Thứ bảy, 21/12/2024

Chỉ mục bài viết

 phan 8 a1 duong HCM tren bien

Chuyến đi đặc biệt của Tàu 176

Vũ Hữu Suông (kể)1, Cao Văn Dân (ghi)2

Những ngày cuối năm 1970, trong lúc cuộc chiến trên biển giữa ta và địch đang diễn ra vô cùng ác liệt, Tàu 176 nhận lệnh thực hiện một chuyến đi chở người và vũ khí vào Bến Tre chi viện cho chiến trường miền Nam.

Ban Chỉ huy tàu có 5 người, gồm: Thuyền trưởng Lê Xuân Ngọc, Chính trị viên Trần Văn Chung và ba thuyền phó là Vũ Hữu Suông, Nguyễn Quốc, Phạm Thả.

Ngày nhận lệnh xuống tàu thì cũng là ngày chàng thuyền phó trẻ Vũ Hữu Suông nhận tin vợ anh ở quê vừa sinh con gái đầu lòng được “mẹ tròn, con vuông”.

Tin vui đến trước giờ lên đường khiến anh bồi hồi sung sướng đến nỗi bỏ cả bữa cơm chiều. Nhưng vì nhiệm vụ đang rất khẩn trương và phải giữ bí mật nên anh không thể về nhìn mặt con. Trước khi tàu rời bến, đồng chí Tư lệnh Quân chủng trực tiếp xuống tận căn cứ xuất phát để căn dặn động viên ban chỉ huy tàu và anh em thủy thủ, trong mọi tình huống, dù phải hy sinh tính mạng cũng phải bảo đảm an toàn cho cán bộ và số vũ khí quý báu mà Trung ương chi viện cho miền Nam. Sau khi hoàn tất mọi công tác chuẩn bị, nhận đủ người và hàng tại bến, Tàu 176 bí mật rẽ sóng ra khơi...

Tàu đi được hai ngày thì trời bỗng nhiên trở gió, biển động rất mạnh. Một cơn bão bất ngờ ập tới. Con tàu nhỏ nhoi phải gồng mình chống chọi với cơn cuồng phong của biển cả. Từng đợt sóng lừng lững như những dãy núi ầm ầm xô đến như muốn nhấn chìm Tàu 176 xuống biển sâu giá lạnh. Anh em thuỷ thủ dạn dày sóng gió mà cũng bị say, nôn ra mật xanh, mật vàng nhưng vẫn phải cố sức giữ vững vị trí chiến đấu. Hai ngày liền con tàu phải vật lộn với cơn bão.

Sóng to, gió lớn, con tàu liên tục chồm lên, ngụp xuống, anh em không thể nổi lửa để nấu cơm, ai cũng đói cồn cào ruột gan. Mặc cho sóng, gió và cái đói hành hạ, những thuỷ thủ của Tàu 176 vẫn kiên cường bám trụ và tìm cách đưa con tàu vượt qua vùng bão nguy hiểm.

Chưa kịp mừng vì thoát khỏi cơn bão dữ, Tàu 176 lại phải đối mặt với mối hiểm nguy khác từ kẻ địch. Cơn bão lớn đã đánh dạt con tàu vào vùng biển mà địch đang tổ chức tuần tra, ngăn chặn rất gắt gao. Vào một buổi chiều, đài quan sát của địch ở trên mặt biển phát hiện ra tàu lạ, chúng liền cho máy bay trực thăng bám theo. Máy bay địch bay rất thấp để nhận dạng con tàu có nước sơn nâu sẫm và dòng chữ số hiệu màu trắng “VK1270” trên nền biển màu xanh.

Máy bay địch liên tục quần đảo và bay sạt ngay qua đầu các thủy thủ, nhưng Tàu 176 vẫn bình tĩnh, tiếp tục hành trình. Để địch không nghi ngờ, mọi hoạt động trên mặt boong tàu vẫn diễn ra bình thường, một số thuỷ thủ còn được lệnh cởi trần, mặc quần đùi tay cầm những chai rượu ngoại nổi tiếng ngửa cổ lên trời vừa uống rượu vừa “ngắm” máy bay dịch, miệng hò hét, tay thì “vẫy chào”. Mỗi lần bay sạt qua, nhìn bộ dạng, cử chỉ của đám thủy thủ dưới tàu, bọn chúng không phân biệt được là tàu của nước nào. Trên boong thì như vậy nhưng ở bên trong khoang tàu, một đội thủy thủ vẫn đang tích cực chuẩn bị, sẵn sàng ứng phó với tình huống bất trắc và lợi dụng địch sơ hở để làm biến dạng con tàu. Tàu 176 vẫn giữ nguyên hướng đi và tốc độ... Khi trời vừa nhá nhem tối, thêm một chiếc máy bay nữa của Hải quân Mỹ đến theo sát Tàu 176. Bằng kinh nghiệm của mình, chỉ huy tàu phán đoán là địch chuẩn bị thay ca nên sẽ mất cảnh giác. Thời cơ thuận lợi để thực hiện chiêu “thay hình đổi dạng” đã đến, chỉ huy tàu lập tức lệnh  cho đội thủy thủ trong khoang mang theo chổi và sơn đặc biệt, bí mật rời tàu, nhào xuống nước, bám xung quanh thân tàu. Được dịp “trổ tài”, anh em thủy thủ vung chổi sơn một cách điêu luyện và nhanh nhẹn không khác gì những tay thợ sơn chuyên nghiệp. Chỉ trong chốc lát, con tàu đã được khoác lên mình một màu áo mới. Thực hiện xong việc “thay hình, đổi dạng”, Tàu 176 mở hết tốc lực, bật hết đèn hành trình, đàng hoàng tiến về phía trước, nơi có nhiều tàu đánh cá của ngư dân đang hoạt động để trà trộn và đánh lừa địch. Máy bay địch vẫn đinh ninh bám theo “con mồi” ngay phía dưới cánh của nó. Đến giờ giao ca, địch bắn pháo sáng rực cả một góc trời để nhận diện và bàn giao mục tiêu nhưng không còn nhận ra đâu là con tàu mà chúng vẫn bám đuổi từ buổi chiều nữa. Để sổng “con mồi” ngay trước mắt, địch tức tối điên cuồng, gọi thêm máy bay và tàu tuần tiễu để tìm con tàu có nước sơn màu nâu sẫm và dòng chữ số “VK1270” màu trắng nền biển màu  xanh. Mặc cho địch ráo riết truy lùng, Tàu 176 trong bộ dạng mới vẫn điềm tĩnh rẽ sóng lao đi, vượt qua phòng tuyến của kẻ thù một cách ngoạn mục như chưa có việc gì xảy ra...

Sau một tuần lễ lênh đênh trên biển khơi, vượt qua bão tố và sự kiểm soát gắt gao của kẻ thù, Tàu 176 đã xác định được hướng vào bến thuộc tỉnh Bến Tre đúng thời gian quy định. Ngay trong đêm tàu dự định vào cập bến, lại một cơn bão nữa ập đến. Tàu đã vào cách bờ khoảng 40 hải lý, nhưng sóng quá to, mặc dù đã mở hết tốc lực mà vẫn đi rất chậm. Dự kiến nếu cứ như thế này tàu có vào tới bờ, đổ xong hàng thì trời cũng đã sáng, rất dễ bị lộ. Chỉ huy Tàu 176 buộc phải cho tàu quay trở ra, tiếp tục hoạt động ở vùng biển có nhiều tàu đánh cá nước ngoài, chờ đêm sau sẽ vào đổ hàng. Đến trưa hôm sau thì máy bay trinh sát cùng 2 tàu khu trục của Mỹ phát hiện ra Tàu 176. Chúng chạy kèm hai bên tàu.

Tàu 176 đi đến đậu thì tàu địch theo đến đấy, vừa bám theo vừa phát đi những lời hăm dọa: “Con tàu của các ông Việt cộng đang đi kia không phải là tàu đánh cá, mà là tàu của Đoàn 125 chở vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam. Con tàu này chúng tôi không nhầm lẫn thì là do thuyền trưởng Ngọc chỉ huy. Con tàu mang số hiệu 176 chứ không phải số hiệu giả đang treo đằng trước mũi tàu. Những người anh em do thượng cấp bắt buộc mà phải dấn thân vào những chuyến đi nguy hiểm hãy ý thức để quay trở về với quốc gia Việt Nam Cộng hòa...”.

Mặc cho địch lớn tiếng hăm doạ, Tàu 176 vẫn băng băng rẽ sóng, đồng thời báo cáo về sở chỉ huy. Trong tình huống nguy cấp ban chỉ huy tàu liên tục bám sát và động viên anh em bình tĩnh, giữ vững ý chí, sẵn sàng chiến đấu, đồng thời chỉ đạo mọi hoạt động giả dạng trên mặt boong vẫn diễn ra bình thường. Nhận thấy  tình hình hết sức bất lợi và nguy hiểm, cấp trên lệnh cho Tàu 176 quay trở về căn cứ. Tàu 176 liền phóng ra xa bờ nhưng hai tàu khu trục Mỹ vẫn bám riết theo, cùng lúc đó thì gió bão nổi lên rất mạnh. Lợi dụng gió bão, Tàu 176 báo cáo sở chỉ huy xin được quay vào bến để đổ hàng. Được sở chỉ huy tuyến đường nhất trí, Tàu 176 liền cắt sóng tiến vào bờ bằng đường ngắn nhất. Khi còn cách bờ vài chục hải lý thì Tàu 176 bất ngờ bị 12 tàu địch lao đến và nổ súng xối xả vào, một thủy thủ hy sinh, Thuyền trưởng Ngọc bị thương vào chân. Con tàu vừa chạy, vừa tránh làn đạn của địch. Được lệnh chiến đấu từ Thuyền trưởng Ngọc, Thuyền phó phụ trách hoả lực Vũ Hữu Suông liền cho mở tung áo lưới ngụy trang súng, chọn chiếc tàu địch gần nhất rồi nổ súng. Ngay từ loạt đạn đầu, một chiếc tàu địch đã bốc cháy. Thêm một thủy thủ nữa của Tàu 176 hy sinh.

Thuyền phó Suông quyết tâm đề nghị Thuyền trưởng cho tăng tốc đuổi theo một tàu khác của địch, rồi dùng súng DKZ trên tàu bắn vào tàu địch, khiến cho tàu này bị thương nặng. Địch nháo nhác hò nhau cấp cứu chiếc tàu bị thương trước sự giáng trả quyết liệt từ Tàu 176, các tàu của địch buộc phải dãn ra xa và dùng pháo câu vào. Tàu 176 vừa cơ động vừa tránh đạn địch. Thuyền trưởng Ngọc lại bị thương lần thứ hai vào chân. Chính trị viên Chung cũng bị thương vào mắt. Thuyền phó Suông bị thương vào bàn tay. Hai thủy thủ nữa anh dũng hy sinh. Ban chỉ huy tàu quyết định cho tàu chạy dọc gần bờ, thả phao cho các thuỷ thủ và cán bộ được cử vào Nam chi viện, mang theo vũ khí quan trọng nhất rời tàu bơi vào bờ trước, đồng thời sẵn sàng phương án hủy tàu để giữ bí mật. Hơn chục tàu địch, có cả máy bay OV10 thả pháo sáng hỗ trợ tiếp tục bám đuổi Tàu 176.

Trên đất liền, địch tung quân đón lõng, chờ Tàu 176 vào bờ là bắt sống. Khi anh em đã xuống nước bơi vào bờ, Tàu 176 chạy theo một hướng khác để vừa đánh lạc hướng địch vừa tổ chức gài thuốc nổ trong khoang. Gài thuốc nổ xong, những thủy thủ cuối cùng cũng bí mật rời tàu. Thấy con tàu vẫn nổ máy, đèn sáng nhưng không có tiếng súng đáp trả, địch tưởng thuỷ thủ trên tàu đã hy sinh hết, hoặc đã chịu quy hàng, chúng hí hửng tiến đến, định áp sát để bắt giữ. Khi một tàu địch vừa tới gần thì Tàu 176 - như một khối bom khổng lồ - bất ngờ phát nổ, đánh chìm luôn tàu địch. Những chiếc còn lại nhận ra chúng đã bị thủy thủ Tàu 176 đánh lừa, vội vàng giãn ra. Chúng tức tối điên cuồng gọi máy bay, tàu bắn pháo sáng lùng sục khắp trên mặt biển để truy bắt thủy thủ Tàu 176. Trên bờ chúng cho quân lính phục sẵn, chờ thuỷ thủ Tàu 176 dạt vào. Một số anh em được ngư dân đánh cá trên biển cứu vớt. Số còn lại, trong đó có Thuyền phó Suông, phải bơi hai đêm một ngày mới vào được bờ. Được sự giúp đỡ, che chở của nhân dân, tất cả đều an toàn và tìm được về cơ sở tiếp tục hoạt động. Chẳng những không bắt được tàu và thủy thủ của Tàu 176, quân địch còn bị đánh chìm hai tàu. Để che giấu cho thất bại này, địch đã tung tin tâm lý chiến trên đài phát thanh Sài Gòn rằng “Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã đánh chìm một tàu lớn chở vũ khí từ miền Bắc vào, viên thuyền trưởng và toàn bộ thuỷ thủ còn sống sót đã bị bắt và quay về với quốc gia”. Riêng Thuyền phó Vũ Hữu Suông thì chúng còn tung tin là “đã bị móc mắt, cắt gân chân vì những hành động ngang ngược, không chịu quy phục khi bị bắt”...

Thuyền phó Suông khi lên bờ đã bắt được liên lạc với cơ sở, tiếp tục hoạt động. Ông tiếp tục công tác và chiến đấu ở cơ quan tác huấn Quân khu 8, chuyên làm nhiệm vụ nắm tình hình vùng biển và trinh sát mở bến nhận hàng chi viện từ miền Bắc vào. Một thời gian sau, ông liên lạc với sở chỉ huy tuyến đường và tìm lại được người thuyền trưởng của mình - Lê Xuân Ngọc. Cuối năm 1974, ông được lệnh trở ra Bắc cùng với Thuyền trưởng Ngọc. Bốn năm sau chuyến đi gian khổ nhưng chiến đấu vô cùng kiên cường cùng đồng đội Tàu 176, Thuyền phó Suông được về phép thăm gia đình đúng vào ngày 26 Tết Âm lịch năm 1974. Trong không khí Xuân ấm áp, niềm vui và nỗi xúc động trào dâng khi Thuyền phó Suông gặp lại người vợ thân yêu cùng đứa con gái đầu lòng mà lúc lên đường làm nhiệm vụ ông chưa kịp nhìn mặt...

Hơn 40 năm sau chuyến đi cùng đồng đội Tàu 176 vào Nam, người Thuyền phó trẻ, gan dạ Vũ Hữu Suông giờ đây đã là một cựu chiến binh Hải quân ở tuổi 70, hiện đang sống cùng gia đình ở thôn Yên Đông, xã Yên Hải, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. 

phan 8 a2 duong HCM tren bien

 

Đường Hồ Chí Minh trên biển Biểu tượng của ý chí giải phóng dân tộc, con đường huyền thoại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Phó Đô đốc, TS. Nguyễn Văn Hiến

Uỷ viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng,

Tư lệnh Quân chủng Hải quân

Cách đây tròn 50 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí minh, Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân nhân dân Việt Nam (HQNDVN) được thành lập, với nhiệm vụ nghiên cứu mở tuyến vận tải quân sự chiến lược Bắc - Nam bằng đường biển, tổ chức đưa người và vũ khí chi viện cho cách mạng miền Nam. Từ đây, “con đường” mang tên Hồ Chí Minh được hình thành, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Có thể khẳng định rằng đường Hồ Chí Minh trên biển là một kỳ tích vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là sản phẩm của ý chí sắt đá, tinh thần dũng cảm và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta; nó góp phần phát huy sức mạnh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa - nhân tố quyết định nhất, kết hợp với sức mạnh tại chỗ của cách mạng miền Nam, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn của toàn dân tộc, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

phan 8 a3 duong HCM tren bien
Phó Đô đốc, TS Nguyễn Văn Hiến phát biểu tại Hội thảo “Đường Hồ Chí Minh trên biển
 - con đường của ý chí và sức sáng tạo Việt Nam”

Đường Hồ Chí Minh trên biển - một biểu tượng sáng ngời về tài thao lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân rất tài tình, độc đáo, sáng tạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu, của Quân ủy Trung ương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, hiện thân của tình cảm thiêng liêng vì miền Nam ruột thịt; là “con đường” đi tới độc lập tự do, thống nhất đất nước; mãi mãi là niềm tự hào, nguồn cổ vũ tinh thần lớn lao đối với các thế hệ cán bộ, chiến sỹ bộ đội HQNDVN anh hùng.

Hơn nửa thế kỷ xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, HQNDVN đã lập nên những chiến công to lớn, góp phần tô thắm thêm truyền thống quật cường chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Cùng quân và dân miền Bắc đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ - ngụy, đồng thời làm lực lượng nòng cốt trong chiến dịch chống phong tỏa sông biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường của đế quốc Mỹ; HQNDVN đã liên tiếp lập nên những chiến công xuất sắc, nhấn chìm hàng trăm tàu chiến các loại của địch ở Cửa Việt - Đông Hà; và đặc biệt nhất là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Quân chủng Hải quân đảm đương nhiệm vụ trên hướng biển, đảo; đã tiến công giải phóng và tiếp quản các hải cảng, các đảo, trọng tâm là các đảo trong quần đảo Trường Sa do quân nguỵ Sài Gòn đóng giữ, các đảo miền Trung và miền Nam, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Phát huy truyền thống vẻ vang đó, ngày nay, HQNDVN đang cùng với các lực lượng trên hướng biển vượt qua muôn vàn khó khăn, hy sinh gian khổ, trụ vững trên các điểm đảo nơi đầu sóng ngọn gió, kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.

Mỗi khi nói đến những chiến công của HQNDVN trong hơn nửa thế kỷ qua, không thể không nhắc tới việc khai thông con đường vận tải quân sự chiến lược - “Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành biểu tượng tự hào của cả  dân tộc, hiện thân của ý chí khát vọng độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc; và thực sự đã trở thành một huyền thoại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chiến tranh đã đi qua, đất nước đang bước vào thời kỳ mới - xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; song, “con đường” huyền thoại - Đường Hồ Chí Minh trên biển, với những kỳ tích oai hùng, những bài học lịch sử và kinh nghiệm được đúc rút ra từ thực tiễn hoạt động của nó hiện đang được phát huy rất hiệu quả trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển và hải đảo của Tổ quốc hôm nay.

Từ góc độ quân sự, giới quân sự nước ngoài, nhất là Mỹ, khi nhìn lại cuộc chiến tranh Việt Nam cũng đã dành nhiều tâm lực để nghiên cứu và luận giải về Đường Hồ Chí Minh xuyên Trường Sơn và Đường Hồ Chí Minh trên biển; và chính họ cũng tự đặt câu hỏi rằng: Đây có phải là một trong các tác nhân quan trọng dẫn đến sự thất bại đau đớn của Mỹ?.

Nghiên cứu về vấn đề khoa học này, sau 50 năm kể từ ngày ra đời tuyến vận tải quân sự chiến lược Đường Hồ Chí Minh trên biển, trong khuôn khổ bài viết này, chỉ xin được đề cập đến một số nội dung chủ yếu sau:

Trước hết, việc mở đường vận tải quân sự trên biển chi viện cho chiến trường miền Nam và những chiến công trên “con đường” biển mang tên Hồ Chí Minh thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân ủy3. Từ Hội nghị lần thứ 15, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa II ), bằng việc phân tích đúng đắn tình hình, Đảng ta xác định “con đường giải phóng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực”. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, miền Nam cần phải được chi viện bằng sức người, sức của từ miền Bắc, miền Nam cần phải có nhiều vũ khí để đánh giặc. Đáp ứng yêu cầu khẩn thiết đó, các tuyến vận tải quân sự chiến lược - đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn và trên biển (1959) đã lần lượt ra đời. Đó là hai phương thức cùng một lúc song song vận chuyển sức người, sức của chi viện cho chiến trường miền Nam, làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù nhằm ngăn chặn sự chi viện từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn. Khi quyết định mở tuyến vận tải chiến lược, Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy đã có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ từ việc khảo sát, trinh sát nắm tình hình, táo bạo, dũng cảm tổ chức lực lượng đi thử nghiệm xác định tuyến và phương thức, phương tiện vận chuyển; tổ chức hệ thống lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ, chỉ định những cán bộ ưu tú và có kinh nghiệm đi biển trực tiếp đảm trách điều hành nhiệm vụ rất quan trọng này. Khi tuyến đường được khai thông, những tấn vũ khí đầu tiên đến với lực lượng vũ trang Cà Mau (10/1962), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện biểu dương khen ngợi, đồng thời nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ “hãy nhanh chóng rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho đồng bào miền Nam giết giặc”.

Khai thông “con đường” đã khó, việc giữ vững “con đường” lại càng khó khăn hơn, bởi phải hành trình trong khu vực biển mà địch liên tục kiểm soát, lùng sục gắt gao, trên mặt biển lại trống trải, không có vật che khuất như đường mòn trên dãy Trường Sơn; thêm vào đó là số lượng tàu ngày một nhiều hơn, lượng giãn nước lớn hơn so với 6 chiếc thuyền gỗ đầu tiên. Trước tình hình đó, Trung ương trực tiếp chỉ huy trong giai đoạn đầu thực hiện nhiệm vụ vận tải, trụ sở của Đoàn 759 đóng quân tại số 83 Lý Nam Đế - Hà Nội. Khi “con đường” bị địch phát hiện (sau sự kiện Vũng Rô tháng 2/1965), Trung ương quyết định tạm dừng một thời gian để tìm phương thức vận chuyển mới. Đó là một quyết định rất kịp thời sáng suốt, nhằm bảo toàn lực lượng, phương tiện và có thời gian nghiên cứu, chuẩn bị cho những chuyến đi mới, đi vòng xa đất liền hơn và gian khổ hơn.

Có thể nói, quyết định mở đường vận tải chi viện chiến trường bằng đường biển, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, mỗi chuyến đi thể hiện sự quan tâm sâu sát và tài thao lược của Đảng ta. Đó vừa là sự  kế thừa kinh nghiệm truyền thống lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, đồng thời là sự sáng tạo mẫu mực về nghệ thuật quân sự trong giai đoạn lịch sử cam go, gian khổ, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - thời điểm các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long đang đòi hỏi vũ khí đạn dược để đánh giặc rất cấp bách, có tính sống còn của phong trào cách mạng, mà những nơi này tuyến vận tải Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh chưa có khả năng vươn tới được.

Thứ hai, cùng với đường Hồ Chí Minh xuyên Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển là sự kết nối vững bền của hai miền Nam - Bắc; sự gắn bó chặt chẽ giữa hậu phương lớn với tiền tuyến lớn; là biểu hiện sinh động của đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu chung giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; đồng thời thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội (CN XH) ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Sau Hội nghị Giơnevơ (1954), nước ta bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc tiến lên xây dựng CNXH, miền Nam nằm dưới ách kìm kẹp của chủ nghĩa thực dân mới. Sự chia cắt đó là nỗi đau lớn nhất của dân tộc ta. Miền Bắc với quyết tâm “mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt”. Còn miền Nam, như Bác   Hồ đã từng nói, phải “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” để cho Bắc - Nam sum họp. Việc mở thông “con đường” vận tải trên biển đã tiếp thêm sức mạnh cho cả dân tộc đánh Mỹ, tạo nên những chuyển biến quan trọng trong sự phát triển cục diện cách mạng nước ta. Nếu như những chuyến hàng của những năm 1962 - 1965 góp phần giúp quân và dân miền Nam đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, thì sự tiếp tế của những năm tiếp theo góp phần làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ - Ngụy.

Tính từ năm 1961 đến tháng 4 năm 1975, Đoàn 759 - Đoàn 125 đã vận chuyển được trên 99.000 tấn vũ khí, trang bị, hàng hóa chi viện cho quân và dân miền Nam đánh Mỹ. Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, thực hiện chỉ lệnh “thần tốc” “đại thần tốc” của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, phải vận chuyển thật nhanh những vũ khí hạng nặng và hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ vào miền Tây, kịp thời hiệp đồng tác chiến với các cánh quân đường bộ, Đoàn 125 đã thực hiện thành công 173 lần chuyến tàu, chở 8.741 tấn vũ khí hạng nặng gồm 50 xe tăng và đại pháo; đưa 18.741 cán bộ, chiến sĩ vượt 65.721 hải lý để kịp thời tham gia chiến đấu.

Có thể nói, về số lượng vũ khí và hàng hóa mà Đoàn 125 vận chuyển bằng đường Hồ Chí Minh trên biển so với số lượng vận chuyển của đường Hồ Chí Minh trên bộ thì ít hơn nhiều; nhưng nó lại có ý nghĩa thật lớn lao. Vận tải trên biển đã kịp thời chi viện vũ khí đạn dược, nhu yếu phẩm... cho những vùng ven biển miền Trung, Tây Nam Bộ mà ở đó vận tải trên bộ chưa thể vươn tới được.

Vận tải biển tuy có gian nan, nguy hiểm hơn đường bộ nhưng lại có ưu thế về tốc độ, thời gian: Nếu vận chuyển đường bộ mất nhiều tháng trời hàng mới tới nơi, thì vận chuyển đường biển chỉ độ hơn một tuần, mà tỷ lệ tổn thất về hàng hóa chỉ 7% (93% hàng đã tới đích)4. Chi phí vận tải cho mỗi tấn hàng trên biển đỡ tốn kém hơn rất nhiều so với vận tải đường bộ: Cứ 100 tấn vũ khí vận chuyển bằng đường biển chỉ cần 10 - 15 cán bộ, chiến sĩ, nếu vận tải đường bộ thì cần đến một sư đoàn mang vác, nếu vận tải bằng cơ giới thì lượng xăng dầu tốn gấp hàng trăm lần so với vận tải đường biển. Ngoài ra vận tải đường biển thường đảm đương một sứ mệnh cực kỳ quan trọng đó là vận chuyển những “hàng hóa đặc biệt” có tính sống còn đối với cuộc kháng chiến - đó là các loại vũ khí trang bị lớn, đặc chủng, những cán bộ cao cấp của Đảng, những chuyên gia đặc biệt bổ sung cho chiến trường.

Thứ ba, nói tới Đường Hồ Chí Minh trên biển là nói tới sự đoàn kết quân dân, giữa cán bộ, chiến sĩ HQNDVN với nhân dân các địa phương ven biển. Từ những chuyến vượt biển đầu tiên của các đội thuyền Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre, Bà Rịa - Vũng Tàu cho đến lúc hình thành “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”, và sau này là Đoàn 759, Đoàn 125, tuyến vận tải quân sự đường biển luôn nhận được sự hỗ trợ tích cực của các cấp ủy Đảng, nhân dân và các lực lượng nơi có bến bãi tiếp nhận hàng. Chỉ có nhân dân “con đường” mới được khai thông, chỉ có nhân dân “con đường” mới giữ được bí mật trong khoảng thời gian dài, những chuyến hàng mới có thể được giải phóng nhanh gọn và những con “tàu không số” mới có thể vào Nam, ra Bắc một cách trót lọt. Mặt khác, chính từ việc xây dựng lực lượng của Đoàn 125 cũng là sự thể hiện sâu sắc và điển hình bản chất “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” của HQNDVN. Những cán bộ, chiến sỹ của Đoàn 125 chủ yếu được tuyển chọn từ phong trào đấu tranh cách mạng ở các địa phương miền Nam, từ các địa phương gắn bó, che chở cho tuyến đường vận tải trên biển như: Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Bà Rịa, Sóc Trăng, Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre… Đó là thành công rất to lớn của đường lối chiến tranh nhân dân, thế trận lòng dân trong thế trận chiến tranh nhân dân của Đảng ta.

Thứ tư, nói về đường Hồ Chí Minh trên biển là nói tới các thế hệ cán bộ, chiến sỹ của đoàn tàu “không số” luôn luôn trung thành vô hạn với Đảng, với nhân dân, nêu cao ý chí quật cường, tinh thần mưu trí, sáng tạo, sẵn sàng xả thân chiến đấu hy sinh để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng và Bác Hồ giao phó. Mỗi chuyến đi là một cuộc đấu trí căng thẳng, quyết liệt với kẻ thù, với thiên nhiên, với mọi khó khăn, thử thách; ra đi là xác định cảm tử với con tàu và chuyến hàng. Từ 1961 đến 1975, cán bộ, chiến sỹ Đoàn 125 đã phải đối mặt với hơn 20 cơn bão lớn, vượt qua hàng trăm cuộc vây ráp của kẻ thù, đưa hàng trăm ngàn tấn vũ khí kịp thời chi viện cho các hướng chiến trường. Những lúc bị địch bao vây bốn phía, cả con tàu là một khối đoàn kết, trong đó thuyền trưởng và chính trị viên tàu là trụ cột mẫu mực nhất. Khi thấy không thể thoát khỏi sự truy lùng của địch, để giữ bí mật cho tuyến đường, họ đã biến con tàu thành một khối thuốc nổ khổng lồ lao vào tàu địch. Sự trung thành với cách mạng, sự hy sinh vô cùng anh dũng của cán bộ, chiến sĩ Hải quân trong suốt thời gian thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho chiến trường, mỗi khi nhắc tới họ, chúng ta không thể không quên những tấm gương sáng ngời như: Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Văn Hiệu, Hồ Đức Thắng, Đặng Văn Thanh, Bông Văn Dĩa và biết bao những người con ưu tú đã anh dũng hy sinh cùng con tàu đã mãi mãi nằm lại với biển khơi.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong quá trình vận tải chiến lược chi viện cho chiến trường, cán bộ, chiến sĩ đoàn tàu “không số” đã nêu cao ý thức tự lực, tự cường, làm chủ con tàu và vũ khí trang bị, chủ động nắm bắt tình hình, thông minh, linh hoạt trong xử lý mọi tình huống, khắc phục khó khăn tìm ra những phương thức vận chuyển độc đáo nhằm vận chuyển nhiều nhất, nhanh nhất sức người, sức của cho miền Nam. Địch phong toả gần bờ, ta đi trên vùng biển xa; địch phong toả đường biển dài, ta đi từng phân đoạn, đồng thời khéo léo kết hợp ngụy trang nghi binh, đối sách khôn khéo, táo bạo, bí mật, bất ngờ, luồn sâu vào bến trong các kênh rạch làng xã của dân. Với những chiến thuật như vậy tưởng chừng đơn sơ, mà lại rất hiểm hóc, chính Nguyễn Hữu Chí - Phó Đô đốc hải quân của Quân đội Việt Nam cộng hòa đã từng phải thừa nhận: “… Trên thực tế đối phương đã sử dụng biển khơi một cách thành thạo, mà việc di hành vào điểm đến càng tỏ ra đặc sắc hơn, làm kinh ngạc không ít chuyên viên đường biển…” Đường Hồ Chí Minh trên biển - nét độc đáo của chiến lược vận tải quân sự trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có giá trị thực tế vô cùng to lớn, song điều mà chúng ta vẫn luôn suy nghĩ, là làm sao biến những giá trị lịch sử truyền thống ấy thành sức mạnh của hiện tại; biến những bài học kinh nghiệm của ngày hôm qua, thành một phần quan trọng trong quá trình hoạt động và phát triển HQNDVN hôm nay ngày càng lớn mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt của thế trận quốc phòng toàn dân trên biển.

Lịch sử Đường Hồ Chí Minh trên biển thực sự là minh chứng sống động về tầm quan trọng của chiến lược biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong điều kiện hiện nay khi các nước trên thế giới đang bước vào cuộc chạy đua vươn ra biển, nghiên cứu thăm dò, khai thác nguồn lợi từ biển để làm giàu cho mỗi quốc gia thì trách nhiệm của các lực lượng vũ trang trên hướng biển ngày càng nặng nề, phức tạp và khó khăn hơn.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, nhất là những chủ trương nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, gắn với quốc phòng an ninh và hợp tác quốc tế, những chiến công và những giá trị của các bài học kinh nghiệm về đường Hồ Chí Minh trên biển sẽ tiếp tục được nhân lên gấp bội.

Phát huy truyền thống “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong những năm qua HQNDVN đã và đang cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức phát huy truyền thống vẻ vang, làm tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trên biển, trong đó lực lượng vận tải Hải quân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vận chuyển người và hàng quân sự cho các lực lượng bảo vệ biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.

phan 8 a4 duong HCM tren bien
Ông Nguyễn Văn Hiến (thứ hai từ trái sang) giới thiệu mô hình để phục vụ
 công tác huấn luyện  chiến sĩ hải quân với lãnh đạo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
và nguyên lãnh đạo Quân chủng hải quân. Ảnh TTO

Từ hoạt động thực tiễn phong phú, sinh động, rực rỡ chiến công của “con đường” vận tải quân sự chiến lược trên biển, HQNDVN đã rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu về công tác tổ chức xây dựng lực lượng, giáo dục, huấn luyện lực lượng vận tải quân sự trên biển; phối hợp hoạt động với các lực lượng trên biển, đảo; về nghệ thuật vận tải quân sự trên biển; về nghiên cứu âm mưu thủ đoạn và khả năng chống phá của địch...Trong thời gian tới, công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc còn diễn biến rất phức tạp. Do đó, yêu cầu nhiệm vụ của HQNDVN , trong đó có lực lượng vận tải Hải quân rất nặng nề, phải tiếp tục làm tốt nhiệm vụ vận tải quân sự bảo đảm cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc và sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác.

Để hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ trên, bộ đội Hải quân nói chung, lực lượng vận tải quân sự Hải quân nói riêng phải là lực lượng nòng cốt trong tổ chức thực hiện Nghị quyết 04 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân chủng nhiệm kỳ (2011- 2015). Cùng với việc tập trung nghiên cứu toàn diện việc phát triển lý luận nghệ thuật quân sự Hải quân lên tầm cao mới, cần nghiên cứu vận dụng sáng tạo, kế thừa và phát triển những bài học kinh nghiệm của công tác vận tải quân sự trong kháng chiến chống Mỹ vào điều kiện mới, phát huy nội lực, đầu tư cao nhất cho giáo dục, huấn luyện nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; xây dựng Quân chủng vững mạnh toàn diện, tiến lên chính quy, hiện đại. Xác định nhiệm vụ vận tải quân sự bằng đường biển là một nhiệm vụ có tính chiến lược, đồng thời quán triệt sâu sắc quan điểm công nghiệp hóa - hiện đại hóa vào từng công trình, đầu tư có trọng điểm; phát huy ý chí tự lực, tự cường, tinh thần chủ động sáng tạo tìm mọi biện pháp kéo dài tuổi thọ của trang bị kỹ thuật, nhanh chóng tiếp thu, khai thác sử dụng có hiệu quả các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại, thực hiện tốt cuộc vận động “quản lý, khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

Tổ quốc nhìn từ biển

Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển

Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa

Ngàn năm trước con theo cha xuống biển

Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa

Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc

Các con nằm thao thức phía Trường Sơn

Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả

Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn

Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển

Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng

Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa

Trong hồn người có ngọn sóng nào không

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo

Lạc Long cha nay chưa thấy trở về

Lời cha dặn phải giữ từng thước đất

Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi

Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể

Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù

Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ

Thương Hòn Mê bão tố phía âm u

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích

Những đau thương trận mạc đã qua rồi

Bao dáng núi còn mang hình goá phụ

Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa

Đã mười lần giặc đến tự biển Đông

Những ngọn sóng hoá Bạch Đằng cảm tử

Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng

Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo

Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn

Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy

Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân

Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả

Những chàng trai ra đảo đã quên mình

Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước5

Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát

Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời

Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất

Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi.

Nguyễn Việt Chiến

(1) Trung tá, Nguyên Thuyền phó tàu 176.

(2) Đại úy, Tạp chí Hải Quân

(3) Ngày 25 tháng 2 năm 1961, Bộ Chính trị quyết định đổi Tổng Quân ủy thành Quân ủy Trung ương.

(4) Tỷ lệ mà Tổng Quân ủy cho phép là 50%

(5) Sắc chỉ của vua triều Nguyễn 1835 cử dân binh ra canh giữ đảo Hoàng Sa

Kim Yến (st)
Còn nữa

Bài viết khác: