Chỉ mục bài viết

 HT duong HCM tren bien phan 10 anh 1

Đào tạo sỹ quan và thủy thủ cho Đoàn tàu Không số một nhiệm vụ quan trọng của Trường Sỹ quan Hải quân - Chuẩn Đô đốc, GS, TS. Phạm Hồng Thuận, Giám đốc Học viện Hải quân

Tình hình biển, đảo những năm gần đây luôn xuất hiện những động thái mới, những nhân tố gây mất ổn định và khó lường; đây thực sự là một thách thức lớn đối với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của Quân chủng cũng như của Học viện Hải quân với tư cách là một trung tâm giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học lớn của Quân chủng. Chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng: Để xây dựng Quân chủng Hải quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại thì vấn đề đào tạo nguồn nhân lực (mà hạt nhân là đào tạo đội ngũ cán bộ) luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định đến chất lượng cũng như quy mô và tốc độ phát triển của Quân chủng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1) , “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(2). Bởi theo Bác, cán bộ vừa là sản phẩm của đường lối, vừa là người bảo vệ, phát triển và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng. Đường lối chính trị là cơ sở, phương hướng để xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ. Ngược lại, đội ngũ cán bộ tốt, vững mạnh, trong sạch, trung thành tận tuỵ với Đảng, có kiến thức, năng lực tổ chức thực hiện, có kinh nghiệm lãnh đạo và vững vàng trong mọi tình huống thì Đảng mới hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thành công.

Hải quân là quân chủng kỹ thuật, ra đời muộn hơn so với các quân, binh chủng khác, song từ khi ra đời đến nay bộ đội Hải quân luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của người lính tiên phong trên một hướng chiến lược quan trọng bậc nhất, đó là hướng biển.

Đường Hồ Chí Minh trên biển gắn liền với những kỳ tích của “Đoàn tàu Không số” là đỉnh cao của tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; đồng thời nó cũng là một chiến công vĩ đại, một nét độc đáo trong lịch sử quân sự Việt Nam, chưa từng xuất hiện trong “chiến lệ” của các cuộc chiến tranh mà các quốc gia, dân tộc trên thế giới đã trải qua. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, những nhà chiến lược quân sự sừng sỏ của Mỹ không thể giải thích nổi vì nguyên cớ gì, bằng chiến thuật, bằng kỹ thuật gì, bằng sự nhiệm màu nào, mà những con tàu thô sơ, nhỏ bé của đối phương có thể vượt qua bão tố, biển cả, vượt qua sự kiểm soát chặt chẽ của một hạm đội hùng mạnh với trang bị hiện đại, tối tân, gần như “rào kín” trên biển, để đến được bờ bến miền Nam. Phó Đô đốc Hải quân Việt Nam cộng hòa Nguyễn Hữu Chí nhận xét: “…Trên thực tế, đối phương đã sử dụng biển khơi một cách thành thạo, mà việc di hành vào điểm đến càng tỏ ra đặc sắc hơn, làm kinh ngạc không ít chuyên viên đi biển…Trên phương diện quân sự, Bắc Việt đã biết khai thác biển khơi một cách thực tiễn hơn ta (Mỹ và Sài Gòn - TG ). Họ có một trung đoàn viễn dương (Đoàn 125) gồm một số ngư thuyền ngụy trang cho mục đích thâm nhập vào Nam, giá trị của Hải quân Bắc Việt đã nói lên trước dư luận quốc tế…”. Cho đến mãi sau này, kẻ địch vẫn không thể hiểu được đội ngũ sỹ quan và thuỷ thủ được đào tạo như thế nào, đào tạo ở đâu, để có thể điều khiển những con tàu gỗ, tàu sắt nhỏ bé, thô sơ đi xa bờ, đi trên đường hàng hải quốc tế thành thạo như những con tàu viễn dương hiện đại; khi vào bờ thì luồn lách, lúc ẩn lúc hiện, thông thạo bến bãi như những ngư dân chuyên nghiệp. Kẻ địch chắc không thể ngờ rằng: Những sỹ quan và thuỷ thủ anh hùng và quả cảm của Đoàn tàu Không số hoặc chỉ là những ngư dân bình thường chưa qua một trường lớp đào tạo nào, hoặc chủ yếu được đào tạo tại Trường Hải quân Việt Nam..

Ngược dòng lịch sử, chúng ta trở về đầu năm 1960. Nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển của cách mạng miền Nam trong tình hình mới, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng quyết định mở rộng tuyến vận tải chi viện cho chiến  trường miền Nam, trước mắt phải mở đường vận chuyển vũ khí vào Nam bằng đường biển. Sau hơn 1 năm, công việc, nghiên cứu khảo sát, nắm tình hình và xây dựng đề án về tổ chức con đường vận chuyển chiến lược trên biển chi viện cho chiến trường miền Nam mới hoàn thành. Để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đó, ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn vận tải thủy mang phiên hiệu 759, đặt dưới sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp của Bộ Quốc phòng. Số lượng tàu thuyền của Đoàn buổi đầu còn ít ỏi, chủ yếu là tàu gỗ; cán bộ, chiến sĩ chỉ huy, điều khiển thuyền là những đồng chí có kinh nghiệm đi biển từ miền Nam ra, hầu hết chưa qua trường lớp hàng hải nào. Đến tháng 3 năm 1963, Đoàn được trang bị tàu sắt và đồng thời được bổ sung thêm nhiều cán bộ, chiến sĩ đã qua đào đạo cơ bản, một số ít lấy từ trường Hàng hải và anh em học tập ở nước ngoài về, còn lại chủ yếu là được đào tạo từ trường Hải quân Việt Nam. Đây là những cán bộ, chiến sĩ ưu tú nhất của Trường, giúp Đoàn 759 xây dựng những cơ sở ban đầu, tạo điều kiện thuận lợi cho những chuyến vận chuyển vũ khí vào Nam thành công. Đoàn 759 ra đời đánh dấu bước phát triển về tổ chức tuyến vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển. Ngày 23/10 hàng năm đã trở thành ngày truyền thống của Đoàn 759 trước đây, Lữ đoàn 125 Hải quân ngày nay - ngày mở đầu cho đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển.

Đến tháng 8 năm 1963, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Đoàn 759 hoàn thành tốt nhiệm vụ, phù hợp với tổ chức biên chế, yêu cầu tập trung tổ chức chỉ huy thống nhất và công tác bảo đảm tàu thuyền, Thường trực Quân ủy Trung ương quyết định chuyển giao Đoàn 759 từ Bộ Quốc phòng về trực thuộc Cục Hải quân. Từ đây, việc tiếp tục xây dựng, củng cố và phát triển tuyến vận tải chiến lược “Đường Hồ Chí Minh trên biển” do Quân chủng Hải quân trực tiếp đảm nhiệm. Và cũng từ thời gian này, Trường Hải quân Việt Nam có thêm nhiệm vụ: Bí mật, khẩn trương đào tạo sỹ quan và thuỷ thủ cho việc vận chuyển vũ khí bằng đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam.

Ngày 01 tháng 6 năm 1965, nhà trường mở lớp cán bộ thuyền ngắn hạn gồm 23 đồng chí. Những học viên về học, phần lớn là những người đã có thành tích, lập được nhiều chiến công vận chuyển trên biển thuộc Đoàn 125. Sau 15 tháng học tập, tháng 9 năm 1966, anh em trở lại đơn vị tham gia vận chuyển vũ khí, trong số họ, nhiều người đã trở thành những thuyền trưởng, những chính trị viên xuất sắc của “Đoàn tàu Không số”. Họ đã điều khiển con tàu đi đúng hành trình, độc lập sáng tạo trong chỉ huy, đã xử lý khôn khéo, táo bạo, đầy trách nhiệm trong nhiều tình huống bất ngờ để giành thắng lợi ở từng chuyến đi. Những trận chiến đấu của “tàu Không số” trên biển khiến đối phương phải thán phục rằng: thủy thủ đoàn trên tàu Bắc Việt “lão luyện”, “gan dạ”, “thuần thục”, “tài trí”.v.v… Lịch sử Đoàn 125 Hải quân ghi rõ: “Từ ngày đi chuyến đầu tiên (10-1962) cho tới tháng 2 năm 1965, Đoàn 125 đã sử dụng tất cả 3 tàu gỗ, 17 tàu sắt, tổ chức 88 chuyến đi, vận chuyển được 4.719 tấn vũ khí cho chiến trường… 88 chuyến đi là 88 câu chuyện thần kỳ về lòng dũng cảm, về đức hy sinh, về sự tài trí, là 88 câu chuyện cảm động về tình đồng đội, về tinh thần vượt khó, chịu đựng gian khổ, xông pha nơi nguy hiểm, vượt qua sóng to, gió cả, xuyên qua hàng rào ngăn chặn của tàu chiến, máy bay Hạm đội 7 và hàng rào tàu chiến, máy bay, ra đa của Hải quân ngụy…”(3)

Chúng ta còn nhớ, sau sự kiện Vũng Rô (16/02/1965) con đường vận chuyển quân sự chiến lược trên biển, với bao kỳ công để giữ bí mật, đã không còn bí mật nữa, địch đã phát hiện ra tuyến đường vận chuyển của ta. Chúng tăng cường trinh sát, ngăn chặn. Ta phải vận chuyển theo phương thức mới: Đi xa bờ, đi ra đường hàng hải quốc tế, “đi bằng phương pháp thiên văn”. Vận chuyển bằng phương thức này đòi hỏi đội ngũ cán bộ thuyền không chỉ có bản lĩnh chiến đấu, chịu đựng được sóng gió, có kinh nghiệm đi biển mà phải có trình độ chuyên môn và am hiểu khoa học kỹ thuật. Trước tình hình đó, Nhà trường đã kịp thời đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cho sát với tình hình thực tế, phù hợp với phương thức vận chuyển mới. Trong đó, đặc biệt coi trọng việc tổ chức cho học viên thực hành trên biển, thực hành địa văn, thiên văn hàng hải, đi trong điều kiện ban ngày cũng như ban đêm, điều kiện thời tiết phức tạp, vào các vùng biển mới, luồng hẹp .v.v..., lấy đó là một nội dung quan trọng trong công tác đào tạo huấn luyện.

Từ năm 1965 đến năm 1967, nhà trường liên tiếp mở các lớp nghiệp vụ ngắn hạn về cơ điện, máy trưởng bổ sung cho Đoàn 125 (7/1965 lớp cơ điện gồm 12 đ/c; tháng 6/1967, mở lớp máy trưởng gồm 17 đ/c). Riêng Khóa 9 (đào tạo dài hạn 02/1965 - 2/1969) có 33 đ/c, 10 đồng chí học viên xuất sắc nhất khi ra trường được điều về Đoàn 125; nhiều đồng chí đã trực tiếp tham gia các chuyến tàu vận tải vũ khí vào miền Nam (Phạm Duy Tam, Vũ Hữu Suông, Phạm Ngọc Dao, Nguyễn Xuân Hùng…). Riêng đồng chí Phạm Duy Tam, Thuyền trưởng Tàu 42 đã tham gia 7 chuyến (2 chuyến đi trinh sát, 5 chuyến chở hàng vào Cà Mau). Tiếp theo là Khóa 10 cũng có một số trực tiếp tham gia các chuyến vận chuyển vũ khí vào Nam (đ/c Hạp, đ/c Cường, đ/c Tường). Nhiều đồng chí hiện nay không còn nữa, song tên tuổi của các đồng chí vẫn còn lại mãi mãi với thời gian, và luôn là tấm gương sáng cho các thế hệ cán bộ, giảng viên, học viên của nhà trường noi theo.

Tháng 3 năm 1972, nhà trường tiếp tục mở khóa bồi dưỡng ngắn hạn cho 69 học viên, được tổ chức thành 1 phân đội mới với phiên hiệu 108 gồm 3 lớp hàng hải, 2 lớp cơ điện. Học viên khóa này đa phần là các đồng chí đã từng chiến đấu trong chiến trường, nay được bổ sung về Đoàn 125. Trong số 69 học viên theo học khóa này, nhiều đồng chí trở thành cán bộ cao cấp của Đảng và Quân đội, như đồng chí Võ Nhân Huân (nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Quân chủng, Tư lệnh Hải quân), đồng chí Nguyễn Vĩnh Chân (Phó Giám đốc Học viện Hải quân)….

Theo phương thức vận chuyển mới, những con “tàu không số” vẫn tiếp tục lên đường vận chuyển vũ khí chi viện cho miền Nam. Hành trình của những con “tàu Không số” vô cùng gian nan, đi trên đường hải phận quốc tế vẫn bị máy bay địch theo dõi, khiêu kích, vượt qua Hoàng Sa, rồi Trường Sa, đôi khi phải xuống tận vùng biển Xumatra (Indonêxia) rồi quay lại Vịnh Thái Lan để đánh lừa địch, rồi mới chuyển hướng vào vùng biển Tây Nam Việt Nam. Như chuyến đi trinh sát mở đường của tàu 42 do đồng chí Đỗ Bé làm Thuyền trưởng, Phạm Duy Tam học viên Khóa 9 làm Thuyền phó, đi ngày 20/8/1969 về ngày 10/9/69, 20 ngày ròng rã trên biển với hơn 4.000 hải lý, tàu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, mở ra được tuyến đường mới với phương thức vận chuyển mới. Nhiều nhà quân sự phương Tây đã nhận xét: “Việt cộng chở vũ khí vào Nam bằng đường biển là mạo hiểm, cuồng tín, không sao hiểu nổi”; “Bắc Việt có một đội tàu thuyền vững vàng và có kinh nghiệm đi biển hơn Hải quân Sài Gòn 20 năm” (Tập san Quốc phòng của Quân đội Sài Gòn, số 18). Mỹ và Sài Gòn không thể tin được rằng, điều khiển những con tàu ấy là những cán bộ thuyền được đào tạo ngắn hạn, cấp tốc từ Trường Hải quân Việt Nam. Đội ngũ cán bộ thuyền của ta không chỉ đi bằng phương pháp địa văn giỏi, mà đi bằng phương pháp thiên văn cũng giỏi. Đi ban ngày giỏi, đi đêm, ra vào luồng lạch cũng giỏi. Đi xa bờ, giữa mênh mông biển cả, nhưng bắt mục tiêu và tính toán vị trí tàu chính xác; không ít lần đi vòng hết khu vực biển mà vẫn trở về an toàn.

Yếu tố nào giúp Nhà trường trong một thời gian ngắn (thường là 1 năm, khóa dài nhất là 2 năm) đào tạo ra được đội ngũ cán bộ, thuyền viên xuất sắc như vậy?

Thứ nhất, Đảng ủy, Ban Giám hiệu đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng và ý nghĩa chiến lược của nhiệm vụ đào tạo cán bộ cho “Đoàn tàu Không số”. Nhà trường đã chọn những cán bộ, giáo viên giỏi nhất, có nhiều kinh nghiệm đi biển biên soạn tài liệu về chiến thuật, về hàng hải, thông tin, binh khí, cơ điện… và trực tiếp tham gia giảng dạy như các đồng chí Phạm Đốc, Trần Văn Sửu, Lê Đình Tường, Lê Kế Lâm, Thái Trọng Trì ...

Thứ hai, Nguồn đầu vào là những cán bộ, chiến sĩ đã qua thử thách, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, không ngại gian khổ hy sinh, chịu được sóng gió, ít nhiều có kinh nghiệm đi biển. Để đào tạo được những sĩ quan Hải quân tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, có bản lĩnh chỉ huy, có trình độ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, chúng ta phải tuyển chọn được những thanh niên ưu tú, có trình độ văn hóa, có sức khỏe, chịu đựng được sóng gió, tình nguyện gắn cuộc đời mình với biển cả.Trong giáo dục và đào tạo phải luôn luôn coi trọng công tác giáo dục lập trường tư tưởng chính trị, lòng yêu nước và lòng trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân.

Thứ ba, Chương trình, nội dung đào tạo ngắn gọn, sát với thực tế. Lý thuyết chỉ học những kiến thức cơ bản, tập trung vào thực hành, sát với thực tế chiến đấu. Những môn học đặc biệt được chú trọng như: Thiên văn, địa văn, vận hành tàu, chiến thuật tránh tàu và máy bay địch… Phương châm đào tạo của nhà  trường trong giai đoạn này là: “Nhà trường gắn liền với chiến trường, bám tàu, bám biển; xoay quanh chức trách mà đào tạo, huấn luyện; đào tạo và huấn luyện phải sát với thực tế chiến đấu”. Những kinh nghiệm, những bài học được rút ra từ mỗi chuyến đi của Đoàn 759 - Đoàn 125 đều được các giáo viên tìm hiểu nghiên cứu, vận dụng ngay vào từng bài giảng. Chính vì vậy, nhà trường luôn chú trọng huấn luyện thực hành, song song với đào tạo học viên sử dụng tốt các thiết bị hiện đại để dẫn tàu trên biển, phải đặc biệt coi trọng việc dạy học viên dẫn tàu bằng các phương pháp truyền thống (thiên văn, địa văn). Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo trình độ kỹ thuật với kiến thức khoa học, nghệ thuật quân sự.

Ngày nay, với sự ra đời của hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu, thì nhiệm vụ xác định vị trí tàu trở nên đơn giản và có độ chính xác cao. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, độ chính xác của vị trí tàu xác định nhờ các máy định vị vệ tinh được trang bị trên các tàu trong lực lượng Hải quân của chúng ta lại hoàn toàn phụ thuộc vào trung tâm điều khiển hệ thống GPS của Mỹ. Vì vậy, độ sai lệch vị trí là có thể, và khi có chiến tranh xảy ra, thậm chí chúng ta không thể xác định được vị trí tàu nhờ hệ thống này. Song, bằng các phương pháp truyền thống, chúng ta hoàn toàn dẫn tàu chính xác hoạt động trên biển. Điều đó vừa bảo đảm cho các tàu của ta hoạt động bí mật, an toàn vừa tránh được sự phụ thuộc vào phương tiện kỹ thuật do đối phương làm chủ, đặc biệt khi có chiến tranh xảy ra.

Nhìn lại một chặng đường lịch sử hào hùng của “Đoàn tàu Không số” - “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, mỗi người dân Việt Nam nói chung, mỗi cán bộ, giảng viên, học viên Học viện Hải quân ngày nay nói riêng đều thấy tự hào. Lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ còn mãi mãi nhắc tới những chiến công của những thuyền trưởng, thủy thủ của “Đoàn tàu Không số” rất mực trung kiên, dũng cảm, táo bạo, mưu trí, sáng tạo và chịu đựng biết bao gian khổ, thiếu thốn, với một sự hy sinh thầm lặng cao cả để làm nên con đường vận chuyển huyền thoại trên biển trong những năm tháng chống Mỹ, cứu nước. Trường Hải quân Việt Nam, nay là Học viện Hải quân, tự hào vì đã đào tạo, bồi dưỡng không ít cán bộ, thủy thủ cho “Đoàn tàu Không số”. Những bài học kinh nghiệm được rút ra trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuyền cho “Đoàn tàu Không số” năm xưa và những kinh nghiệm đi biển của Đoàn vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục được cán bộ, giảng viên, học viên Học viện Hải quân ngày nay học tập, nghiên cứu.

Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biển trong tương lai nếu xảy ra, kẻ địch sẽ sử dụng chiến tranh công nghệ cao với những vũ khí hiện đại, hòng đè bẹp ý chí chiến đấu của Hải quân nhân dân Việt Nam. Vì vậy, tìm hiểu, nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm của những bậc cha anh đi trước trong đào tạo cán bộ cho chiến tranh, là một việc làm rất cần thiết không chỉ đối với nhà trường, mà còn rất bổ ích cho các đơn vị huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.

Biển Đông đối với Hải quân nhân dân Việt Nam không phải là một chiến trường mới lạ. Ở đó, chúng ta đã từng đấu trí, đấu lực, và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Ở đó, biết bao máu xương của nhân dân ta, của những chiến sĩ Hải quân, của cán bộ, chiến sĩ “Đoàn tàu Không số” đã đổ xuống trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng dân tộc. Cho dù ngày nay, kẻ địch có mưu mô xảo quyệt đến đâu, hung hãn đến mấy, vũ khí, trang bị của chúng có hiện đại hơn chúng ta đến mấy, nhưng chúng ta nhất định không chùn bước; luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, bảo vệ vững chắc toàn vẹn chủ quyền biển, đảo và thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.

Đường Hồ Chí Minh trên biển một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

          Thiếu tướng PGS, TS Vũ Quang Đao
Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

Trong lịch sử chiến tranh giữ nước, ông cha ta đã từng mở nhiều con đường để nối liền hậu phương với tiền tuyến. Đầu thế kỷ X, Lê Hoàn đã đào con kênh dài hàng trăm kilômét từ Thanh Hóa vào Nghệ An để hành quân và vận chuyển lương thực vào phục vụ chiến đấu bảo vệ vùng biên giới phía Nam đất nước. Đến thế kỉ XVIII , Nguyễn Huệ - Quang Trung đã khai thông con đường thượng đạo miền Tây để thực hiện cuộc hành quân thần tốc ra Bắc, đánh tan 29 vạn quân Thanh ở Kinh thành Thăng Long. Trong thời kỳ chiến tranh cách mạng, Đảng ta đã hình thành những “con đường liên lạc bí mật” từ Trung ương, Xứ ủy đến các cơ sở cách mạng ở địa phương. Đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã vượt bao khó khăn, thử thách, phá núi, bạt rừng xây dựng nên con đường vận chuyển từ hậu phương lên Điện Biên Phủ... Nhưng chưa có lẽ, chưa có con đường nào có sức mạnh thần kì, tầm vóc to lớn và đầy tính huyền thoại như đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển.

HT duong HCM tren bien phan 10 anh 2
Thiếu tướng Vũ Quang Đạo, phát biểu tại một hội thảo khoa học

Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nắm rõ vai trò to lớn của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã không từ một thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt nào, sử dụng tất cả các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, với sức mạnh tổng hợp của cả Hải, Lục và Không quân, lực lượng biệt kích, chiến tranh điện tử, chiến tranh hóa học… để thực hiện “chiến tranh ngăn chặn” nhằm cắt đứt sự chi viện từ hậu phương miền Bắc cho các chiến trường miền Nam.

Ở trên bộ, với lực lượng không quân hùng mạnh, kẻ thù đã sử dụng đủ loại máy bay, từ máy bay không người lái, máy bay phản lực, máy bay ném bom, kể cả máy bay ném bom chiến lược B52, tiến hành ném bom rải thảm, đánh phá, ngăn chặn phương tiện vận tải, phá hỏng cầu, cống, ngầm, đèo, đường dây thông tin, giao liên v.v..Ngoài ra, Mỹ còn sử dụng các loại vũ khí, trang bị điện tử như bom từ trường, bom Lade, “cây nhiệt đới” để phát hiện người và mục tiêu trên mặt đất, thả chất độc hóa học hủy diệt các thảm cây xanh, các cánh rừng để phát hiện kho tàng, bến bãi nhằm tiêu diệt sinh lực, phương tiện chiến đấu và cắt đứt tuyến chi viện của ta.

Ở trên biển, ngay từ đầu cuộc chiến tranh, đế quốc Mỹ và quân đội Sài Gòn cũng đã thiết lập 3 hệ thống tuần tiễu để “chống xâm nhập”. Một hệ thống cách bờ 12 hải lý được gọi là hệ thống cận duyên; một hệ thống từ 12 hải lý trở ra đến 40 hải lý, được gọi là hệ thống viễn duyên. Trên cả hai hệ thống này, Mỹ và quân đội Sài Gòn sử dụng hàng trăm tàu chiến lớn nhỏ, ngày đêm thay nhau tuần tiễu, lùng sục vào các ngư trường để phát hiện tàu lạ. Ngoài hai hệ thống trên, địch còn sử dụng hệ thống không tuần, cho các máy bay tuần tra ngoài khơi 200 hải lý để phát hiện tàu xâm nhập. Ở những hòn đảo, vùng cửa sông, cửa biển được coi là nhạy cảm và có tính chiến lược như: cù lao Ré, đảo Hòn Khoai, Côn Sơn; cửa Bồ Đề, Gành Hào hay cửa sông Ông Đốc… địch cho thiết lập những căn cứ hỏa lực mạnh, những hạm đoàn lớn để không chỉ kiểm soát vùng cận duyên mà còn mở rộng tầm kiểm soát ra khu vực hải phận quốc tế.

Phải đương đầu với một kẻ thù hung bạo có tiềm lực và sức mạnh quân sự, kinh tế, trình độ khoa học, công nghệ hiện đại hơn gấp nhiều lần, ngay từ sau khi có Nghị quyết Trung ương 15, Đảng ta đã chủ trương chuyển hướng chiến lược của cách mạng miền Nam từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai. Cũng từ đó, nhu cầu chi viện cho các chiến trường miền Nam ngày càng lớn. Theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ngày 19 tháng 5 năm 1959, Đoàn 559 được thành lập, có nhiệm vụ mở đường vận chuyển hàng hóa, tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc. Tiếp đó, để tăng cường hơn nữa công tác chi viện cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam ở chiến trường Nam Trung Bộ và Nam Bộ đang trực tiếp đánh Mỹ, tháng 7 năm 1959, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thành lập Tiểu đoàn vận tải thủy 603. Để giữ bí mật, đơn vị hoạt động dưới tên gọi “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”, đóng quân tại thôn Thanh Khê, xã Thạch Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Những ngày đầu hoạt động trong điều kiện vô cùng khó khăn, ác liệt, đặc biệt là kinh nghiệm và hiểu biết về tình hình cụ thể tại các tỉnh duyên hải phía Nam, chuyến vượt biển đầu tiên bằng thuyền buồm của Tiểu đoàn 603 không thành công do thuyền gặp gió mùa, sóng lớn, bị trôi dạt và không về được tới đích, cả 6 thuyền viên đều bị địch bắt, Tiểu đoàn 603 tạm ngừng hoạt động để tìm giải pháp và phương thức vận chuyển phù hợp.

Ở miền Nam, trong thời gian này, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, các tỉnh ven biển như Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Bà Rịa cũng đã tổ chức nghiên cứu, chuẩn bị lực lượng, phương tiện để ra Bắc tiếp nhận vũ khí. Đầu năm 1961, các tỉnh trên đã dùng 5 thuyền gỗ đánh cá, bí mật ra Bắc. Trong đó, tỉnh Bến Tre có 2 thuyền; Bạc Liêu có 2 thuyền; Trà Vinh có 1. Riêng tỉnh Bà Rịa có một thuyền đang trên đường ra Bắc thì bị địch bắt. Qua tổng kết kinh nghiệm hoạt động của Tiểu đoàn 603 và chuyến vượt biển ra Bắc của các thuyền ở 4 tỉnh Nam Bộ, ngày 23 tháng l0 năm 1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, quyết định thành lập Đoàn Vận tải biển 759, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng(4). Sau khi thành lập, Đoàn 759 bắt tay ngay vào xây dựng kế hoạch vận chuyển, trong đó nhấn mạnh đến phương thức vận chuyển, phương pháp tiến hành và hướng đột phá. Về phương tiện vận chuyển, đề án chỉ rõ, trước mắt tận dụng những phương tiện thô sơ, nửa hiện đại. Sau đó tổ chức nghiên cứu để có các đội tàu tương đối hiện đại, trọng tải lớn, có thể hoạt động quanh năm, không phụ thuộc vào thời tiết, gió bão; khi có thời cơ, sẽ sử dụng những đội tàu có sức chở 200 đến 500 tấn/chiếc; về phương châm vận chuyển, kết hợp hoạt động hợp pháp và bất hợp pháp; lấy hoạt động hợp pháp làm phương thức chủ yếu. Trong quá trình vận chuyển, đơn vị phải chủ động, táo bạo, bất ngờ, lợi dụng sơ hở của địch để đưa hàng đến bến; đồng thời phải có các phương án linh hoạt để đối phó khi bị phát hiện. Trong trường hợp bị địch phát hiện, phải kiên quyết chiến đấu bảo vệ hàng; nếu cần thì cho nổ tàu để giữ bí mật. Về hướng đột phá, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định hướng đột phá của Đoàn sẽ là Nam Bộ, sau đó sẽ phát triển ra Khu 5.

Sau một thời gian xây dựng, ổn định tổ chức biên chế, chuẩn bị tàu thuyền và đi trinh sát thực địa, trung tuần tháng 8 năm 1962, Quân ủy Trung ương quyết định mở đợt vận chuyển vũ khí vào Nam. Từ đây, Đoàn 759 bước vào giai đoạn thực hiện vận chuyển để làm nên con đường huyền thoại trên biển Đông – đường Hồ Chí Minh trên biển(5). Sự ra đời của Đoàn 759 cùng với việc khai thông tuyến chi viện chiến lược Bắc - Nam trên biển là sự kiện hết sức có ý nghĩa. Từ đây, các địa phương ven biển miền Nam, chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2) đã nhận được sự chi viện trực tiếp của miền Bắc, tạo nên sức mạnh và niềm tin to lớn cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam.

Với tinh thần thần tốc, táo bạo, tất cả vì miền Nam ruột thịt, đêm 11 tháng 10 năm 1962 chiếc tàu gỗ gắn máy đầu tiên của Đoàn 759 do đồng chí Lê Văn Một - Thuyền trưởng và đồng chí Bông Văn Dĩa - Bí thư Chi bộ chở hơn 30 tấn vũ khí đầu tiên bí mật rời bến Nghiêng (Hải Phòng), sau 5 ngày vượt biển con tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn đánh dấu một sự kiện quan trọng “đường Hồ Chí Minh trên biển” đã được khai thông. Nhận được tin đó, Bác Hồ kính yêu đã gửi điện động viên, khen ngợi cán bộ chiến sỹ và căn dặn cần rút kinh nghiệm chuyến đi, tiếp tục vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho đồng bào miền Nam đánh giặc, cho Nam - Bắc sớm sum họp một nhà(6).

Với tinh thần khẩn trương, quay vòng, tăng chuyến, trong năm 1963, Đoàn 759 đã thực hiện được 23 chuyến, vận chuyển được hơn 1.318,68 tấn hàng hóa(7), chủ yếu là vũ khí và thuốc men vào các tỉnh vào Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh, Bà Rịa. Ngoài ra, Đoàn còn đưa đưa đón hàng chục cán bộ cao cấp của Đảng, quân đội và chuyên gia quân sự vào miền Nam và từ miền Nam ra miền Bắc báo cáo trung ương và nhận chỉ thị mới, kịp thời bổ sung cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu trên chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào việc làm thất bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế và lực mới cho cách mạng miền Nam.

 Trước sự phát triển nhanh chóng và hoạt động vận chuyển có hiệu quả của Đoàn 759, để tăng cường hơn nữa khả năng hoàn thành nhiệm vụ, đảm bảo nhu cầu chi viện ngày càng lớn cho chiến trường, đồng thời nhất quán với nguyên tắc vận tải thủy là gọn nhe, chặt chẽ và hết sức tiết kiệm, tháng 9 năm 1963, Quân ủy Trung ương quyết định giao nhiệm vụ vận chuyển bằng đường biển cho Quân chủng Hải quân. Đến ngày 24 tháng 1 năm 1964, Đoàn 759 được điều chỉnh tổ chức, phát triển thành Đoàn 125 Hải quân. Trong thời gian này, xuất phát từ yêu cầu của các chiến trường, Đoàn 125 tập trung đưa hàng vào Khu 9, Khu 8, Khu 7 và Khu Sài Gòn - Gia Định, đồng thời xúc tiến việc mở bến mới chi viện cho chiến trường Khu 5, Khu 6. Kết quả, trong năm 1964, Đoàn 125 tổ chức vận chuyển được 52 chuyến vào chiến trường, với khối lượng lên tới 2.971,26 tấn vũ khí, tăng hơn gấp 2 lần năm 1963. Trong năm 1964, ta còn đột phá đưa 2 chuyến hàng vào các bến mới ở Vũng Rô (Phú Yên) và Lộ Giao (Bình Định).

Từ năm 1965, khi Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Dựa vào vào sức mạnh của vũ khí và công nghệ, đế quốc Mỹ tăng cường đưa tàu chiến vào tuần tiễu vùng biển Nam Bộ, xây dựng thêm các trạm rađa kiểm soát, huy động hàng nghìn lượt chiếc máy bay xuất phát từ  các tàu sân bay của Hạm đội 7, hàng trăm tàu chiến, cùng với lực lượng Hải quân của quân đội Sài Gòn, tiến hành phong tỏa, kiểm soát gắt gao các cửa sông, cửa biển và vùng hải phận quốc tế, tổ chức săn lùng, chặn bắt tàu thuyền của ta chở hàng từ miền Bắc vào miền Nam. Để để đáp ứng nhu cầu vũ khí, đạn dược ngày càng tăng cho chiến trường miền Nam, ta phải tổ chức vận chuyển hàng viện trợ quân sự của các nước anh em bằng tàu biển quốc tế, quá cảnh qua cảng Xihanúc Vin (Campuchia). Bằng cách này, Đoàn 125 đã đưa vào chiến trường miền Nam hơn 90.870 tấn hàng hóa, trong đó có 20.473 tấn vũ khí, đạn dược.

Trong giai đoạn từ tháng 10 năm 1968 đến tháng 1 năm 1973, theo sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 đã chủ động tìm luồng vận chuyển mới, men theo phía Đông các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đến Đông Bắc Malaixia, qua Vịnh Thái Lan, khu vực quần đảo Nam Du để đưa tàu cập các bến bãi miền Tây Nam Bộ... Với cách thức mới đó, Đoàn 125 đã tổ chức 42 chuyến tầu vượt biển, trong đó có 7 chuyến tới đích, giao được 301 tấn vũ khí, đạn dược cho Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Tuy phải đi vòng rất xa, và phải dự trữ đủ lượng xăng dầu và lương thực cần thiết cho một chuyến đi dài ngày; phải đối mặt với bao thách thức, cam go, nhưng bằng con đường này, Đoàn 125 đã giao được 301 tấn vũ khí, đạn dược cho Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Đây là một cố gắng lớn của Đoàn 125 trong điều kiện địch tăng cường bao vây, ngăn chặn và đánh phá ác liệt.

Hiệp định Pari được ký kết (1973), thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đoàn 125 tạm dừng nhiệm vụ vận chuyển, chi viện trực tiếp cho các chiến trường miền Nam bằng đường Hồ Chí Minh trên biển. Đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, các đội tàu của Đoàn 125 lại tiếp tục vận chuyển vật chất, cơ động lực lượng phục vụ cho việc giải phóng các tỉnh và các đảo ven biển miền Nam, đặc biệt đã kịp thời chi viện cho các lực lượng làm nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa...

Như vậy, trong suốt trong 15 năm làm nhiệm vụ vận tải chiến lược quân sự trên biển (1961 - 1975), Đoàn 125 đã huy động được 1.879 lượt tàu thuyền, vận chuyển 152.876 tấn vũ khí trang bị kĩ thuật, thuốc chữa bệnh và 80.026 cán bộ chiến sĩ từ miền Bắc vào miền Nam, chiến đấu hàng trăm trận với máy bay tàu chiến của Mỹ và quân đội Sài Gòn(8). Với những thành tích đã đạt được, Đoàn 125 Hải quân vinh dự được Đảng, Nhà nước hai lần tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1967 và 1976), 5 huân chương quân công, 12 huân chương chiến công. 5 tàu và 8 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Có thể nói, tuyến vận tải chiến lược trên biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một huyền thoại, một kỳ tích của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Đó không chỉ là phương thức chi viện mới hết sức quan trọng, trực tiếp bảo đảm cho các chiến trường ven biển miền Nam, mà còn là một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh.

Độc đáo bởi, Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược, một sáng tạo ở tầm chiến lược, trong giải quyết mối quan hệ giữa hậu phương - nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh trên biển tạo nên hai tuyến vận tải chiến lược, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, giải quyết nhu cầu của hai hướng chiến lược của chiến trường Nam Bộ: Cánh Đông và cánh Tây. Mỗi tuyến vận tải chiến lược có vị trí, vai trò khá độc lập, nhưng đặt trong tổng thể, đã tạo nên hệ thống mạch máu giao thông chủ đạo và hoàn chỉnh để chi viện kịp thời, hiệu quả sức người, sức của cho miền Nam đánh thắng quân thù. Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện sinh động quyết tâm chiến lược của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Độc đáo bởi, nó ra đời vào thời điểm khó khăn, gian khổ, ác liệt nhất của cuộc chiến tranh. Trong khi địch được trang bị các loại vũ khí, trang bị hiện đại, tối tân, ta mới chỉ có những loại tàu thuyền nhỏ bé, thô sơ, nhưng với tầm nhìn, bản lĩnh và tài thao lược của Đảng, ý chí và khát vọng độc lập tự do, thống nhất đất nước của toàn dân tộc, chúng ta đã biết dựa vào khả năng to lớn của nhân dân để vượt qua mọi khó khăn, từng bước đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của kẻ  thù, hoàn thành suất sắc nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam trong những thời điểm khó khăc ác liệt nhất.

Độc đáo còn ở chỗ, Đường Hồ Chí Minh trên biển đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc, với một quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển, đó là dám đánh, biết đánh và biết thắng Mỹ. Có được như vậy là nhờ Đảng ta đã vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật giành thắng lợi từng bước trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vận tải chi viện chiến lược trên biển. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các lực lượng làm nhiệm vụ, đặc biệt là Quân chủng Hải quân đã nắm chắc tình hình, nhiệm vụ, chủ động xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, huấn luyện chu đáo cho tất cả các lực lượng, kể cả các lực lượng hiệp đồng tác chiến, tạo điều kiện thuận lợi để công tác vận tải đạt kết quả cao nhất; các cấp lãnh đạo, chỉ huy Quân chủng đã tham mưu đúng, tham mưu trúng; chỉ huy thống nhất, quyết đoán, linh hoạt, liên tục và bí mật; triệt để tận dụng thời cơ, đa dạng hóa phương pháp vận tải để chuyển hóa thế trận, làm chủ tình huống.

Trong quá trình mở tuyến vận tải quân sự trên biển, chúng ta còn biết chọn đúng thời cơ; kết hợp hoạt động bí mật và công khai; tàu có thể xuất phát từ nhiều bến (kể cả ở nước ngoài), cập bến ở nhiều điểm; đi trên nhiều cung, tuyến khác nhau, có giai đoạn đi vòng ra biển xa, hải phận quốc tế; địch phong tỏa đường trong ta đi đường ngoài, địch ngăn chặn đường dài ta đi phân đoạn, địch bám đuôi, ta đi ra vùng biển quốc tế, khi địch phát hiện, áp sát tấn công hoặc cướp tàu, ta đánh trả quyết liệt, có lúc phải phá hủy tàu và hàng để giữ bí mật nhiệm vụ.

Đường Hồ Chí Minh trên biển khẳng định đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, trong đó Quân chủng Hải quân là lực lượng chủ yếu có vinh dự được trực tiếp tổ chức thực hiện. Đây là một thành công lớn, một phát triển mới của nghệ thuật quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, là sự kết hợp hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần để tạo nên sức mạnh to lớn và bền vững. Những bài học kinh nghiệm về Đường Hồ Chí Minh trên biển nhất định sẽ trường tồn và phát huy tác dụng to lớn, trực tiếp đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc hôm nay và tương lai.

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, tr. 269.

(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, tr. 273.

(3) Lịch sử Lữ đoàn Đoàn 125 Hải quân, Nxb QĐND, H, 2001, tr. 99.

(4) Bộ Tư lệnh Hải quân, Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955-2005), Nxb QĐND, H.2001, tr. 98.

(5) Bộ Tư lệnh Hải quân, Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955-2005), Sđd, tr.105

(6) Lịch sử Lũ đoàn Hải quân 125, Nxb QĐND, H.2001, tr.47

(7) Tổng kết công tác Đảng, công tác chính trị Hải quân trong vận tải quân sự đường biển chi viện chiến trường miền Nam (1961-1975), Nxb QĐND, H. 2004, tr. 26.

(8) Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H.2005, tr. 402.

Kim Yến (st)
Còn nữa 

Bài viết khác: