đã phải trải qua những chặng đường đấu tranh đầy gian nan, thử thách; đã kế thừa, phát triển lên một tầm cao mới truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam, giá trị văn hóa và nền nghệ thuật quân sự đặc sắc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Thắng lợi mà dân tộc ta giành được là sự hội tụ, kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó đường Hồ Chí Minh trên bộ xuyên dãy Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển có vai trò quan trọng. Đây thực sự là một sáng tạo độc đáo về tài thao lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy Trung ương trong cuộc đấu trí, đấu lực với các âm mưu và thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù nhằm ngăn chặn sự chi viện sức mạnh của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam.

Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, đế quốc Mỹ hất cẳng Pháp, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam. Dựa vào viện trợ và điều hành của Mỹ, chính quyền Diệm đã ra sức chống phá Hiệp định Giơnevơ, cự tuyệt hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Nam - Bắc; tiến hành chính sách “tố cộng, diệt cộng”, lê máy chém đi khắp miền Nam, tàn sát hàng vạn đồng bào yêu nước và chiến sĩ cách mạng nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam.

Trước tình hình đó, tháng 01 - 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Hội nghị lần thứ 15 (khóa 2). Hội nghị đã xác định con đường giải phóng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực. Nghị quyết Hội  nghị Trung ương 15 đã mở ra bước ngoặt cho cách mạng miền Nam, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, tạo nên bước nhảy vọt mà đỉnh cao là Phong trào Đồng khởi (1959 - 1960).

Quán triệt Nghị quyết Trung ương 15, các cấp ủy Đảng ở miền Nam đã nhanh chóng lãnh đạo, chuyển phương châm đấu tranh, phát động quần chúng nổi dậy, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đưa phong trào cách mạng miền Nam chuyển sang thế tiến công, giành quyền làm chủ ở vùng nông thôn và ven đô thị.

Cùng với quá trình đấu tranh cách mạng, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam đã không ngừng lớn mạnh, từ những đội vũ trang tự vệ và vũ trang tuyên truyền đã phát triển thành các tiểu đoàn, trung đoàn chủ lực; bắt đầu hình thành ba thứ quân bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Hệ thống chỉ huy quân sự cũng được hình thành đến cấp huyện, xã.

Nhận rõ yêu cầu cấp bách phải kịp thời chi viện cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam trực tiếp chống Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, ngày 19/5/1959, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” (sau đổi tên là Đoàn 559) có nhiệm vụ mở đường vận chuyển hàng hóa, tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc. Tiếp đó, tháng 7 - 1959, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Tiểu đoàn vận tải thủy 603, có nhiệm vụ mở đường trên biển vận chuyển vũ khí, hàng hóa và con người chi viện cho miền Nam.

duong HCM tren bien anh2
Đại tướng Phùng Quang Thanh - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chụp ảnh cùng các đại biểu đoàn cựu chiến binh và thân nhân các cựu chiến binh Đoàn tàu Không số.
Ảnh Nguyễn Ái

Để giữ bí mật, Tiểu đoàn hoạt động dưới tên gọi “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”. Do vị trí chiến lược hết sức quan trọng của đường Hồ Chí Minh trên biển, đế quốc Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với các loại vũ khí, thiết bị tối tân hiện đại nhất của nền khoa học - công nghệ quân sự Mỹ để đánh phá, hòng hủy diệt, ngăn chặn, cắt đứt tuyến đường tiếp viện của ta trên biển. Những con đường, các bến bãi đều nằm trong các vùng kìm kẹp, lùng sục, truy quét, đánh phá ác liệt suốt đêm ngày của địch. Trên con đường vận chuyển ấy, cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu Không số với tinh thần “Vì miền Nam ruột thịt” đã xác định quyết tâm, âm thầm hy sinh tình cảm gia đình và bản thân, biết rằng ra đi là cảm tử vẫn chấp nhận gian nguy, đương đầu với khó khăn thử thách. Mỗi chuyến đi là một cuộc đấu   trí căng thẳng, quyết liệt với kẻ thù, với thiên nhiên, sóng gió. Và vượt lên tất cả là chiến thắng chính bản thân mình, đòi hỏi cao ý chí kiên định, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo và ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm minh.

Những ngày đầu hoạt động trong điều kiện khó khăn, ác liệt, chúng ta lại chưa có kinh nghiệm và hiểu biết nhiều về tình hình cụ thể tại các tỉnh duyên hải phía Nam nên chuyến vượt biển đầu tiên bằng thuyền buồm của Tiểu đoàn 603 đã không thành công. Thuyền gặp gió mùa, sóng lớn, bị trôi dạt và không về được tới đích, cả 6 thuyền viên đều bị địch bắt, Tiểu đoàn 603 phải tạm ngừng hoạt động trên biển để tìm giải pháp và phương thức vận chuyển phù hợp. Sau một quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và chuẩn bị về mọi mặt, ngày 23/10/1961, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn vận tải biển 759, sự ra đời của Đoàn 759 cùng với việc khai thông tuyến chi viện chiến lược Bắc - Nam trên biển là sự kiện hết sức có ý nghĩa. Từ đây, các địa phương ven biển miền Nam, chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2) đã nhận được sự chi viện trực tiếp của miền Bắc, tạo nên sức mạnh và niềm tin to lớn cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam.

Sau thất bại trong “Cuộc chiến tranh một phía” (1954 - 1960), đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), ráo riết thực hiện các cuộc hành quân tìm diệt, tiến hành bình định để nắm đất, nắm dân theo kiểu “tát nước bắt cá”, đồng thời mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng biệt kích và phong tỏa biên giới, vùng biển để ngăn chặn chi viện của miền Bắc. Nhằm đáp ứng nhu cầu chi viện cho cách mạng miền Nam ngày một lớn, trung tuần tháng 8 - 1962, Quân ủy Trung ương quyết định mở đợt vận chuyển vũ khí vào Nam. Đêm 11/10/1962, chiếc tàu gỗ gắn máy đầu tiên của Đoàn 759 chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) vào Cà Mau. Ngày 19 - 10, tàu cập bến Vàm Lũng an toàn, toàn bộ vũ khí được cơ sở tiếp nhận đúng kế hoạch. Sau chuyến đi thành công đó, Đoàn 759 đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện động viên, biểu dương cán bộ, chiến sĩ và căn dặn cần rút kinh nghiệm chuyến đi, tiếp tục vận chuyển nhiều vũ khí cho đồng bào miền Nam đánh giặc, cho Nam - Bắc sớm sum họp một nhà.

Với phương châm hoạt động bí mật bất ngờ, sử dụng các loại tàu nhỏ, ngụy trang giống tàu đánh cá, tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển đã mở ra một hướng chi viện mới, hết sức quan trọng, đưa hàng chi viện của miền Bắc đến với các  chiến trường xa mà tuyến đường Hồ Chí Minh trên bộ chưa có điều kiện vươn tới được. Tháng 8 - 1963, Đoàn 759 được giao cho Quân chủng Hải quân phụ trách và trực tiếp đảm đương nhiệm vụ vận chuyển, chi viện đường biển cho các chiến trường miền Nam. Đến ngày 24/01/1964, Đoàn 759 được điều chỉnh tổ chức, phát triển thành Lữ đoàn 125 Hải quân. Trong hơn 3 năm hoạt động (1962 - 1965), đường Hồ Chí Minh trên biển đã chi viện cho các tỉnh ven biển thuộc chiến trường Khu 5, Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ được 89 chuyến tàu với gần 5 nghìn tấn vật  chất, chủ yếu là vũ khí, đạn dược.

Tuy nhiên, từ sau sự kiện tàu C143 bị địch phát hiện tại Vũng Rô (Phú Yên, tháng 2 - 1965), địch tăng cường đẩy mạnh hoạt động tuần tiễu ngăn chặn, chống xâm nhập. Đoàn 125 đã phải chuyển hướng hoạt động, sử dụng các đội tàu đi theo đường hàng hải quốc tế và bí mật bất ngờ đột nhập, đưa hàng vào các bến tiếp nhận.

Đến tháng 2 - 1968, do sự ngăn chặn, chống xâm nhập của địch ngày càng trở nên gay gắt, đường Hồ Chí Minh trên biển phải tạm dừng hoạt động. Tính chung trong 4 năm 1965 - 1968), Đoàn 125 đã tổ chức 27 chuyến tàu, trong đó chỉ có 7 chuyến tàu tới đích, giao được hơn 4 trăm tấn hàng quân sự cho các chiến trường.

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, tận dụng thời điểm không quân Mỹ tạm ngừng ném bom miền Bắc, Đoàn 125 đã vận chuyển được một khối lượng hàng lớn tới các địa điểm vùng giới tuyến, sau đó Đoàn 559 vận chuyển bằng đường bộ vào chiến trường miền Nam. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu vũ khí, đạn dược ngày càng tăng cho chiến trường miền Nam, ta còn tổ chức vận chuyển hàng viện trợ quân sự của các nước anh em bằng tàu biển quốc tế, quá cảnh qua cảng Xihanúc Vin (Campuchia). Bằng cách này, Đoàn 125 đã đưa vào chiến trường miền Nam hơn 90 nghìn tấn hàng hóa, trong đó có hơn 20 nghìn tấn vũ khí, đạn dược. Từ cuối năm 1970, sau khi tuyến đường vận chuyển qua cảng Xihanúc Vin bị cắt đứt, theo sự chỉ đạo của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 đã chủ động tìm đường vận chuyển mới bằng cách men theo phía Đông các quần Đảo Hoàng Sa, Trường Sa đến vùng biển Đông Bắc Malaixia, qua Vịnh Thái Lan, khu vực quần đảo Nam Du để đưa tàu cập các bến bãi miền Tây Nam Bộ. Tuy phải đi vòng rất xa, và phải dự trữ đủ lượng xăng dầu và lương thực cần thiết cho một chuyến đi dài ngày; phải đối mặt với bao thách thức, cam go, nhưng bằng con đường này, Đoàn 125 đã giao được 301 tấn vũ khí, đạn dược cho Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Đây là một cố gắng lớn của Đoàn 125 trong điều kiện địch tăng cường bao vây, ngăn chặn và đánh phá ác liệt.

Hiệp định Pari được ký kết (1973), thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đoàn 125 tạm dừng nhiệm vụ vận chuyển, chi viện trực tiếp cho các chiến trường miền Nam bằng đường Hồ Chí Minh trên biển. Đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, các đội tàu của Đoàn 125 lại tiếp tục vận chuyển vật chất, cơ động lực lượng phục vụ cho việc giải phóng các tỉnh và  ác đảo ven biển miền Nam, đặc biệt đã kịp thời chi viện cho các lực lượng làm nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa.

Như vậy, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đường Hồ Chí Minh trên biển đã tạo nên một phương thức chi viện mới hết sức quan trọng, trực tiếp đảm bảo chi viện cho các chiến trường miền Nam. Mặc dù số lượng vũ khí và hàng hóa mà Đoàn 125 vận chuyển bằng đường Hồ Chí Minh trên biển còn khiêm  tốn so với lượng hàng hóa, vũ khí vận chuyển qua đường Hồ Chí Minh trên bộ, nhưng nó lại có ý nghĩa rất lớn. Đường Hồ Chí Minh trên biển thực sự trở thành  mũi thọc sâu, vu hồi lợi hại để vận chuyển, chi viện vào những địa bàn ven biển trọng yếu nơi mà sự chi viện bằng tuyến vận tải chiến lược 559 trên bộ chưa thể vươn tới được. Vận tải biển tuy đầy gian nan, nguy hiểm nhưng lại có ưu thế về tốc độ, thời gian và hiệu quả. Cùng với nhiệm vụ vận tải hàng quân sự, đường Hồ Chí Minh trên biển còn đảm đương một sứ mệnh cực kỳ quan trọng, đó là đưa đón hàng trăm cán bộ cao cấp của Đảng, quân đội và chuyên gia quân sự vào miền Nam và từ miền Nam ra miền Bắc báo cáo Trung ương và nhận chỉ thị mới, kịp thời bổ sung cho công tác lãnh đạo chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Ngoài ra, Đoàn 125 còn vận chuyển nhiều loại vũ khí, trang bị đặc biệt, có tầm quan trọng sống còn đối với cuộc kháng chiến của ta.

Có thể nói, những chiến công của các lực lượng tuyến chi viện chiến lược trên biển là minh chứng cụ thể của sự chỉ đạo sát sao và tài thao lược của Đảng. Để từng bước hình thành, phát triển tuyến đường chiến lược trên biển, chi viện ngày càng nhiều sức người, sức của cho các chiến trường đánh thắng quân xâm lược, Đảng ta đã phát huy tới mức cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp vô cùng to lớn. Nhân dân các địa phương luôn sẵn sàng đóng góp của cải và công sức cho tuyến vận tải chiến lược trên biển được thông suốt. Các nước anh em, bè bạn trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ vật chất và ủng hộ tinh thần hết sức lớn lao và hiệu quả.

Sự ra đời của đường Hồ Chí Minh trên biển cùng với những chiến công của lực lượng Hải quân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước một lần nữa chứng minh về tầm quan trọng của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc, vừa thuận lợi, vừa có những thách thức mới. Xu thế toàn cầu hóa đang tác động sâu sắc tới toàn thể nhân loại, đồng thời đặt ra yêu cầu khách quan trước mỗi quốc gia. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng phức tạp. Do đó, nhiệm vụ của Hải quân nhân dân Việt Nam tiếp tục làm nòng cốt cùng với toàn quân, toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập,  chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hoà bình ổn định để phát triển kinh tế, xã hội và quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng và trên thế giới, xứng đáng là lực lượng nòng cốt làm nên con đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển trước đây cũng như hiện nay.

Mở tuyến vận tải quân sự trên biển chi viện cho cách mạng
 ở miền Nam một quyết định lịch sử

Phó Đô đốc Trần Thanh Huyền, nguyên Bí thư Đảng ủy
 Chính ủy Quân chủng Hải quân

duong HCM tren bien anh3

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cách đây hơn 36 năm. Có được thắng lợi vĩ đại ấy, trước hết là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, trong đó có quyết định mở con đường vận tải chiến lược trên biển Đông chi viện cho chiến trường miền Nam. Đường Hồ Chí Minh trên biển cùng với con đường vận tải xuyên Trường Sơn mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu là hai con đường “huyết mạch” chủ yếu cung cấp vũ khí, khí tài, đạn dược, thuốc men và đưa, đón cán bộ, chiến sĩ cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai.

Cũng như đường vận tải trên dãy Trường Sơn, con đường vận tải trên biển Đông chi viện cho miền Nam đánh Mỹ và tay sai là biểu hiện của lòng yêu nước vô hạn, ý chí quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết đánh và quyết thắng kẻ thù xâm lược; con đường “huyền thoại” với biết bao kỳ tích anh hùng, mà giá trị của nó mang ý nghĩa, tầm vóc lịch sử to lớn đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức hoạt động của con đường vận tải chi viện trên biển mà thời điểm khởi đầu của nó tính đến nay đã tròn 50 năm.

Tháng 01 - 1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá II ) xác định đường lối phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ sự thống trị của đế quốc, phong kiến, dựng lên chính quyền của nhân dân.

Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng đã mở ra bước ngoặt, đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng miền Nam từ đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài để giành thắng lợi. Trên cơ sở đó Đảng ta xác định phải nhanh chóng tổ chức chi viện sức người, sức của, vũ khí cho miền Nam đánh giặc.

Ngày 19/5/1959, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập “Đoàn công tác Quân sự đặc biệt” sau đó đổi tên là Đoàn 559, có nhiệm vụ mở đường giao thông vận chuyển hàng quân sự cho cách mạng miền Nam, trước mắt là cho Liên khu 5 và tổ chức đưa, đón bộ đội, cán bộ từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc.

Tháng 7 - 1959, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Tiểu đoàn vận tải thủy 603 lấy tên là “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”, làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí bằng thuyền buồm vào chi viện cho Khu 5. Nhưng cuối tháng 01-1960, Tiểu đoàn 603 thực hiện chuyến đi đầu tiên chở 5 tấn vũ khí, thuốc men vào Khu 5 đã không thể tới bến, 5 trong 6 đồng chí cùng con thuyền mãi mãi không bao giờ trở lại. Chuyến đi đầu tiên không thành công ấy đã cho thấy phương thức vận tải thủ công ven biển không còn thích hợp và không thể đáp ứng được yêu cầu vận tải chi viện của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Xét thấy phương thức vận tải bằng thuyền buồm không khả thi, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Tiểu đoàn vận tải thủy 603 ngừng hoạt động và giải thể, sáp nhập vào lực lượng của Đoàn 559; đồng thời chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu tìm phương án tổ chức vận tải đường biển phù hợp với tình hình và khả năng của ta.

Trước sự phát triển của phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam, đầu năm 1961, Thường trực Quân ủy Trung ương xác định: “Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam đã bước vào một giai đoạn mới và ngày càng trở nên gay go, quyết liệt... Muốn đẩy mạnh cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi quyết định cần phải kiên quyết chi viện cho miền Nam những thứ mà chiến tranh cần thiết. Miền Bắc phải thực hiện nhiệm vụ này với tất cả khả năng của mình trên nguyên tắc góp sức đẩy mạnh cách mạng miền Nam nhưng vẫn giữ vững hòa bình ở miền Bắc... Việc chi viện cho miền Nam có tính chất lâu dài và toàn diện”1. Thường trực Quân ủy Trung ương cũng chỉ rõ: “Lực lượng chi viện bao gồm con người và phương tiện vật chất. Con người là những cán bộ, nhân viên công tác góp phần xây dựng lực lượng tại chỗ của miền Nam. Phương tiện vật chất, chủ yếu trước hết là vũ khí và khí tài quân sự, thuốc men... giải quyết mức tối thiểu cho cả Liên khu 5 và Nam Bộ. Đường chi viện là đường bộ, đường không và đường thuỷ. Đường thuỷ có nhiều khả năng thực hiện. Vấn đề quan trọng là ta phải nắm được tình hình ở miền Nam...”2. Thường trực Quân uỷ Trung ương cũng chỉ rõ biện pháp tiến hành trong vận tải đường thuỷ là dùng phương tiện từ miền Bắc chở hàng vào miền Nam hoặc từ miền Nam ra chở hàng đưa vào và có thể dùng biện pháp từ trong miền Nam ra kết hợp từ ngoài miền Bắc đưa hàng vào gặp nhau chuyển hàng giữa đường... Như vậy, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ vận tải đường biển chi viện cách mạng miền Nam là nhiệm vụ chiến lược, có tính lâu dài.

Chấp hành sự chỉ đạo của Thường trực Quân uỷ Trung ương, quý I năm 1961, Bộ Tổng Tham mưu đã hoàn thành Đề án xây dựng và tổ chức con đường vận chuyển chiến lược trên biển chi viện cho chiến trường miền Nam, được Thường trực Quân ủy Trung ương phê duyệt. Đề án đã nêu rõ phương châm tổ chức vận tải; Phương pháp tiến hành; Nguyên tắc xây dựng lực lượng; Nhiệm vụ cụ thể và tổ chức biên chế đơn vị; trong đó nhấn mạnh: Tận dụng mọi hình thức hợp pháp, bất hợp pháp, bất hợp pháp là chủ yếu; xây dựng khả năng chuyên môn và phương tiện ở miền Bắc, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của miền Nam kiên quyết bảo vệ hàng trong mọi trường hợp, khi không bảo vệ được hàng thì triệt để thủ tiêu, không để lọt vào tay địch; tuyệt đối giữ bí mật mọi kế hoạch hoạt động của cơ quan, đơn vị. Phải gọn, nhẹ, bảo đảm chất lượng; tập trung nhanh chóng xây dựng thuỷ đội thuyền buồm kết hợp máy đẩy, nghiên cứu tổ chức thủy đội hải quân để không bị động về thời tiết. Cán bộ và thủy thủ, yêu cầu phải có trình độ giác ngộ chính trị cao, chuyên môn giỏi, sức khỏe tốt... Bộ Tổng Tham mưu đã đề nghị thành lập đơn vị vận tải mang mật danh là Đoàn 759 và đề nghị phát hiện tuyển chọn những người ở Nam Bộ và Liên khu 5 có kinh nghiệm đi biển đang công tác ở Bộ Thương nghiệp, Cục Nông trường, Cục Hải quân và Tổng cục Thủy sản... đưa về xây dựng Đoàn.

Trong khi chuẩn bị để tổ chức xây dựng lực lượng vận chuyển đường biển theo đề án của Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Chính trị chỉ thị Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ chủ động chuẩn bị bến bãi và tổ chức đưa thuyền vượt biển ra miền Bắc vừa để thăm dò, nắm tình hình và nghiên cứu tuyến vận chuyển trên biển, vừa nhận vũ khí về kịp thời cung cấp cho phong trào đấu tranh cách mạng ở địa phương. Từ ngày 7 - 8 đến 28/8/1961, lần lượt bốn đội thuyền với 28 cán bộ, chiến sĩ của các tỉnh Cà Mau, Trà Vinh và Bến Tre (trong đó Bến Tre có hai đội) đã vượt biển thành công ra đến miền Bắc; đến tháng 5 - 1962, đội thuyền của tỉnh Bà Rịa có 6 người, cũng có mặt ở miền Bắc để nhận vũ khí. Đó chính là một trong những lực lượng và phương tiện ban đầu về xây dựng Đoàn 759.

Ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn 759 đặt dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng, làm nhiệm vụ vận tải đường biển chi viện miền Nam. Đó là dấu mốc quan trọng đầu tiên của lực lượng vận tải trên biển, đồng thời cũng là dấu mốc mở con đường vận tải chiến lược này.

Lực lượng đầu tiên về xây dựng Đoàn là các đội thuyền của 3 tỉnh Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre và một số cán bộ, chiến sĩ của Khu 5 tập kết ra Bắc. Ngày 12/2/1962, Tổng cục Chính trị ra quyết định thành lập Đảng ủy Đoàn 759 đặt dưới sự lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp về công tác Đảng, công tác chính trị của Quân ủy Trung ương và Tổng cục Chính trị.

duong HCM tren bien anh4
Một trong những chuyến tàu của Đoàn tàu Không số
trên đường vận chuyển vũ khí chi viện miền Nam Ảnh: T.L

Ngay sau khi thành lập, với tinh thần khắc phục khó khăn, quyết tâm cao nhất để nhanh chóng thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 do Trung tá Đoàn Hồng Phước làm Đoàn trưởng vừa từng bước xây dựng lực lượng, ổn định đơn vị, vừa khẩn trương chuẩn bị phương tiện tàu thuyền cùng các mặt bảo đảm khác để sớm vận chuyển hàng vào miền Nam. Chuyến đi trinh sát của đội thuyền do đồng chí Bông Văn Dĩa phụ trách vào Nam đầu tháng 4 - 1962 và trở lại miền Bắc tháng 8 - 1962 thành công đã mang lại niềm tin thắng lợi ban đầu cho đơn vị.

Ngày 11/10/1962, chiếc tàu vỏ gỗ đầu tiên số hiệu 41 mang tên “Phương Đông 1” rời bến Đồ Sơn, Hải Phòng chở gần 30 tấn vũ khí đã vượt qua sự kiểm soát của địch vào cập bến Vàm Lũng, Cà Mau sáng ngày 19/10/1962 an toàn.

Thành công của tàu Phương Đông 1 đã chính thức “dệt nên” một con đường nối liền hậu phương lớn miền Bắc với nơi xa nhất, khó khăn gian khổ nhất của chiến trường miền Nam là Nam Bộ. Tiếp sau đó, từ ngày 19/10 đến 14/12/1962, lần lượt ba chiếc tàu vỏ gỗ số 54, 42, 55 mang tên “Phương Đông 2”, “Phương Đông 3” và “Phương Đông 4” rời bến Đồ Sơn chở vũ khí vượt qua các khu vực kiểm soát của địch vào cập bến Vàm Lũng, Cà Mau. Trong vòng 2 tháng đầu tiên ra quân, Đoàn 759 đã thực hiện thắng lợi 4 chuyến tàu, vận chuyển được 112 tấn hàng vào chiến trường Nam Bộ. Đó là kết quả có ý nghĩa hết sức to lớn. Trong khi việc mở đường bộ vận chuyển trên dãy Trường Sơn vô cùng gian nan, vất vả nhưng mới chỉ vươn đến được tới Khu 5, mà tình hình ở vùng đất cực Nam Tổ quốc đang rất cần chi viện vũ khí, khí tài để đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng cách mạng, thì việc Đoàn 759 đưa được hơn 100 tấn vũ khí vào cung cấp cho Khu 9 thực sự là một kỳ tích. Nếu đi theo đường bộ lúc đó, mỗi người gùi 25 kg, thì để đưa được khối lượng hàng hóa, vũ khí trên phải cần khoảng 4.480 người đi liên tục trong vài tháng trời và phải có một khối lượng lương thực, thực phẩm bảo đảm cho từng ấy con người trong thời gian vận chuyển, chưa kể những hao hụt trên đường vận tải. Đây là thành công có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi thành công này không chỉ đơn thuần là mang được vũ khí vào miền Nam đánh giặc, mà còn mang lại niềm tin vững chắc vào Đảng, vào Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, qua đó củng cố ý chí quyết tâm, tạo nên sức mạnh đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của đồng bào, chiến sĩ Nam Bộ. Những vũ khí được đưa vào miền Nam đã góp phần cung cấp cho quân, dân ta tiến công và đập tan những cuộc càn quét, khủng bố của địch, trong đó có chiến thắng vang dội Ấp Bắc (2/01/1963), tạo thành phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” phát triển lan rộng trong cả nước. Những thành công đầu tiên đã cổ vũ cán bộ chiến sĩ của Đoàn 759 và ở các bến bãi đón nhận tàu của Đoàn 962 thuộc Khu 9 tích cực phấn đấu để đưa được nhiều chuyến tàu chở hàng vào chi viện cho miền Nam.

Được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thường xuyên chỉ đạo và Bộ Giao thông vận tải cùng các xưởng đóng tàu I và III (Hải Phòng) tích cực giúp đỡ, Đoàn 759 đã được trang bị một số tàu vỏ sắt mới với trọng tải từ 40 - 65 tấn và một số tàu vỏ gỗ khác để làm phương tiện vận chuyển. Với phương châm “vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm, táo bạo, bí mật, bất ngờ”, từ năm 1963 đến giữa tháng 2 - 1965 cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và từ cuối năm 1963 chuyển về chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Hải quân, được đổi tên là Đoàn 125, đã phối hợp chặt chẽ với các bến, bãi ở hai đầu tuyến đường, bằng sự thông minh, khôn khéo, linh hoạt và lòng dũng cảm, thực hiện thắng lợi 86 lần/chuvến tàu chở 4.912 tấn vũ khí và gần 300 cán bộ quân đội, cơ quan dân, chính, Đảng của Trung ương vào chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ và ven biển Khu 5, đặc biệt các tỉnh Nam Trung Bộ, Khu 5 là những nơi tình hình bến bãi rất khó khăn, phức tạp không bảo đảm an toàn cả về góc độ hàng hải cũng như về an toàn, bí mật của từng chuyến hàng và của cả con đường. Vũ khí, khí tài của Đoàn 125 đã kịp thời cung cấp cho hai trung đoàn bộ đội chủ lực Miền tham gia đợt 2 của chiến dịch Bình Giã, góp phần làm nên thắng lợi của chiến dịch đầu tiên của bộ đội chủ lực trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, đánh bại các chiến thuật “Trực thăng vận” và “Thiết xa vận” của địch, đánh dấu sự thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Như vậy, trong thời gian hơn 2 năm từ cuối năm 1962 đến đầu năm 1965 những con tàu của Đoàn tàu “Không số” như những con thoi lặng lẽ, âm thầm rời cập bến, đương đầu với biết bao khó khăn, vất vả, hiểm nguy của sóng gió biển khơi và sự rình rập của kẻ thù, cùng với sự hỗ trợ, bảo vệ của lực lượng ở các bến bãi, thực hiện thành công 90 lần/chuyến đưa được hơn 5.024 tấn hàng tới đích an toàn, đó là một con số kỷ lục. Trong hoàn cảnh của những năm tháng lịch sử ấy, kết quả đó thực sự là một kỳ tích tuyệt vời. Trong giai đoạn khó khăn, hàng ngàn tấn vũ khí vận chuyển vào Nam Bộ và Nam Trung Bộ được tiếp tục vận chuyển cung cấp cho các mặt trận nóng bỏng nhất trên chiến trường miền Nam nơi mà cuộc chiến đấu phải tính đến từng khẩu súng, từng viên đạn, thì giá trị của số vũ khí hàng hoá đó được nhân lên gấp bội. Nhờ sự chi viện kịp thời vũ khí trang bị của tuyến vận tải trên biển mà các lực lượng bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực Miền đánh địch giành nhiều thắng lợi và phát triển thế tiến công mở các chiến dịch tiêu diệt lớn quân địch trong mùa khô 1964 - 1965; góp phần quan trọng tạo thế và   lực mới của ta ở trên chiến trường, dần làm thay đổi cục diện của cuộc chiến tranh có lợi cho ta, làm cho đế quốc Mỹ từ chủ động chuyển sang thế bị động, buộc phải thay đổi chiến lược, nhưng cuối cùng chúng cũng không thể cứu vãn được tình thế, ngày càng lún sâu vào thất bại.

Sau sự kiện bị lộ của tàu C143 ở bến Vũng Rô thuộc tỉnh Phú Yên tháng 02 - 1965, quân Mỹ và quân đội Sài Gòn đã tập trung nhiều lực lượng, phương tiện hiện đại của không quân, hải quân tạo thành một hệ thống kiểm soát dày đặc trên khắp các vùng biển từ gần bờ đến khơi xa, từ vùng biển chủ quyền của Việt Nam ra đến các vùng biển quốc tế. Chúng tiến hành theo dõi giám sát liên tục, đánh phá ngăn cản hết sức quyết liệt hòng tiêu diệt những con tàu vận tải của ta, chặt đứt con đường biển không cho chúng ta đưa hàng vào chi viện cho miền Nam. Song dù kẻ địch có huy động lực lượng, phương tiện hiện đại nhiều đến đâu dùng những biện pháp, thủ đoạn ngăn chặn tinh vi, xảo quyệt đến thế nào cũng không ngăn cản được những con tàu của ta đưa hàng vào chiến trường.

Địch càng đánh phá ngăn chặn ác liệt, con đường vận chuyển trên biển càng phát triển; có tuyến hành trình dài hơn 3.500 hải lý đi từ Hải Phòng qua eo biển Quỳnh Châu ở phía Bắc của đảo Hải Nam (Trung Quốc) ra khu vực biển giữa Bắc Philippin và Hồng Công, đi sang phía Tây của Philippin và Đông quần đảo Trường Sa, vòng xuống ven biển Malaixia, đến sát Xingapo, qua vịnh Thái Lan rồi về vùng biển Tây Nam để tìm cách vào bến giao hàng. Vượt lên trên những gian khổ, mất mát hy sinh do giông bão và sự truy cản của kẻ thù, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 đã đấu trí quyết liệt với địch, nhiều chuyến đi bị máy bay, tàu chiến của địch phát hiện giám sát gắt gao phải quay lại, một số chuyến phải chiến đấu và hủy tàu cùng toàn bộ vũ khí không để rơi vào tay quân thù, khiến cho chúng phải kinh hoàng và thán phục trước tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường, hành động anh hùng của “bộ đội tàu vận tải Bắc Việt”. Từ quý IV năm 1965 đến tháng 4 - 1972, thực hiện các phương án phá thế bao vây của địch, Đoàn 125 đã thực hiện 71 lần chuyến tàu có 12 chuyến thành công với hơn 688 tấn hàng; từ năm 1972 đến tháng 4 - 1975, Đoàn 371 của Khu 9 bằng hình thức công khai hợp pháp đưa thuyền vượt biển ra Bắc nhận hàng đã thực hiện được 37 chuyến chở hơn 620 tấn hàng vào Nam Bộ. Cùng với vận chuyển trực tiếp vào chiến trường, chúng ta đã nắm thời cơ, điều kiện thuận lợi địch ngừng đánh phá miền Bắc tổ chức vận chuyển hàng từ Hải Phòng vào Nam Quân khu 4 để chuyển tiếp ra chiến trường theo đường Trường Sơn. Từ tháng 11 - 1968 đến tháng 4 -1970, trong chiến dịch VT 5 lực lượng vận chuyển của Đoàn 125 đã vận chuyển được 34.776 tấn hàng vào cảng sông Gianh; năm 1970 chở được 3.141 tấn và từ năm 1973 đến đầu năm 1975 đã chở được 51.906 tấn vào Nam Khu 4 và Đông Hà, Quảng Trị chi viện gián tiếp cho chiến trường. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, Đoàn đã thực hiện hơn 100 chuyến tàu phục vụ chiến đấu chở 8.721 tấn hàng, 50 xe tăng và xe cơ giới cùng 17.475 người ra phía trước; góp phần làm nên đại thắng mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Thực tiễn kết quả đó là minh chứng khẳng định giá trị, tầm quan trọng to lớn của con đường đối với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc.

Cùng với đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển đã nối liền miền Bắc với miền Nam, “là biểu tượng của quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, của ý chí và tình cảm thống nhất đất nước, của sức mạnh tinh thần và trí tuệ của dân tộc Việt Nam đã chiến thắng sức mạnh vật chất kỹ thuật hiện đại của đế quốc Mỹ”3.

Thành công của đường Hồ Chí Minh trên biển là thắng lợi của lòng quyết tâm chiến thắng kẻ thù và sự sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta mà trực tiếp là của lực lượng cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ trên tuyến đường này. Đường Hồ Chí Minh trên biển thực sự là một kỳ công chiến lược khẳng định chủ trương mở đường vận tải trên biển là một quyết định hết sức đúng đắn, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó chính là một quyết định lịch sử dẫn đến những thắng lợi to lớn trên con đường huyền thoại - đường Hồ Chí Minh trên biển, một trong những kỳ tích to lớn của quân, dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy gian khổ, hy sinh nhưng đã giành thắng lợi, vô cùng vẻ vang.

Đường Hồ Chí Minh trên biển, một “con đường không dấu, tàu không số, trí, hiếu, trung, dũng, anh hùng”, một chiến công và kỳ tích lịch sử, cho chúng ta nhiều bài học quý báu, mãi mãi là niềm tự hào của quân và dân ta nói chung, của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ trên con đường vận tải chiến lược biển năm xưa cũng như của Lữ đoàn 125 Hải quân và Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng, mà các thế hệ hôm nay và mai sau phải có trách nhiệm gìn giữ, phát huy và không ngừng tô thắm trong sự nghiệp quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

(1) (2) Hồ sơ số 285 - Phòng Quân ủy Trung ương, Hồ sơ lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.

(3). Bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đường Hồ Chí Minh một sáng tạo chiến lược của Đảng, Nxb QĐND, H, 1999, tr.24.

Kim Yến (st)

Bài viết khác: