Thứ bảy, 21/12/2024

Chỉ mục bài viết

 

HT duong HCM tren bien phan 11 anh 1
Thiếu tướng, PGS, TS Nguyễn Vĩnh Thắng

Sức mạnh chính trị tinh thần trên tuyến vận tải biển chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Thiếu tướng, PGS, TS. Nguyễn Vĩnh Thắng
Viện trưởng Viện KHXHNVQS

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, tuyến đường Đường Hồ Chí Minh trên biển đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh lịch sử của mình và mãi mãi đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc như một bản anh hùng ca bất hủ, khẳng định sự sáng tạo vĩ đại của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, của quân và dân ta.

Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước ta vẫn tạm thời chia làm hai miền, miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng bào miền Nam ruột thịt vẫn phải sống dưới ách quân xâm lược và bè lũ tay sai. Mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội vẫn chưa được thực hiện trọn vẹn. Quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành ý chí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nói chung và của cán bộ, chiến sỹ Bộ đội Hải quân nói riêng.

Ngày 13 tháng 01 năm 1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II đã xác định rõ nhiệm vụ và vạch ra đường lối cho cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới, khẳng định con đường giải phóng miền Nam phải bằng con đường cách mạng bạo lực. Thực hiện chủ trương của Hội nghị Trung ương lần thứ 15 về nhiệm vụ chi viện cho miền Nam, theo Chỉ thị của Bộ Chính trị, tháng 5 năm 1959, Tổng Quân ủy quyết định thành lập một cơ quan nghiên cứu mở đường vận tải trên bộ để đưa lực lượng, vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Tháng 7-1959, Tổng Quân ủy đã quyết định tổ chức đường vận tải trên biển.

Từ việc “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh” được thành lập tháng 7 năm 1959, có nhiệm vụ mở đường biển chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam, đã tổ chức chuyến vượt biển đầu tiên, song gặp phải bão gió, sóng to, thuyền bị hỏng lái, chuyến vượt biển không thành nhưng tuyến đường vận tải trên biển vẫn giữ được bí mật tuyệt đối; rồi những chuyến tàu từ miền Nam vượt biển ra Bắc vừa thăm dò, mở đường, vừa nghiên cứu phương tiện vận chuyển trên biển, nếu có điều kiện thì chở vũ khí về, đến việc ra đời Đoàn 759 với nhiệm vụ chi viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển đã đánh dấu quyết tâm không gì lay chuyển nổi của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về chi viện sức người sức của cho cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam ruột thịt.

Đường Hồ Chí Minh trên biển là tuyến đường mà cán bộ, chiến sỹ ta vừa tận dụng được những thuận lợi lại vừa phải vượt qua nhiều khó khăn, nguy hiểm. Vùng biển của ta gắn với Biển Đông rộng lớn, có đường hàng hải quốc tế đi qua với mật độ tàu thuyền đi lại rất đông. Ven biển Nam Bộ có nhiều kênh rạch, nhiều tàu bè của dân cư làm ăn là điều kiện thuận lợi để lực lượng vận tải của ta có thể lợi dụng để trà trộn với thuyền dân vận chuyển hàng hoá chi viện cho chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, vùng biển đảo từ vĩ tuyến 17 trở vào phía Nam do Mỹ và chính quyền Sài Gòn kiểm soát, khi xa bờ, việc xác định vị trí tàu sẽ gặp khó khăn vì vùng biển mới, lạ và ít các mục tiêu địa văn. Địa hình khu vực miền Trung nước ta lại trống trải hơn, khó khăn cho công tác nguỵ trang tàu thuyền. Hơn nữa, các yếu tố địa hình, thời tiết, khí hậu thuỷ văn như bãi cạn, đá ngầm, bão gió, dòng chảy, sương mù, đêm tối… cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các lực lượng làm nhiệm vụ trên biển chi viện miền Nam.

Đường Hồ Chí Minh trên biển là nơi hội tụ đầy đủ sức mạnh chính trị - tinh thần của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sức mạnh chính trị - tinh thần trên tuyến đường chiến lược vận tải biển là biểu hiện của ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội; tình cảm của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn; tinh thần khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, hy sinh, ý chí, quyết tâm, bản lĩnh, trí tuệ, lòng dũng cảm, sự thông minh, sáng tạo của cán bộ, chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam. Họ luôn luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, thông minh, quyết đoán, táo bạo, nhất là những lúc hiểm nguy, sẵn sàng lao thẳng vào tàu địch, chiến đấu đến phút cuối cùng để bảo vệ vũ khí, trang bị, giữ bí mật về chủ trương của Đảng, về con tàu, về bến, bãi. Đó là tinh thần vượt qua mọi khó khăn, thử thách, ác liệt khi phải đối mặt với kẻ thù, với thiên nhiên, với những tình cảm riêng tư để bảo vệ bí mật cho con đường vận tải chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển. Những chuyến vượt biển là những chuyến đi của tình đồng chí, đồng đội, lòng yêu thương gắn bó như anh em ruột thịt, đồng cam, cộng khổ, sẵn sàng nhận khó khăn, hy sinh về mình, giành thuận lợi, sự sống cho đồng đội, của tinh thần đoàn kết, kề vai sát cánh chiến đấu giữa quân đội với nhân dân; của tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức và hành động kỷ luật tự giác, nghiêm minh của cán bộ, chiến sỹ Hải quân.

Sức mạnh chính trị - tinh thần trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển được biểu hiện phong phú, sinh động trong các hoạt động của các cán bộ, chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam và của đồng bào hai miền Nam Bắc trong phục vụ chi viện sức người, sức của cho miền Nam chiến đấu và chiến thắng.

Đó là hoạt động của cán bộ, chiến sỹ Hải quân trong việc trực tiếp vận tải chở vũ khí, trang bị và bộ đội từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam trong những chuyến đi đầy khó khăn, gian khổ và căng thẳng. Mỗi một chuyến tàu ra đi, cán bộ, chiến sỹ phải đối mặt với những thiếu thốn, nhọc nhằn, những sự cố trên đường, những lần gặp địch, những lúc lạc bến, những ngày thả trôi, đói khát, say sóng và mưa nắng thất thường; thậm chí ra đi là xác định cảm tử, xác định hy sinh. Đó là, hoạt động của đồng bào miền Bắc trong việc giúp cán bộ, chiến sỹ Hải quân ổn định nơi ăn ở để làm nhiệm vụ, tham gia làm nhiệm vụ đóng tàu từ tàu gỗ đến tàu vỏ sắt và tham gia vận chuyển hàng hóa, vũ khí, trang bị để các đoàn tàu vận chuyển vào Nam. Đó là hoạt động của đồng bào và chiến sỹ miền Nam trong việc tìm kiếm bến, bãi, bốc dỡ, vận chuyển hàng hóa, vũ khí và bảo vệ các con tàu. Đó là sự giúp đỡ, đùm bọc, chở che của nhân dân địa phương, các đơn vị ở các bến, bãi đối với cán bộ, chiến sỹ trong những điều kiện vô cùng khó khăn, ác liệt dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù và sự khắc nghiệt của địa hình, khí hậu, thời tiết.

Như vậy, sức mạnh chính trị - tinh thần trên tuyến đường chiến lược vận tải biển là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần vào thắng lợi của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sức mạnh ấy được bắt nguồn từ những nhân tố cơ bản sau:

Một là, đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.

Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin, lý luận về chiến tranh nhân dân, về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vào điều kiện cụ thể của chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang cách mạng ở nước ta; kế thừa và phát huy truyền thống và kinh nghiệm đánh giặc giữ nước của dân tộc ta; kết hợp với những kinh nghiệm quý báu của quân đội và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa vào điều kiện cụ thể của nước ta để đề ra đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo.

Đó là đường lối chính trị lãnh đạo toàn dân hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, đồng thời tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời ra sức tranh thủ viện trợ quốc tế.

Đó là quyết định đúng đắn của Bộ Chính trị, của Tổng Quân ủy về tổ chức đường vận tải chiến lược trên biển để đưa lực lượng, vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam, thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng ta là kịp thời chi viện vũ khí đạn dược cho lực lượng vũ trang và nhân dân miền Nam đánh thắng các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và tay sai. Chính đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta là ngọn cờ tập hợp lực lượng, động viên, cổ vũ quân và dân ta nói chung, cán bộ, chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng phát huy tinh thần yêu nước, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.

Hai là, sự quan tâm chỉ đạo, động viên, cổ vũ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân.

Đêm 11 tháng 10 năm 1962, chuyến thuyền gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn, Hải Phòng lên đường đi Cà Mau… Ra tiễn đoàn thủy thủ có các đồng chí Phạm Hùng, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà… Đồng chí Phạm Hùng thay mặt Trung ương Đảng căn dặn và đặt niềm tin vào các thủy thủ…

Đồng chí Bông Văn Dĩa thay mặt anh em hứa hoàn thành nhiệm vụ, đáp ứng lòng mong mỏi của Đảng bộ và nhân dân Nam Bộ. Và khi tin vui thắng lợi của  chuyến chở vũ khí đầu tiên vào Cà Mau được báo cáo lên Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bác Hồ đã điện biểu dương cán bộ, chiến sỹ, công nhân đã đóng góp công sức lập nên chiến công xuất sắc đó. Bác đã chỉ thị: Nhanh chóng rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh, nhiều vũ khí hơn nữa cho đồng bào miền Nam đánh giặc, cho Nam - Bắc sớm sum họp một nhà(1).

Ba là, sự quan tâm giúp đỡ của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến và tinh thần, ý chí quyết tâm của đồng bào, đồng chí miền Nam trong việc quyết tâm vận chuyển lực lượng và vũ khí chi viện cho miền Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa là nơi chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam chiến đấu và chiến thắng. Sức mạnh chính trị - tinh thần trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển bắt nguồn từ sự quan tâm giúp đỡ, cổ vũ to lớn của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam. Đúng như V.I.Lênin đã khẳng định: “...Mọi biện pháp giúp đỡ của hậu phương đối với Hồng quân đều lập tức tăng cường sức mạnh của Hồng quân, nâng cao tinh thần của họ, giảm bớt số người ốm đau và tăng thêm năng lực tấn công của họ”(2).

Trong khi chờ phương thức vận chuyển vũ khí từ miền Bắc bằng đường biển vào miền Nam, dưới dự chỉ đạo của Trung ương, các tỉnh Nam Bộ đã tích cực, chủ động chuẩn bị bến, bãi và cho thuyền ra miền Bắc vừa thăm dò, mở đường, vừa nghiên cứu phương tiện vận chuyển trên biển và nếu có điều kiện thì chở vũ khí về miền Nam. Từ giữa năm 1961 đến đầu năm 1962, mặc dầu gặp rất nhiều khó khăn, nhưng 5 con thuyền của Nam Bộ đã ra tới miền Bắc và những người con của thành đồng Tổ quốc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn và các đồng chí trong Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đón tiếp ân cần.

Bốn là, thường xuyên tiến hành tốt công tác đảng, công tác chính trị cho cán bộ, chiến sỹ trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Tiến hành tốt công tác đảng, công tác chính trị là một trong những biện pháp quan trọng để củng cố và phát triển tinh thần chiến đấu của quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải tăng cường công tác chính trị... tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội”(3).

Để phát huy sức mạnh tổng hợp, trước hết là sức mạnh chính trị - tinh thần, đồng thời, khắc phục những khó khăn của ta trong việc thực hiện nhiệm vụ  trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển, trong công tác chuẩn bị mọi mặt cho hoạt động của lực lượng vận tải trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 759 - tiền thân của Lữ đoàn 125 ngày nay đã tập trung sức tiến hành nhiều biện pháp, hình thức hoạt động công tác đảng, công tác chính trị. Ngay sau khi được thành lập, cùng với công tác tập luyện kéo lưới, chịu đựng sóng gió, lấy phương hướng theo sao, theo địa hình…là công tác bồi dưỡng chính trị và xây dựng quyết tâm cho cán bộ, chiến sỹ. Tập đoàn đánh cá Sông Gianh đã tổ chức nhiều đợt học tập để nâng cao giác ngộ chính trị, lập trường giai cấp, ý thức căm thù địch cho cán bộ, chiến sỹ, từ đó xây dựng tinh thần dũng cảm, hy sinh, chịu đựng gian khổ. Trong qua trình hoạt động, công tác Đảng, công tác chính trị đã tiến hành giáo dục chính trị, tư tưởng một cách hết sức sâu rộng, làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ thấm nhuần sâu sắc ý nghĩa to lớn về nhiệm vụ của cán bộ, chiến sỹ trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Những biện pháp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, đặc biệt là những bức thư, điện động viên của Bác Hồ, của Quân ủy Trung ương, của Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân đã làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ quán triệt sâu sắc  nghĩa to lớn về nhiệm vụ của cán bộ, chiến sỹ trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển, trên cơ sở đó xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ tinh thần khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, hy sinh, quyết chiến, quyết thắng.

Như vậy, có thể thấy sức mạnh chính trị - tinh thần trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển là kết tinh của sức mạnh tinh thần dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước được nâng lên một tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Sức mạnh chính trị - tinh thần đó bắt nguồn từ đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ sự quan tâm giúp đỡ, động viên, cổ vũ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy Trung ương, của Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam, đến ý chí quyết tâm của cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam và việc thường xuyên tiến hành tốt công tác đảng, công tác chính trị trong cán bộ, chiến sỹ trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Sức mạnh chính trị - tinh thần trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã được khơi dậy đến đỉnh cao trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với “Đại thắng mùa Xuân 1975” góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Kỷ niệm 50 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển, tự hào về sức mạnh chính trị - tinh thần vô địch của quân đội và nhân dân ta nói chung, của cán bộ, chiến sỹ trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển nói riêng, lực lượng vận tải Hải quân tiếp tục phát huy bản chất tốt đẹp, truyền thống vẻ vang của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng; thực hiện tốt phương hướng xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, trước hết là xây dựng sức mạnh chính trị - tinh thần, trên cơ sở đó phát huy tốt vai trò của vũ khí trang bị kỹ thuật, của khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam... tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, góp phần xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

Tuyến vận tải chiến lược Hồ Chí Minh trên biển với những chuyến hàng quân sự chi viện cho chiến trường Khu 5 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Thiếu tướng Lê Văn Hoàng
Phó Chính ủy Quân khu 5

Mạng lưới vận tải là huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến, là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh trong tiến hành các hoạt động tác chiến. Để cách mạng miền Nam giành thắng lợi trước kẻ thù lớn mạnh, đòi hỏi ta phải có lực lượng, có vũ khí trang bị… Yêu cầu phải có những tuyến đường chi viện chiến lược. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương 15, đường Trường Sơn ra đời (1959).

Đầu năm 1960, Bộ Chính trị quyết định mở rộng tuyến vận tải chi viện chiến lược, trước mắt phải mở đường biển chuyển vũ khí vào miền Nam(4). Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Đoàn 759 vận tải quân sự đường biển thành lập(5). Nhiệm vụ chủ yếu của Đoàn 759 là chở vũ khí vào miền Nam. Giữa cuối năm 1964, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Bộ Tổng Tham mưu phối hợp với Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu mở bến, thực hiện chi viện vũ khí cho Khu 5.

Lúc này, trên chiến trường Khu 5, địch dùng “trực thăng vận”, “thiết xa vận” tiến hành “bủa lưới phóng lao” các căn cứ cách mạng, hòng buộc ta phải bị động đối phó để chúng rảnh tay gom dân lập “ấp chiến lược”, nhằm “tát nước bắt cá”. Liên tiếp trong ba năm (1962 - 1964), địch mở ba cuộc hành quân quy mô lớn vào căn cứ Nước Là - mật khu Đỗ Xá (Trà My, Quảng Nam) - “Thủ đô kháng chiến” của Khu 5. Trước những khó khăn của phong trào cách mạng Khu 5(6), tháng 6 năm 1964, đồng chí Võ Chí Công - Bí thư Khu ủy 5, chủ trì Hội nghị Thường vụ Khu ủy kiểm điểm công tác phá ấp giành dân. Hội nghị quyết định quán triệt đường lối cách mạng bằng việc học tập Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9 (12/1963), chủ trương của Bộ Chính trị: Địch dùng chiến tranh đánh nhân dân, nhân dân phải dùng chiến tranh cách mạng để giải phóng; phải chuyển mạnh về quân sự, phải đánh mạnh hơn nữa, rộng hơn nữa. Hội nghị Thường vụ Khu ủy 5 (6.1964) đánh dấu sự chuyển biến lớn trong công tác phá ấp giành dân, chỉ đạo đấu tranh vũ trang ở những giai đoạn tiếp theo trên chiến trường.

Sau Hội nghị Thường vụ Khu ủy (6/1964), khí thế cách mạng ở Khu 5 lên cao. Tuy nhiên, vũ khí trang bị cho các đơn vị lại rất thiếu thốn. Trước yêu cầu của chiến trường, Khu 5 điện xin Trung ương chi viện thêm vũ khí. Vũ khí tuy không phải là quyết định nhưng là yếu tố đặc biệt quan trọng, có tác động trực tiếp đến hiệu quả tác chiến trong từng trận đánh, chiến dịch. Lúc này, công tác vận tải trên đường Trường Sơn chi viện cho toàn chiến trường miền Nam nói chung, chiến trường Khu 5 nói riêng gặp vô vàn khó khăn. Năm 1962 - 1963, địch tăng cường các hoạt động càn quét đánh phá, đường Trường Sơn Đông của ta bị tê liệt. Địch còn móc nối với phản động Lào, tung biệt kích thám báo để  tìm “bằng chứng” về đường Trường Sơn Tây, nhằm gây sức ép với ta trên mặt trận ngoại giao, cản phá việc vận chuyển trên tuyến đường này. Trong hoàn cảnh đó, Trung ương quyết định chi viện vũ khí cho Khu 5 bằng đường Hồ Chí Minh trên biển, là sự kiện có ý nghĩa lịch sử rất to lớn.

So với Nam Bộ, đường biển vào Khu 5 có ngắn hơn, đặc điểm địa hình ven biển Khu 5 có nhiều eo, vịnh lớn nhưng lại trống trải, việc triển khai đặt bến không thuận lợi. Ở những cửa sông lớn, tàu ta có thể cập bến thì địch đã triển khai xây dựng đồn bốt. Ngoài khơi, lực lượng tàu thuyền, rađa, máy bay địch kiểm soát gắt gao. Trong hoàn cảnh đó, thực hiện chỉ thị của trên, Bộ Tư lệnh Hải quân phối hợp với Quân khu 5 tổ chức nhiều đội công tác về phối hợp với các tỉnh ven biển, tiến hành nghiên cứu địa hình, xác định được các bến có thể tiếp nhận vũ khí: Bình Đào (Quảng Nam), Đạm Thủy (Quảng Ngãi), Lộ Giao (Bình Định), Vũng Rô (Phú Yên). Trong quá trình đi điều tra mở bến, đoàn trinh sát có 11 đồng chí thì 5 đồng chí anh dũng hi sinh vì bị địch phục kích.

Các bến ở Khu 5 phần lớn là bến ngang, không có cầu cảng, tàu vào rất dễ bị lộ. Việc cập tàu vào bến ngang rất khó. Vùng bờ sóng to, bãi cát thoải nên tàu rất dễ mắc cạn, không vào được gần, việc bốc dỡ hàng vì thế cũng không thuận lợi như ở Nam Bộ. Đoàn 125 chuẩn bị hai phương án khi đưa hàng vào Khu 5: Một, lấy hàng hết trong đêm là thuận lợi nhất; hai, nếu hàng dỡ không xong mà trời sáng hoặc khi địch nghi ngờ thì thả hàng xuống biển, đánh lạc hướng địch không cho chúng xác định được điểm thả hàng để bến mò vớt sau. Ngày 1 tháng 11 năm 1964, Tàu 401 do Thuyền trưởng Phạm Vạn, Chính trị viên Đặng Văn Thanh chỉ huy, cập bến Lộ Giao (Bình Định). Biển có sóng lớn, tàu mắc cạn và hỏng nặng. Bến tập trung lực lượng bốc dỡ 30 tấn hàng (chủ yếu là súng đạn) đưa về vị trí an toàn. Mặc dù đồn địch đóng cách đó không xa, nhưng chúng không ngờ ta có thể đưa vũ khí vào được Lộ Giao. Với sự kiện tàu 401 gặp nạn, bến Lộ Giao có khả năng bị lộ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị: Không sử dụng bến Lộ Giao nữa, tìm bến mới ở Phú Yên. Vũng Rô được chọn làm điểm tiếp nhận hàng cho liên tỉnh Phú Yên - Khánh Hoà - Đắk Lắk đang rất thiếu vũ khí. Đầu tháng 7 năm 1964, Bộ Tư lệnh Phân khu Nam thành lập(7) trực tiếp chỉ huy lực lượng vũ trang liên tỉnh Phú Yên – Khánh Hòa - Đắk Lắk. Bộ Tư lệnh Phân khu phát động phong trào: “Tác chiến tiêu diệt, tiêu hao thật nhiều sinh lực địch, bồi dưỡng ta, xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh, đi đôi với phong trào phá ấp giành dân”(8). Phong trào đấu tranh dâng cao, thực tiễn đặt ra vấn đề phải tiêu diệt nhiều xe thiết giáp M113 - phương tiện quân sự chủ công của địch trong chiến thuật “thiết xa vận”. Chiến trường cho chúng ta kinh nghiệm bắn hạ máy bay địch bằng những loại súng bộ binh thông thường, nhưng để bắn cháy xe thiết giáp M113 điều quan trọng là phải có súng hỏa lực B40, B41. Thực hiện chủ trương chuyển mạnh sang đấu tranh quân sự thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phát triển các đơn vị vũ trang, tạo nên những “quả đấm thép” mạnh, áp đảo quân địch mới có thể giành được thắng lợi trên chiến trường. Đến cuối năm 1964, toàn tỉnh Phú Yên có 3.987 du kích, nhưng chỉ được trang bị 468 khẩu súng(9). Như vậy, cần thiết phải tăng cường vũ khí phát triển lực lượng vũ trang của ta.

Giữa năm 1964, ta làm chủ được nhiều đoạn bờ biển ở Phú Yên. Đây là cơ sở thực tiễn để tổ chức tiếp nhận hàng chi viện tại Vũng Rô. Vũng Rô là một vịnh nhỏ, nằm sát Quốc lộ 1 dưới chân đèo Cả, có độ sâu cho tàu trọng tải lớn cập bến. Hàng trăm du kích, thanh niên được chọn lựa làm nhiệm vụ xây dựng cầu cảng, bốc hàng dưới tàu lên và tổ chức cất giấu. Cầu cảng bằng gỗ được làm từ lúc chập choạng tối đến trước 0 giờ phải xong, bốc hàng xong phải tháo gỡ để địch không phát hiện. Đồng chí Trần Suyền - Thường vụ Tỉnh ủy Phú Yên - được Đảng ủy Phân khu Nam cử phụ trách công tác tổ chức đón tàu nhận hàng từ miền Bắc vào. Ở miền Bắc, Tàu 41 của Đoàn 125 được chọn đi chuyến đầu tiên vào Vũng Rô.

Tháng 10 năm 1964, Khu 5 bị lụt lớn. Hàng nghìn thôn xóm bị ngập  chìm trong nước. Núi lở chôn vùi một số buôn làng của đồng bào dân tộc ít người và một số bệnh xá, cơ quan và đơn vị sản xuất của ta. Nạn đói đe doạ khắp nơi. Kẻ thù thì tuyên bố: Trận lụt có giá trị như cuộc phản công của mấy sư đoàn. Lợi dụng thiên tai, chúng dùng xe bọc thép lội nước đánh phá quyết liệt hơn nữa vào phong trào cách mạng. Khó khăn tưởng chừng không thể khắc phục nổi. Càng khó khăn, quân dân Khu 5 càng gan góc, kiên cường, anh dũng vượt qua. Cả nước cùng chung nỗi lo của Khu 5. Việc cung cấp vũ khí, lương thực cho Khu 5 càng trở nên bức thiết.

Để đáp ứng yêu cầu của chiến trường, lúc 0 giờ ngày 16 tháng 11 năm 1964, Tàu 41 do đồng chí Hồ Đắc Thạnh làm Thuyền trưởng, đồng chí Trần Hoàng Chiếu làm Chính trị viên, chở 45 tấn vũ khí rời bến Bãi Cháy (Quảng Ninh) vào Khu 5. Đến 23 giờ ngày 28 tháng 11, tàu cập bến Vũng Rô. Hàng hoá nhanh chóng được chuyển vào cất giấu an toàn trong các hang núi. Sau chuyến đầu tiên thắng lợi, Tàu 41 nhận nhiệm vụ thực hiện chuyến thứ hai. Đêm 20 rạng ngày 21 tháng 12 năm 1964, tàu xuất phát. Ngoài vũ khí, tàu còn chở 3 tấn gạo (quà của Bộ Tư lệnh Hải quân). Đêm 25 tháng 12, tàu cập bến Vũng Rô an toàn.

Tiếp nhận viện trợ từ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Phân khu Nam kịp thời phân phối gần 1 vạn khẩu súng các loại và hàng chục tấn đạn, thuốc nổ, thuốc chữa bệnh cho các đơn vị vũ trang của 3 tỉnh trong Phân khu. Riêng ở Phú Yên, du kích được trang bị thêm 2.000 khẩu súng trường(10). Những khó khăn về vũ khí của Phân khu Nam được khắc phục một bước, thực lực hậu cần kháng chiến của từng tỉnh được tăng cường, các lực lượng vũ trang cách mạng nhờ đó mà phát triển mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng.

Ngày 28 tháng 1 năm 1965, Tàu 41 chở 45 tấn vũ khí, thực hiện chuyến vận chuyển thứ ba. Ngày 31 tháng 1, tàu đến Vũng Rô giao hàng và trở lại miền Bắc mà địch vẫn không phát hiện được hành động của ta. Ngày 1 tháng 2 năm 1965, Tàu 143, do đồng chí Lê Văn Thêm làm Thuyền trưởng, đồng chí Phan Văn Bảng làm Chính trị viên, chở 63 tấn vũ khí dự định vào bến Lộ Giao (Bình Định); nhưng gặp lúc địch tăng cường kiểm soát trên biển, nên Tàu 143 được lệnh chuyển vào Vũng Rô. Đến 23 giờ ngày 15 tháng 2 năm 1965, Tàu 143 cập bến. Hàng hóa nhanh chóng được bốc dỡ lên bờ, ta chuyển được lên căn cứ phần lớn vũ khí. Sau đó, tàu gặp nạn nên không ra khơi ngay trong đêm, phải đậu lại bến. Lúc này, trận đánh Đèo Nhông - Dương Liễu (Bình Định) đang diễn ra, địch dùng trực thăng đến tải thương và tình cờ chúng phát hiện được Tàu 143 - Tuyến vận tải quân sự chiến lược trên biển chi viện vũ khí cho Khu 5 đã bị lộ. Địch đánh phá ác liệt khu vực Vũng Rô. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị: Phải ngừng ngay việc vận chuyển bằng đường biển vào miền Nam. Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân họp đánh giá: Đây là một tổn thất nghiêm trọng có tính chiến lược. Sau sự kiện này, tính chất bí mật bất ngờ không còn nữa, quá trình vận chuyển của Quân chủng bước sang giai đoạn mới đối mặt quyết liệt với địch.

Qua các chuyến vận chuyển, Vũng Rô tiếp nhận gần 200 tấn vũ khí, bổ sung kịp thời cho các lực lượng vũ trang Phân khu Nam. Riêng ở Phú Yên, đến đầu năm 1965, ta trang bị đủ vũ khí cho các đơn vị tập trung của tỉnh, huyện và dân quân du kích, riêng lực lượng du kích có 6.963 người, được trang bị gần 3.000 khẩu súng các loại (2 (tăng 2.976 người và 2.532 súng so với cuối năm 1964). Xưởng quân giới bảo đảm được nguyên vật liệu (đặc biệt là thuốc nổ TNT) để sản xuất các loại lựu đạn, mìn, thủ pháo có uy lực sát thương cao. Xưởng cũng tiến hành nghiên cứu sản xuất mìn phá rào, mìn chống tăng, mìn và lựu đạn gài. Thật ra, địch đã có sự nghi ngờ trước sự xuất hiện đồng thời của loại vũ khí mới cùng cỡ nòng 7,62mm (AK) được trang bị cho các đơn vị lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường ven biển Khu 5, nhưng chúng vẫn không phát hiện được gì thêm cho đến khi diễn ra “sự kiện Vũng Rô”.

Với sự chi viện tích cực của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa qua đường Hồ Chí Minh trên biển bằng những chuyến hàng vào bến Lộ Giao và  Vũng Rô, vượt mọi khó khăn, gian khổ, đầu tháng 12 năm 1964, phong trào tiến công và nổi dậy của quân và dân Quân khu 5 lại rộ lên trên khắp các địa bàn.  Trung đoàn bộ binh 2, Tiểu đoàn đặc công 409 và các lực lượng địa phương tiêu diệt chi khu quân sự, quận lỵ An Lão (Bình Định). Đây là đòn tiến công mạnh mẽ và bất ngờ của ta trên toàn tuyến. Quân địch nhanh chóng bị tiêu diệt.

Chiến thắng An Lão góp phần minh chứng cho sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang Quân khu 5, làm chấn động bộ máy chính quyền và quân đội địch ở Bình Định. Phong trào cách mạng còn phát triển mạnh ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên. Đến cuối năm 1964, quân dân Khu 5 phá được 1.248 “ấp chiến lược” ở đồng bằng và 292 “ấp chiến lược” ở rừng núi. Vùng căn cứ kháng chiến được mở rộng, liên hoàn, phát triển vững chắc, tạo thế uy hiếp các căn cứ quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Lúc này, trên đường Trường Sơn, nhờ kết hợp vận tải gùi thồ với vận tải cơ giới nên khối lượng hàng vận tải vào chiến trường miền Nam trong năm 1964 tăng gấp 4 lần so với năm 1963. Từ cuối năm 1964, qua đường Trường Sơn, Mặt trận B3 được tăng cường lực lượng. Có sự chi viện to lớn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa qua đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển, đầu năm 1965, Mặt trận B3 và Quân khu 5 lại tổ chức tiến công mạnh mẽ tuyến phòng thủ phía Bắc Quân khu II địch, giành thắng lợi lớn ở Pleiku, Dương Liễu

- Đèo Nhông. Đặc biệt, chiến thắng Đèo Nhông đánh dấu bước trưởng thành về khả năng đánh tiêu diệt gọn tiểu đoàn địch của chủ lực Quân khu 5. Trong trận đánh này, gần 10 xe M113 của chúng bị bắn cháy.

Đường Hồ Chí Minh trên biển với quá trình vận chuyển vũ khí vào Khu 5 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Tiếp nhận những chuyến hàng quân sự từ miền Bắc, những khó khăn về vũ khí của Khu 5 nhanh chóng được khắc phục, thực lực hậu cần kháng chiến của tỉnh Phân khu Nam Quân khu 5 được tăng cường, các lực lượng vũ trang cách mạng có sự phát triển mạnh về số lượng và chất lượng.

Những chuyến “tàu không số” còn mang đến cho Khu 5 tình thương của Đảng, Bác Hồ và của đồng bào miền Bắc ruột thịt, tô thắm thêm tình đoàn kết giữa quân dân hai miền trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng, củng cố niềm tin chắc thắng, thiết thực cổ vũ tinh thần chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ trên các chiến trường.

Sau “sự kiện Vũng Rô”, địch dùng rađa, tàu thuyền chiến đấu, máy bay kiểm soát khá chặt chẽ vùng biển. “Sự kiện Vũng Rô” tuy gây cho ta tổn thất lớn, nhưng không dập tắt được ý chí tiếp tục chi viện cho chiến trường miền Nam của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 trên tuyến vận tải xuyên biển mang tên Bác Hồ kính yêu. Phương châm vận chuyển trong tình hình mới được xác định rõ là: “Táo bạo, bí mật, tránh địch là chính, gặp địch không tránh được thì chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bảo vệ bí mật nhiệm vụ”. Theo đó, đêm 26 tháng 11  năm 1966, Tàu 41 cập bến Đức Phổ (Quảng Ngãi) giao nhận chuyển hàng vào nơi tập kết an toàn. Ngày 16 tháng 12 năm 1966, Tàu 43 lên đường vào Khu 5 nhưng bị địch theo dõi sít sao, không thể nghi binh lừa địch, nên đành quay lại miền Bắc chờ thời cơ mới. Sang năm 1967, theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Quân chủng Hải quân tạm thời dừng vận chuyển bằng đường biển vào Nam Bộ để chở hàng chi viện cho chiến trường Khu 5 với yêu cầu mỗi địa phương được một chuyến hàng. Trong năm 1967, Đoàn 125 tổ chức 5 chuyến vào Khu 5 nhưng bị địch ngăn chặn rất quyết liệt, 3 chuyến phải quay về, 2 chuyến do Tàu 43 và Tàu 198 đảm nhiệm vào được bến Sa Huỳnh, Ba Làng An (Quảng Ngãi), nhưng cán bộ, chiến sĩ ta phải phá hủy tàu để bảo vệ bí mật. Để chi viện cho quân dân ta ở miền Nam Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), Đoàn 125 chuẩn bị 4 tàu xuất phát từ 4 địa điểm khác nhau trong một đêm vào chiến trường Nam Bộ, Khu 5 để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của chiến trường, đồng thời để phân tán sự theo dõi của địch. Tàu 165 vào bến Vàm Lũng (Cà Mau), Tàu 235 vào bến Hòn Hèo (Khánh Hoà), Tàu 43 vào bến Ba Làng An (Quảng Ngãi) và Tàu 56 vào bến Lộ Giao (Bình Định). Cả 4 tàu đều gặp địch và đi vào lịch sử bằng những trận chiến đấu anh dũng trên vùng biển do địch kiểm soát. Trong đó, chỉ có tàu 235 thả được hàng xuống bến. Sau đợt vận chuyển này, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Quân chủng Hải quân  tạm thời ngừng vận chuyển trực tiếp chi viện cho chiến trường miền Nam.

Dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng, có sự chi viện của hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa, với sự hy sinh thầm lặng, cao cả của cán bộ, chiến sĩ Đoàn vận tải quân sự 125 Hải quân, mặc dù kẻ thù có quân số đông, được trang bị phương tiện chiến tranh hiện đại, quân và dân Khu 5 anh dũng chiến đấu cùng cả nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đường Hồ Chí Minh trên biển và những chuyến hàng quân sự chi viện cho chiến trường Khu 5 trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại những bài học kinh nghiệm quí báu về xây dựng bến bãi, cầu tàu, tiếp nhận vũ khí, đánh trả quân địch... đối với địa bàn Khu 5 - Nam Trung Bộ (khác biệt với địa bàn Nam Bộ). Đó là những bài học kinh nghiệm rất cần được nghiên cứu chuyên sâu, để kế thừa, phát triển và vận dụng trong điều kiện mới của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc hôm nay./.

(1) Trích theo “Nhớ về những con tàu “Không số”. Nxb QĐND, H, 2007, tr. 20.

(2) V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB, M 1977, tập 41, tr. 395

(3) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H.2000, tr. 14

(4) Ngày 27.1.1960, “Tập đoàn đánh cá sông Gianh” khởi hành chở 5 tấn vũ khí, thuốc chữa bệnh vào Liên khu 5 Sau đó, hàng phải thả xuống biển để giữ bí mật, cán bộ chiến sĩ trên thuyền bị địch bắt. Chuyến hàng đầu tiên trên đường Hồ Chí Minh trên biển vào Liên khu 5 không thành công.

(5) Tháng 1.1964, Đoàn 759 đổi phiên hiệu thành Đoàn 125.

(6) Trong hồi ký của mình, đồng chí Võ Chí Công đánh giá “Khu 5 đánh địch theo kiểu “chọi trâu”, hai bên đánh nhau giằng co ở giáp ranh”.

(7) Đồng chí Lư Giang làm Tư lệnh trưởng, đồng chí Năm Phổ - Bí thư Liên tỉnh ủy kiêm Chính ủy Phân khu.

(8) Bộ CHQS tỉnh Phú Yên, Phú Yên 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), Sở VHTT tỉnh Phú Yên, 1993, tr233.

(9) Bộ CHQS tỉnh Phú Yên, Phú Yên 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), Sở VHTT tỉnh Phú Yên, 1993, tr239.

(10) Bộ CHQS tỉnh Phú Yên, Phú Yên 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), Sở VHTT tỉnh Phú Yên, 1993, tr239-240.

Kim Yến (st)

Bài viết khác: