Thứ bảy, 21/12/2024

Chỉ mục bài viết

 

duong HCM tren bien phan 3 anh 1
Bông Văn Dĩa (áo đen bên phải), đứng giữa là đồng chí Lê Đức Thọ. Ảnh: TL

Những con tàu không số làm nên huyền thoại

Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường vận tải chiến lược lớn, tồn tại suốt 14 năm ròng.

Trong suốt những năm tháng hành trình của “Đoàn tàu không số” (Từ năm 1961 đến tháng 4/1975), mỗi chuyến đi chở vũ khí vào Nam thực sự là một cuộc chiến đấu vô cùng cam go, đầy gian khổ hy sinh và cũng là cuộc đấu trí của các chiến sỹ; một cuộc chiến không cân sức giữa biển khơi mênh mông của các chiến sĩ ta trên con tàu nhỏ bé với tàu chiến, máy bay và bom đạn dầy đặc của kẻ thù, với sóng gió khắc nghiệt của đại dương.

Để duy trì sự tồn tại của con đường, các chiến sỹ đã phải vượt qua hàng chục cơn bão lớn, hàng trăm cuộc vây ráp ác liệt của kẻ địch; đã khắc phục trên 4000 quả thủy lôi trên đường vận chuyển, chiến đấu 30 lần với tàu địch, đánh trả 1.200 lần máy bay tập kích… Đã có những hy sinh, mất mát trong cuộc chiến đấu căng thẳng ấy.

Chỉ có lòng dũng cảm, tinh thần sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh mới giúp các chiến sỹ ta vượt qua được những thử thách cam go ấy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, làm nên “Huyền thoại Đường Hồ Chí Minh trên biển” - Một trong những Kỳ tích của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.

Với tất cả những gì đã tạo lập được trong vô vàn gian nan, thử thách, Đường Hồ Chí Minh trên biển, đúng như đồng chí Nguyễn Văn Hiến - Phó Đô đốc, Tư lệnh Quân chủng Hải quân đã nói: “Tinh thần của Đường Hồ Chí Minh trên biển là tinh thần của chiến tranh nhân dân; tinh thần của Đoàn tàu Không số là  tinh thần quả cảm. Chiến tranh hiện đại không còn khái niệm chiến tranh nhân dân nếu hiểu theo khái niệm đơn thuần. Vũ khí hiện đại, cả tàu sân bay, tàu ngầm được rao bán công khai trên mạng với những thông số kỹ thuật, tính năng rất cụ thể và quốc gia nào bán cho quốc gia nào thì cả thế giới đều biết. Nhưng sự sáng tạo của chiến lược quân sự Việt Nam là từ bài học của việc mở đường và duy trì đường Hồ Chí Minh trên biển: Đoàn kết, táo bạo, bất ngờ, quả cảm. Tương quan lực lượng của chúng ta bao giờ cũng ít hơn, trang bị vũ khí cũng chưa bao giờ mạnh và hiện đại bằng, nhưng chúng ta đã thắng”.

Từ 5 con thuyền gỗ bé nhỏ và những con người quả cảm đầu tiên đầu những năm 60 của thế kỷ XX, cách mạng miền Nam đứng trước những yêu cầu cấp bách cần được cung cấp về nhân lực, vũ khí, thuốc men; nhất là ở khu vực Nam Bộ, nơi mà tuyến đường vận tải chiến lược Trường Sơn chưa thể với tới.

Để đáp ứng yêu cầu ấy, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã quyết định tổ  chức Tuyến vận tải quân sự trên biển. Trung ương đã chỉ thị cho các tỉnh Nam Bộ chuẩn bị bến bãi và cho thuyền ra Bắc vừa thăm dò, mở đường vừa nghiên cứu phương tiện vận chuyển trên biển và báo cáo tình hình, nếu có điều kiện thì chở vũ khí về. Chủ trương đó đáp ứng mong mỏi của các địa phương, nhờ vậy chỉ trong thời gian ngắn, nhiều tỉnh đã tổ chức các đội tàu vượt biển ra Bắc.

Những con người quả cảm

Theo tinh thần ấy, từ 01/6/1961 đến 27/02/1962, đã có 5 con tàu gỗ đầu tiên lần lượt xuất phát từ các tỉnh miền Đông Nam Bộ vượt biển ra Bắc.

Khởi đầu là 2 con tàu gỗ từ tỉnh Bến Tre - Nơi khởi đầu phong trào Đồng khởi. Trực tiếp đồng chí Nguyễn Văn Khước (Mười Khước) Bí thư Tỉnh ủy lúc đó và đồng chí Nguyễn Thị Định lo tổ chức chuyến đi.

Tàu thứ nhất do ông Đặng Bá Tiên (Sáu Giáo) làm thuyền trưởng và ông Nguyễn Văn Kiệm (Năm Tiến) là Bí thư chi bộ cùng 4 thủy thủ là các ông: Huỳnh Văn Mai (Mai Đen), Đặng Văn Bê (Hai Thọ), Lê Văn Nhung (Hai Hùng) và Nguyễn Văn Đức (Sáu Đức). Ngày 1/6/1961 tàu xuất phát từ bến Cồn Lợi (Thạnh Phong, Thạnh Phú). Đây cũng chính là chuyến tàu đầu tiên từ Nam ra Bắc xin chi viện. Sau 9 ngày đêm vật lộn với sóng gió và sự hiểm nguy, ngày 9/6/1961, tàu đã cập bến Hà Tĩnh và sau đó Trung ương đã cho người đón anh em ra Hà Nội.

Chiếc tàu thứ hai do đồng chí Lê Công Cẩn (Năm Công) phụ trách. Đoàn thủy thủ tàu này gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Hớn (Năm Thanh), Nguyễn Văn Hải (Sáu Hải), Văn Công Cưỡng, Bùi Văn Ấn (Năm Thăng), Nguyễn Văn Luông (Hai Sơn), Huỳnh Văn Tiến (Mười Tiến).

Ngày 18/8/1961 tàu xuất phát từ bến Cồn Tra (Thạnh Phong, Thạnh Phú). Do gặp rất nhiều khó khăn trên đường đi nên phải đến ngày 28/8/1961 thuyền mới cập bến tại Thanh Hóa. Thật khó có thể nói hết những khó khăn khi chuẩn bị những chuyến tàu như thế!

duong HCM tren bien phan 3 anh 2
6 thủy thủ của đội thuyền tỉnh Bà Rịa xuất phát tại bến Lộc An
 vượt biển ra Bắc xin vũ khí chi viện cho miền Nam (2/1962)

Việc mua sắm tàu và những vật dụng kèm theo phải hoàn toàn dựa vào sự trợ giúp của cơ sở cách mạng để mua từ thành phố vào, mỗi nơi một ít. Để che mắt địch, ngày phải ngụy trang, đêm mới làm việc với tinh thần khẩn trương nhất để gấp rút hoàn thành. Vậy nhưng vẫn chỉ là một con thuyền gỗ nhỏ, không Thuyền  trưởng la bàn, không hải đồ…Chỉ có ý chí và lòng yêu nước của con người là lớn nhất mà thôi !

Nhưng cũng nhờ vào ý chí như vậy mà những con thuyền nhỏ nhoi ấy đã lập nên kỳ tích vượt qua sóng to gió cả và bao bất trắc giữa đại dương, đi đến bến bờ thắng lợi.

Trong đợt đầu vượt biển ra Bắc, ngoài các tàu của Bến Tre còn có các tàu từ Bạc Liêu, Trà Vinh, Bà Rịa cũng vượt biển ra Bắc mang theo không chỉ ước vọng cháy bỏng về sự chi viện của miền Bắc mà còn là niềm tin của đồng bào, đồng chí nơi tuyến đầu chống Mỹ, cứu nước đối với Đảng và Bác Hồ.

Thực ra, tỉnh Bạc Liêu cũng tổ chức 2 thuyền ra Bắc, nhưng chỉ có một thuyền ra được, còn một thuyền gặp sự cố phải quay lại. Đội thuyền thứ nhất do ông Bông Văn Dĩa (Hai Dĩa) phụ trách. Các thuyền viên gồm các ông: Tư Phước, Ngô Văn Tần (Năm Kỷ), Nguyễn Dũng (Sáu Dũng), Bảy Cửa, Trần Văn Đáng (Ba Cụt), Võ Tấn Thành (Ba Thành) và Tư Quang (Hai Chiếu). Đêm 01/8/1961, thuyền xuất phát từ rạch Cá Mòi, ngày 7/8/1961 thuyền đến cảng sông Nhật Lệ - Quảng Bình.

Đội thuyền thứ hai của Bạc Liêu do đồng chí Nguyễn Thanh Trầm phụ trách. Các thủy thủ gồm các đồng chí: Tư Báo, Ba Mang, Hai Danh, Lâm Văn Vĩnh. Ngày 3/8/1961 thuyền xuất phát. Nhưng khi đến vùng biển Huế thì thuyền bị hỏng nên phải quay lại sửa chữa rồi về lại Cà Mau.

Tỉnh Trà Vinh cũng tổ chức đội thuyền gồm 6 đồng chí là: Trần Văn Mao, Nguyễn Văn Khương, Nguyễn Văn Chăm, Nguyễn Thanh Lồng, Hồ Văn In và Ngô Văn Tôi. Ngày 13/8/1961, thuyền xuất phát tại Khâu Hút… Thuyền đi bị dạt sang mãi Ma Cao, sau được sứ quán ta đón và đưa về Hà Nội.

Đầu năm 1961, Bí thư Khu ủy miền Đông đồng chí Mai Chí Thọ giao cho đồng chí Lê Minh Thịnh (Phó Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa) nhiệm vụ mở bến ở Lộc An (Phước Hải, Long Đất, Bà Rịa) để đón vũ khí chi viện từ Bắc vào đồng thời tổ chức thuyền ra Bắc. Tháng 12/1961, đồng chí Năm Đông tổ chức một chuyến vượt biển ra Bắc, nhưng không thành do thuyền bị hỏng dọc đường.

duong HCM tren bien phan 3 anh 3
Một số cán bộ tham gia những chuyến tàu đầu tiên từ Nam ra Bắc (từ trái qua phải): Người thứ hai: Thuyền trưởng Nguyễn Văn Đức (Bến Tre) Người thứ ba: Thuyền trưởng Nguyễn Sơn (Bà Rịa) - Người thứ tư: Thuyền trưởng Lê Hà (Bà Rịa) Người thứ sáu: Thủy thủ trưởng Huỳnh Phước Hải (Bến Tre) Người thứ bảy: Chính trị viên Huỳnh Phước Tiến (Trà Vinh)

Tới ngày 27/02/1962, tiếp tục có một thuyền khác từ Bà Rịa xuất phát từ Hồ Cốc (Phước Hải, Long Đất) vượt biển ra Bắc cũng với mục tiêu chung như vậy. Trên thuyền có 6 người gồm các ông Nguyễn Sơn, Thôi Văn Nam, Trần Văn Phủ, Nguyễn Văn Thanh, Võ An Ninh và Lê Hà, do Nguyễn Sơn làm thuyền trưởng. Nhưng không may khi thuyền đi đến Cam Ranh thì bị hỏng máy, lại gặp địch nên bị địch bắt. Các chiến sỹ ta, mặc cho địch tìm mọi cách dụ dỗ rồi lại đe dọa, tìm cách khai thác…, nhưng không ai để lộ điều gì và địch cũng không khai thác được gì nên hơn một tháng sau chúng phải thả. Cho tới ngày 19/4/1962 anh em lại tiếp tục lên đường. Qua bao sóng gió, thuyền bị dạt vào đảo Hải Nam và tới ngày 15/5/1962, anh em được đón về Hà Nội. Như vậy chuyến vượt biển ra Bắc của thuyền này phải mất gần 3 tháng mới tới được giữa lòng miền Bắc.

Như vậy, chỉ bằng trái tim đầy nhiệt huyết và ngọn lửa của lòng yêu nước nồng nàn, vượt qua vô vàn hiểm nguy và sóng to gió lớn, 34 chiến sỹ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được tổ chức giao. Ra được miền Bắc, anh em đều được gặp các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta, được gặp cả đồng chí Lê Duẩn lúc đó là Bí thư Thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng, để báo cáo cụ thể tình hình cách mạng ở các tỉnh Nam Bộ, nêu lên nguyện vọng tha thiết của đồng bào, đồng chí trong đó mong được chi viện vũ khí, cán bộ, thuốc men…để có điều kiện chiến đấu chống kẻ thù của Dân tộc, giành thắng lợi. Đặc biệt, các chiến sỹ đầu tiên của Đoàn tàu không số ai nấy đều vô cùng xúc động được gặp Bác Hồ muôn vàn kính yêu.

Nói về chuyến trinh sát bằng thuyền đầu tiên từ miền Nam ra Bắc, trong cuốn “Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân” có đoạn viết: “ …Sáu người được đoàn bố trí ở 18 Nguyễn Thượng Hiền (Hà Nội). Đầu tháng 4 năm 1962, Trung tướng Trần Văn Trà, người đã hoạt động những năm kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, hiểu biết nhiều địa phương, thông thuộc nhiều bến bãi được Quân ủy Trung ương giao đặc trách theo dõi mở con đường biển, cùng Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, chủ nhiệm Ủy ban thống nhất Trung ương, đến gặp anh em và trực tiếp giao nhiệm vụ. Nhiệm vụ của Đội thuyền khi trở lại Nam Bộ là: Báo cáo với Khu ủy chủ trương của Trung ương về việc đưa vũ khí vào Nam Bộ. Nhưng muốn như vậy, phải có bến bãi để nhận hàng. Có 3 phương án trong việc tổ chức xây dựng bến bãi:

1- Lấy các đảo Thổ Chu, Phú Quốc, Nam Du, Hòn Ông, Hòn Bà làm căn cứ lâu dài để xây dựng các hầm cất giấu hàng. Chuẩn bị các đội tàu thuyền để tiếp tục chở hàng vào đất liền.

2 – Lấy khu vực Hòn Chuối và cửa sông Bãi Hấp để làm chỗ sang hàng hoặc thả hàng xuống biển. Lợi dụng khu vực này nhiều ngư dân ra đánh cá để trà trộn nhằm bí mật vớt hàng lên rồi đưa vào bờ.

3 – Lấy các cửa sông khu vực Cà Mau làm nơi chuyển hàng vào. Song, đây là phương án dự phòng nếu 2 phương án trên không thực hiện được. Đồng chí Bông Văn Dĩa phải học thuộc lòng chỉ thị của Trung ương và nhiệm vụ của chuyến đi, cùng một số mật danh để liên lạc với Trung ương khi cần thiết.

Tuy thuyền trở về không hề có một viên đạn, một khẩu súng, song anh em rất phấn chấn vì rõ rằng cái quý nhất lúc này không hẳn chỉ là mấy tấn vũ khí mà là chủ trương của Đảng được truyền đạt tới miền Nam, đặng mở con đường trên biển nhằm có hàng trăm, hàng ngàn tấn vũ khí. Cuộc chiến đấu còn dài!...”.

Những chuyến tàu từ miền Nam ra Bắc thành công chính là cơ sở quan trọng để Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở Tuyến vận tải quân sự trên biển và thành lập Đoàn 759.

Bến thuyền giữa lòng dân

Trong cuộc kháng chiến của dân tộc chống kẻ thù xâm lược, tình đoàn kết quân dân là một nhân tố vô cùng quan trọng đảm bảo cho thắng lợi cuối cùng. Đặc biệt, đối với hoạt động của Đoàn tàu Không số - Đường Hồ Chí Minh trên biển, sự yêu thương, đùm bọc, che chở của nhân dân, nhất là bà con ở Đồng bằng sông Cửu Long, thực sự có một ý nghĩa lớn lao.

Không phải ngẫu nhiên mà nói rằng: Nếu không có tấm lòng bà con vùng đồng bằng sông Cửu Long thì sẽ không có Đoàn tàu Không số chứ đừng nói đến việc lập chiến công và viết nên Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển!

Ở tất cả những nơi có tàu chở vũ khí của ta cập bến, nhân dân đều hết lòng giúp đỡ, chở che. Đặc biệt bà con ở vùng ven biển Cà Mau - nơi tập kết nhiều chuyến tàu chi viện từ miền Bắc vào.

duong HCM tren bien phan 3 anh 4
Du kích Đông Nam Bộ tiếp nhận và vận chuyển vũ khí do tàu Không số chi viện Ảnh: TL

duong HCM tren bien phan 3 anh 5
Bến Lộc An (nay thuộc xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa) - nơi nhiều chuyến tàu Không số chở vũ khí vào miền Nam đã cập bến an toàn

Các cựu chiến binh của Đoàn tàu Không số mãi mãi không bao giờ quên những “Bến cảng lòng dân” mà đồng bào đã tạo nên.

Vào giữa năm 1962, vùng ven bờ ở Cà Mau được chọn là một trong những địa điểm tập kết vũ khí của Đoàn tàu Không số. Bởi ở đây có các Vàm sông Bồ Đề, Rạch Gốc, Vàm Lũng, Kiến Vàng… tàu có trọng tải 30 tấn hoặc hơn có thể ra vào dễ dàng; nơi đậu tàu và lên hàng, các kho chứa, đường vận chuyển ra chiến trường đều thuận lợi… Tuy vậy, vấn đề là cần phải di dời khoảng 1000 hộ dân sống rải rác trong khu vực. Đây là một việc không đơn giản. Muốn làm được điều này, trước hết phải làm công tác tư tưởng để người dân tự giác di dời ra khỏi nơi quy định để làm tổng kho. Theo đó, công tác giáo dục chính trị phải rất khéo léo và tế nhị; làm sao để dân hiểu mà không lộ bí mật; đồng thời vẫn đảm bảo cuộc sống của bà con không bị xáo trộn… Nhưng điều đáng quý hơn tất cả chính là tấm lòng và tình cảm của bà con đối với cách mạng. Cho nên khi nghe cán bộ vận động nhường chỗ này cho cách mạng LÀM VIỆC LỚN là bà con nghe theo liền. Để tránh bị địch phát hiện, bà con phải di chuyển và cất nhà mới vào ban đêm…Đồng bào sẵn sàng dời nhà ra bìa rừng canh giữ không cho người lạ vào rừng sâu đang cất giấu vũ khí. Mỗi khi có tàu vào, bà con sẵn sàng nhường cơm, sẻ áo cho cán bộ chiến sỹ của tàu… Những cán bộ chiến sỹ ở Đoàn 962 từng làm việc ở Vàm Lũng - Cà Mau trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không bao giờ quên được tấm lòng của bà con trong đó.

Cũng nhờ vậy nên chỉ trong vòng 3 tháng (từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1962) việc xây dựng bến bãi đã hoàn thành. Nhiều gia đình sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân vì cuộc kháng chiến của dân tộc. Cũng có nhiều người bị địch bắt, chúng dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, tra tấn dã man, nhưng không ai có một lời khai báo có hại cho cách mạng.

Nhân dân là nguồn động viên tinh thần, sẻ chia từng chén cơm, manh áo với cán bộ, chiến sỹ để cùng với cán bộ chiến sỹ của Đoàn xây nên “Bến” giữa rừng - một “Bến” không có tiền lệ trong lịch sử - Bến giữa lòng dân!

Trong vô vàn những tấm lòng cao quý như vậy, có một con người, một tấm lòng mà sự hy sinh cống hiến cho cách mạng thật khó giấy bút nào diễn tả hết được. Đó là bà má Nguyễn Thị Mười (Mười Riều). Để chuẩn bị cho chuyến tàu vượt biển ra Bắc vào ngày 27/2/1962 của tỉnh Bà Rịa, má Mười Riều đã đóng góp 10 cây vàng giúp cách mạng mua sắm thuyền và vật dụng khác. Đặc biệt, không chỉ ủng hộ vàng, Má Mười Riều còn gửi gắm người con trai yêu thương của mình là anh Lê Hà vào đội tàu không số…Tấm lòng cao cả của một con người bình dị - Má Mười Riều - đã cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sỹ Đoàn tàu không số rất nhiều.

Đến những chuyến tàu “Huyền thoại” từ Bắc vào Nam

Ngày 11/10/1962, chuyến tàu Không số vỏ gỗ đầu tiên do các đồng chí Lê Văn Một làm thuyền trưởng và Bông Văn Dĩa làm chính trị viên chở 30 tấn vũ khí vào Nam rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng). Trên tàu còn có các thủy thủ là: Huỳnh Văn Sao (Năm Sao), Nguyễn Văn Bé (Tư Bé), Ba Thành, Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Văn Nhung, Nguyễn Xuân Lai, Sáu Rô, Thanh đen, Trần Văn Kết (Tám Kết), Ngô Văn Tân (Năm Kỷ) và Nguyễn Long. Sau gần một tuần vượt qua nhiều thử thách, hiểm nguy, ngày 16/10 tàu cập bến Vàm Lũng an toàn, mang đến cho đồng bào, đồng chí Nam Bộ niềm vui vô bờ.

Chuyến đi lịch sử ấy thành công đã mở đầu và hình thành nên con đường Hồ Chí Minh trên biển để rồi sau đó, hàng trăm chuyến tàu không số đã vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí từ miền Bắc chi viện tiền tuyến lớn miền Nam.

Nhưng không chỉ có vậy, đúng ngày chuyến tàu thứ nhất cập bến an toàn (16/10) thì chuyến tàu vỏ gỗ thứ hai chở vũ khí do ông Đạt làm thuyền trưởng, ông Huấn làm thuyền phó và ông Lê Công Cẩn làm chính trị viên, cũng xuất phát tại Đồ Sơn và mấy ngày sau đã tới được Cà Mau an toàn.

Thành công của hai chuyến đầu tiên đã cổ vũ các cấp chỉ huy rất nhiều. Ngày 14/11/1962 chuyến tàu thứ 3 do đồng chí Nguyễn Đức Dục làm thuyền trưởng và đồng chí Hồ Đức Thắng làm chính trị viên xuất bến. Ngày 14/12/1962 chuyến tàu thứ 4 do đồng chí Lê Văn Thêm làm thuyền trưởng và đồng chí Đặng Văn Thanh làm chính trị viên, được khởi hành…Tất cả những chuyến tàu trên đều cập bến an toàn tại Cà Mau, đưa được hơn 100 tấn vũ khí cho Khu 9. Đây là một thắng lợi lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cũng phải nói thêm rằng, do yêu cầu phải tuyệt đối giữ bí mật lúc đó nên các cán bộ, kỹ sư, công nhân tham gia thiết kế, thi công để “khai sinh” những con tàu Không số ấy đều không được biết tin thắng lợi để vui mừng…

“ … Bốn chuyến thuyền gỗ đưa vũ khí vào Cà Mau thành công khẳng định một điều là, ta có thể mở một con đường vận chuyển trên biển, và mở lâu dài. Vì vậy cần có những phương tiện tốt hơn, đi được trong mọi thời tiết…” (Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân).

duong HCM tren bien phan 3 anh 6
Tàu gỗ gắn máy Phương Đông 2 (do xưởng đóng tàu 1 Hải Phòng đóng) chở vũ khí vào Cà Mau thành công (10/1962)

duong HCM tren bien phan 3 anh 7
Di tích cầu tàu Đồ Sơn - Hải Phòng (Bến K15) - Nơi con tàu đầu tiên và những con tàu tiếp đó của Đoàn tàu Không số xuất phát chở vũ khí vào Nam (Hay còn gọi là Km0 - Điểm đầu tiên trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển)

duong HCM tren bien phan 3 anh 8
Những cán bộ, chiến sỹ Đoàn 759 đi chuyến mở đường đầu tiên (10/1962)
 - Người ngồi thứ ba bên trái sang là đồng chí Bông Văn Dĩa

Cũng cần nói thêm rằng, do hàng hóa từ miền Bắc vận chuyển vào Nam Bộ ngày một nhiều hơn, cần có lực lượng tại chỗ để mở thêm bến và đón nhận hàng, nên cấp trên đã quyết định thành lập Đoàn 962, đồng chí Tư Đức làm đoàn trưởng, đồng chí Sáu Toàn làm chính ủy, đồng chí Bông Văn Dĩa làm đoàn phó.

Trong đoàn còn có đồng chí Tư Mao và nhiều người khác. Mặc dù việc vận chuyển bước đầu có những tiến triển tốt, nhưng vận chuyển bằng tàu vỏ gỗ nhỏ có rất nhiều hạn chế, cả về tải trọng cũng như về sức chịu đựng sóng to gió lớn. Chính vì vậy mà Quân ủy Trung ương đã kịp thời đưa ra chủ trương phải nhanh chóng có loại tàu vỏ sắt trọng tải từ 50 đến 100 tấn để trang bị cho Đoàn 759. Sau khi cân nhắc, Bộ Quốc phòng đã giao cho Xưởng đóng tàu 3 Hải Phòng thuộc Bộ Giao thông Vận tải chủ trì thực hiện việc đóng loại tàu vỏ sắt này. Và, chỉ sau 6 tháng, ngày 8 tháng 2 năm 1963, chiếc tàu sắt đầu tiên có trọng tải 50 tấn được bàn giao cho Đoàn 759.

Ngày 17/3/1963, chiếc tàu ấy do Thuyền trưởng Đinh Đạt và chính trị viên Nguyễn Văn Tiến chỉ huy (Thuyền phó lúc đó là ông Nguyễn Ngọc Ảnh) đã rời bến Đồ Sơn để chở 44 tấn vũ khí vào Bến Tre. Hành trình của tàu khi đó là Đồ Sơn - Nam đảo Hải Nam - đông nam quần đảo Hoàng Sa - đông đảo Cù Lao Thu, từ đó vào Bến Tre. Nhưng khi tàu chuẩn bị vào bến thì bất ngờ gặp tàu tuần tiễu của địch, Thuyền trưởng Đinh Đạt lập tức cho tàu chạy vòng xuống Rạch Láng, Trà Vinh, đó là đêm 23/3/1963. Chuyến đi thành công là dấu hiệu tốt mở màn cho giai đoạn phát triển mới của công tác vận chuyển vũ khí vào Nam.

Phát huy thành quả đó, những chiếc tàu sắt thứ 2, thứ 3… rồi thứ 6 lần lượt được hạ thủy và liên tục rời cảng chở vũ khí vào Nam: Ngày 12/4/1963, chuyến tàu thứ 2 do thuyền trưởng Vũ Tấn Ích chỉ huy rời bến. Ngày 19/5/1963 chuyến tàu sắt thứ 3 do các đồng chí Nguyễn Thanh Trầm và đồng chí Tiến chỉ huy xuất phát đi trà Vinh. Chuyến thứ 4 xuất phát ngày 01/6/1963 do thuyền trưởng Ích chỉ huy… Đặc biệt, từ tháng 7 năm 1963 nhịp điệu vận tải của Đoàn tăng nhanh: Nếu 6 tháng đầu năm thực hiện 5 chuyến thì 6 tháng cuối năm đã tăng lên 18 chuyến… Đây có thể coi là bước phát triển nhảy vọt của công tác vận tải quân sự trên biển.

Thực tế ngày càng đặt ra những yêu cầu cấp bách về sự chi viện cho miền Nam. Vì vậy, Trung ương quyết tâm dù khó khăn đến đâu cũng phải xác lập và duy trì cho bằng được tuyến vận tải quân sự trên biển.

 Kim Yến (st)
Còn nữa

Bài viết khác: