Đường Hồ Chí Minh trên biển với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975
Sau 21 năm chống Mỹ gian khổ, ác liệt nhưng vô cùng vẻ vang, dân tộc Việt Nam đã làm nên một mùa Xuân lịch sử 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV khẳng định: “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là bước phát triển ở giai đoạn chín muồi trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là kết quả hợp thành của tất cả các lực lượng, những yếu tố làm nên sức mạnh tất thắng của nhân dân trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại”. Trong những yếu tố đó, đường Hồ Chí Minh trên biển có vai trò đặc biệt quan trọng.
Ngược dòng lịch sử ta thấy, vào cuối những năm 50 của thế kỉ XX, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam đứng trước nhiều thử thách mới. Vấn đề đặt ra lúc này là làm thế nào để đẩy mạnh kháng chiến ở miền Nam, bởi vì “con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Tuy nhiên, để có thể tiến hành bạo lực cách mạng giành chính quyền theo tinh thần Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá II ) đã xác định, thì miền Nam rất cần sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc. Giải quyết bài toán hóc búa đó, tháng 5 năm 1959, Tổng Quân ủy quyết định thành lập một cơ quan nghiên cứu mở đường vận tải trên bộ để đưa lực lượng, vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Tiếp đó, tháng 7 năm 1959, Tổng Quân ủy quyết định tổ chức đường vận tải trên biển. Đây là những quyết sách đúng đắn, sáng tạo, mang tầm chiến lược, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, nhưng quan trọng hơn, nó là cơ sở pháp lý dẫn tới sự ra đời của đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển.
Sau một thời gian nghiên cứu và chuẩn bị, ngày 19 tháng 5 năm 1959, Đoàn Vận tải Quân sự 559 được thành lập. Lực lượng nòng cốt đầu tiên của Đoàn gồm hai Tiểu đoàn 301 và 603. Tiểu đoàn 301 vận tải đường bộ, còn nhiệm vụ của Tiểu đoàn 603 là nghiên cứu và thực hiện ý đồ của Tổng Quân ủy, chi viện vũ khí cho chiến trường bằng đường biển. Tiểu đoàn này đặt tại cửa sông Gianh, tỉnh Quảng Bình, được tổ chức dưới hình thức “Tập đoàn đánh cá sông Gianh”.
Để phù hợp với tình hình cách mạng mới, ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 97/QP, thành lập lực lượng vận tải quân sự trên biển mang tên Đoàn 759. Đồng chí Đoàn Hồng Phước làm Đoàn trưởng và đồng chí Võ Huy Phúc làm Chính ủy. Nhiệm vụ của Đoàn là “mua sắm phương tiện, tiến hành vận chuyển các loại hàng tiếp tế cho chiến trường miền Nam bằng đường biển”. Lúc mới thành lập, Đoàn 759 có 38 cán bộ, trong đó có 20 người vừa từ chiến trường Nam Bộ ra.
Kể từ khi ra đời và đi vào hoạt động, Đoàn 759, sau này là Đoàn 125 Hải quân, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần làm cho đường Hồ Chí Minh trên biển ngày càng mở rộng, khẳng định được vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ năm 1962 đến trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, cùng với đường Hồ Chí Minh trên bộ, đường Hồ Chí Minh trên biển đã vận chuyển kịp thời sức người, sức của từ miền Bắc chi viện cho tiền tuyến miền Nam, góp phần hiện thực hóa quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, lần lượt đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ký Hiệp định Pari (27/01/1973) chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Cuối năm 1974 đầu năm 1975, tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, nắm bắt thời cơ đó, Hội nghị Bộ Chính trị (30/9 - 7/10/1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (8/12/1974 - 8/01/1975) đã bàn kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Trong khi Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng đang tiến hành thì nhận được tin quân ta giải phóng đường 14 và toàn tỉnh Phước Long (6/01/1975).
Chiến thắng Phước Long và tình hình chiến sự sau Phước Long giúp Bộ Chính trị củng cố thêm quyết tâm chiến lược, bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch 2 năm (1975 - 1976) hoàn thành giải phóng miền Nam. Cụ thể là năm 1975 tranh thủ thời cơ, bất ngờ tiến công địch trên quy mô lớn, rộng khắp, tạo điều kiện đến năm 1976 tiến hành tổng công kích - Tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Bộ Chính trị đề ra kế hoạch 2 năm, nhưng lại nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải tranh thủ thời cơ thực hiện “tổng công kích - tổng khởi nghĩa”, phải đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa... giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
Có thể nói, Hội nghị Bộ Chính trị cuối năm 1974 đầu năm 1975 có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Hội nghị đã phân tích, đánh giá chính xác sự phát triển của tình hình, đề ra phương hướng hành động đúng đắn, thể hiện quyết tâm cao độ, giải phóng hoàn toàn miền Nam khi thời cơ lớn đến. Đó thực sự là ngọn đuốc soi đường dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đồng thời cũng đặt ra cho tuyến vận tải trên biển Đông - đường Hồ Chí Minh trên biển một trọng trách nặng nề.
Quán triệt thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị, Quân chủng Hải quân cùng quân dân cả nước khẩn trương chuẩn bị lực lượng. Để phục vụ kịp thời yêu cầu chiến đấu ở chiến trường miền Nam, Quân chủng Hải quân đã huy động mức cao nhất số tàu vận tải của Đoàn 125 để chở bộ đội, xe tăng và vũ khí từ miền Bắc vào chiến trường. Theo đó, tháng 2 năm 1975, Đoàn 125 nhận nhiệm vụ đợt vận chuyển mang tên T.5, đưa một số xe tăng của Bộ Tư lệnh Thiết giáp vào Đông Hà (Quảng Trị); đồng thời khẩn trương đưa một số hàng của Tổng cục Hậu cần vào bổ sung cho chiến trường, kịp thời phục vụ chiến đấu. Ngày 20 tháng 2 năm 1975, Đoàn 125 bắt đầu thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chi viện chiến trường.
Đợt đầu tiên, các tàu vận tải đổ bộ 424, 426, 428, 430, 422 đã chở 5 xe tăng với đầy đủ cơ số đạn, khí tài, nhiên liệu từ Bến Thủy vào Đông Hà. Tiếp đó, đợt 2, các tàu chở 10 chiếc xe tăng lội nước K63-85 với 5 lần chuyến vào chiến trường.
Cùng thời gian này, các tàu vận tải loại 400 tấn là 681, 683, 685 cũng rời cảng Hải Phòng đưa một khối lượng lớn hàng vào Đồng Hới an toàn.
Trong khi đó, lực lượng tàu thuyền chiến đấu của Trung đoàn 171 và K5 tăng cường hoạt động tuần tiễu ở Bắc Vĩ tuyến 17, sẵn sàng đối phó với hoạt động của hải quân địch và bảo vệ tuyến vận tải Cửa Việt - Đông Hà. Hoạt động của các đơn vị hải quân ta đã tạo nên thế uy hiếp đối với địch. Toàn bộ lực lượng hải quân ngụy ở vùng 1 duyên hải đặt trong tình trạng báo động để đối phó với lực lượng hải quân ta đột nhập từ hướng Cửa Việt.
Như vậy, cho tới thời điểm này, đường Hồ Chí Minh trên biển đã đảm bảo tốt yêu cầu của các chiến trường, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân ta tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Đầu tháng 3 năm 1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 bắt đầu. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, bộ đội ta nổ súng đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột. Đồng thời với Chiến dịch Tây Nguyên, ta thực hiện đòn tiến công chiến lược giải phóng Huế - Đà Nẵng. Lúc này, vai trò của đường Hồ Chí Minh trên biển càng quan trọng hơn bao giờ hết. Bộ Tổng tham mưu chỉ thị cho Đoàn 125 hải quân vận chuyển vũ khí và bộ đội vào sâu hơn nữa, càng sát nơi ta mở chiến dịch, càng tốt. Chấp hành mệnh lệnh, Đoàn 125 huy động toàn bộ lực lượng và phương tiện để vận chuyển người và vũ khí vào mặt trận. Hòa chung khí thế chiến đấu trên các chiến trường, các tàu được huy động thực hiện nhiệm vụ vận chuyển đã tiến hành quay vòng tăng chuyến, tăng trọng tải, tranh thủ thời gian, nhằm chở được nhiều, chở được nhanh. Trên tuyến Hải Phòng - Đồng Hới, ngoài lực lượng tàu có trọng tải 400 tấn, Đoàn 125 còn huy động thêm loại tàu trọng tải 200 tấn, như các tàu: 601, 606, 608, 609 và 605. Đến ngày 20 tháng 3, Đoàn 125 đã vận chuyển được 2.960 tấn hàng, 12 xe tăng, chi viện kịp thời cho các đơn vị đánh địch.
Sau khi giành thắng lợi ở Tây Nguyên, tình hình chiến trường diễn biến nhanh có lợi cho ta. Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quân chủng Hải quân huy động lực lượng cao nhất phục vụ chiến dịch.
Thực hiện chỉ thị này, ngày 22 tháng 3 năm 1975, Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Hải quân đã họp và quyết định: “Sẵn sàng huy động các lực lượng có thể phục vụ cho vận chuyển đáp ứng các yêu cầu đột xuất cho chiến trường với khả năng lớn nhất, đúng thời gian quy định, bảo đảm an toàn về mọi mặt. Đoàn kết chặt chẽ, hiệp đồng với các binh chủng bạn, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các quân binh chủng vào chiến trường nhanh nhất, an toàn nhất”. Thường vụ chỉ đạo Cục Kỹ thuật Quân chủng khẩn trương làm thật tốt việc bảo đảm kỹ thuật cho các tàu thuyền đi làm nhiệm vụ; có kế hoạch chuẩn bị mọi mặt cho việc đảm bảo kĩ thuật khi các đơn vị đi sâu vào phía trong.
Thực hiện quyết định của Thường vụ Đảng ủy quân chủng, Bộ Tư lệnh quân chủng đưa 50% số tàu đang bảo quản trên ụ, bãi ra sửa chữa cùng với 4 tàu cá vũ trang chuyển sang làm nhiệm vụ vận chuyển phục vụ chiến dịch. Công tác điều động, bổ sung cán bộ, chiến sĩ kĩ thuật cho các tàu vận tải được xúc tiến khẩn trương, bảo đảm đủ biên chế, công tác kiện toàn tổ chức lãnh đạo, chỉ huy được tiến hành kịp thời, các tàu đều có chi bộ đủ năng lực lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ...
Phát huy khí thế tiến công thắng lợi, Quân ủy Trung ương kiến nghị với Bộ Chính trị: Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo do quân ngụy đang chiếm giữ. Trên cơ sở đó, ngày 26 tháng 3 năm 1975, trong lúc cánh quân trên bộ của ta đang hành quân thần tốc, áp sát, mở cuộc tiến công trên 5 hướng (Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, Nam và Đông Nam) vào thành phố Đà Nẵng, Quân chủng Hải quân điều động một biên đội thuyền máy chở phân đội đặc công, do đồng chí Chỉ huy trưởng K5 trực tiếp chỉ huy, táo bạo vượt qua làn đạn bắn của địch, tiến thẳng vào bán đảo Sơn Trà, phối hợp với mũi tiến công từ phía biển. Ngày 27 và 28 tháng 3, trước sự chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ hải quân và sự bắn phá mãnh liệt của pháo binh ta, lực lượng tàu ngụy, tàu Mỹ phải dãn ra xa, huỷ bỏ kế hoạch vận chuyển quân ngụy rút chạy và di tản dân. Ngày 29 tháng 3, một phân đội đặc công hải quân đến cầu Thủy Tú, kịp thời phối hợp với các cánh quân của ta tiến công đánh chiếm toàn bộ căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà – căn cứ đầu não của vùng 1 duyên hải của Hải quân Việt Nam Cộng hòa.
Trước yêu cầu của chiến trường, Quân chủng Hải quân điều động một bộ phận lực lượng đặc công gồm 200 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Trung đoàn phó Trung đoàn 126 phụ trách, hành quân cấp tốc từ hậu phương vào, phối hợp với các lực lượng truy lùng tàn quân địch, quản lý căn cứ Đà Nẵng và tham gia giữ gìn trật tự, trị an vùng giải phóng.
Sau thắng lợi ở Huế - Đà Nẵng, ngày 31 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị nhận định: “Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt cuối cùng của địch đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà”. Bộ Chính trị hạ quyết tâm: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, lâu nhất là trong tháng 4 -1975, không để chậm”.
Để thực hiện quyết tâm đó, Bộ Chính trị đã quyết định một loạt vấn đề lớn, nhằm bảo đảm cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng toàn thắng, trong đó có quyết định thành lập Bộ Tư lệnh và Đảng ủy Mặt trận (3/4), quyết định tên chiến dịch đánh vào Sài Gòn - Gia Định là “Chiến dịch Hồ Chí Minh (14/4).
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn. Nhiệm vụ của tuyến vận tải đường biển được giao trong trận quyết chiến chiến lược này là: Vận chuyển bộ đội và phương tiện chiến đấu với số lượng cao nhất, thời gian nhanh nhất và an toàn, xây dựng lực lượng khẩn trương đáp ứng với yêu cầu chiến đấu giải phóng các đảo và tiếp quản các cơ sở hải quân địch.
Thực hiện nhiệm vụ trên, Đảng ủy Quân chủng Hải quân quyết định tập trung mọi cố gắng, nỗ lực của toàn Đảng bộ và Quân chủng, dốc sức hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Đoàn 125 tạm gác lại kế hoạch vận chuyển thường xuyên để thực hiện mục tiêu vận chuyển: Tất cả cho chiến trường, tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến đấu. Tàu 601 được lệnh nhanh chóng từ Hải Phòng vào cửa Nhật Lệ. Sau khi dỡ hàng xong là hành quân ngay vào Đà Nẵng. Tàu 641 đang trên đường làm nhiệm vụ, được lệnh ghé vào Cửa Việt chở quân đi chiến đấu. Các tàu còn lại của Đoàn đã theo sát bước tiến quân của các quân đoàn chủ lực đánh ven biển, góp phần vào mỗi thắng lợi của quân và dân ta.
Tính chung trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đoàn 125 đã huy động 143 lần tàu ra khơi, với đường hành trình là 65.721 hải lí, thực hiện chuyên chở được 8.721 tấn vũ khí, 50 xe tăng và pháo, đưa 18.741 cán bộ, chiến sĩ đi chiến đấu, đánh chìm một tàu PCR, đánh bị thương 3 tàu khác, gọi hàng một tàu, bắt 42 tên địch.
Cũng trong những ngày nước sôi lửa bỏng này, chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương là cùng với Quân khu 5 “nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhanh nhất, đánh chiếm các đảo do quân ngụy miền Nam chiếm đóng thuộc quần đảo Trường Sa, Quân chủng Hải quân đã sử dụng tàu của Đoàn 125 để chở bộ đội đặc công của Đoàn 126 hải quân và lực lượng vũ trang khác ra giải phóng đảo. Chủ trương là tiến đánh giải phóng đảo Song Tử Tây trước, tiếp đó, tiến công các đảo Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa và các đảo còn lại, không cho địch kịp tăng viện đối phó. Bộ Tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ cho đồng chí Hoàng Hữu Thái, Phó Tư lệnh Quân chủng phụ trách. Tham gia Sở Chỉ huy có đồng chí Trần Phong, Tham mưu phó Đoàn 125. Nhận rõ trách nhiệm được giao, Đoàn 125 cử 3 tàu 673, 674 và 675, do đồng chí Trần Phong và đồng chí Dương Tấn Kịch chỉ huy, tiến đánh giải phóng các đảo ở quần đảo Trường Sa... Chiến thắng giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa là một trong những chiến thắng có ý nghĩa chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân ta nổ súng tiến công đồng loạt trên các hướng, tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn quân chủ lực ngụy và tiến vào trung tâm thành phố Sài Gòn, buộc Tổng thống và toàn bộ nội các Việt Nam cộng hoà đầu hàng. 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, thành phố Sài Gòn hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu kết thúc thắng lợi. 13 giờ cùng ngày, các lực lượng hải quân ta tiến vào tiếp quản cơ quan Bộ Tư lệnh Hải quân quân đội Sài Gòn đóng ở trại Bạch Đằng, cơ quan Bộ Tư lệnh hạm đội, Xưởng Ba Son, Bộ Tư lệnh sư đoàn lính thủy đánh bộ, trại Trịnh Minh Thế và một số vị trí khác. Tiếp đó, bộ đội hải quân ra giải phóng Côn Đảo, rồi phối hợp cùng lực lượng vũ trang Quân khu 9 giải phóng một số đảo ở phía Nam và Tây Nam Tổ quốc. Thắng lợi trong việc giải phóng các đảo này cũng là kết thúc nhiệm vụ của bộ đội hải quân trong quá trình tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đồng thời cũng kết thúc sứ mệnh lịch sử của đường Hồ Chí Minh trên biển.
Có thể nói, đường Hồ Chí Minh trên biển có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung và Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nói riêng. Những chiến công mà đường Hồ Chí Minh đóng góp cho ngày toàn thắng của dân tộc là một biểu tượng sáng ngời về tài thao lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân độc đáo, tài tình, sáng tạo của Đảng, của Quân ủy Trung ương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, hiện thân cuả lòng quả cảm, trí thông minh, ý chí sắt đá, tình cảm thiêng liêng vì miền Nam ruột thịt. Chiến tranh đã lùi xa gần 40 năm, đất nước ta đang trên con đường đổi mới và hội nhập quốc tế, song đường Hồ Chí Minh trên biển với bao chiến công huyền thoại, đặc biệt là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, vẫn mãi là niềm tự hào, nguồn cổ vũ lớn lao cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tiến lên xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, văn minh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc XI của Đảng. Phát huy khí thế cách mạng hào sảng đó, toàn thể cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam nguyện sẽ tiếp nối truyền thống anh hùng, quyết tâm bảo vệ vững biển thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam thân yêu.
Từ Đoàn 759 đến Đoàn 125 bước phát triển cả về lượng và chất của lực lượng vận tải đường Hồ Chí Minh trên biển
Đại tá Bùi Tiến Thành, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 125 Hải Quân
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta, để chi viện trực tiếp vũ khí, trang bị cho cách mạng miền Nam, cùng với tuyến vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở tuyến vận tải quân sự chiến lược trên biển. Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Đoàn 759 được thành lập, Trung tá Đoàn Hồng Phước được bổ nhiệm làm Đoàn trưởng, Trung tá Võ Huy Phúc được bổ nhiệm làm Chính ủy. Thượng tá Võ Bẩm được giao nhiệm vụ làm Tư lệnh Đoàn 759. Đoàn 759 trực tiếp đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương và Bộ quốc phòng; trụ sở đặt tại số nhà 83 Lý Nam Đế, Hà Nội. Ngày đầu thành lập, Đoàn 759 chỉ có 38 cán bộ, trong đó có 20 người vừa từ chiến trường Nam Bộ ra. Tháng 8 năm 1963, Quân ủy Trung ương quyết định giao Đoàn 759 cho Quân chủng Hải quân và đến ngày 29 tháng 01 năm 1964, Đoàn 759 được đổi phiên hiệu thành Lữ đoàn 125 Hải quân, do Tư lệnh và Chính ủy Bộ Tư lệnh Hải quân trực tiếp chỉ đạo. Sau đó ít lâu, Lữ đoàn 125 Hải quân chuyển trụ sở từ số 83 Lý Nam Đế, Hà Nội xuống số 106 Hồng Bàng, Hải phòng. Tính từ ngày ra đời đến nay, Lữ đoàn 125 vừa tròn 50 tuổi; trong đó, có hơn 10 năm làm nhiệm vụ trực tiếp chi viện vũ khí, hàng hóa đặc biệt cho chiến trường miền Nam - những nơi mà tuyến vận tải Trường Sơn không vươn tới được. Hơn mười năm làm nhiệm vụ vẻ vang ấy là giai đoạn đầy khó khăn, gian khổ, ác liệt, hy sinh. Song, với tinh thần quả cảm, táo bạo, mưu trí và sáng tạo, cán bộ chiến sỹ Lữ đoàn 125 đã lập lên những chiến công đặc biệt xuất sắc, đưa được hàng trăm lượt con tàu, chở được hàng ngàn tấn vũ khí, trang bị chi viện kịp thời, hiệu quả cho đồng bào miền Nam đánh giặc.
Ngay sau khi được thành lập, Đoàn đã nhanh chóng xây dựng lực lượng, xây dựng đề án công tác thông qua Quân ủy Trung ương và Bộ quốc phòng. Nội dung đề án vạch rõ: Phương pháp vận chuyển là tận dụng những phương tiện thô sơ, nửa hiện đại, tương đối hiện đại, có thể hoạt động quanh năm, trong mọi thời tiết. Phương châm hoạt động: Kết hợp phương thức hợp pháp với bất hợp pháp, lấy phương thức hợp pháp là chủ yếu; quá trình vận chuyển phải chủ động, táo bạo, bất ngờ, linh hoạt đối phó với địch, khi bị lộ phải kiên quyết chiến đấu bảo vệ hàng, nếu cần thì hủy tàu phi tang.
Sau Đồng khởi năm 1960, cách mạng miền Nam đã phát triển mạnh mẽ cả trên 3 vùng chiến lược, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Cách mạng miền Nam đã giành thế chủ động, chính quyền Ngô Đình Diệm đứng trước nguy cơ sụp đổ. Đầu năm 1961, Kennơđi bước vào Nhà Trắng làm Tổng thống thay Aixenhao và quyết định triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam, lực lượng yểm trợ của Mỹ ở miền Nam lên tới 11.300 tên, quân đội Việt Nam Cộng hòa - công cụ chủ yếu để thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, được gia tăng lên 354.000 tên (tính đến đầu 1962).
Trước tình hình đó, ngày 26 tháng 2 năm 1962; Bộ Chính trị ra Nghị quyết về “Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam”. Nội dung nghị quyết chỉ rõ: Đế quốc Mỹ tiến thêm một bước trong chính sách can thiệp, bắt đầu vũ trang xâm lược miền Nam, điều đó gây khó khăn cho cách mạng miền Nam, làm cho cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt, gay go... Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: Đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị, củng cố và mở rộng căn cứ địa, giành và giữ thế chủ động, tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, nhất là xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang của miền, quân khu; đẩy mạnh tác chiến tập trung, tích cực xây dựng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, làm lực lượng hỗ trợ cho đấu tranh chính trị ở ấp xã; tập trung phá cho được quốc sách ấp chiến lược của địch, coi đây là nhiệm vụ trước mắt và công tác lâu dài.
Trong thời gian này, trên toàn tuyến chi viện Trường Sơn, Đoàn 559 đã đưa được số lượng tương đối lớn về người và vũ khí, đạn dược....vào Khu 5, nhưng chiến trường Nam Bộ vẫn bỏ ngỏ, “chờ” tuyến đường biển.
Nhận rõ trách nhiệm của mình, Đoàn 759 vừa ổn định tổ chức, vừa tích cực chuẩn bị tàu thuyền, tu sửa những chiếc thuyền từ Nam ra đã bị hư hỏng (3 chiếc). Qua một thời gian sửa chữa, chỉ huy Đoàn thấy thuyền của Bạc Liêu đã sửa chữa khá tốt. Sau khi báo cáo, xin ý kiến và được Quân ủy Trung ương chấp thuận, Đoàn 759 quyết định cử thuyền Bạc Liêu, với đội thủy thủ gồm 6 người, do đồng chí Bông Văn Dĩa làm thuyền trưởng, tiến hành chuyến trinh sát mở đường từ Bắc vào Nam. Đầu tháng 4 năm 1962, Trung tướng Trần Văn Trà và Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh đến động viên và căn dặn: Nhiệm vụ của đội thuyền khi trở lại Nam Bộ là báo cáo Khu ủy chủ trương của Trung ương về việc đưa vũ khí vào Nam Bộ; đề nghị Khu ủy chuẩn bị bến bãi để nhận hàng theo 3 phương án mà Trung ương dự kiến:
Phương án 1: Lấy đảo Thổ Chu, Phú Quốc, Nam Du, Hòn Ông, Hòn Bà làm căn cứ lâu dài;
Phương án 2: Lấy khu vực Hòn Chuối và cửa sông Bãi Hấp làm chỗ sang hàng hoặc thả hàng xuống biển;
Phương án 3: Lấy cửa sông khu vực Cà Mau làm nơi chuyển hàng vào (phương án dự bị).
Đêm 10 tháng 4 năm 1962, thuyền rời Nhật Lệ (Quảng Bình) đi về hướng Nam. Đến10 giờ, ngày 18 tháng 4 năm 1962, thuyền cập bến Vàm Lũng an toàn. Chuyến đi trinh sát thành công tốt đẹp. Sau khi làm việc với Khu ủy và nắm tình hình các bến bãi, ngày 26 tháng 7 năm 1962, Bông Văn Dĩa cùng đội tàu trở ra báo cáo Trung ương. Trung tuần tháng 5 năm 1962, Quân uỷ Trung ương thông qua nghị quyết mở đường vận chuyển chiến lược trên biển. Bắt đầu từ đây, Đoàn 759 bước vào giai đoạn vận chuyển để làm nên con đường huyền thoại trên biển với những kỳ tích có một không hai trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cũng bắt đầu từ đây, những con tàu “không số” xuất hiện để đảm trách sứ mệnh lịch sử vận chuyển sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Sau khi nhận bàn giao 4 thuyền gỗ từ xưởng đóng tàu I Hải Phòng (8.1962), đêm 11 tháng 10 năm 1962, Đoàn 759 tiến hành chuyến vận tải bằng thuyền gỗ đầu tiên mang mật danh “Phương Đông I”, do đồng chí Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, Bông Văn Dĩa làm Chính trị viên, chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) lên đường đi Cà Mau. Đến ngày 16 tháng 10 năm 1962, thuyền cập bến cửa Vàm Lũng an toàn. Tin vui thắng lợi của chuyến chở vũ khí đầu tiên vào Cà Mau được báo cáo lên Hồ Chủ tịch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Hồ Chủ tịch đã gửi điện biểu dương, đồng thời chỉ thị: Hãy nhanh chóng rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh, nhiều vũ khí hơn nữa cho đồng bào miền Nam đánh giặc, cho Nam Bắc sum họp một nhà.
Chấp hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, chiến sĩ của Đoàn không ngừng học tập chuyên môn, kỹ năng đi biển, tu sửa tàu thuyền, thay dần tàu gỗ bằng tàu sắt, tăng dần các chuyến đi trong tháng. Chỉ trong vòng năm 1962, Đoàn 759 đã đi được 28 chuyến vào Nam Bộ, chở được 1.318 tấn vũ khí cho chiến trường. Có thể nói, không có một phương thức nào trong một thời gian ngắn có thể đưa được nhiều vũ khí như vậy vào Nam Bộ. Từ yêu cầu của cách mạng miền Nam trong đó có Đông Nam Bộ, Quân ủy Trung ương lệnh cho Đoàn mở đường mới, vào bến mới, chiến trường mới, chở vũ khí chi viện cho Đông Nam Bộ. Đêm 26 tháng 9 năm 1963, chiếc thuyền gỗ mang số hiệu 41, chở 18 tấn vũ khí xuất phát tại cảng Bính Động (Thuỷ Nguyên - Hải Phòng), sau một tuần hành trình trên biển, với biết bao khó khăn, thử thách ác liệt trước sự lùng sục gắt gao của địch và điều kiện khắc nghiệt của biển cả, cuối cùng thuyền 41 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Ghi nhận những chiến công đặc biệt xuất sắc này, tháng 9 năm 1963, Quốc hội và Chính phủ ra quyết định tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai cho Đoàn 759; đồng thời tặng các phần thưởng cao quý khác cho tám tập thể thuộc Đoàn.
Cần phải nói thêm rằng, từ giai đoạn này, trên chiến trường Nam Bộ, Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ, quân và dân ta đã thu được nhiều thắng lợi, phong trào cách mạng đang lên cao. Đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn cho rằng, mối đe doạ chúng hiện nay chính là nguồn sức mạnh chi viện từ hậu phương miền Bắc. Vì vậy từ đầu năm 1964, chúng chủ trương tiến hành một chiến dịch bóp nghẹt, kiểm soát chặt chẽ tuyến vận tải quân sự xuyên Trường Sơn, ngăn chặn biên giới đất liền và tăng cường tuần tiễu mặt nước, các cửa sông biển, bến bãi, chống thâm nhập bằng đường biển.
Tiếp tục phát huy những thành quả và kinh nghiệm đã có, sau khi được đổi phiên hiệu thành Đoàn 125, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Hải quân đã tập trung lãnh đạo chỉ đạo Đoàn nhanh chóng củng cố kiện toàn tổ chức, ổn định mọi mặt để nhanh chóng bước vào thực hiện nhiệm vụ được ngay. Trong Quý I năm 1964, Đoàn 125 nhận bàn giao 5 tàu sắt có trọng tải 50 tấn. Bộ Quốc phòng và Quân chủng Hải quân đặt ở nước ngoài đóng thêm 15 chiếc có trọng tải 100 tấn. Bộ Tư lệnh Hải quân đã điều động từ các đơn vị trong Quân chủng 300 cán bộ, chiến sỹ trẻ, khỏe, chịu đựng sóng tốt bổ sung cho Đoàn. Bên cạnh những cán bộ, chiến sỹ có tuổi, nhiều kinh nghiệm đi biển người miền Nam, là một lớp cán bộ mới, từ đội ngũ thanh niên làm nghĩa vụ quân sự người miền Bắc, được đào tạo cơ bản, chính quy. Hai thế hệ bổ sung hỗ trợ cho nhau, cùng góp sức xây dựng đơn vị ngày càng trưởng thành lớn mạnh.
Tàu HQ-11 - Hải quân được phong tặng
Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (ngày 11-6-1999)
Quân số tăng, Đoàn tổ chức hai tiểu đoàn. Một tiểu đoàn phụ trách cảng Đồ Sơn, một tiểu đoàn phụ trách cảng Bính Động. Công tác đảng, công tác chính trị được tăng cường, mỗi tàu có một chi bộ, một chi đoàn. Cơ quan lãnh đạo, chỉ huy được kiện toàn, củng cố, nền nếp chính quy được xây dựng, mọi chế độ, quy định, điều lệ, điều lệnh được giữ nghiêm... Đoàn đặc biệt chú trọng đến công tác huấn luyện, ngoài những chuyến công tác, thời gian còn lại dành cho công tác học tập và huấn luyện, củng cố xây dựng kho tàng, bến bãi và phương tiện thông tin liên lạc đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà cấp trên giao phó.
Bằng sự nỗ lực vượt bậc, nhất là luôn tự sáng tạo, đổi mới phương thức, phương tiện vận tải, nên trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, dù có những mất mát, tổn thất không nhỏ về người, phương tiện và hàng hóa, nhưng chiến công mà Đoàn 759 - Đoàn 125 đã giành được thật to lớn và hiệu quả. Từ năm 1961 đến tháng 4 năm 1975, Đoàn 125 đã vận chuyển được 44.324 tấn vũ khí, trang bị, hàng hoá. Riêng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975; thực hiện chỉ thị “thần tốc” của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, phải kịp thời chuyển thật nhanh những vũ khí hạng nặng và hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ vào miền Tây, kịp thời hiệp đồng tác chiến với các cánh quân đường bộ. Theo đó, Đoàn 125 đã tiến hành vận chuyển 130 lần với 143 chuyến tàu, chở 8.741 tấn vũ khí hạng nặng gồm 50 xe tăng và pháo lớn; đưa 18.741 cán bộ, chiến sĩ vượt 65.721 hải lý để kịp thời bảo đảm cho các hướng chiến trường.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, phát huy truyền thống của tuyến vận tải quân sự chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đoàn 125 - Lữ đoàn vận tải quân sự 125 Hải quân, được xây dựng, phát triển và trưởng thành, tiếp tục làm nhiệm vụ vận tải quân sự chi viện cho quần đảo Trường Sa, cho các vùng biển, hải đảo khác; tham gia trực, chốt, bảo vệ chủ quyền tại Thanh Long và DK1; tham gia cứu hộ, cứu nạn... góp phần cùng Quân chủng Hải quân bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.
Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc ngày càng khẩn trương, phức tạp, nặng nề, từ những tàu sắt trọng tải nhỏ, dần theo thời gian, Lữ đoàn 125 được Nhà nước và Bộ Quốc phòng trang bị nhiều phương tiện vận tải lớn, với nhiều trang thiết bị hiện đại. Đi cùng với việc tăng cường, đổi mới phương tiện, trang bị quân sự, đội ngũ cán bộ, chiến sỹ, quân nhân chuyên nghiệp của Lữ đoàn cũng được chăm lo đào tạo, huấn luyện cơ bản. 100% cán bộ, chiến sỹ, quân nhân chuyên nghiệp đều được đào tạo qua Học viện Hải quân và Trường Trung học kỹ thuật Hải quân (trong đó có 34 đồng chí, chiếm 14,8%, được đào tạo tiếng Anh trình độ TOFIC 450). Đây thực sự là bước trưởng thành vượt bậc toàn diện của Lữ đoàn và cũng chính là nhân tố quyết định đảm bảo cho đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Quân chủng và Bộ Quốc phòng giao phó trong tình hình mới; trong đó, nhiệm vụ vận tải hàng hóa và bảo đảm cơ động phục vụ bộ đội ở Trường Sa là trọng tâm hàng đầu.
Thời gian trước năm 1988, Đoàn 125 vận chuyển khối lượng trung bình là 3.500 tấn mỗi năm, thì những năm 1995 - 1996 khối lượng vận chuyển tăng lên 35.000 tấn mỗi năm. Tiếp đó, năm 1998, 100% tàu của Đoàn tham gia vận chuyển được 81 lần chuyến, trong đó 29 lần chuyến cho quần đảo Trường Sa và chở được 21.877 lượt cán bộ, chiến sỹ, với hành trình 36.287 hải lý; năm 1999, vận chuyển 31.000 tấn hàng, trong đó có 8 lần chuyến phục vụ diễn tập (vượt 115% kế hoạch trên giao), chở được 1.323 lượt người, đi được 44.583 hải lý an toàn; năm 2000, vận chuyển được 27.900 tấn và 10.332 lượt cán bộ, chiến sỹ, đi được 20.977 hải lý an toàn (vượt 100,5% kế hoạch).
Từ năm 2009 đến nay, Lữ đoàn thường xuyên thực hiện nhiệm vụ vận tải phục vụ bộ đội Trường Sa. Tuy điều kiện thủy văn không thuận lợi, nhưng cán bộ, chiến sỹ luôn khắc phục khó khăn, có lúc phải chấp nhận hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ. Trung bình mỗi năm vận chuyển từ 25.000 đến 45.000 tấn và hơn 7000 lượt cán bộ, chiến sỹ và dân qua lại giữa đảo và đất liền, đi được 10.609.198 hải lý an toàn.
Bên cạnh nhiệm vụ chủ yếu là vận tải phục vụ quần đảo Trường Sa, Lữ Tàu HQ-11 - Hải quân được phong tặng Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (ngày 11-6-1999) Đoàn còn tham gia làm nhiệm vụ trực, chốt, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, cứu hộ, cứu nạn, huấn luyện, bắn đạn thật trên biển, làm nhiệm vụ BM, CV, tham gia nhiều cuộc diễn tập ... Tuy hàng ngày, hàng giờ phải đối mặt với các hoạt động quấy rối, cản trở, phá hoại của tàu nước ngoài, nhưng cán bộ, chiến sỹ, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân viên quốc phòng của đơn vị luôn an tâm công tác, xác định rõ nhiệm vụ, bình tĩnh, tự tin, khôn khéo, kiên trì, luôn vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chấp hành đúng đối sách trên biển, xử lý linh hoạt các tình huống trên biển, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ Bộ Quốc phòng và Quân chủng giao cho, tô thắm truyền thống: “Mưu trí dũng cảm, khắc phục khó khăn, vận tải đường biển, chi viện chiến trường, quyết chiến, quyết thắng”; tiếp tục giữ gìn, phát huy truyền thống của các thế hệ cha, anh đi trước, đó cũng chính là thực hiện lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu: “… Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.
Trải qua 50 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, Lữ đoàn vận tải quân sự 125 Hải quân vinh dự được Đảng, Nhà nước hai lần tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; nhiều tập thể và cá nhân được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân cùng nhiều phần thưởng cao quý khác. Ngày nay, Lữ đoàn là đơn vị vận tải chiến đấu chủ lực của Quân chủng Hải quân, được trang bị nhiều phương tiện hiện đại; cán bộ, chiến của Lữ đoàn luôn nguyện đoàn kết một lòng, ra sức học tập và rèn luyện, xây dựng Lữ đoàn ngày một lớn mạnh, mãi mãi xứng đáng với truyền thống vẻ vang đơn vị Anh hùng, truyền thống của tuyến vận tải quân sự chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh - con đường huyền thoại trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao trong giai đoạn cách mạng mới./.
Kim Yến (st)