Thứ hai, 23/12/2024

Chỉ mục bài viết

 

4  bao chi HCm anh 1
Tờ "Người cùng khổ" - tờ báo Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập năm 1922

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam. Người đã vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như những kinh nghiệm quý báu của nhân dân các dân tộc trên thế giới vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ta làm lên thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám và chiến thắng lừng lẫy địa cầu Điện Biên Phủ, chuẩn bị các điều kiện tiền đề về tư tưởng, tinh thần và vật chất cho những bước phát triển tiếp theo của cách mạng, của dân tộc ta. Hồ Chí Minh là nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa lỗi lạc của nhân loại trong thế kỷ XX theo nghĩa đầy đủ nhất của những danh hiệu cao quý đó. Người còn là nhà báo cách mạng số một, Người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam. Nếu kể từ bài báo đầu tiên vấn đề dân bản xứ đăng trên tờ ngày 02/8/1919, thì trong suốt 60 năm vừa hoạt động cách mạng vừa cầm bút, Hồ Chí Minh đã viết hàng ngàn bài báo các loại, 276 bài thơ cả bằng chữ Việt và chữ hán, gần 500 trang truyện và ký. Không chỉ viết, Hồ Chí Minh cũng là người sáng lập, tổ chức, điều hành hoạt động, biên tập, trình bày hàng chục tờ báo cách mạng trong những thời kỳ khác nhau.

Sau đây Ban Biên tập Trang tin điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc khái quát về hoạt động báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những tiểu phẩm báo chí tiêu biểu của Người để thấy được sự đặc sắc trong tiểu phẩm báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh thái độ phê phán nghiêm khắc đối với kẻ thù dân tộc, cái nhìn sâu sắc, tinh tế đối với hiện thực xã hội mà còn thể hiện một phương pháp tư duy sắc sảo, một ngòi bút tài hoa và điêu luyện.

Phần I: Khái quát về hoạt động báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Có thể chia hoạt động sáng tạo báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành bốn thời kỳ chủ yếu, phù hợp với những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam.

1. Thời kỳ thứ nhất, từ 1919 đến 1930

Đây là thời kỳ người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đang bôn ba khắp đất chân trời Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á quan sát, nghiên cứu lần tìm trong những kinh nghiệm, những học thuyết đương thời một con đường cứu nước, cứu dân. Từ thực tiễn sinh động của thời đại, Người đã đi đến một kết luận là: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin”. Từ đây bắt đầu nỗ lực phi thường của Người nhằm truyền bá tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị tiến tới thành lập một Đảng cách mạng kiểu mới để lãnh đạo nhân dân vùng lên phá ách nô lệ, giành độc lập, tự do, hòa bình và hạnh phúc cho dân tộc, cho đất nước. Trong suốt thời kỳ này, Người lấy tên gọi đồng thời là bút danh chính thức Nguyễn Ái Quốc, tức là Người yêu nước.

Trong thời kỳ thứ nhất, hoạt động sáng tạo báo chí của Nguyễn Ái Quốc tập trung vào hai chủ đề là tố cáo, lên án sự thối nát, bất công, vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân Pháp và chế độ thống trị của chúng đối với các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam: Tuyên truyền giới thiệu tư tưởng Mác–Lênin, động viên tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tập hợp tổ chức, lực lượng chuẩn bị cho cuộc cách mạng trong tương lai. Các tác phẩm báo chí thuộc chủ đề thứ nhất chủ yếu đã được đăng tải trên các tờ báo “Le Paria” “L’Humanité”, “La Vie Ouvriére”, tập san “Imprekor” và một số ấn phẩm khác trong khoảng thời gian Người hoạt động ở Pháp, Liên Xô và Trung Quốc. Cuốn sách nổi tiếng: “Bản án chế độ thực dân Pháp” được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản lầu đầu tiên tại Pa-ri năm 1925. Tác phẩm được viết dựa trên những tư liệu và bài viết của Hồ Chí Minh đã đăng trên các tờ báo “Le Paria” “L’Humanité”, “La Vie Ouvriére”. Một số bài viết hay nhiều đoạn trong các bài viết đã đăng trên báo Le Paria được đưa nguyên văn vào sách. Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Hồ Chí Minh thực sự là một cáo trạng đanh thép, vạch mặt, lên án chế độ cai trị độc ác, dã man đẫm máu và nước mắt của thực dân Pháp tại Đông Dương. Hơn thế nữa “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã thể hiện nhận thức chín muồi của Người về điều kiện cần thiết và con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là sự “hợp tác” giữa lao động ở các thuộc địa với “giai cấp vô sản phương Tây” và liên minh gữa các dân tộc thuộc địa “để tạo thành một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.

Cuốn sách nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử cách mạng Việt Nam trong thời kỳ này là “Đường kách mệnh”. Cuốn sách này tập hợp các bài giảng của Người cho các lớp học chính trị tại Quảng Châu, Trung Quốc trong thời gian từ 1925-1927. “Đường kách mệnh” là sự nối tiếp, phát triển hợp logic những tư tưởng, quan điểm của “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Đây là những bài học về cách mạng, về vai trò lãnh đạo của Đảng, về con đường giải phóng dân tộc, con đường xây dựng đất nước đi tới độc lập, tự do, phồn vinh và hạnh phúc đã được Người diễn đạt một cách giản dị, dễ hiểu, có sức thu phục lòng người. “Đường kách mệnh” được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản thành sách vào đầu năm 1927.

Không chỉ viết báo, Hồ Chí Minh còn trực tiếp tổ chức, sáng lập các tờ báo “Le Paria” ở Pháp, “Thanh niên”, “Công nông”, “Lính kách mệnh” ở Trung Quốc… Năm 1928, sau khi đến Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc đổi tên tờ “Đồng thanh” thành “Thân ái” và trực tiếp chủ đạo việc ra báo. Tờ báo này là diễn đàn chi nhánh Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Thái Lan. Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng để chuẩn bị cho việc thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người đã trực tiếp chỉ đạo tờ báo “Đỏ” – cơ quan của chi bộ An Nam Cộng sản Đảng tại Trung Quốc. Ở những tờ báo này, Người vừa làm Tổng Biên tập hay trực tiếp chỉ đạo, vừa tổ chức bài vở, in ấn, phát hành các tờ báo với mục đích rõ ràng là truyền bá những tư tưởng cách mạng vào trong nước, thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, chuẩn bị hàng ngũ đấu tranh nhằm thực hiện lý tưởng cứu nước, cứu nhà.

Báo “Thanh niên” là tờ báo có vị trí đặc biệt trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Nó không chỉ là điểm mốc mở đầu cho nền báo chí cách mạng mà còn là sản phẩm báo chí đầu tiên được sử dụng với ý nghĩa đầy đủ phương tiện truyền bá chủ nghĩa Mác–Lênin vào Việt Nam, động viên tinh thần yêu nước của nhân dân cần lao và cũng là cơ quan liên lạc, tổ chức, chuẩn bị lực lượng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo “Thanh niên” ra số 1 vào ngày 21-6-1925. Thời kỳ đầu báo được in ở Quảng Châu, Trung Quốc rồi được chuyển về trong nước theo các đường dây liên lạc bí mật. Báo ra vào Chủ nhật hàng tuần, mỗi số thông thường có 4 trang, khổ giấy 13x19. Mỗi số báo cũng chỉ nhân ra vài trăm bản. Trên mặt báo có các mục như: Xã luận, bình luận, phụ nữ đàm, vấn đáp, thơ ca, phê bình, trả lời bạn đọc… Cùng tham gia viết trên báo “Thanh niên” còn có các cây bút như: Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Duy Điềm, Trương Văn Lĩnh….

4  bao chi HCm anh 2
Tờ "Thanh Niên" - tờ báo cách mạng đầu tiên ở Việt Nam.

Trong hơn 200 số báo “Thanh niên”, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo 88 số đầu, tức là trong khoảng thời gian từ tháng 6-1925 đến tháng 4-1927. Khi Công xã Quảng Châu bùng nổ vào tháng 4-1925, chính quyền Tưởng Giới Thạch đàn áp phong trào, lùng bắt các nhà cách mạng Trung Quốc và cả những nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động tại đây. Nguyễn Ái Quốc buộc phải rời Quảng Châu đi Liên Xô và những người đồng chí, học trò của Người ở Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội tiếp tục xuất bản báo “Thanh niên” cho đến tháng 5-1929. Về 88 số báo “Thanh niên” do Nguyễn Ái Quốc phụ trách, Giám đốc Sở Mật thám Đông Dương lúc đó là Louis Marty đã nhận xét trong bản báo cáo gửi Bộ Thuộc địa Pháp: “Những tờ báo “Thanh niên” đầu tiên nhấn mạnh về sự đoàn kết nội bộ, nhờ đó mà đoàn kết nội bộ, nhờ đó mà đoàn thể có sức mạnh và những cá nhân trong đoàn thể làm việc có kết quả hơn. Đồng thời, báo cũng cổ vũ tinh thần độc lập dân tộc, lòng yêu nước mà người Việt Nam lúc bấy giờ đang háo hức chờ dịp để thi thố. Sau đó tờ báo giúp bạn đọc nhận định về tình hình thế giới, đặc biệt là những biến chuyển vừa xảy ra trong lịch sử các cường quốc… Tờ báo hướng dẫn từ từ cho mọi người hiểu rằng hiện nay trên thế giới đã có nước Nga theo chế độ Xô-viết, dân ở nước Xô-viết ấy sống tự do, hạnh phúc. Nguyễn Ái Quốc người chủ biên tờ báo “Thanh niên”, tỏ ra kiên nhẫn, suốt trong 60 số báo đầu để cho bạn đọc chuẩn bị tinh thần và tình cảm rồi sau cùng mới bày tỏ công khai chủ trương của mình: Chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể đem lại hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam”.

Với việc sáng lập, tổ chức hoạt động báo “Thanh niên” và sau đó là việc xuất bản một số tờ báo cách mạng khác, Nguyễn Ái Quốc đã khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam và đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển mạnh mẽ của nền báo chí này trong suốt tiến trình cách mạng của đất nước sau này.

2. Thời kỳ thứ hai: Từ năm 1930 đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Đây là thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự tổ chức và chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp tổ chức, vận động cách mạng trong nước, giương cao ngọn cờ cách mạng vô sản, lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh, vượt qua những gian nan, thoái trào, kiên quyết chống thực dân, phong kiến, giành tự do, độc lập cho dân tộc, đất nước. Đây cũng là thời kỳ hoạt động đầy gian nan và nguy hiểm của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc, trong đó có một năm từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943, Người bị giam cầm, đày ải trong các nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc.

Trong thời kỳ này chỉ có những năm 1936-1939 khi mặt trận bình dân lên cầm quyền ở Pháp không khí chính trị ở Đông Dương phần nào được cởi mở, Đảng có điều kiện tranh thủ cử cán bộ ra báo công khai. Suốt thời gian còn lại, chế độ thực dân Pháp bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân, đàn áp, khủng bố gắt gao mọi hoạt động của Đảng Cộng sản. Các báo chương của Đảng đều phải xuất bản và phát hành bí mật. Để tránh nguy hiểm, các tác giả không đề tên dưới các bài viết đăng trên các báo và tạp chí. Vì thế, việc xác định các bài viết của Nguyễn Ái Quốc trên các báo, tạp chí bí mật của Đảng là rất khó khăn. Ví dụ, thực hiện quyết định của Hội nghị thành lập Đảng, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng đã xuất bản tạp chí “Đỏ”. Tạp chí được xuất bản tại Trung Quốc, số ra đầu tiên ngày 5-8-1930. Căn cứ vào cách dùng chữ cái trong các bài đánh máy như “c” thay bằng “k”, “ph” thay bằng “f”, nhà nghiên cứu Nguyễn Thành nhận định: “Rất có thể là tạp chí này đặt dưới sự chỉ đạo, biên tập của Nguyễn Ái Quốc”.

Tháng 12-1938 đến tháng 7-1939 trên báo “Notre voix” (Tiếng nói của chúng ta), xuất hiện một số bài báo dưới đề mục chung: “Thư từ Trung Quốc”, ký tên là Line. Đó chính là những bài báo của Nguyễn Ái Quốc viết dưới danh nghĩa một nhà báo Trung Quốc. Những bài báo này hình thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm 5 bài báo nói về những hành động dã man của quân xâm lược Nhật và tinh thần chiến đấu ngoan cường của nhân dân Trung Quốc chống lại chúng. Một trong số 5 bài báo này (bài người Nhật Bản muốn khai hóa Trung Quốc như thế nào?) đã được báo “Dân chúng” dịch và đăng toàn văn trong 3 số báo 46,47 và 48 ra vào các ngày 21,24 và 28-01-1939 dưới đầu đề “Những sự hung tàn của đế quốc Nhật”. Nhóm thứ hai gồm ba bài phản ánh tình hình hoạt động của những phần tử Tơ-rốt-x-kít tại Trung Quốc.

Cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1940, Nguyễn Ái Quốc viết một loạt 10 bài báo đăng trên tờ “Cứu vong nhật báo” của Trung Quốc với bút danh Bình Sơn. Đây là những tiểu phẩm ngắn gọn, với cái nhìn sắc sảo, cách viết châm biếm về các sự kiện liên quan đến cục diện của các quốc gia đế quốc, thực dân vào thời điểm mà phát xít Đức bắt đầu phát động cuộc chiến tranh thế giới thứ Hai. Những tiểu phẩm này thể hiện phong cách nhất quán với các tiểu phẩm của Người đã viết trong thời kỳ hoạt động tại Pháp trước năm 1930 cũng như các tiểu phẩm báo chí của Người công bố sau năm 1945. Đó là cách tiếp cận các vấn đề, sự kiện một cách sắc sảo, bất ngờ, sự lý luận giản dị mà thông minh, sự châm biếm dí dỏm mà sâu cay.

Dấu ấn nổi bật trong hoạt động sáng tạo báo chí thời kỳ này của Hồ Chí Minh là việc thành lập, tổ chức hoạt động tờ "Việt Nam độc lập". Sự ra đời của tờ báo "Việt Nam độc lập" gắn liền với việc đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc bí mật về nước, phát triển cơ sở cách mạng ở Cao Bằng và triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 5-1941 nhằm hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận Việt Minh, phát động phong trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ. Tại Đại hội lần thứ hai Hội Nhà báo Việt Nam, tháng 4 năm 1959, trong câu chuyện kể về làm báo "Việt Nam độc lập", Người nói: “Năm 1941, bí mật về nước. Theo lời dạy của Lê-nin là: Tờ báo là công cụ tuyên truyền, cổ động, tổ chức và lãnh đạo cho nên mình cố gắng ra một tờ báo ngay và phải làm rất bí mật vì luôn luôn có mật thám của Pháp, Nhật và Bảo Đại rình mò. Ngày 01-4-1941 báo "Việt Nam độc lập" do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra số đầu tiên đánh số 101 với ý nghĩa là sự tiếp nối của những tờ báo cách mạng trước đó. Lúc đầu, bảo là cơ quan của tỉnh bộ Việt Minh Cao Bằng. Từ sau số 186 (tức là số 086)  "Việt Nam độc lập" trở thành cơ quan của Liên tỉnh bộ Việt Minh 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Sau khi Nguyễn Ái Quốc lên đường đi Trung Quốc tháng 8 năm 1942, đồng chí Phạm Văn Đồng ở lại phụ trách cho đến tháng 4 năm 1945. Nguyễn Ái Quốc không chỉ tổ chức, chỉ đạo mà còn trực tiếp viết bài, sửa bài, Tham gia trình bày, in và phát hành tờ báo. Ngoài những bài thông tin, chính luận, Người còn viết và đăng trên "Việt Nam độc lập" nhiều tác phẩm thơ, diễn ca, trong đó có một loạt bài theo thể lục bát, động viên cổ vũ các tầng lớp, lứa tuổi nhân dân đứng lên đoàn kết đấu tranh, cứu nước, cứu nhà.

3. Thời kỳ thứ ba từ tháng 8 năm 1945 đến năm 1954

Đây là thời kỳ mà hoạt động báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc kháng chiến trường kỳ và thần thánh của dân tộc ta chống thực dân Pháp từ năm 1946 đến 1954. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước ta lại bước vào thử thách mới. Quân đội Tàu - Tưởng tràn vào phía Bắc kéo theo bọn tay sai gây rối, phá hoại với mưu đồ giành quyền lãnh đạo. Phía Nam, Quân đội Pháp núp sau quân đội Anh kéo vào gây hấn hòng thiết lập lại nền thống trị đã mất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc dũng cảm đứng lên một lần nữa, bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, vượt qua những khốc liệt và hy sinh để đi tới Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

Trong thời kỳ này, sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt phong phú. Tác phẩm của Người vừa nhiều, đa dạng, nhiều loại hình, thể loại khác nhau, vừa bám sát từng ngày, từng giờ thực tế sinh động, hào hùng của cuộc kháng chiến của dân tộc. Bắt đầu từ năm 1947, Người đều đặn có thơ chúc Tết đồng bào, chiến sỹ cả nước. Mỗi bài thơ Tết của Người như phương châm, quyết sách của cả năm, như mệnh lệnh chiến đấu, như hồi kèn xung trận thúc giục, động viên quân và dân ta tiến lên trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Nhằm kịp thời tuyên truyền, vận động nhân dân trong đấu tranh cách mạng và lao động, sản xuất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một số tập sách như: “Sửa đổi lề lối làm việc” (1947), “Cần kiệm liêm chính” (1949), “Thường thức chính trị” (1953)…. Những tập sách này đều được thể hiện bằng văn phong giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, gần gũi với nhân dân lao động.

Do trách nhiệm công tác nặng nề cũng như sự phát triển của tổ chức kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh không trực tiếp lãnh đạo các tòa soạn báo mà chỉ viết bài đăng trên các báo: “Sự thật”, “Cứu quốc”, “Nhân dân”, “Vệ quốc quân”, “Tập san Sinh hoạt nội bộ”… Chiếm vị trí nổi bật trong các tác phẩm báo chí thời kỳ này là hàng trăm bài báo của Người thể hiện quan điểm chỉ đạo kịp thời đối với những vấn đề thời sự, những lĩnh vực quan trọng của công cuộc kháng chiến, kiến quốc như: “Chiến lược của quân ta và quân Pháp” (Cứu quốc, 13-12-1946), “Người tuyên truyền và cách tuyên truyền” (Sự thật, 26-6-1947), “Giữ bí mật” (Sự thật, 30-7-1948), “Dân vận” (Sự thật, 15-10-1949), “Tự phê bình” (Nhân dân, 20-5-1951), “Thi đua ái quốc, hiện tại và tương lai vẻ vang của nước ta” (Nhân dân, 5-7-1951), “Tổ quốc độc lập tôn giáo mới tự do” (Nhân dân, 6-12-1951), “Chống quan liêu, tham ô, lãnh phí” (Nhân dân, 31-7-1952), “Phóng tay phát động quần chúng” (Nhân dân, 01-3-1953), “Công tác cầu đường” (Nhân dân, 21-6-1953), “Ra sức giữ đê phòng lụt” (Nhân dân, 16-7-1953), “Nhiệm vụ của chi bộ ở các cơ quan” (Nhân dân, 6-4-1954), “Mấy khuyết điểm của báo chí ta” (Nhân dân, 01-5-1954)… Ngòi bút của Người bao quát rộng lớn những vấn đề có ý quan trọng đang đặt ra, phân tích một cách sắc sảo, cụ thể, đánh giá rõ ràng, xác đáng, đưa ra các giải pháp thiết thực, khả thi cho việc giải quyết.

Nhiều bài báo trong số này trở thành kinh điển, có tác dụng chỉ đạo đối với những lĩnh vực công tác của Đảng, chính quyền, đoàn thể, có ý nghĩa thời sự nóng hổi ngay cả ở thời điểm hiện nay.

“Dân vận” (Báo Sự thật, 15-10-1949) là một ví dụ tiêu biểu. Đây là một bài báo ngắn xấp xỉ khoảng 700 từ, được chia thành bốn mục rất rõ ràng, chặt chẽ về logic: I- Nước ta là nước dân chủ, II- Dân vận là gì?, III- Ai phụ trách dân vận?, IV- Dân vận phải thế nào? Tất cả những vấn đề quan trọng, căn bản, từ bản chất chế độ nhà nước, khái niệm, yêu cầu của công tác dân vận đến những người chịu trách nhiệm thực hiện công tác dân vận và thực hiện như thế nào, đều được Hồ Chí Minh trình bày rõ ràng, cô đọng, dễ hiểu và đặc biệt chính xác, tiết kiệm ngôn từ, Người viết:

“Nước ta là nước dân chủ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”

Rõ ràng, đây là những vấn đề bản chất và mang tính nguyên tắc của nhà nước dân chủ nhân dân. Sự khẳng định rõ ràng, chắc chắn những bản chất và nguyên tắc ấy là cơ sở để Người đi tới sự cần thiết và thực chất của công tác dân vận là một lộ trình gồm tất cả các khâu: “Giải thích, làm rõ từng việc; bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân; đặt kế hoạch thiết thực; động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành; theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích và cuối cùng là khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”. Do tính chất đặc biệt quan trọng của công tác dân vận nên Hồ Chí Minh đòi hỏi tất cả mọi người cán bộ trong tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể đều phải làm công tác này theo tác phong “Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Người đi đến kết luận: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Thực tiễn trong những năm đổi mới xây dựng và phát triển đất nước vừa qua đã thêm một lần nữa chứng minh cho tính đúng đắn của những luận điểm trong bài báo Dân vận. Ở nơi nào, đội ngũ cán bộ gương mẫu, sống hòa nhập với nhân dân, làm tốt công tác dân vận, ở đó tình hình chính trị - xã hội ổn định, kinh tế - xã hội phát triển bền vững. Ngược lại, ở đâu cán bộ tiêu cực, xa dân, không động viên được sức dân, không tạo được niềm tin của dân, ở đó kinh tế - xã hội chậm phát triển, chính trị - xã hội bất ổn định. Vì thế, tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên ý nghĩa chỉ đạo và tính chất thời sự nóng hổi.

Trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến trước ngày Toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, với bút danh Q.Th, Hồ Chí Minh cho đăng trên báo Cứu quốc tám bài viết dưới đề mục chung “Binh pháp Tôn Tử” và hàng chục bài báo khác về nghệ thuật và phương pháp tiến hành các hoạt động quân sự. Nếu tập hợp những bài viết này lại sẽ thành một cuốn giáo trình quân sự với khả đầy đủ các nội dung cần thiết như: “Hình thức chiến tranh ngày nay, kế hoạch phát triển, chiến lược, chiến thuật, phương pháp tác chiến, phương pháp dùng gián điệp, vấn đề quân nhu và lương thực, các thứ binh khí của lục quân, phương pháp đánh giữ và tiến thoái, địa hình, địa thế, phương pháp hành quân trên các địa hình...”. Với việc viết và cho đăng những bài báo này có thể thấy rằng Hồ Chí Minh đã có dự đoán về một cuộc chiến tranh có thể xảy ra và Người đã chủ động thông qua tờ báo để bồi dưỡng những hiểu biết về quân sự cho cán bộ và nhân dân.

Ngay trong điều kiện kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ, ác liệt, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức, tác phong, chống những biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ. Ngày 19-9-1945, tức là sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công ở Hà Nội mới tròn một tháng, Người viết bài “Chính phủ là công bộc của dân” đăng trên báo Cứu quốc. Nội dung bài báo khẳng định tính chất ưu việt của Chính phủ nhân dân và các ủy ban nhân dân, chỉ ra một cách hết sức cụ thể những việc nó không làm được như: Tự ý tiêu tiền vào những việc xa sỉ như ăn uống, lợi dụng danh nghĩa ủy ban để gây bè tìm cánh, đưa người trong nhà, trong họ vào làm việc với mình… bài báo không chỉ có ý nghĩa giáo dục đối với nhân dân, mà còn có tác dụng như một sự định hướng, cảnh báo đối với những cán bộ từ tất cả các vị trí trong bộ máy nhà nước nhân dân. Trong những năm kháng chiến sau đó, Người đã có hàng chục bài báo chống lại bệnh quan liêu như: “Phải tẩy sạch bệnh quan liêu” (Sự thật, 02-9-1950), “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh…” (Nhân dân, 02-9-1952), “Chống quan liêu, tham ô, lãng phí” (31-7-1952), “Phải chống bệnh quan liêu” (Nhân dân, 06-6-1953)…

Một loạt các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh cũng xuất hiện trong thời kỳ này trong đó châm biếm, mỉa mai, lên án những hành động tàn ác, những thất bại thảm hại của thực dân xâm lược Pháp và bè lũ tay sai bán nước cũng như các thế lực đế quốc phản động trên thế giới. Những tiểu phẩm báo chí của Hồ Chí Minh đều ngắn gọn, văn phong giản dị, lập luận sắc sảo và bám sát những sự kiện thời sự nóng hổi. Có thời gian Người viết khá nhiều - năm 1952 có 28 tiểu phẩm đăng trên các báo Nhân dân, Cứu quốc. Chỉ riêng tháng 7 năm 1952, Người viết 8 tiểu phẩm. Có những bài viết của Người thực sự trở thành mẫu mực của thể loại tiểu phẩm báo chí. Ví dụ tiểu phẩm Tu-ma đầu bò, tác phẩm được bắt đầu bằng một câu giao tiếp thật giản dị và gần gũi: Nhiều bạn đọc bảo: D.X  nói chính trị nhiều rồi, hôm nay hãy nói một chuyện gì hay hay, tức cười cho bà con nghe. Và sau đó đúng là một câu chuyện hay hay, tức cười. Chuyện kể về hai người lính một lính Nga, một là lính Mỹ cùng đứng gác ở hai bên đường phân giới Đông và Tây Berlin. Họ cùng khoe và chứng minh về sự tự do, dân chủ ở nước mình. Người lính Mỹ khoe rằng anh ta có thể nói với Tổng thống Tu-ma rằng ông ta là “đầu bò”. Người lính Nga khoe rằng, anh ta có thể về nước nói với đồng chí Xít-ta-lin rằng “Tu-ma là đầu bò” mà vẫn không bị phạt. Logic vận động của tiểu phẩm đơn giản đến bất ngờ và chính sự đơn giản đến bất ngờ ấy tạo nên sự dí dỏm và đặc sắc của nó. Tiểu phẩm thật ngắn gọn và cô đọng với 183 âm tiết. Cách viết tự nhiên, nhẹ nhàng, không một chút làm duyên nhưng lại tạo ra sự gần gũi, đồng cảm với người đọc, từ đó làm lên sức cuốn hút của tác phẩm. Có thể coi đây là một trong những tiểu phẩm báo chí mẫu mực của Hồ Chí Minh.

Ngay từ đầu năm 1949, trong tiểu phẩm “Thêu gấm và cho than”, Hồ Chí Minh đã lên án thói tráo trở của nhà cầm quyền nước Mỹ trong quan hệ với chính quyền Tưởng Giới Thạch. Từ năm 1951 trở đi, Người đã viết và đăng trên báo Nhân dân một loạt tiểu phẩm, trực tiếp vạch mặt, châm biếm những biểu hiện xấu xa của xã hội Mỹ, những hoạt động gây chiến tranh của các thế lực phản động Mỹ, cảnh báo và lên án những âm mưu của đế quốc Mỹ chống lại cách mạng Việt Nam. Điều ấy cho thấy nhãn quan chính trị sắc bén, tinh tường, ý thức cảnh giác cách mạng cao của Người.

4. Thời kỳ thứ tư từ cuối năm 1954 đến năm 1969

Lịch sử thời kỳ này đặt dân tộc chúng ta trước những thử thách khắc nghiệt chưa từng thấy. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ tiếp tay che chở cho bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm phá hoại hiệp định Giơnevơ, thực hiện dã tâm chia cắt đất nước, phục vụ cho mưu đồ, tham vọng của Mỹ - biến miền Nam Việt Nam thành cứ điểm ngăn chặn dòng thác cách mạng tràn xuống phía Nam bán cầu. Những màu sắc tươi mới vừa thành hình sau 10 năm xây dựng và phát triển miền Bắc thì đế quốc Mỹ dựng lên sự kiện vịnh Bắc Bộ (05-8-1964), phát động cuộc chiến tranh bắn phá bằng không quân và hải quân với ý đồ mang sức mạnh vũ khí đè bẹp ý chí đấu tranh của nhân dân ta. Việt Nam trở thành nơi đối đầu lịch sử giữa cách mạng và phản cách mạng. Cả nước trở thành một chiến trường, hai miền cùng bước vào cuộc chiến đấu ác liệt một mất, một còn chống lại tên đế quốc đầu sỏ cùng một lũ lâu la tay sai theo đóm ăn tàn, tâng công quan thầy. Càng trong thử thách khốc liệt, tinh thần quật cường của dân tộc càng bùng lên sáng chói hơn bao giờ hết. Việt Nam trở thành lương tâm của nhân loại. Tinh thần chiến đấu ngoan cường của Việt nam trở thành tấm gương cổ vũ nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đứng dậy đấu tranh giành quyền sống, quyền tự do và hòa bình.

Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh viết hàng trăm bài báo đăng trên các báo, tạp chí trong nước (chủ yếu là báo Nhân dân và nước ngoài). Bút danh được Người sử dụng nhiều nhất là Trần Lực, T.L, Chiến sỹ. Người chỉ ghi bút danh Hồ Chí Minh trong một số bài viết cho các báo, tạp chí nước ngoài. Vẫn tập trung vào hai chủ đề chính là xây dựng đất nước và đấu tranh giải phóng dân tộc, tuy nhiên ngòi bút của Người bao quát rộng lớn những vấn đề, sự kiện rất phong phú, có tính thời sự nóng hổi. Ở chủ đề thứ nhất, Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt cho những vấn đề cấp thiết trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Tháng 3-1960, Người có loạt bài đăng trên báo Nhân dân về phương châm phát triển sản xuất: Nhiều (03-3-1960), Nhanh (05-3-1960), Tốt (09-3-1960), Rẻ (11-3-1960). Trong mỗi bài, Người đều giải thích nội dung thực chất và cách thức làm thế nào để thực hiện được phương châm đó. Trong bài “Tốt”, Người giải thích rất đơn giản, cụ thể mối quan hệ giữa nhiều, nhanh với tốt, rẻ và tác hại của việc không thực hiện đầy đủ thống nhất các yêu cầu đó. Cuối cùng, Người đi đến kết luận:

“Làm nhanh mà không tốt,

Có gì là vẻ vang?

Đã là người làm chủ,

Tính toán phải đàng hoàng:

Nhiều, nhanh, tốt, rẻ rõ ràng

Lợi dận, lợi nước đôi đàng vẹn đôi”.

Lời kết luận tác phẩm bằng thơ là cho vấn để trở nên nhẹ nhàng, dễ thu hút sự quan tâm của người đọc, làm cho người đọc dễ tiếp nhận, dễ nhớ. Chỉ riêng việc trồng cây, Hồ Chí Minh đã có sáu bài báo: Nông dân phải trồng cây chuẩn bị làm nhà ở (Nhân dân, 30-5-1959); Tết trồng cây (Nhân dân, 28-11-1959); Thêm vài ý kiến về Tết trồng cây (Nhân dân, 23-5-1960); Tết trồng cây (Nhân dân, 28-01-1961); Năm mới hãy nhiệt liệt tổ chức Tết trồng cây (Nhân dân, 01-01-1965); Tết trồng cây (Nhân dân, 05-2-1969). Có những bài viết của Người đề cập những vấn đề rất cụ thể hoặc có tính thời vụ: Phải thi đua chống hạn; Diệt sâu, để vụ mùa thắng lợi; Chống mổ bò bừa bãi; Mừng Tết Nguyên đán như thế nào; Cần phải tổ chức ngay đội thuỷ lợi; Phải sẵn sàng phòng chống bão lụt; Chúng ta phải làm thật tốt việc sơ tán; Phải cấy chiêm xong trước Tết; Cần phải chăm sóc tốt trâu bò trong vụ rét sắp tới... Đó là những bài báo có ý nghĩa chỉ đạo đối với cơ sở, vừa động viên nhân dân trong việc giải quyết những yêu cầu cụ thể, tổ chức thực hiện những nhiệm vụ cấp 100 trong sản xuất nông nghiệp và tổ chức đời sống xã hội.

Một lĩnh vực được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhân dân và giáo dục cán bộ, đảng viên. Một loạt bài báo của Hồ Chí Minh đề cập những vấn đề có tính nguyên tắc về Đảng, chính quyền nhân dân, về yêu cầu giáo dục, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên, biểu dương những tấm gương tốt, những biểu hiện tích cực, phê phán những sai lầm, khuyết điểm của các cơ quan, tổ chức cũng như các cá nhân. Tác phẩm đạo đức cách mạng tạp chí học tập, số 12 năm 1958 có vị trí đặc biệt trong loạt bài này. Đây là một bài viết có tính tổng kết lý luận, trình bày các khía cạnh nội dung, biểu hiện của vấn đề đạo đức cách mạng một cách có hệ thống. Trong bài báo, Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức cách mạng là yêu cầu tất yếu của người cách mạng. Không có đạo đức cách mạng, người cách mạng không thể hoàn thành được những nhiệm vụ nặng nề của một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sau khi phân tích, làm rõ nội dung và những biểu hiện của đạo đức cách mạng, chỉ ra những điều kiện, phương pháp tu dưỡng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, Người nhấn mạnh: Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có thể nói, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền cũng là một vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Ngay từ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, qua các bài báo của mình, Người đã cảnh cáo về tệ quan liêu, tham ô, lãng phí trong đội ngũ cán bộ và yêu cầu: “Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần kiệm liêm chính, để đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân, toàn quốc” (Chống quan liêu, tham ô, lãng phí – Nhân dân, 31-7-1952). Trong thời kỳ 1955 - 1969, Người tiếp tục mối quan tâm này với nhiều bài báo trong đó yêu cầu đẩy mạnh phê bình và tự phê bình thực hành dân chủ, coi đó là giải pháp để khắc phục tệ quan liêu tham ô, lãng phí (Tự phê bình, phê bình, sửa chữa; Phải xem trọng ý kiến của quần chúng; Chiếc chìa khóa vạn năng). Trong tác phẩm Chiếc chìa khóa vạn năng Hồ Chí Minh khẳng định: Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn… quần chúng thật sự có quyền dân chủ và cán bộ, đảng viên đoàn viên phải xung phong gương mẫu, thì chắc chắn ngăn ngừa được những tệ quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô.

Chủ đề lớn thứ hai đấu tranh chống Mỹ cứu nước, được Hồ Chí Minh thể hiện chủ yếu bằng thể loại tiểu phẩm. Các tiểu phẩm báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ này bám sát từng bước đi, từng thất bại của đế quốc Mỹ trên con đường tăm tối chống phá các lực lượng cách mạng dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Ngòi bút sắc sảo, cái nhìn tinh tường của Người luôn phát hiện được những sự kiện, hiện tượng thể hiện đúng bản chất, dã tâm của kẻ thù để ra đòn với tiếng cười châm biếm, tố cáo, vạch mặt chúng. Một loạt các tiểu phẩm đặc sắc của Người được đăng trên các báo, chủ yếu là báo Nhân dân như: Một tin tức lạ; Trong trần ai, ai cũng ghét ai; Đạo đức Mỹ; Đốp! đốp! Hòa Bình kiểu Mỹ tức là binh hỏa; Quân Mỹ nhăn răng cười; Tin mừng cho lính Mỹ; Đại bại tướng vét mỡ lợn cút về nước mẹ Hoa Kỳ… Ngoài các tiểu phẩm chống kẻ thù, Người cũng có viết một số tiểu phẩm phê bình những thói hư, tật xấu, những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ nhân dân, cán bộ ta. Cùng là cái cười châm biếm, xong trong các tác phẩm này sự phê phán của Người lại mang tính bao dung, xây dựng, khuyến khích sửa chữa khắc phục. Đó là các tác phẩm: Làm thế nào cho lạc thêm vui; Lễ cưới… Các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh đều rất ngắn gọn, diễn đạt bằng văn phong dung dị, dí dỏm một cách bất ngờ trong dùng từ, chơi chữ. Hầu hết các tiểu phẩm đều được kết luận bằng mấy câu thơ, thường là thơ lục bát, càng làm cho sự giao tiếp giữa tác giả với người đọc thêm gần gũi, dễ chấp nhận. Có thể loại, những tiểu phẩm báo chí của Hồ Chí Minh thời kỳ này nằm trong dòng chảy chung, thể hiện một phong cách nhất quán trong quá trình 60 năm viết báo của một cây bút viết tiểu phẩm đặc sắc, đầy tài hoa.

Đặc biệt, trong thời kỳ này, Hồ Chủ tịch viết một số tác phẩm theo đơn đặt hàng của một số báo, tạp chí nước ngoài, chủ yếu là Liên Xô như: Tình hữu nghị vô sản thắng lợi (Báo Tin tức Liên Xô, 07-1-1959); Ba mươi năm hoạt động của Đảng (Tạp chí Những vấn đề hòa bình và chủ nghĩa xã hội, 2-1960); Chào mừng kỷ niệm lần thứ 44 Cách mạng Tháng Mười vĩ đại (Báo Sự thật, Liên Xô, 07-11-1961), Lê-nin, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam (viết cho báo Sự thật, kỷ niệm lần thứ 92 Ngày sinh V.I.Lê-nin, đăng lại trên Nhân dân, 22-4-1962), 45 năm đấu tranh anh dũng, 45 năm thắng lợi vẻ vang (viết cho báo Sự thật, Liên Xô nhân dịp kỷ niệm 45 năm Cách mạng Tháng Mười đăng lại trên Nhân dân, 7-11-1962); Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc (viết cho báo Sự thật, Liên Xô nhân dịp kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười đăng lại trên Nhân dân, 1-11-1967). Đây là những bài viết có tính tổng kết khái quát lại những vấn đề lý luận chung về chủ nghĩa xã hội, về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, về công cuộc cách mạng mà Đảng ta, dân tộc ta đang tiến hành, cũng như những đánh giá quan trọng về tính chất của thời đại. Nội dung những bài viết này không chỉ thể hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn phản ánh những quan điểm, thái độ chung của Đảng và Nhà nước ta trước những vấn đề đang đặt ra.

Bài báo cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tên Tailor đăng trên báo Nhân dân ngày 1 tháng 6 năm 1969, nhân đề: “Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng”. Người đánh giá cao sự phấn đấu trong học tập, lao động và tham gia chiến đấu của thiếu niên, nhi đồng. Người dành cho thế hệ trẻ của đất nước những tình cảm sâu sắc, thái độ trách nhiệm cao. Người viết: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân”.

Trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ hai Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 16 tháng 4 năm 1959, Hồ Chủ tịch coi mình là người có duyên nợ với báo chí, duyên nợ ấy chính là làm báo nhằm mục đích chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nói khác đi, Người làm báo là để làm cách mạng, đấu tranh mang lại độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc, hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân. Vì thế, nhà cách mạng vĩ đại, lãnh tụ kính yêu của dân tộc và nhà báo lớn Hồ Chí Minh là thống nhất, hòa quyện, gắn kết với nhau trong một nhân cách lớn - Hồ Chí Minh. Với 60 năm hoạt động sáng tạo không ngừng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại di sản báo chí vô cùng phong phú và to lớn, trong đó thể hiện sinh động những quan điểm, tư tưởng của Người về cách mạng, về thời đại, về nhân dân, về kinh tế, về chính trị, văn hóa và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Di sản đó cũng thể hiện bản lĩnh tuyệt vời của ngòi bút, tài năng và sức sáng tạo của một nhân cách lớn, nhà báo cách mạng lớn Hồ Chí Minh.

Đức Hiếu (Tổng hợp)


 

Hoạt động báo chí của Hồ Chí Minh (Phần 2)

Phần 2: Nghệ thuật ngôn từ trong tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh

1. Nghệ thuật sử dụng vốn từ thuần Việt

Do đặc điểm có sự kết hợp giữa ngôn ngữ thông tin - chính luận và ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật, nên tiểu phẩm cho phép sử dụng một cách phong phú các lớp từ của nhiều ngôn ngữ khác nhau. Tuy vậy, đây không phải là nguyên nhân duy nhất, cuối cùng quyết định độ phong phú của từ trong tiểu phẩm. Một nguyên nhân khác cũng có vai trò quyết định trong vấn đề này, đó là tác giả. Hồ Chí Minh viết báo nói chung, cũng như viết tiểu phẩm nói riêng đều có mục đích hết sức rõ ràng là động viên quần chúng đoàn kết đấu tranh vì lí tưởng không có gì quý hơn độc lập tự do, vì tương lai chủ nghĩa xã hội tươi đẹp. Chính vì thế Người luôn quan tâm đến đối tượng công nông binh, chú ý sử dụng phương tiện ngôn từ diễn đạt một cách chính xác mà giản dị, dễ hiểu mà hiệu quả. Trong quá trình sử dụng ngôn ngữ dân tộc, Hồ Chí Minh luôn chú ý việc giữ gìn trong sáng và làm giàu thêm vốn từ, Người dạy các nhà báo tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Chính Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về quý trọng, giữ gìn, làm phong phú thêm vốn từ thuần Việt.

Vốn từ của tiếng Việt có hai bộ phận được phân biệt. Đó là bộ phận từ thuần Việt và bộ phận từ gốc Hán, vay mượn từ tiếng Hán qua nhiều thời kỳ lịch sử. Do điều kiện lịch sử để lại nên vốn từ thuần Việt trước kia vẫn được coi là “nôm na”, chỉ được dùng trong tiếng nói hàng ngày của nhân dân, ít khi được dùng trong văn học - nghệ thuật. Trong văn chương bác học và những sự vụ hành chính quốc gia, chỉ có những từ gốc Hán mới được coi là trang nhã.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám (1945), tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức của nước ta và ngày càng phát triển. Vốn từ thuần Việt ngày càng được sử dụng một cách phong phú, sinh động, được bổ sung ngày càng nhiều để có đủ khả năng phục vụ cho sự phát triển toàn diện của xã hội. Nhìn chung mà nói: “Ngôn ngữ của Bác có thể nói là đỉnh cao của tiếng Việt trong 30 năm nay. Ảnh hưởng của Hồ Chủ tịch rất lớn trong tiếng Việt. Chính Bác đã hướng dẫn cho tiếng Việt ngày càng được chuẩn hóa”.

Riêng trong tiểu phẩm, Hồ Chí Minh rất chú ý sử dụng vốn từ nôm na, thông tục một cách có chọn lọc, phù hợp với ngữ cảnh – cụ thể. Việc sử dụng tốt những từ này thật sự tạo ra được những liên tưởng bất ngờ trong hàm nghĩa tinh tế, sinh động có tác dụng trong việc vạch trần bộ mặt thật của kẻ thù để tạo nên tiếng cười châm biếm, sâu cay.

Trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh, lớp từ này được sử dụng rất phong phú, đa dạng. Đọc tiểu phẩm của Người, chỗ nào cũng có thể thấy những đoạn văn như:

“Về chính trị, cần phải vạch rõ mưu mô xỏ lá của đại bợm Giôn. Càng thua Giôn càng giãy giụa, càng đẩy mạnh chiến tranh ở miền Nam, càng rêu rao cái món hòa bình giả dối. Từ tháng 4 năm 1965, ý đưa ra cái gọi là: “Đàm phán không điều kiện – hòng bịp bợm thiên hạ”(1). Trong đoạn văn nêu trên các từ “xỏ lá”, “bịp”, “bợm” là những từ thuần Việt, có nét nghĩa “tục”. Thông thường, trong lời ăn, tiếng nói hàng ngày, những từ đó dùng để nói về những hành vi xấu xa, không chính đáng, tỏ rõ thái độ khinh bỉ, chê trách của Người nói như: “Đồ xỏ lá”, “quân bịp bợm”. Từ “bợm” được dùng để chỉ những kẻ làm việc bất chính, chuyên lừa gạt người khác, được Hồ Chí Minh dùng để chỉ Giôn-xơn, Tổng thống Mỹ. Từ “đại bợm” trong câu văn này được dùng rất logic. Giôn là “đại bợm” vì Giôn có “mưu mô xỏ lá”, vì Giôn “rêu rao cái món hòa bình giả dối”, vì y “hòng bịp thiên hạ”. Ở đây, nói theo cách nói của nhân dân thì kẻ thù bị Người “chỉ mặt đặt tên” một cách đích đáng.

Trong tiểu phẩm “Đốp! Đốp!”, Hồ Chí Minh cụ thể hóa nỗi thất bại của đế quốc Mỹ là một “cái tát”. “Đế quốc Mỹ lại bị mấy cái tát nữa”. “Vừa rồi, đế quốc Mỹ còn bị một cái tát khác nữa”(2). Đế quốc Mỹ được cụ thể hóa như một con người, một kẻ thù bằng xương, bằng thịt. Mỗi thất bại của chúng về kinh tế, chính trị và quân sự được gọi là một cái tát. Với kẻ thù như đế quốc Mỹ việc dùng từ “cái tát”, ở đây cho phép người ta hình dung, liên tưởng đến một con người, một kẻ thù bằng xương, bằng thịt cụ thể, giúp người ta hiểu vấn đề một cách sinh động, cụ thể. Nhiều khi tiếng cười trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh là được tạo nên do việc diễn đạt nội dung bằng những từ nhẹ nhàng, giản dị. “Chợt thấy mình hớ hênh, lỡ miệng, hôm 15-3-1964 tổng Giôn đã thề hết thành hoàng, thổ công rằng y tuyệt đối không có âm mưu Bắc tiến”. Tổng thống Mỹ mà “hớ hênh lỡ miệng” đi thề hết “thành hoàng thổ công”, thì thật là mỉa mai.

Những từ có nét nghĩa chửi rủa cũng được sử dụng trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh, song những từ đó được sử dụng chọn lọc, tế nhị, không dùng xô bồ, vơ đũa cả nắm. Nhóm “chết người, hại của” có thể nghe thấy nhiều trong những câu chửi rủa ở nông thôn trước đây. Trong câu “Cuộc chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây ra chẳng những làm thiệt hại đến đồng bào miền Nam ta mà cũng làm cho nhân dân Hoa Kỳ chết người, hại của”, “chết người, hại của” dùng để biểu đạt sự thiệt hại về người và của của nhân dân Mỹ một cách ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu.

Khi cần vạch trần bộ mặt thật của kẻ thù, Hồ Chí Minh dùng cả những từ như: “Đê tiện”, “xỏ lá”, “bỉ ổi”, “dơ bẩn”… thể hiện thái độ căm ghét, khinh bỉ đối với chúng. Sau một thời gian tạm ngừng, ngày 31-01-1966, Giôn-xơn lại cho máy bay ném bom bắn phá miền Bắc, Hồ Chí Minh gọi màn kịch ấy của chúng là “trò hề đê tiện”. Một mặt vừa tăng cường chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, mặt khác Tổng thống Mỹ Giôn-xơn luôn mồm nói đến hòa bình, “thảo luận không điều kiện”… Hồ Chí Minh gọi đó là “một trò xỏ lá bỉ ổi”. Với “cuốn sách trắng” của Mỹ về chiến tranh ở Việt Nam năm 1965, Hồ Chí Minh không tiếc dùng những từ xấu xa, bẩn thỉu nhất để vạch mặt thật của Mỹ. Đó “là văn kiện đen tối nhất, xấu xa nhất và dơ bẩn nhất trong lịch sử. Đó chỉ là số giấy lộn hôi tanh”(3).

“Sa lầy” trong thực tế để chỉ sự rơi vào bãi lầy – nơi bùn đất không có nền cứng. Ở những bãi lầy mà bùn loãng dày, nền đất ở quá sâu thì người hoặc động vật sa vào đó rất nguy hiểm, khó bể xoay sở và rất dễ bị thiệt mạng. Trong các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh viết về đế quốc Mỹ, “sa lầy” luôn được sử dụng đúng chỗ, chỉ tình thế bi đát của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

- “Giặc Mỹ thì ngày càng sa lầy về quân sự và cô lập về chính trị”(4)

- “Đế quốc Mỹ càng thất bại và sa lầy ở miền Nam Việt Nam...”(5)

- “Danh giá của Mỹ ngày càng sa lầy(6)

- “Giặc Mỹ ngày càng sa lầy về quân sự và cô lập về chính trị”(7)

Tiến hành chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ tốn tiền hại của bị nhân dân Mỹ và cả thế giới yêu chuộng hòa bình lên án. Ở miền Nam Việt Nam, quân Mỹ và tay sai liên tục bị thất bại về quân sự, bọn tay sai Mỹ thì lục đục, đấm đá nhau. Mỹ rút quân ra thì tiếc miếng mồi bở đã lỡ đeo đuổi, sợ đổ bể mưu đồ ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa xã hội và cũng là sợ mang tiếng thua trận. Nhưng càng tăng cường chiến tranh thì đế quốc Mỹ càng bí, càng thất bại. Thật là một tình thế đi cũng dở, ở cũng không xong, tiến thoái lưỡng nan. “Sa lầy” được dùng trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh chỉ ra bản chất tình thế của đế quốc Mỹ và bọn tay sai ở miền Nam Việt Nam. Đó là cái “bi”, cái “bí” từ bên trong của kẻ vẫn cố tình làm bộ làm tịch. Trong tình thế “sa lầy” như thế mà Mỹ vẫn khoe khoang rằng “mạnh”, rằng “thắng lợi”, vẫn rùm beng về “thiện chí”, về “đàm phán không điều kiện”... Mâu thuẫn ấy tạo lên tiếng cười sâu sắc mà ý vị!

Trong các tiểu phẩm, có những lúc Hồ Chí Minh dùng từ “láo” hoặc từ “láo” có thêm “toét”, “xược” để vạch mặt bè lũ đế quốc xâm lược:

- “Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mặt-na-ma-ra là trạng nói láo(8).

- “Bài diễn văn láo xược của Đa-lét không doạ nổi nhân dân Châu Á”(9).

- “Nay chúng dùng việc tạm ngưng ném bom hòng ép ta nhận những điều kiện láo xược của chúng”(10).

- “Vì sao tổng Ken láo toét như vậy?”(11).

- “Tổng Giôn luôn mồm ba hoa rằng mục đích của Mỹ là hoà bình... Thật là láo toét(12).

V...v...

“Láo” thường được dùng trong trường hợp người lớn mắng trẻ con, người trên mắng kẻ dưới. Thêm vào “láo” yếu tố “xược”, một mặt tăng mức độ sự sai trái cần phê phán mặt khác đặt vị trí người phê phán cao hơn hẳn thế của kẻ bị phê phán. Thêm vào “láo” yếu tố “toét”, “láo toét” hàm nghĩa cả sự khinh bỉ của người nói hay viết. Khi dùng “láo”, “láo xược”, “láo toét” để chỉ tính chất những lời nói, hành động của kẻ thù là Hồ Chí Minh đang đứng ở thế mạnh, thế bên trên để phủ đầu, vạch mặt, giễu cợt chúng.

“Thối nát”, “hôi thối” cũng là những từ được Hồ Chí Minh dùng để thể hiện tính chất, tình trạng của kẻ thù. Người gọi Ngô Đình Diệm là “một tên độc tài thối nát và bất lực”. Chế độ bù nhìn tay sai Diệm-Nhu được Người gọi là “chế độ thối nát” hay là sự “thối nát xấu xa”.

Mùi “hôi thối” khó chịu được Hồ Chí Minh dùng để xác định tính chất xã hội nước Mỹ một cách cụ thể. Đó là xã hội “hôi thối quá, hôi thối không thể tả”(13). Vì ở đó có sự phân biệt màu da rất trắng trợn. Vì ở đó, sự choáng lộn của nhà cao tầng, những “hoa cỏ thơm tươi” chỉ là “bức màn gấm phủ trên đống rác”. Những người lao động da đen, da vàng sống “bẩn thỉu không thể tả”, nhà thương thiếu thốn, người ốm không có thuốc... Cuốn “sách trắng” của Mỹ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam đầy những sự giả dối, vu cáo bị Hồ Chí Minh gọi là “quyển sách trắng hôi thối...”.

Những từ thuần Việt trong tiếng nói thường ngày của nhân dân vốn “rất giàu hình ảnh và rất trong sáng”. Dưới ngòi bút tiểu phẩm của Hồ Chí Minh, vốn từ đó được sử dụng một cách nhuận nhị, có khả năng gợi cảm phong phú. Viết về sự nói, sự phát ngôn của kẻ thù, Người viết hàng trăm cách. Mỗi cách dùng từ của Hồ Chí Minh trong từng trường hợp đều diễn đạt được nhiều nhất tính chất của thông điệp và thái độ của tác giả đối với phát ngôn đó.

Ở mức độ bình thường Bác dùng từ "nói" hoặc thêm từ "nói" vào một yếu tố bổ sung nghĩa nào đó.

- “Ngài nói Mỹ là dân chủ”(14).

- “... Tổng thống Mỹ nói đại ý”(15).

- “Tổng Ai đã nói dài dòng...”(16).

Thêm “dài dòng”, sự “nói” của Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao đã một bước bị xem thường.

- “Tên chỉ huy đội này là Sơ-ri-vơ cũng nói toạc móng heo rằng”(17)

- “Tên Rát-pho, Tổng Tham mưu trưởng của đế quốc Mỹ ngày 01 tháng 3 nói trắng ra rằng”(18).

- “Tổng Giôn yêu chuộng hoà bình. Tối nào y cũng đọc kinh cầu nguyện cho hòa bình. Nhưng đọc kinh xong, y liền trắng trợn tuyên bố(19).

- “Bộ trưởng quốc phòng Mỹ thì nói thẳng vào mặt Lo...”(20)

v.v...

Các trường hợp trên đều có nghĩa gần nhau là nói ra một sự thật nào đó - sự thật ấy có thể tốt hoặc xấu. Nhưng cách diễn đạt, trong mỗi trường hợp đưa lại những hiệu quả thông tin riêng.

“Nói toạc móng heo” là nói ra tất cả sự thật không cần úp mở. “Nói trắng” ra cũng là nói ra sự thật nhưng thái độ kẻ nói không khiêm tốn, không được sự đồng tình của tác giả. “Trắng trợn tuyên bố” lại biểu thị sự ngang ngược, trơ tráo của kẻ nói và “điều tuyên bố” lại biểu thị sự ngang ngược, trơ tráo của kẻ nói về điều thông tin của kẻ đó không báo hiệu sự tốt lành gì. Ở “nói thẳng vào mặt” cũng là nói ra một điều gì đó thẳng thắn không úp mở nhưng hàm nghĩa khinh khi, thách thức.

Có thể thống kê một loạt các dùng từ để diễn đạt sự nói, sự phát ngôn rất phong phú mà Hồ Chí Minh đã dùng trong các tiểu phẩm châm biếm đế quốc Mỹ:

- “Đế quốc Mỹ thường khoe...”(21)

- “Mỹ thường khoe khoang…”(22)

- “Thế mà đại bợm Giôn dám ba hoa…(23)

- “Chính phủ Mỹ luôn mồm nói…”(24)

- “Trước thế giới thì Giôn rùm beng...”(25)

- “Đế quốc Mỹ lặp đi lặp lại rằng...”(26)

- “Lốt là một chính khách cáo già phản động, Y thường múa mồm rằng...”(27)

- “Cũng tên Giôn đó đã lép bép rằng...”(28)

- “Cách chức Lo, tổng Giôn còn nói xỏ y rằng...”(29)

- “Tê Đa-lét hiếu chiến đã thốt ra rằng...”(30)

- Thế mà Tổng thống Mỹ vẫn ca tụng “Vãn” chẳng những là vĩ nhân mà còn là một người đại “ái quốc”.

Trong từng trường hợp, Hồ Chí Minh đều chọn lọc và sử dụng rất đắt vốn từ dân gian để diễn đạt nội dung. Chưa cần đọc nội dung của phát ngôn, chỉ mới qua thông báo về sự nói, người đọc đã thấy thái độ khinh bỉ, giễu cợt của người viết và một phần thực chất nội dung không tốt lành của phát ngôn.

Rõ ràng, vốn từ thuần Việt, thông tục được Hồ Chí Minh dùng đúng chỗ, nên giàu sức gợi cảm, giàu khả năng biểu hiện nội dung. Mặt khác, những từ đó góp phần quan trọng vào việc tạo ra cái cười châm biếm kẻ thù trong tiểu phẩm của Người.

2. Phiên âm tiếng nước ngoài với tính cách một thủ pháp nghệ thuật châm biếm

Trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh, việc phiên âm tiếng nước ngoài không chỉ đáp ứng yêu cầu chính xác, thuận lợi mà còn phục vụ cho việc châm biếm kẻ thù. Hầu như tất cả các nhân vật tai mắt, chóp bu của chính quyền Hoa Kỳ, bọn tướng lĩnh, quan chức của chúng có mặt tại miền Nam Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, trước năm 1969 đều bị Người vạch mặt, đặt cho những cái tên thích đáng.

Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao được Hồ Chí Minh rút gọn đặt là "Ai", "Ai-cơ", "Ike", "Tổng Ai". Rất ít trường hợp Người để nguyên "tổng thống" mà chỉ để "tổng" đi liền với tên rút gọn. Hồ Chí Minh viết: "Mấy lời thành thật ngỏ cùng Ai" là "Ai-xen-hao", "ai" là buồn phiền, khổ não và "ai" là đại từ nghi vấn để hỏi về người.

Sự hàm nghĩa của "Ai" tạo lên cái cười mỉa mai, giễu cợt. Hơn nữa trong tiếng Việt, nếu chỉ gọi tên, không có họ và tên lót, không có đại từ xưng hô cũng biểu hiện sự không tôn trọng, sự coi thường, nếu không phải là thân mật gần gũi.  Ở tất cả các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh, có rất ít trường hợp nhắc đến Oa-sinh-tơn, Linh-côn, Ru-dơ-ven - những tổng thống có công lớn đối với nước Mỹ và góp phần nào đó vào việc đấu tranh cho lý tưởng nhân đạo, Người mới viết đủ tên. Một trường hợp khác, ở đầu đề Hồ Chí Minh viết: "Gửi Mr.Ni-xon, Phó Tổng thống Mỹ". Nhưng ngay dòng đầu bài đó, Ni-xon lại được gọi là Nix: "Allo, Mr.Nix! You đến Sài Gòn với mục đích gì?".

Trong tiểu phẩm “Mỹ mà không đẹp” Hồ Chí Minh gọi tên một lô Tổng thống Mỹ:

“Trước tổng Ken, tổng Ai đã nói như vậy.

Trước tổng Ai, tổng Tu-ma cũng nói như vậy

Sau tổng Ken, tổng Giôn lại nói như vậy.”

"Tổng Ken" chính là Tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi. “Nhưng Ken trong tiếng Việt còn có nghĩa là keo kiệt, bủn xỉn. Như vậy tổng Ken là tên tổng thống bủn xỉn, bẩn thỉu”.

Còn Tổng thống T'ru-man được gọi là Tu-ma. Về âm mưu, Tu-ma rất gần T'ru-man. Về nghĩa người đọc có thể hiểu "tổng Tu-ma" là "tổng chó" vì trong tiếng Tày, Tu-ma có nghĩa là chó.

Riêng với Giôn-xơn Hồ Chí Minh phiên âm và rút gọn thành bốn cách gọi khác nhau. Thông thường Người viết nhiều nhất là "tổng Giôn" hay "Giôn".

- “Tổng Giôn bèn giả nhân giả nghĩa hòng dùng một nghìn triệu đô la mua chuộc nhân dân Đông Nam Á”.

- “Tổng Giôn luẩn quẩn - Tổng Giôn thì vừa rêu rao cái đàm phán không điều kiện…”

- “Trước thế giới thì Giôn rùm beng là ra vẻ y muốn hoà bình”.

v.v....

Có khi Người phiên âm đủ cả tên Giôn-xơn nhưng lại thêm một yếu tố xấu ở phía trước:

“Đại bợm Giôn-xơ miệng nói hòa bình, tay vung binh hoả”. Ở đây Tổng thống Mỹ Giôn-xơn được coi là một tên đại bợm một kẻ lừa đảo hạng cáo già.

Ở một vài tiểu phẩm, Hồ Chí Minh dùng “zôôn” để gọi Giôn-xơn: “Tình hình gay go ở nước Mỹ và trên thế giới làm cho tổng zôôn rất đau đầu. Uống xong thuốc zôôn vừa thiu thiu ngủ, thì liền mơ thấy tổng Ken bước vào”.

Trong tiểu phẩm “Tin mừng cho lính Mỹ”, Hồ Chí Minh viết: “Vợ Tổng thống Phi-líp-pin là Ma-cô phu nhân đã hứa với tổng Zôôn...”

Theo giáo sư Nguyễn Văn Tu “Bác dùng âm Giôn hay Zôôn có liên hệ với âm Jaune (Giôn-nơ) của tiếng Pháp có nghĩa là màu vàng. Người ta thường gọi con chó màu vàng là Giôn. Như vậy tổng Giôn cũng có nghĩa là tổng chó - vì hắn chủ trương xâm lược nước ta, giết hại đồng bào ta. Còn vợ của Tổng thống Phi-líp-pin lúc đó là Mác-cốt lại được gọi là Ma-cô. Rõ ràng Ma-cô là hàm ý xấu nhưng âm lại rất gần với âm của từ gốc. Tổng thống Giôn-xơn lại được phiên âm thành Zoon - Âm lạ mà trong tiếng Việt người ta có thể liên tưởng đến "don" trong "cá rô don". Ở đây Hồ Chí Minh đã liên tưởng, lựa chọn từ để phiên âm thật tài tình và độc đáo.

Tiếp theo các Tổng thống Mỹ, một loạt tên các tướng tá, quan chức chóp bu, Chính phủ Mỹ được Hồ Chí Minh phiên âm rất đặc sắc.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mắc-na-ma-ra được gọi là "Mặt nạ", "Mặt-nạ-ma-ra", "Mắt-na-ra" và "Na-ma-ra". Trong các trường hợp này, hai âm tiết tiếng Anh trong tên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ được phiên âm thành "mặt nạ" - vừa gần về âm, vừa giễu cợt châm biếm.

Trong các cách phiên âm này, “ma” vừa là âm tiết được phiên âm chính xác, nhưng cũng có nghĩa là “ma” trong “ma quỷ, ma mãnh”... Như vậy, Mắc-na-ma-ra chỉ là một kẻ giả dối, đeo mặt nạ, rất ranh ma, quỷ quyệt và cũng có thể ra ma thật! Đin-rát (Dean Reyk) - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ mà được Người phiên âm thành "Định rút" thì thật độc đáo và tức cười.

Tướng Mac Arthur được phiên âm thành Mặt-ác-tệ vì hắn có âm mưu và việc làm rất độc ác.

Các-bốt-lốt đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, một chính khách cáo già của Mỹ được Hồ Chí Minh phiên âm thành: Cá-bỏ-lọt, Cá-bột-lót, Lột, Lót. Cá-bỏ-lọt có thể hiểu loại cá quá nhỏ bị lọt lưới, lọt rổ. Cũng có thể hiểu là con cá bột tên là lót. Lót là một thứ vỏ và lót cũng là lót đáy thùng, hay lót vật gì bị thủng, ở đáy.

Ha-kin - Tư lệnh quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam được phiên âm thành “Hắc-ín” - lòng dạ, mưu đồ hắn đen tối như Hắc-ín và cuộc chiến tranh hắn đang lao vào cũng như cái hầm đen tối tựa hắc-ín, không có đường ra.

Oét-mo-len - Tổng Chỉ huy quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam sau Ha-kin “một trong những tên quân phiệt Mỹ nổi tiếng là tài giỏi nhất và hiếu chiến nhất” được Hồ Chí Minh phiên âm trong các tiểu phẩm thành: Vét, Vét-mò-lên, Vét-mỡ-lợn. Thật nực cười khi một kẻ danh tiếng lẫy lừng trong giới quân sự Hoa Kỳ lại được gọi là Vét - có nghĩa là vét nồi, vét chảo vừa vét cả mỡ lợn! Những tên đó cũng xứng đáng với Oét-mo-len thật, vì kết cục hắn chỉ là một tên thất trận, một kẻ khoác lác, một “đại bại tướng”.

Tay-lo, tên trùm quân phiệt số một của Mỹ, tên “đại tướng vừa là đại ba hoa” được Hồ Chí Minh gọi là Tay-lo và Lo. Trong liên tưởng, khi nói tay người ta nhớ ngay đến chân. Cho nên Hồ Chí Minh viết "Tay lo rồi chân cũng lo". Đế quốc Mỹ ngày càng sa lầy ở miền Nam Việt Nam, chẳng những “Tay lo mà chân cũng lo để chuồn”. Ở đây Người rất khéo lợi dụng sự đồng âm của âm tiết đầu trong tên viên tướng Mỹ với “tay” trong tiếng Việt nghĩa là chi trên của người và âm tiết sau trong tên của hắn với “lo” có nghĩa là một trạng thái tinh thần như: Lo lắng, lo âu. Sự đồng âm trái nghĩa đến bất ngờ ấy được sử dụng thật tài tình trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh gây ra tiếng cười. Đằng sau sự đồng âm ngẫu nhiên là cái logic thất bại tất yếu của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. “Chúng ta có thể đoán chắc rằng Lót cũng sẽ thất bại nhục nhã như Lo và cuộc thay thế Lót-Lo, Lót-Lo chứng tỏ rằng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ nhất định sẽ thất bại”. Dù cho Mỹ có thay Ca-bốt-lốt bằng Tay-lo và đổi ngược lại, dù cho chúng có lo lắng hay lót đậy bằng gì thì tình hình của chúng vẫn là sa lầy, không có lối thoát.

Như vậy trong các tiểu phẩm, khi phiên âm tên kẻ thù từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm phiên âm đúng mà còn dùng phiên âm để chỉ mặt đặt tên, diệu cơ, châm biếm chúng. Khi phiên âm Người chú ý chuyển toàn bộ hay một số âm tiết thành tiếng Việt nhưng có hàm nghĩa xấu, nghĩa chế nhạo, giễu cợt. Trong nhiều tiểu phẩm, Người sử dụng phương pháp này với nhân vật trung tâm mà ngay từ đầu đến cuối nhân vật chủ yếu bị phê phán, giễu cợt. Các phiên âm của Hồ Chí Minh rõ ràng làm tăng hiệu quả thông tin, góp phần tạo dựng tiếng cười sâu cay trong các tiểu phẩm.

3. Nghệ thuật sử dụng từ trong dấu ngoặc kép với mục đích châm biếm

Sử dụng từ đặt trong dấu ngoặc kép với nghĩa trái ngược là một thủ pháp độc đáo trong các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh, trong ngôn ngữ sinh hoạt thường ngày của tiếng Việt, người ta dùng từ với nghĩa trái ngược trong trường hợp đay nghiến, giễu cợt, châm chọc. Trong mỗi trường hợp, Người đều nhìn nhận ra sự mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, giữa lời nói và việc làm của kẻ thù. Tiếng cười giễu cợt xuất hiện trên sự mâu thuẫn ấy. Có thể nói tiếng cười trong những trường hợp này là cười gằn, cười nhếch mép, cái cười có kèm theo một tiếng xì hơi qua mũi tỏ vẻ khinh bỉ.

Ở các tiểu phẩm, dạng phổ biến nhất là Hồ Chí Minh dùng những từ có nghĩa tốt đẹp để biểu đạt cái xấu của kẻ thù. Thường thì các từ ấy không dùng đơn độc. Nó luôn luôn được đặt trong một ngữ cảnh mà bản chất xấu xa của kẻ thù đã bị vạch trần về mặt nội dung. Từ có nghĩa tốt đẹp trở thành vế đối lập về mặt hình thức với nội dung đó. Ví dụ, giới cầm quyền Mỹ vẫn rùm beng, tự ca ngợi về cái gọi là văn minh của nước Mỹ. Theo nghĩa bình thường, văn minh là sự tiến bộ, tốt đẹp. Nhưng thứ văn minh của Mỹ không phải như vậy. Thứ văn minh đó có thể tóm tắt trong một câu:

“Trái đạo đức khinh cha mẹ

Máu tham hễ thấy đô la thì mê”(31).

Nghĩa là đối với Mỹ, “văn minh” phải hiểu là không văn minh, là trái đạo đức, là xã hội đồng tiền làm chúa tể.

“Hòa bình” là từ có nghĩa tốt đẹp. Đối lập nghĩa với hòa bình là chiến tranh. Vậy mà: “Tổng Giôn yêu chuộng hòa bình. Tối nào cũng đọc kinh cầu nguyện cho hòa bình. Nhưng đọc kinh xong, y liền trắng trợn tuyên bố "Mỹ quyết không rời khỏi miền Nam Việt Nam (tháng 4-1965), Mỹ quyết theo đuổi những cố gắng chiến tranh ở Việt Nam. Cần thêm bao nhiêu lính Mỹ, sẽ có bấy nhiêu (8-12-1965).” Rõ ràng, cái thứ hòa bình mà Mỹ tuyên truyền là giả dối. Thực chất thì lời nói của Giôn không đúng như việc hắn làm. Cái hòa bình của Mỹ rất đáng cười - cười chứa đựng sự căm ghét và lên án!

Để biểu thị sự chống Mỹ, xua đuổi Mỹ của nhân dân các nước, Hồ Chí Minh dùng từ “hoan nghênh”. “Hồi tháng 2, khi thăm bốn nước Nam Mỹ, chính ngài (Tổng thống Mỹ) đã thấy rõ lòng căm ghét đế quốc Hoa Kỳ trong những cuộc “hoan nghênh” nó đã làm cho ngài, ứa nước mắt”. “Tháng 5 năm nay, nhân dân hai nước Colombia và Venezuela đã nhiệt liệt “hoan nghênh” Phó Tổng thống Mỹ bằng trứng thối, gậy gộc và bằng khẩu hiệu đả đảo”. Từ hoan nghênh ở đây dùng rất đắt tạo ra tiếng cười rất ý nhị mà sâu cay.

Thành ngữ ta có câu “nhát như cáy”, Hồ Chí Minh viết: “Các ngài quân nhân Mỹ to gan như cáy, chưa tối đã rúc xuống hầm”. Nhát như cáy có nghĩa là nhát lắm, hèn lắm, nhưng to gan như cáy thì không những nhát lắm mà cái nhát đó còn đáng mỉa mai lắm!

Khi diễn tả ý: Mỹ càng tăng thêm quân thì số quân bị tiêu diệt càng nhiều hơn, Hồ Chí Minh viết: “Mỹ cần xuất khẩu nhiều lính “G.I” (người Mỹ gọi lính là G.I) - thì sẽ phải nhập khẩu nhiều quan tài về Mỹ”.

Cũng là những từ trong ngoặc kép, song có khi Hồ Chí Minh chỉ dùng với nghĩa nhấn mạnh hơn, bao hàm trong đó có cả sự giễu cợt. Trong tác phẩm “Mỹ mà không đẹp”, Người viết: “Trong năm 1963, bọn nhà giàu Mỹ đã tiêu cho mèo và chó yêu của chúng hơn 3.000 triệu đô la. So sánh với việc tổng Giôn chi 300 triệu đô la để cứu trợ cho 50 triệu người Mỹ nghèo khổ thì thật là mỉa mai. Đúng là ở xã hội Mỹ chó và mèo được trọng hơn con người thật!”.

Ở tiểu phẩm “Chuyện ngược đời”, Hồ Chí Minh viết “Tổng Ken đề ra một biện pháp mà ông gọi là lương thực dùng vào hòa bình”. Tức là, đưa số lương thực thừa ứ “giúp cho các nước chậm tiến”. “Giúp” được nhấn mạnh bao hàm sự mỉa mai. Hồ Chí Minh lấy một ví dụ cụ thể là việc Mỹ giúp Philippines để vạch trần thực chất của vấn đề. Mỹ giúp Philippines nhưng lại tính tiền nợ và đặt điều kiện về chính trị, quân sự. Cách “giúp” của Mỹ, thực tế là: “Tay phải xoáy hết những cái gì tay trái đã cho”. Về hình thức, hành động này của Mỹ là “giúp”. Nhưng nội dung thực chất xấu xa lại gọi là âm mưu một công ba việc, một vốn bốn lời của bọn cáo già phản động Mỹ.

4. Nghệ thuật sử dụng vốn từ dân gian phong phú

Đối với các tiểu phẩm báo chí của Hồ Chí Minh còn có nhiều cách dùng từ khác để lột mặt nạ giả dối, tạo lên cái cười châm biếm kẻ thù như:

- Khai thác vốn đại từ phong phú của tiếng Việt;

- Chơi chữ bằng nhiều cách khác nhau trong tiếng Việt;

- Dùng những từ cổ mà ngày nay ít dùng hoặc không dùng trong giao tiếp nữa.

- Dùng xen tiếng nước ngoài…

Khác với nhiều thứ ngôn ngữ trên thế giới, vốn đại từ chỉ người của tiếng Việt rất phong phú, biểu thị mọi sắc thái tình cảm, mọi quan hệ giữa người với người. Hồ Chí Minh đã vận dụng chọn lọc vốn đại từ chỉ người chủ yếu là đại từ chỉ ngôi thứ ba để tỏ thái độ căm thù, châm biếm kẻ thù. Trong tiểu phẩm của Người có thể gặp đủ các đại từ chỉ người ở ngôi thứ ba, mang sắc thái khinh bỉ như: Gã, hắn, tên, kẻ, lão, y, chúng, bọn, lũ…

Trong tiếng Việt, “gã” dùng để khinh kẻ mình khinh khi, coi thường, Hồ Chí Minh dùng "gã" để nói về Giôn-xơn và Giôn-oa-tơ, hai ứng cử viên Tổng thống Mỹ năm 1964… “cả hai gã đều không dám nói làm thế nào để cải thiện tình trạng đen tối ở nội bộ Hoa kỳ... hai gã đều không dám nói đến tình hình thế giới đối với Mỹ”.

Hồ Chí Minh gọi Ngô Đình Diệm là “hắn” và bè lũ của Diệm là “bọn” những từ có nghĩa xấu, mang sắc thái khinh khi thù ghét: “Trung tuần tháng 3, bọn Diệm tiếp lời quan thầy Mỹ: “Chất độc ấy chỉ để khai quang hai bên đường và sông ngòi ở những nơi Việt cộng ẩn trốn... Nhưng hắn cũng thú nhận rằng: “Đó là một vũ khí chiến tranh rất hiệu nghiệm…”

Đối với Nguyễn Cao Kỳ tên tay sai liếm hết gót thực dân Pháp đến đế quốc Mỹ trong cuộc đời bán nước hại dân của hắn, Hồ Chí Minh không tiếc lời cay độc vạch mặt: “Kết cục tạm thời của tên cao bồi Cao Kỳ làm Thủ tướng, nó tôn thờ con quỷ phát xít Hitler làm tổ sư”.

Đại từ ngôi thứ ba số ít: “Y” và đại từ ngôi thứ ba số nhiều “chúng” được Chí Minh dùng nhiều nhất để gọi kẻ thù. Bác dùng "y" cho Tổng thống Mỹ: “Giôn rùm beng ra vẻ y muốn hoà bình... thế mà đại bợm Giôn dám ba hoa rằng y là kẻ bảo vệ Hiệp định Giơ-ne-vơ...”, cho cả bọn tướng tá lớn nhỏ của chúng: “Bản thân Lo cũng hớn hở cho rằng y sẽ thắng lợi”. Tất cả những kẻ thù lớn nhỏ, thấp cao được Người gọi chung là “chúng”. Nhưng chính như Mỹ còn phạm tội ác to hơn nữa. Chúng nó xâm phạm miền Nam nước ta.

Trong một số trường hợp, Hồ Chí Minh dùng đại từ chỉ Người ngôi thứ hai số ít là “ngài”, “ông”, để chỉ Tổng thống Mỹ. “Ngài” hay “ông” trong những trường hợp này không mang sắc thái tôn trọng, vị nể mà đặt kẻ thù đối diện để chỉ mặt đặt tên chúng với sự căm thù sâu sắc, lời vạch tội đanh thép. Hồ Chí Minh đã gọi Tổng thống Ai-xen-hao là “ngài” và vạch tội “ngài” Ai-xen-hao:

“Tự miệng ngài cũng thường nói đến hòa bình, chính nghĩa… nhưng trong hành động thực tế đối với Việt Nam, ngài đã làm trái ngược với chính nghĩa hòa bình:

Ngài đã khuyến khích chính quyền miền Nam phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, ngăn trở Việt Nam thống nhất.

Ngài đã đưa vào miền Nam Việt Nam nhiều vũ khí, đạn dược và nhân viên quân sự Mỹ…”

Trong tác phẩm: “Thư gửi ông Ken-nơ-đi, Tổng thống mới của Mỹ”, Hồ Chí Minh gọi Tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi là “ông”. Nhưng đây là đại từ “ông” mà ta có thể gặp trong những câu nguyền rủa đầy căm ghét và mỉa mai chứ không phải “ông” trong những cuộc giao tiếp giữa những người tôn trọng, vị nể lẫn nhau. Người viết: “Đúng! Mặc dù ông là thủ lĩnh của bọn đế quốc, người Việt Nam có thể đồng ý với những lời đó. Nhưng xin ông hãy xét kỹ những lời cảnh cáo sau đây…” Ở đoạn khác Người viết: “Nói tóm lại, vì Mỹ mà miền Nam Việt Nam biến thành địa ngục trần gian. Điều đó ông có biết không?”.

Nếu ông biết mà không nói thì ông là người:

“Ngoài miệng thì tụng nam mô

Trong lòng thì đựng cả bồ dao găm”

Nghệ thuật chơi chữ được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả đặc biệt trong tiểu phẩm báo chí của Hồ Chí Minh. Cách thủ pháp nghệ thuật chơi chữ được biến hóa phong phú, chọn lọc, tạo ra khả năng biểu hiện lớn, tạo ra thích thú bất ngờ, gây nên cái cười châm biếm sâu cay mà dí dỏm. Chơi chữ có nhiều cách khác nhau như dựa vào sự đồng âm khác nghĩa của từ, hiện tượng gần nhau về âm, hiện tượng nói lái... Trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh có thể thấy các dạng chơi chữ rất phong phú, đưa lại hiệu quả bất ngờ, trong việc tạo ra cái cười châm biếm chế giễu kẻ thù.

Một trong những cách chơi chữ thành công nhất của Hồ Chí Minh là sử dụng hiện tượng đồng âm, gần âm của một hay nhiều âm tiết tiếng nước ngoài với tiếng Việt để tạo lên cái cười, như "ai" trong Ai-xen-hao với "ai" là đại từ nghi vấn tiếng Việt hoặc "ai" là bi ai, sầu muộn, giữa Tay-lo tên tiếng Anh với "tay-chân" trong tiếng Việt, giữa Mác Ác-lơ (Mác Artheur) với Mặt-ác-tệ... Cách phiêm âm - chơi chữ đó của Hồ Chí Minh rõ ràng có hiệu quả cao trong việc tạo ra tiếng cười bất ngờ mà thú vị, sâu cay mà ý nhị.

Ngoài cách chơi chữ phổ biến trên, Hồ Chí Minh còn sử dụng hiện tượng đồng âm hay gần âm của các từ tiếng Việt với nhau. Khi viết về sự mâu thuẫn lục đục của bọn tay sai ngụy quân, ngụy quyền miền Nam với quan thầy Mỹ dẫn đến những vụ đảo chính. Người sử dụng âm “đảo” để giễu cợt chúng. Hồ Chí Minh viết: “Nói tóm lại, rồi đây chúng sẽ đảo lẫn nhau và cuối cùng nhân dân sẽ đảo cả lũ chúng”. Như vậy, "đảo" đứng một mình mang nét nghĩa khác nhau khi nó đứng trong "đảo chính". "Đảo" trong câu của Người nghĩa là hất nhào cả bọn bán nước hại dân.

Đối với Ngô Đình Diệm, một kẻ bán nước ôm chân đế quốc tự huênh hoang là “chí sỹ”, Hồ Chí Minh gọi là "Ngô Chí Khỉ". Trong "Thư không dán - kính gửi ông Ike - Tổng thống Mỹ", Hồ Chí Minh viết: “Tổng thống Mỹ này! Nếu ngài muốn cho thiên hạ tin rằng “hy vọng của Mỹ là công lý và hòa bình”, thì ngài hãy bảo nhân viên quân sự Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam, đừng xúi bảy “Ngô Chí Khỉ” phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ và chớ có khủng bố nhân dân miền Nam nữa”. Như vậy Ngô Đình Diệm từ chỗ tự nhận là bậc chí sỹ bị Hồ Chí Minh giáng xuống thành chí khỉ. Nói cụ thể hơn theo cách hiểu bình thường của người đọc thì: “Diệm chính là đồ con khỉ!”. Còn cái tổ chức giả cầy, đeo nhãn hiệu dân chủ được thầy trò Mỹ - Diệm nhào nặn ra là "quốc hội lâm thời" hòng bôi son, trát phấn cho bộ máy tay sai bán nước hại dân của Diệm được Người gọi là "Quốc hội làm thối".

Trong một số trường hợp khác, Hồ Chí Minh lại dùng cách nhại âm để giễu cợt kẻ thù. Người gọi một tên nghị sỹ Mỹ ở tỉnh U-ta, trúng cử do bịa chuyện anh hùng là vị "iêng hùng" trong trường hợp khác, Bác lại dùng "eng hùng" để nhại âm, giễu cợt: “Bọn quân phiệt Mỹ thường ba hoa rằng binh sỹ Mỹ là những người "eng hùng" gan dạ. Sự thật thì chúng chỉ là "eng hùng rơm", "Anh hùng rơm" đã là thứ không đáng coi ra gì. Còn "eng hùng rơm” thì không những không đáng một xu mà còn đáng bị cười vào mũi.

Khi viết "Mỹ là xấu", Hồ Chí Minh lại chơi chữ theo dạng sử dụng hiện tượng đồng âm giữa "Mỹ" là tên của nước với "mỹ" có nghĩa là đẹp - một từ gốc Hán. Sau đầu đề "Mỹ là xấu", Hồ Chí Minh viết: "Mỹ nữ là gái đẹp. Mỹ đức là nết tốt. Nhưng Mỹ quốc lại là nước xấu”. Những điều đó mới nghe tưởng không hợp lý. Nó tạo ra mâu thuẫn, nghi vấn kích thích sự tò mò, muốn biết rõ ngọn ngành có vấn đề, làm cho người đọc chú ý tập trung theo dõi.

Có thể nói, nghệ thuật chơi chữ trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh không những có khung biểu cảm lớn, tạo ra tiếng cười châm biếm kẻ thù mà còn kích thích tò mò hứng thú lôi cuốn người đọc vào vấn đề cần quan tâm.

Những từ cổ ngày nay không dùng hay ít dùng trong giao tiếp cũng được Hồ Chí Minh sử dụng làm phương tiện để châm biếm bọn đế quốc Mỹ và tay sai. Trong ngôn ngữ, từ vựng là bộ phận vận động nhiều nhất, mang tính lịch sử rõ nét nhất. Mỗi thời đại đều có bộ phận từ vựng đặc trưng có số phận gắn liền với số phận của chế độ xã hội đó. Hồ Chí Minh sử dụng một số từ tồn tại dưới chế độ phong kiến để diễn đạt những sự việc, gọi tên những loại người trong thời hiện đại. Sự không đồng nhất giữa từ vựng và lịch sử đó tạo ra tiếng cười hài hước, giễu cợt. Hồ Chí Minh viết: "Hôm 26-10, mượn tiếng chúc mừng ngày Ngô Đình Diệm lên ngôi, Ngài đã phái tàu chiến và máy bay Mỹ xâm phạm hải phận và không phận của Việt Nam, hòng uy hiếp tinh thần phấn đấu của nhân dân Việt Nam”. "Lên ngôi" là việc trong cung đình vua chúa xưa kia. Gọi việc Diệm nhận chức Tổng thống bù nhìn là “lên ngôi” cũng có nghĩa, việc đó là một trò hề lố bịch, không hợp thời, không hợp lòng người.

Nói về bọn tướng tá, quan chức của đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh viết: “Cùng trong lúc đó, tổng Giôn làm trò hề đã sắp xếp sẵn. Y vội vã họp quan văn, tướng võ và các lãnh tụ Quốc hội Mỹ”. Ở một tiểu phẩm khác Hồ Chí Minh viết: “Văn thần như phó Tổng thống Hăm-phơ-đi, Đại sứ Ha-ri-man, Cố vấn Bân-đi, Đặc phái viên Cô-bơc... được phải đi gặp Chính phủ nhiều nước ở năm châu để tỏ thiện ý của Mỹ sẵn sàng đàm phán hòa bình”.

Cũng trong lúc đó, thì các võ tướng đầu sỏ và cuồng chiến như: Bộ trưởng Lục quân Ri-đô, Bộ trưởng Không quân Bơ-rao, Tham mưu Trưởng Lục quân Giôn-sơn, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Uy-lơ… kéo nhau đến miền Nam để chuẩn bị kế hoạch mở rộng chiến tranh.

Giữa thế kỉ 20 mà gọi các quan chức, tướng lĩnh của Mỹ là “văn thần” hay “quan văn”, “võ tướng” quả là hài hước. Sự hài hước có được nhờ tạo nên liên tưởng của người đọc về sự khác biệt giữa cái mới và cái cổ hủ, cũ kỹ.

Việc dùng xen tiếng nước ngoài trong các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh gây ra sự đối lập giữa nội dung thực chất và từ dùng xa lạ với hệ thống tiếng ta do đó đưa đến sự mỉa mai. Khi dùng tiếng nước ngoài, Hồ Chí Minh có thể để nguyên chữ của thứ tiếng đó, hoặc phiên âm theo chữ cái tiếng Việt. Bác viết: “Hello, Mr.Nix! You Đến Sài Gòn với mục đích gì?”. Người đọc có thể cảm nhận được ở đây sự giễu cợt như lời nhại để mỉa mai cái gì không tốt đẹp. Cách viết như thế thể hiện vị trí của Người như là một người trên, người ở thế mạnh nói với kẻ dưới, kẻ ở thế yếu.

Trong tiểu phẩm "Tay-lo rồi chân cũng lo", Hồ Chí Minh dùng O.K như là một sự thách thức đầy mỉa mai: “Nghe nói Tay-lo biết nhiều tiếng nước ngoài và sẽ học tiếng Việt Nam. Ok! Như thế, ông ta sẽ hiểu rõ và thấm thía khi nghe nhân dân Việt Nam hô to “Đế quốc Mỹ cút đi”.

Tóm lại, trong các tiểu phẩm báo chí châm biếm đả kích đế quốc và bọn tay sai, Hồ Chí Minh đã chọn lọc, sử dụng một cách sáng tạo vốn từ và các thủ pháp nghệ thuật dùng từ nhằm tăng khả năng biểu cảm, vạch mặt châm biếm kẻ thù. Cái tài hoa, sự độc đáo trong nghệ thuật ngôn từ của Hồ Chí Minh xuất phát từ nền tảng căn bản và quyết định là vốn tiếng Việt phong phú và uyên thâm của Người. Đó chính là điều kiện cho phép Người rất thông minh, sáng tạo trong việc thiết lập các mối quan hệ, tạo ra các khả năng sinh động để sử dụng vốn từ một cách đắc địa hiệu quả. Người đặc biệt quan tâm đến vốn từ thông thường được sử dụng trong giao tiếp hằng ngày. Dưới ngòi bút của Người, vốn từ ấy được gạn lọc, nâng cao, tạo ra khả năng biểu hiện lớn. Sử dụng từ sáng tạo, độc đáo, giản dị trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh làm cho tiểu phẩm của Người dễ hiểu, dễ đi vào lòng người, tạo ra tiếng cười châm biếm kẻ thù sâu cay mà ý nhị, căm ghét mà mỉa mai.

Chú thích:

(1) Chiến sỹ: Ta nhất định thắng, giặc nhất định thua, Báo Nhân dân ngày 30-7-1965

(2) Đốp! Đốp!, bài đăng trên báo Nhân dân ngày 18-12-1963

(3) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11 (1963-1965), Nxb CTQG,Hà Nội, 1996, trang 403

(4) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11 1963-1965, Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 570

(5) TL: Mỹ Diệm là quỷ dữ khát máu điên cuồng, Báo Nhân dân ngày 03-4-1963

(6) TL: Sư và sứ Mỹ đều là Xpay, Báo Nhân dân ngày 04-9-1962

(7) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11 (1963-1965), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 570

(8) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12 (1966-1969), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 9.

(9) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7 (1953-1955), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 495.

(10) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12 (1966-1969), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 12.

(11) TL: Ai dã man? Ai văn minh?, Báo Nhân dân, ngày 15-5-1962.

(12) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11 (1963-1965), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 288.

(13) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12 (1966-1969), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 69.

(14) TL: Thư không dán gửi Tổng thống Mỹ, Báo Nhân dân, ngày 21-4-1960

(15) CB: Gửi Mr Nixon, Phó Tổng thống Mỹ, Báo Nhân dân, ngày 8-7-1956

(16) TL: Mấy lời thành thật ngỏ cùng Ai, Báo Nhân dân, ngày 26-9-1960

(17) TL: Tên là “Đội hào bình”, thực chất là đội họa binh, Báo Nhân dân, ngày 13-12-1962

(18) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7 (1953-1955), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 407.

(19) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12 (1966-1969), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 11.

(20) Chiến sỹ: Tổng Tay-lo, Báo Nhân dân, ngày 30-7-1965

(21) CB: Chết mà chưa hết nhục, Báo Nhân dân, ngày 13-11-1952

(22) TL: Chuyện ngược đời, Báo Nhân dân, ngày 03-4-1964

(23) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11 (1963-1965), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 497.

(24) Đ.X: Tự do hòa bình kiểu Mỹ, Báo Nhân dân, ngày 08-8-1951

(25) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12 (1966-1969), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 26.

(26) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11 (1963-1965), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 399.

(27) Chiến sỹ: Tổng Tay-lo, Báo Nhân dân, ngày 30-7-1965.

(28) Đ.X: Tự do hòa bình kiểu Mỹ, Báo Nhân dân, ngày 08-8-1951

(29) Chiến sỹ: Tổng Tay-lo, Báo Nhân dân, ngày 30-7-1965

(30) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7 (1953-1955), Nxb CTQG, Hà Nội. 1996, trang 483.

(31) Chiến sỹ: Văn minh kiểu Mỹ, Báo Nhân dân, ngày 29-11-1963.

Đức Hiếu (Tổng hợp)
Còn nữa


 

Hoạt động báo chí của Hồ Chí Minh (Phần 3)

Phần III: Thành ngữ - Tục ngữ - Thơ từ trong tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh

1. Nghệ thuật sử dụng thành ngữ, tục ngữ độc đáo, linh hoạt

Mỗi dân tộc đều có một vốn thành ngữ, tục ngữ riêng của mình trong kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc đó. Về một khía cạnh nhất định thành ngữ, tục ngữ phản ánh cuộc sống phong phú nhiều mặt trong quá trình lịch sử của dân tộc. “Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn đạt được một ý trọn vẹn”. Tục ngữ chính là một hình thức kết tinh những kinh nghiệm sống về nhiều mặt của con người qua nhiều thế hệ. Thành ngữ tuy chỉ tương đương với từ, có nội dung là khái niệm nhưng nó cũng chính là hình ảnh, dấu ấn của lịch sử dân tộc. Kho tàng thành ngữ, tục ngữ của ta vô cùng phong phú, phản ánh lịch sử lâu dài nhiều hình, nhiều vế của dân tộc. Các thành ngữ đều do nhân dân lao động sáng tác, được truyền miệng, gọt rũa, tinh chế qua nhiều người, nhiều thế hệ nên rất cô đọng, súc tích, giàu sức biểu cảm, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người.

Trong các tiểu phẩm của mình, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc sử dụng các thành ngữ, tục ngữ để diễn đạt ý một cách giản dị, súc tích, giàu nhịp điệu, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Mặt khác, những thành ngữ, tục ngữ trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh được sử dụng một cách sáng tạo, sinh động, khiêu gợi, góp phần tạo lên tiếng cười châm biếm phê phán kẻ thù dân tộc.

Qua khảo sát các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh cho thấy Người đã sử dụng hàng trăm thành ngữ, tục ngữ. Trong số thành ngữ này, gần 80% là thành ngữ, tục ngữ Việt Nam. Số còn lại là các thành ngữ, tục ngữ của nước ngoài, bao gồm cả thành ngữ, tục ngữ của một số nước phương Tây.

Cách dùng thành ngữ, tục ngữ của Hồ Chí Minh không gò bó, cứng nhắc với hình thức sẵn có. Trong các trường hợp cụ thể, tùy theo nội dung vấn đề, Người có cách sử dụng thích hợp, độc đáo, tạo ra khả năng diễn đạt, biểu cảm rất sinh động, phong phú của thành ngữ, tục ngữ.

Thông thường, Hồ Chí Minh dùng nguyên vẹn các thành ngữ, tục ngữ để diễn đạt ý trong tác phẩm. Do tính đại chúng, nội dung súc tích và gợi cảm mạnh của thành ngữ, tục ngữ nên việc sử dụng chúng rất phù hợp với tình cảm, tâm hồn của nhân dân, gợi ra những hình tượng sinh động, tạo ra sự hài hòa về âm thanh nhịp điệu. Mặt khác sử dụng tốt thành ngữ, tục ngữ làm cho lời văn ngắn gọn mà diễn đạt ý sâu sắc, hàm súc. Trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh, thành ngữ, tục ngữ góp phần đắc lực vào việc tạo ra tiếng cười sâu sắc mà không cay cú, cộc cằn mà chứa chất căm thù đối với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Hồ Chí Minh sử dụng thành ngữ “vừa ăn cướp, vừa la làng” để vạch rõ nội dung thực chất giả dối trong “Cuốn sách trắng” của Mỹ về chiến tranh ở Việt Nam.

“Nhưng bàn tay đẫm máu của đế quốc Mỹ không bưng bít được mặt trời sự thật. Mặt nạ gian dối của đế quốc Mỹ “vừa ăn cướp, vừa la làng” đã bị cả thế giới lột trần.

Để vạch rõ sự giả dối nham hiểm của đế quốc Mỹ, ở trường hợp khác Hồ Chí Minh dùng thành ngữ “ném đá dấu tay”.

“Ném đá dấu tay” là thói quen của đế quốc Mỹ. Chúng hòng lừa bịp dư luận thế giới, làm ra vẻ chúng không bao giờ can thiệp vào nội bộ của nước ngoài.

Khi vạch trần thực chất những lời nói của Đa-lét, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ, Hồ Chí Minh viết: “Đa-lét mồm loa mép giải vu cáo, dựng đứng là ở miền Bắc Việt Nam không có tự do, dân chủ là nhằm mục đích phá hoại ấy”. “Mồm loa mép giải” là thành ngữ dùng để chỉ những kẻ lắm lời mà đặt điều chua ngoa, gian dối. Dùng “mồm loa mép giải” cho Đa-lét trong trường hợp trên thật đích đáng và buồn cười cho sự đánh giá một Bộ trưởng Mỹ.

Hồ Chí Minh dùng “mưu ma chước quỷ” để chỉ những thủ đoạn chiến tranh tội ác của đế quốc Mỹ.

Người vạch trần thủ đoạn mua chuộc, lừa bịp nhân dân các nước bằng đô la viện trợ của Mỹ là giả nhân, giả nghĩa.

“Nay Mỹ bị sa lầy không có lối thoát, tổng Giôn bèn giả nhân giả nghĩa hòng dùng một nghìn triệu đô la để mua chuộc nhân dân Đông Nam Á”.

“Chết mà không chừa” vốn được dùng để chỉ thói đam mê mù quáng, sự không tỉnh táo trong cuộc sống hàng ngày, được Hồ Chí Minh dùng với nghĩa rộng hơn khi nói về đế quốc Mỹ.

“Đế quốc Mỹ bị mấy cái tát nữa”.

Trong mười năm nay, chúng đã bị nhiều vố đau. Nhưng “chết mà không chừa”, chúng không chịu rút kinh nghiệm. “Chết mà không chừa” thể hiện rất cô đọng sự ngoan cố, liều lĩnh của đế quốc Mỹ với lời văn ngắn gọn, tiết kiệm nhất.

Khi nói về chính sách chiến tranh hung tàn của đế quốc Mỹ và tay sai, Hồ Chí Minh dùng thành ngữ “chó dại cắn càn”. Người viết:

 “…Như “chó dại cắn càn”, đế quốc Mỹ càng thua đau, chúng càng giãy giụa, hung dữ”.

“Chính sách hung tàn không phải là dấu hiệu sự mạnh mẽ của Mỹ - Diệm, nó là dấu hiệu sự ươn hèn của chúng. Đó là dấu hiệu của “chó dại cắn càn”.

Dùng “chó dại cắn càn” trong những trường hợp trên, Hồ Chí Minh lột tả rất sinh động, thực chất thế và lực của kẻ thù dân tộc. Đó là thế của kẻ thất bại, cùng đường, lực của kẻ bệnh hoạn dẫn đến những phản ứng mất lý trí. Mặt khác, so sánh chính sách, hành động của Mỹ với hiện tượng “chó dại cắn càn” chính là bày tỏ sự khinh bỉ, coi thường đối với chúng.

Đối với bọn tay sai ngụy quyền, ngụy quân, đem thân làm bù nhìn, nối giáo cho giặc cướp nước, Hồ Chí Minh đã dùng thành ngữ, tục ngữ thật tài tình để phơi trần bản chất và cười vào mặt chúng một cách sâu cay đáng đời.

Về vụ đảo chính nội bộ bọn tay sai Mỹ ở miền Nam, giữa hai anh em Diệm – Nhu, Hồ Chí Minh cảnh báo bọn tay sai ở nước khác:

“Thấy Diệm và Nhu chết thê thảm như vậy, những bù nhìn khác như Tưởng Giới Thạch, Pác Chung Hy… và ngay cả bọn đảo chính Sài Gòn, không phải không trông người mà ngẫm đến ta”.

Hồ Chí Minh lấy một câu Kiều để diễn đạt thân phận bọn tay sai là đảo chính: “Bọn đảo chính – là một lũ thân lươn bao quản lấm đầu”. Câu “thân lươn bao quản lấm đầu” biểu hiện thân phận xót xa, tủi nhục của nàng Kiều sau khi mắc lừa Sở Khanh, phải cam chịu cuộc đời gái lầu xanh. Hồ Chí Minh dùng câu này như một thành ngữ để diễn đạt thân phận đê hèn, cam chịu của bọn tay sai bán nước, hại dân. Người nhận định tình hình nội bộ của bọn tay sai đó một cách khinh ghét, mỉa mai: “Tương lai của chúng ra sao? Là lũ chó tranh xương, hiện nay chúng đã lục đục và sẽ lục đục mãi. Có lẽ không có gì chính xác hơn, sâu cay hơn, thích đáng hơn là gọi bọn tay sai đế quốc là “lũ chó tranh xương”

Có khi dường như Hồ Chí Minh thể hiện sự chất chứa căm thù, khinh bỉ bọn tay sai bán nước, hại dân vào một loạt thành ngữ nối tiếp nhau: “Chó săn là đồng minh trung thành của đế quốc Mỹ. Đây là chuyện chó săn 4 chân, chứ không phải loài chó mặt người bụng thú, rước voi dày mả tổ, cõng rắn cắn gà nhà như bọn Thiệu”.

Trong các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh ta có thể thấy nhiều thành ngữ, tục ngữ khác được dùng nguyên vẹn cả về cấu trúc ngôn ngữ và ý nghĩa như: “Cháy nhà sẽ ra mặt chuột”, “nồi da nấu thịt”, “treo đầu dê bán thịt chó”, “chứng nào tật ấy”, “dấu đầu hở đuôi”, “ba bè, bảy mảng”, “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, “vơ đũa cả nắm”, “lửa thử vàng, gian nan thử thách”….

Trong nhiều trường hợp, Hồ Chí Minh sử dụng thành ngữ, tục ngữ một cách sáng tạo, không phụ thuộc vào cấu trúc ngôn ngữ vốn có. Ta đã biết thành ngữ đã được nhân dân sáng tác và truyền miệng, chau chuốt qua nhiều thế hệ. Vì thế, chúng có cấu trúc khá ổn định và nội dung rất cô đọng, hàm súc. Nhưng trong một số trường hợp, Hồ Chí Minh sử dụng thành ngữ có diễn đạt ở ý khác hoặc nhấn mạnh ý nguyên thủy của chúng bằng cách thêm các thành phần, tách rời các bộ phận, thậm chí diễn giải nội dung thành ngữ, tục ngữ ra để biểu đạt ý toàn vẹn, sâu sắc hơn, dễ hiểu hơn. Tuy vậy, trong những trường hợp đó, Người không phá vỡ tính hàm súc, sự cân đối, nhịp nhàng của thành ngữ, tục ngữ. Đó chính là một sự sáng tạo, độc đáo của Hồ Chí Minh.

Ở các tiểu phẩm của mình trong nhiều trường hợp, Hồ Chí Minh thêm một số thành phần vào thành ngữ, tục ngữ để diễn đạt ý rõ hơn hoặc nhấn mạnh ý muốn nói.

Thành ngữ có câu “bé hạt tiêu”, Hồ Chí Minh thêm “nhưng bé” vào giữa để nhấn mạnh ý “hạt tiêu”: Đảng Cộng sản Mỹ tuy không lớn lắm, nhưng có anh em đồng chí khắp thế giới ủng hộ, “bé nhưng bé hạt tiêu”.

Thành ngữ “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa” dùng diễn đạt sự thúc bách của điều kiện khách quan cùng sự mù quáng, thiếu cảnh giác, không nhìn xa trông rộng của người đời. Hồ Chí Minh dùng thành ngữ ấy như một lời khuyên răn nhân dân ta cảnh giác bằng cách thay đổi một số thành phần. “Đạp vỏ dưa, tránh vỏ dừa”. Nhân dân ta và cán bộ ta cần biết những chuyện ấy, để luôn tỉnh táo và để phòng, chống những âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng.

Đối với kẻ thù, Hồ Chí Minh dùng thành ngữ đó như một lời cảnh báo, Người viết:

“Hồi Tơ-ru-man nối nghiệp Ru-dơ-ven, chỉ vì cuộc xâm lược Triều Tiên mà danh giá của Đảng Dân chủ xuống dốc. Nay Giôn-xơn nối nghiệp Ken-nơ-đi, cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã có chiều hướng biến thành một cuộc chiến tranh Triều Tiên khác. Chẳng hay tổng Giôn có “đạp vỏ dưa, thấy vỏ dừa” mà sợ không?”…

Câu “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi” được Hồ Chí Minh thay đổi, sửa chữa lại thành một câu rất sinh động, rất thích hợp để diễn đạt lối sống Mỹ, đạo đức Mỹ:

“Lợi tao trước hết, ai chết mặc ai”. Đạo đức Mỹ là như thế đó. Câu của Hồ Chí Minh vẫn bảo đảm vần vè, nhịp điệu mà còn nhấn mạnh hơn chủ nghĩa cá nhân ích kỷ do đưa vế “lợi tao” trước hết lên đầu.

Viết về cuộc sống cơ cực, đau khổ của những người thổ dân Nam Mỹ dưới sự bóc lột của bọn tư bản Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh viết: “Tiền lương trả cho công nhân đồn điền rất ít ỏi, ăn không no, đói không chết”. Bác đã thay đổi thành ngữ “ăn không ngon, ngủ không yên” vốn diễn tả sự bất ổn định, lo lắng không yên tâm thành một thành ngữ diễn đạt cảnh sống dở, chết dở của những người dân nô lệ. “Ăn không no” là cách nói dễ hiểu nhưng “đói không chết” thực sự diễn đạt bất ngờ, lột tả đúng thực chất hoàn cảnh của những người thổ dân da đỏ thời đó.

“Mang thúng úp voi” cũng như câu “lực bất tòng tâm” là để nói sự không cân đối giữa khả năng thực tế quá nhỏ với ý đồ, kế hoạch quá lớn. Hồ Chí Minh thêm “không” vào để thành ngữ diễn đạt rõ ý hơn trong đoạn sau:

“Từ ngày bắt đầu xâm lược miền Nam nước ta, giặc Mỹ luôn luôn khoe khoang thắng lợi. Nhưng “thúng không úp voi”. Thế giới đều biết rằng 4 phần 5 đất đai và 2 phần 3 nhân dân miền Nam đã được giải phóng”.

Khi sử dụng thành ngữ, tục ngữ, có trường hợp Hồ Chí Minh tách thành ngữ, tục ngữ thành hai phần trong khi diễn đạt ý để nhấn mạnh hay làm rõ nét hơn ý muốn nói. Thành ngữ “được đằng chân, lân đằng đầu” được Hồ Chí Minh tách đôi sử dụng trong trường hợp sau:

“Dụ dỗ Pháp ký Hiệp ước Ma-ni, đế quốc Mỹ đã nắm được đằng chân thì không ngại ngùng gì mà không lân đằng đầu”. Ở đây, việc tách đôi thành ngữ và thêm vào giữa đó tập hợp từ “thì không ngại ngùng gì mà không”, có tác dụng nhấn mạnh hơn bản chất giả dối, cơ hội của đế quốc Mỹ.

Thành ngữ “nói một đường, làm một nẻo” được Hồ Chí Minh đưa vào để diễn đạt một cách khác. Người viết “phái viên Mỹ nói một đường. Chó săn Mỹ sủa một nẻo”. Thành ngữ gốc chỉ còn hai bộ phận “một đường” “một nẻo” nói lên sự không cùng hướng. Hai thành phần mới thêm vào là “phái viên Mỹ nói”, “chó săn Mỹ sủa”. Như vậy là hai bộ phận đó trở thành hai vế đối nhau và “phái viên Mỹ”, “chó săn Mỹ”, người xếp ngang với chó.

Khi châm biếm, giễu cợt lính Mỹ, Hồ Chí Minh viết: “Các ngài quân nhân Mỹ to gan như cáy, chưa tối đã rúc xuống hầm”. Ta có thể liên tưởng đến “gan cóc tía” và “nhát như cáy”. Gần như trong trường hợp trên Bác đã hoán vị hai thành ngữ đó để hình thành một cách nói đầy mỉa mai.

Cùng với vốn thành ngữ, tục ngữ thuần Việt rất phong phú, đôi khi Hồ Chí Minh còn dùng một số thành ngữ nước ngoài và thành ngữ gốc Hán. Nói chung, những thành ngữ được Người dùng đều dễ hiểu, có nội dung hàm súc.

Thành ngữ phương Tây “sói đội lột cừu” dùng để chỉ sự độc ác, hung bạo được che đậy dưới cái vỏ hiền lành, đạo đức, Hồ Chí Minh dùng thành ngữ đó để biểu đạt sự giả nhân, giả nghĩa của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn.

“Chó sói dù đội lốt cừu non

Sự thật đã vạch mặt tổng Giôn Huê- kỳ”(1)

Trong những trường hợp khác “sói đội lột cừu” được sửa đổi ít nhiều, có nhịp điệu, vần cân đối để diễn đạt phù hợp với ngữ cảnh cụ thể.

Chó sói học nói giọng cừu. Lời đường mật của tổng Ken chẳng những không lừa bịp được nhân dân nước ngoài mà cũng không lừa được đồng bào Mỹ của y”(2). Giữa hành động Ken-nơ-đy nói chuyện về hòa bình ở một trường đại học Mỹ với việc “chó sói học nói giọng cừu” là sự tương đồng đầy mỉa mai. Thực chất của những lời lẽ rêu rao về hòa bình của tổng Ken chỉ là sự che đậy tâm địa độc ác, nham hiểm như chó sói của hắn! Chất mỉa mai, châm biếm có được trong trường hợp này là nhờ việc sử dụng thành ngữ một cách sáng tạo, bất ngờ.

Tuyệt đại đa số các thành ngữ Hán – Việt được Hồ Chí Minh dùng trong tiểu phẩm đều là thành ngữ được nhân dân ta quen dùng hàng ngày. Ví dụ, Người viết: “Tình hình Mỹ ở miền Nam thật là tiến thoái lưỡng nan”(3).

Các cụm từ tương đương với thành ngữ được Hồ Chí Minh dùng trong các tiểu phẩm như “Quang minh chính đại”, “Bách chiến bách thắng”, “Quyết chiến quyết thắng”… tuy bao gồm những từ Hán - Việt, song cũng đã trở thành thông thường trong lời ăn, tiếng nói của nhân dân ta.

Trong hàng trăm lượt dùng thành ngữ ở các tiểu phẩm có thể nói chỉ có vài lần Hồ Chí Minh dùng thành ngữ có gốc Hán - Việt tương đối khó.

Lần thứ nhất, Hồ Chí Minh dùng “Ngôn bất cố hành” để nói về Tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi.

“Tổng Ken nói thì hay đấy nhưng ngôn bất cố hành(4).

Lần khác, Người viết về tình cảnh của binh lính Pháp và tay sai phản động ở Việt Nam bằng cách diễn đạt câu: “Phong hạc giai binh”.

Tuy nhiên, ngay sau đầu đề “Phong hạc giai binh”, Người giải thích: “Câu nói Trung Quốc đó có nghĩa là: Khi ta thắng to, địch hoảng sợ, nghe gió thổi, chim kêu cũng tưởng là binh ta đến đánh”(5). Trong trường hợp này thành ngữ “phong hạc giai binh” trở thành một đầu đề hấp dẫn, gợi sự tò mò của người đọc.

Qua khảo sát các tiểu phẩm có thể thấy Hồ Chí Minh sử dụng thành ngữ, tục ngữ rất phong phú, linh động và sáng tạo, mang lại cho chúng một khả năng biểu đạt ý sâu sắc, nhiều hình nhiều vẻ không gò bó trong những cấu trúc cũ. Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ góp phần làm cho các tiểu phẩm của Người ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu, dễ đi vào lòng nhân dân lao động, vạch trần bản chất xấu xa vô nhân đạo của bè lũ đế quốc Mỹ và tay sai, tạo ra tiếng cười châm biếm sâu cay mà không thô tục, mỉa mai, giễu cợt mà chứa chất căm thù, khinh bỉ. Đó là một bài học lớn cho mỗi chúng ta học tập, noi theo để góp phần làm cho tiếng Việt thêm trong sáng, sinh động và hiện đại.

2. Nghệ thuật lẩy Kiều trong tiểu phẩm Hồ Chí Minh

Cùng với thành ngữ, tục ngữ, lẩy Kiều cũng được dùng một cách khá phổ biến trong các tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh.

Lẩy Kiều, nhại Kiều vốn đã thành một truyền thống của nhân dân ta. “Truyện Kiều” của một đại thi hào Nguyễn Du là một đỉnh cao chói lọi của nền văn học Việt Nam, một “bách khoa toàn thư” về đời sống xã hội của đất nước ta trong giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ XIX. Nhân dân ta thường có những hình thức dựa vào những câu Kiều, hay bộ phận của câu hoặc cách diễn đạt ý trong Kiều để diễn đạt ý muốn nói. Thường thường, người ta lẩy Kiều để vui cười, để biểu đạt tâm tư, nguyện vọng và đôi khi là để thi thố tài năng. Hồ Chí Minh đã sử dụng phương pháp này trong tiểu phẩm để diễn đạt ý một cách sinh động, dễ hiểu, đồng thời tạo ra tiếng cười mỉa mai, giễu cợt kẻ thù. Kiều vào tiểu phẩm của Hồ Chí Minh rất tế nhị, nhuần nhuyễn. Có khi Người chỉ lấy một câu hòa trộn vào trong văn xuôi. Thậm chí có trường hợp câu ca dao Người sáng tác chỉ mang chút ít hơi hướng phong vị của câu Kiều mà thôi.

Trong một tiểu phẩm lên án âm mưu của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm vận động ép buộc đồng bào công giáo di cư vào Nam với những luận điệu như: Chúa đã vào Nam rồi, ai vào Nam mới còn linh hồn, vào Nam sẽ có cuộc sống vật chất bảo đảm… Hồ Chí Minh dùng hai câu nhái Kiều để đặt đầu đề:

“Thiên đường của Diệm là ở đâu?

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!”(6)

Nguyên văn câu Kiều thứ tư được ghép đôi với câu hỏi: “Thiên đường của Diệm là ở đâu? Có vai trò như một câu trả lời khẳng định. Câu trả lời đã được đặt vào một hoàn cảnh rất mới song vẫn còn mang hơi hướng sắc thái buồn đau, day dứt trong Kiều. Mặt khác hoàn cảnh mới cũng tạo ra một cái cười mỉa mai chua chát vừa thương, vừa tội.

Bài “Đế quốc Mỹ bi và bí”(7), được Hồ Chí Minh viết như một màn hoạt cảnh nhỏ với hai nhân vật là Giôn-xơn – đương kim Tổng thống Mỹ và Ken-nơ-đi – Tổng thống Mỹ đã bị ám sát chết trước đó. Đây là lời của Giôn-xơn:

“Very bad Ken? Hôm Ken chết, tôi hý hửng mừng được làm tổng thống… Nhưng…

Xin mời Ken hãy rốn ngồi

Để nghe Zôôn kể khúc nhôi đoạn trường

Câu nhại Kiều được dùng ở đây thật là mỉa mai, tức cười đối với tình cảm của một Tổng thống Hoa Kỳ.

Cuối bài này, Hồ Chí Minh đã dựa vào hai câu Kiều: 213 và 214 “Gió đâu sịch bức mành mành, tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao” để viết thành:

 Bỗng cơn gió sịch bức mành

Zôôn tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao

Hai câu Kiều được dùng một cách linh động với sự bổ sung và đảo các thành phần để tạo hiệu quả biểu hiện độc đáo. Ở câu trên “bỗng” được đưa lên đầu câu làm tăng thêm sự bất ngờ - như là sự giật mình thảng thốt. Câu cuối không còn 8 chữ mà thành 9 chữ do thêm Zôôn vào. Sự phá thể thơ ở đây cũng có thể tạo nên cái cười, nhờ vào sự liên tưởng bất ngờ giữa ngữ nghĩa văn bản với hoàn cảnh thực tế. Hai câu lẩy Kiều để vào chuyện – vào giấc mơ, hai câu lẩy Kiều để kết thúc giấc mơ, góp phần làm cho toàn cảnh một tiểu phẩm mang phong vị một hoạt cảnh hài hước.

Trong tiểu phẩm “Trò xiếc tuyển cử Tổng thống Mỹ”, sau khi vạch trần bộ mặt giả dối, phản động của hai ứng cử viên Tổng thống Mỹ: Giôn-oa-tơ và Giôn-xơn, Hồ Chí Minh hạ một câu: “Mạt cưa mướp đắng hai bên cũng vừa”. Đó là một lời bình sâu sắc, giản dị, đầy giễu cợt, khinh bỉ. Trong câu này vừa có hình ảnh một thành ngữ, lại vừa mang dáng dấp một câu Kiều (câu Kiều 812) là: “Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường”.

Ở tiểu phẩm “Không chắc có tiền mua tiên cũng được”, Hồ Chí Minh giễu cợt chính sách của Mỹ dùng tiền viện trợ để mua chuộc và kiềm chế các nước khác:

“Có tiền mà cậy chi tiền

Có tiền như Mỹ cũng phiền lắm thay”

Câu Kiều “Có tài mà cậy chi tài” được Bác thay tiếng “tài” bằng “tiền” để cười vào mặt nước Mỹ. Trong tiểu phẩm này, ta còn thấy sự kết hợp tài tình giữa một thành ngữ với thủ pháp lẩy Kiều để tạo nên một kết cấu hoàn chỉnh với lập luận chặt chẽ, thuyết phục người đọc.

3. Dùng thơ như một phương tiện châm biếm

Những câu thơ từ, ca dao cũng có vị trí rất quan trọng trong các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh. Nếu như cách nói có vần, có nhạc điệu hài hòa vẫn được nhân dân ta ưa thích thì việc dùng những câu ca dao, văn vần trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh làm cho sự diễn đạt trong tác phẩm cô đọng, hàm xúc hơn, vừa tăng khả năng thuyết phục đối với đông đảo người đọc. Thơ từ, ca dao được dùng rất sinh động, giản dị trong tiểu phẩm của Người. Thường thường, Hồ Chí Minh dùng hai, ba hoặc bốn câu thơ thể lục bát là một thể thơ đặc trưng của dân tộc ta dễ nhớ, dễ thuộc. Song không phải lúc nào câu thơ lục bát cũng phải chỉnh thể, hài thanh. Trong một số trường hợp, câu thơ Người dùng được đổi mới về nhịp điệu, số tiếng nhằm mục đích diễn đạt ý tốt nào đó tốt hơn.

Hồ Chí Minh viết:

“Trái đạo đức, khinh cha mẹ

Máu tham hễ thấy đô la thì mê”

“Đô la” thay thế cho “hơi đồng” trong câu Kiều “máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê”, làm cho nhịp điệu những câu thơ bị khác đi, gây sự chú ý cho người đọc, tạo ra sự hài hước, dí dỏm.

Trong trường hợp khác, Hồ Chí Minh tạo ra câu thơ lục bát phá thể nhằm nhấn mạnh ý muốn nói:

“Lại thêm chứng cớ rõ ràng,

Đồng bào miền Nam càng đánh càng mạnh và càng thắng to”

Câu 8 trong thơ lục bát được phá thể thành câu có 12 tiếng với ba tiếng “càng”, rõ ràng có tác dụng nhấn mạnh, thế phát triển không ngừng của cách mạng.

Ngoài thể lục bát, ở các tiểu phẩm, cũng xen vào các khổ thơ năm chữ như:

“Giết người không bị tội

Hãm hiếp cả con trai

Tham ô và hối lộ

Kiểu Mỹ đẹp vậy thay!”

Hay khổ thơ 7 chữ:

“Uy danh lừng lẫy khắp năm châu,

Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu,

Thành đồng trống thắng, lay Lầu trắng,

Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu!”

Ở đoạn thơ trên, ba câu đầu giản dị như lời nói thường ngày, câu cuối chứa đựng cái cười khinh bỉ, cái cười nhếch mép, nửa miệng. Đoạn thơ sau cũng vậy, câu cuối cùng cũng là một lời cảnh cáo mỉa mai.

Nói chung, tuyệt đại đa số các câu thơ, ca dao đều được Hồ Chí Minh dùng ở cuối tiểu phẩm. Nó có tác dụng như một lời kết luận rút ra từ những nội dung đã trình bày trong tác phẩm. Trong tiểu phẩm “Tổng Giôn và vụ giết chết nghị sĩ R.Ken-nơ-đi”, Người kết luận:

“Mỹ là một nước văn minh

Giết người như chuột tội tình gì đâu”

Hai câu lục bát này đã nhấn sâu thêm nội dung chính trình bày trong tiểu phẩm. Đồng thời, mâu thuẫn giữa những lời truyên truyền về xã hội văn minh và thực tế xã hội Mỹ “giết người như chuột” đã vạch trần sự giả dối của những kẻ cầm đầu nước Mỹ. Tiếng cười mỉa mai cũng có cốt lõi từ sự mâu thuẫn đó.

Ở tiểu phẩm “Mỹ lại thất bại”, Hồ Chí Minh viết:

“Giặc Mỹ quỷ quái tinh ma,

Chiến tranh thủ phạm tên là Giôn-xơn”

Đó là một lời kết luận vạch mặt thủ phạm chiến tranh: Giôn-xơn – một tên quỷ quái tinh ma trong số những tên giặc Mỹ quỷ quái tinh ma. Lời kết luận giản dị, dễ hiểu, được diễn tả bằng thơ lục bát lại càng dễ nhớ.

Trong tiểu phẩm “Giả nhân giả nghĩa” đăng báo Nhân dân ngày 29-9-1962 Hồ Chí Minh kết luận bằng một câu lục bát phá thể với giọng điệu chua cay, róc ráy đối với hành vi của kẻ thù:

“Vậy có thơ rằng:

Đô la Mỹ không mua được lương tâm

Phen này Mỹ lại phơi trần mặt mo”

Đối với tiểu phẩm “Ai dã man? Ai văn minh?”. Mấy câu ca dao cuối tác phẩm là một kết luận có tính khái quát trả lời câu hỏi đặt ra từ đầu đề:

“Lăm le cướp nước người ta

Bọn đế quốc Mỹ thật là dã man

Quyết lòng gìn giữ giang sơn

Đồng bào Nam Việt muôn vàn văn minh”

Một vài trường hợp khác Hồ Chí Minh dùng hình thức thơ xen vào giữa tiểu phẩm. Tuy vậy, những câu thơ cũng là một kết luận rút ra sau khi đã trình bày trọn vẹn một vấn đề nào đó. Trong tiểu phẩm “Lại chuyện chó Mỹ”, sau khi vạch rõ những thủ đoạn tăng cường chiến tranh núp dưới chiêu bài hòa bình của tập đoàn hiếu chiến Mỹ đứng đầu là Giôn-xơn, Người viết:

“Chó sói đội lốt cừu non

Sự thật đã vạch mặt tổng Giôn Huê kỳ”

Hai câu lục bát phá thể đã lột tả thật cô đọng bản chất phản động, giả nhân, giả nghĩa của đế quốc Mỹ. Sau phần vạch mặt nạ giả dối của kẻ thù, Hồ Chí Minh đưa ra một loạt số liệu, lời thú nhận của đối phương đã làm rõ những thắng lợi to lớn về quân sự của nhân dân ta ở cả hai miền, kiên quyết đánh bại những âm mưu xảo quyệt và và độc ác của kẻ thù.

Có thể nói, các hình thức lẩy Kiều, những câu thơ từ, ca dao dùng trong tiểu phẩm Hồ Chí Minh rất phong phú, sáng tạo. Chúng có vai trò quan trọng trong việc diễn đạt một cách hàm súc, ý nhị, góp phần tạo nên tiếng cười sâu cay, hóm hỉnh trong tiểu phẩm báo chí của Người. Nhưng ở một khía cạnh sâu sắc hơn, trong sâu thẳm tâm hồn của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại, đó chính là lòng yêu nước, là tình yêu thiết tha, cháy bỏng dành cho Tổ quốc, cho nhân dân. Chính những tình cảm ấy đã khiến Người gắn bó, trân trọng những giá trị văn hóa, những truyền thống, bản sắc của dân tộc, cho đến từng lời ăn, tiếng nói của nhân dân. Để rồi khi đã thấm sâu, hòa quyện vào một lối sống, cách nghĩ, trở thành phong cách, phương pháp sáng tạo, những giá trị đó lại được phản ánh một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn trong các tác phẩm, tiểu phẩm báo chí nói riêng, cũng như trong di sản văn học, báo chí nói chung của Hồ Chí Minh. Đến lượt nó những hình thức trên cũng lại trở thành một yếu tố góp phần làm cho tác phẩm của Hồ Chí Minh mang đậm bản sắc dân tộc, giàu tính nhân dân, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người.

Ghi chú:

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12 (1966-1969), Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, trang 27.

(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11 (1963-1965), Nxb CTQG, Hà Nội, 31996, trang 104.

(3) T.L: Tình hình tháng 01-1963 ở miền Nam anh dũng, Báo nhân dân ngày 01-02-1963.

(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11 (1963-1965), Nxb CTQG, Hà Nội, 31996, trang 103.

(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6 (1950-1952), Nxb CTQG, Hà Nội, 31996, trang 104.

(6) C.B: Báo Nhân dân, ngày 30-11-1954.

(7) Chiến sỹ: Đế quốc Mỹ bị bí, báo Nhân dân, ngày 07-3-1964.

Đức Hiếu (Tổng hợp)


 

Phần IV: Đầu đề và các thủ pháp liên kết văn bản trong tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh

1. Đầu đề tiểu phẩm Hồ Chí Minh: Lượng thông tin tối đa – lượng từ tối thiểu

Đối với tất cả các văn bản có đầu đề thì đầu đề là thông tin trước hết, là yếu tố đầu tiên trong mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp. Vì thế, đầu đề có vị trí rất quan trọng trong việc gây ấn tượng, tạo sự quan tâm của đối tượng giao tiếp. Trong báo chí, yêu cầu đầu tiên của đầu đề là lượng thông tin cao. Đầu đề phải thể hiện được thông tin cơ bản nhất, quan trọng nhất của toàn bộ tác phẩm báo chí. Nhất là trong loại tác phẩm thông tấn báo chí, có khi người đọc chỉ đọc lướt qua các đầu đề trên một tờ báo cũng có thể nắm được một cách khái quát những vấn đề, sự kiện thời sự mà tờ báo đó phản ánh.

Trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh, đầu đề luôn có lượng thông tin tối đa, có giá trị biểu cảm cao, thu hút sự quan tâm, chú ý của người đọc. Về mặt nội dung, phần lớn các đầu đề, tiểu phẩm của Hồ Chí Minh có tính khái quát ở những mức độ khác nhau. Trong số này, có loại đầu đề nêu vấn đề chung khái quát, có sắc thái biểu cảm trung tính về mặt hình thức như: “Đời sống ở Mỹ”, “Công lý của Mỹ”, “Xã hội và văn hóa Mỹ”, “Văn minh Mỹ”, “Đạo đức chính trị Mỹ”, “Đạo đức Mỹ”, “Sách trắng Mỹ”, “Tinh thần binh sỹ Mỹ”… Sắc thái biểu cảm của loại đầu đề này hình thành trong mối quan hệ với nội dung tác phẩm. Đọc xong tiểu phẩm, người đọc mới nhận thấy hết sự mỉa mai của vấn đề đặt ra ở đầu đề.

Một loạt đầu đề khác trong đó nội dung có tính khái quát nhưng vẫn mang sắc thái biểu cảm, chứa đựng sự mỉa mai như: “Văn minh kiểu Mỹ”, “Bình đẳng, bác ái kiểu Mỹ”, “Mỹ mà không đẹp”, “Mỹ mà sợ hòa bình”, “Mỹ tính toán”, “Đế quốc Mỹ bi và bí”, “Tình hình bi đát của binh sỹ Hoa Kỳ”… Loại đầu đề này mang sắc thái mỉa mai, giễu cợt do sử dụng các loại từ có nghĩa tốt đặt trong ngoặc kép hoặc sử dụng những từ mà bản thân nó đã bộc lộ thái độ chê bai, châm biếm.

Trong một số tiểu phẩm Hồ Chí Minh dùng loại đầu đề trong đó có sự đối lập giữa cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở, giữa ta và kẻ thù: “Mỹ - Diệm sẽ thua, nhân dân ta sẽ thắng”, “Kẻ cướp nói chuyện hòa bình”, “Chó Mỹ da trắng cắn Mỹ da đen”, “Đen, trắng”…

Sự đối lập ngữ nghĩa trong các đầu đề này phản ánh sinh động những mâu thuẫn đang tồn tại đồng thời làm cho đầu đề hài hòa, cân đối, tạo ấn tượng quan tâm từ đầu cho người đọc.

Một số đầu đề tiểu phẩm của Hồ Chí Minh không chỉ nêu ra vấn đề mà trực tiếp, giải quyết, kết luận vấn đề. Loại đầu đề này ngay từ đầu đã định hướng cho người đọc về tính chất của sự kiện, vấn đề viết trong tiểu phẩm. Ví dụ: “Mỹ mà: Phong không thuần, tục không Mỹ”, “Mỹ sợ hòa bình”, “Sư và xứ Mỹ đều xpay”, “Mỹ - Diệm là lũ qủy khát máu điên cuồng”, “Mỹ lại thất bại”…

Trong một số đầu đề Hồ Chí Minh sử dụng những số liệu cụ thể rút ra từ sự kiện mà tiểu phẩm đề cập đến. Những con số, tư liệu trong các đầu đề này cũng bao hàm một mâu thuẫn, một yêu cầu cần giải đáp, làm cho đầu đề thu hút sự chú ý của người đọc. Đó là các đầu đề kiểu: “Giết 9 người lấy 65 đồng bạc”, “24 đô la, 19 mạng người”, “9 triệu người điên”, “Một em bé Mỹ bị người Mỹ giết”, “Tổng Giôn và vụ giết chết nghị sỹ R.Ken-nơ-đi”….

Một kiểu đầu đề khác trong tiểu phẩm của Hồ Chí Minh là dạng câu hỏi như: “Ai âm mưu gây chiến”, “Ai dã man? Ai văn minh?”, “Ai mạnh hơn”… Kiểu đầu đề là câu hỏi này làm cho người đọc quan tâm đến tác phẩm, tìm câu trả lời trong nội dung tác phẩm.

Hồ Chí Minh thường rất quan tâm đến việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật làm cho đầu đề tác phẩm báo chí có giá trị biểu cảm cao, gây ấn tượng mạnh thu hút sự chú ý của người đọc. Các thủ pháp nghệ thuật ngôn ngữ trong đầu đề tiểu phẩm của Người rất phong phú, đa dạng nhưng cũng rất giản dị, gần gũi với lời nói hàng ngày của nhân dân. Phần lớn đầu đề tiểu phẩm của Người đã tạo nên cái cười hoặc chuẩn bị đầu đề cho cái cười trong nội dung tiểu phẩm. Đọc đến các đầu đề đó, người đọc đã mỉm cười thú vị.

Ở cấp độ từ, Hồ Chí Minh cũng sử dụng chọn lọc vốn từ thông tục, dùng từ với nghĩa trái đặt trong ngoặc kép, chơi chữ qua phiên âm tiếng nước ngoài và hiện tượng đồng âm tiếng Việt, để tạo nên những đầu đề hay, có lượng thông tin cao, sức biểu cảm lớn. Đó là những đầu đề như: “Mỹ là xấu”, “Một gia đình gương mẫu của Mỹ”, “Tên là đội hòa bình, thực là đội họa binh”, “Đại bại tướng Vét-mỡ-lợn đã cút về nước mẹ Hoa Kỳ”… Trong một số đầu đề Hồ Chí Minh cũng sử dụng thành ngữ, tục ngữ để nâng cao sức biểu đạt nghĩa như: “Mồ cha không khóc, khóc mồ mối”, “Chưa chắc có tiền mua tiên cũng được”…

Đặc biệt một số đầu đề tiểu phẩm của Hồ Chí Minh được diễn đạt bằng hình ảnh độc đáo, có giá trị biểu cảm lớn như: “Đa - lét phun nọc độc ở miền Nam Việt Nam”, “Đại bợm Giôn miệng nói hòa bình tay vung binh hỏa”, “Mỹ xuống dốc”, “Đế quốc Mỹ tiến đến gần miệng hố”, “Tổng Ken rúc vào hầm tối”, “Đế quốc Mỹ rúc xuống hầm”… Những hình ảnh trong đầu đề tiểu phẩm của Hồ Chí Minh cụ thể hóa vấn đề, vừa dễ hiểu, vừa có sức hấp dẫn lớn mà không cầu kỳ kiểu cách.

Một đặc điểm chung rất rõ nét trong các đầu đề tiểu phẩm của Hồ Chí Minh là ngắn gọn và lượng thông tin cao nhất, số lượng từ ít nhất. Nói chung, phần lớn các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh đều có đầu đề ngắn gọn trong khoảng 2 đến 8 âm tiết.

Để có những đầu đề cô đọng lượng thông tin cao, chủ yếu là Hồ Chí Minh lựa chọn từ và kết cấu ngữ pháp thích hợp, phản ánh đúng bản chất của vấn đề và sự kiện. Mỗi từ đều có vị trí, ý nghĩa nhất định, gắn bó trong kết cấu của cả đầu đề, không thừa, không thiếu. Kết cấu cú pháp trong các đầu đề cũng rất phong phú, linh động, không câu nệ, không nghiêng về một loại kết cấu riêng nào. Vấn đề dùng từ và kết cấu cú pháp trong các đầu đề tiểu phẩm của Hồ Chí Minh gắn bó chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Thí dụ, trong các đầu đề tiểu phẩm của Hồ Chí Minh có hai kiểu kết cấu cú pháp khá phổ biến. Kiểu thứ nhất “Văn minh kiểu Mỹ”, “Đạo đức của Mỹ”, “Hòa bình kiểu Mỹ”, “Sách trắng của Mỹ”... Đây là một kiểu kết cấu một trung tâm tạo nên đơn vị định danh. Tuy loại kết cấu này có mang sắc thái trìu tượng nhưng nó lại nhấn mạnh, đưa lên hàng đầu cái mà người đọc cần chú ý.

Kiểu thứ hai, Hồ Chí Minh lược bỏ “kiểu” hoặc “của” đi để hình thành các đầu đề: “Văn minh Mỹ đạo đức Mỹ”, “Đạo đức chính trị Mỹ”, “Lại chuyện chó Mỹ”...

Trong kiểu kết cấu này danh từ Mỹ trở thành tính từ, biểu thị một thứ tính chất không tốt nào đó, làm cho đầu đề có sắc thái mỉa mai.

Trong các đầu đề đủ thành phần của một câu hoàn chỉnh, chỉ có rất ít đầu đề trong đó Hồ Chí Minh dùng loại câu bị động. Đó là: “Một em bé Mỹ bị người Mỹ giết”, “Mỹ bị thêm mấy vố”, “Đế quốc Mỹ bị bắt quả tang”... Còn lại, tất cả các trường hợp khác, Hồ Chí Minh đều dùng lại câu chủ động hoặc câu phán đoán, ví dụ: “Chó Mỹ da trắng cắn Mỹ da đen”, “Mỹ tính toán”, “Đa-let phun nọc độc ở miền Nam Việt Nam”, “Tổng Ken rúc vào hầm tối hoặc Mỹ là xấu”, “Sư và sứ Mỹ đều xplay”, “Hoà bình kiểu Mỹ tức là binh hoạ”... Đây là những loại câu quen dùng và dễ hiểu đối với công chúng rộng rãi.

Một đặc điểm khác trong đầu đề tiểu phẩm của Hồ Chí Minh là tính hài hòa, cân đối, có nhịp điệu. Tính chất này làm cho đầu đề tiểu phẩm của Người không chỉ dễ hiểu, mà còn dễ nhớ, tạo ra sự ưa thích chú ý của người đọc. Nó phù hợp với tâm lý chung của nhân dân là ưa dùng cách diễn đạt có vần điệu. Qua khảo sát, có gần 30 % đầu đề tiểu phẩm của Hồ Chí Minh chỉ bao gồm bốn âm tiết. Theo một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì người ta thường đọc, tiếp nhận thông tin của từng nhóm bốn âm tiết liên tục. Như vậy, các đầu đề có nhóm âm tiết tối ưu cho việc tiếp nhận thông tin chiếm tỷ lệ khá cao trong đầu đề tiểu phẩm của Hồ Chí Minh.

Trong các đầu đề có số lượng âm tiết lớn hơn, Hồ Chí Minh thường chọn cách diễn đạt có vần điệu. Đó là các đầu đề: “Mấy lời thành thật ngỏ cùng tổng Ai”, “Mồ cha không khóc, khóc tổ mối”, “Mỹ mà: Phong không thuần tục không Mỹ”… Có những đầu đề 6 âm tiết đọc lên như 6 câu 6 trong thơ lục bát như ai: “Ai dã man? Ai văn minh?”, “Kẻ cướp nói chuyện hòa bình”, “Tay lo rồi chân cũng lo”…

Một số đầu đề vừa có nhịp điệu vừa cân đối hài hòa như đôi câu đối. Về mặt nội dung, các đầu đề này cũng phản ánh một mâu thuẫn, một sự so sánh, đối lập. Thí dụ: “Tên là đội hòa bình, thực là đội binh họa”, “Mỹ hoạt động hòa bình ra để mở rộng chiến tranh thật”, “Mỹ - Diệm sẽ thua, nhân dân sẽ thắng” “Ta thắng lớn, Mỹ thua to”, “Ta nhất định thắng, địch nhất định chua”, “Quân Mỹ chết nhăn răng, tướng Mỹ nhăn răng cười”…

Đầu đề tiểu phẩm của Hồ Chí Minh không chỉ gắn bó với tác phẩm về mặt nội dung. Có những tiểu phẩm trong đó đầu đề không đứng riêng mà gắn bó chặt chẽ với phần đầu của tiểu phẩm, như một bộ phận không tách rời về kết cấu ngôn ngữ và ngữ nghĩa. Đây là một thủ pháp độc đáo của Hồ Chí Minh và hầu như không có trong tác phẩm của các tác giả khác.

Ví dụ Hồ Chí Minh viết:

“LUYCH”

Đọc là “Lin-sơ”, là một cách hung ác nhất khi người Mỹ da trắng giết người da đen.

Hay Người viết:

“SÁCH TRẮNG” CỦA MỸ

Là một văn kiện đen tối nhất, xấu xa và dơ bẩn nhất trong lịch sử.

Trong hai trường hợp trên, đầu đề thực chất không tách rời kết cấu của Pháp và chính là chủ ngữ của câu mở đầu tác phẩm.

Ở trường hợp khác, đầu đề là một câu, một thông báo trọn vẹn, nhưng lại gắn liền với phần mở đầu tác phẩm trong một ngữ cảnh thống nhất.

Ví dụ:

“TỔNG THỐNG KEN RÚC VÀO HẦM TỐI

Thật đấy! Không phải nói ngoa đâu!”

Hay:

“MỸ ĐANG THẤT BẠI”

Đó là câu nói thẳng thắn của một khán giả đăng trên tờ báo người Mỹ xuất bản ở Hương Cảng (7.8.64)

Hồ Chí Minh viết trong tiểu phẩm khác:

“MỸ NHẤT ĐỊNH THUA”

Nhiều người Mỹ nói như vậy. Có người thì nói trắng ra. Có người thì nói một cách kín đáo. Nhưng đều kết luận rằng Mỹ sẽ thua.

Với sự gắn bó trong một ngữ cảnh giữa đầu đề và tác phẩm coi như liền mạch làm cho người đọc tiếp thu nhanh, dễ hiểu. Mặt khác nó làm cho người đọc sớm tập trung chú ý vào tác phẩm tiếp nhận thông tin một cách thoải mái. Và do đó hiệu quả thông tin của tác phẩm cũng tăng lên.

2. Các thủ pháp liên kết văn bản: Chặt chẽ và hiệu quả

Về mặt kết cấu, logic phát triển trong các tiểu phẩm báo chí của Hồ Chí Minh rất chặt chẽ, thống nhất. Để có sự thống nhất chặt chẽ đó, Hồ Chí Minh sử dụng nhiều phương tiện thủ pháp gắn bó với nội dung vấn đề trong mỗi tác phẩm.

Các liên từ được sử dụng phổ biến nhất để liên kết các bộ phận, ngữ đoạn trong các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh. Đó là các từ: “Nhưng, còn, tuy, song, đủ, để, cũng”... Những liên từ này cũng biểu đạt ở nhiều trạng thái khác nhau mối liên hệ về mặt ngữ nghĩa giữa các ngữ đoạn.

Ví dụ, Người viết:

“Ai cũng biết rằng: Sau cuộc nội chiến bốn năm (1861-1865) Hiến pháp Mỹ đã tuyên bố giải phóng nô lệ, dân Mỹ da trắng và da đen đều bình đẳng với nhau.

Nhưng hiện nay ở Hoa Kỳ, đặc biệt là ở những bang như là A-la-ba-ma, nạn phân biệt chủng tộc rất dữ dội…”

Ở đây, “nhưng” liên kết hai ngữ đoạn với nhau, biểu thị sự đối lập về ngữ nghĩa. Hầu hết trong các trường hợp, “nhưng” được sử dụng để biểu đạt mối liên hệ này. Xong cũng có trường hợp, “nhưng” được dùng trong liên kết với nghĩa là sự gia tăng về ngữ nghĩa.

Ví dụ, trong tiểu phẩm “Đế quốc Mỹ bi và bí”, sau khi phân tích sự thất bại, lúng túng của Mỹ ở trong nước và khắp các khu vực trên thế giới, Hồ Chí Minh viết:

“Nhưng rắc rối nhất vẫn là cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, cuộc chiến tranh mà Ra-xcơ đã gọi là chiến tranh bẩn thỉu, xấu xa và thất vọng”.

Từ “còn” thường được Hồ Chí Minh dùng các liên kết biểu đạt sự bổ sung về ngữ nghĩa. Ví dụ, ở tiểu phẩm “Mỹ mà: Phong không thuần, tục không Mỹ”. Sau khi trình bày về tình hình trật tự xã hội ở thành phố Phê-rít, Người viết:

“Phê-rít là một thành phố nhỏ, còn những thành phố to thì thế nào? Nữu Ước là một thành phố to nhất nước Mỹ”.

Tiếp theo, Người mô tả tình hình tội phạm, trộm cắp, tống tiền ở Nữu Ước. “Còn” trở thành trung gian liên kết tình hình mất ổn định về trật tự xã hội ở hai thành phố tiêu biểu về tầm cỡ nhỏ và lớn của nước Mỹ. Ngữ nghĩa của hai đoạn này bổ sung cho nhau tạo lên cái chung tiêu biểu của cả nước Mỹ.

Từ “song” được dùng trong những liên kết so sánh hoặc gia tăng về ngữ nghĩa. Ví dụ, trong tiểu phẩm “Đạo đức Mỹ” Hồ Chí Minh đưa ra một loạt tài liệu về tội phạm hình sự ở nước Mỹ như: Một nửa phút có một vụ trộm, 34 phút có một vụ hiếp dâm, 50 phút có một vụ giết người… Sau đó Người viết: Song những tội phạm ấy chỉ là “hạng tôm tép”. Và tiếp theo, Hồ Chí Minh viết về những tội ác lớn hơn của bọn tư bản phản động Hoa Kỳ trong việc bóc lột nhân dân lao động, dung túng cho bọn trộm cắp, cờ bạc, mua chuộc, sử dụng bọn cảnh sát, quan tòa làm tay sai…

Hồ Chí Minh dùng các từ: Vì, do, do đó, vì vậy, vì lẽ đó… để liên kết những có quan hệ nhân quả về mặt ngữ nghĩa. Thí dụ, trong tiểu phẩm “Tay lo rồi chân cũng lo”. Người viết:

“… Chúng đã hao phí 4.000 triệu đô la của nhân dân Mỹ. Trong số gần 3 vạn cố vấn Mỹ sang miền Nam, hơn 2000 tên đã chết và bị thương. Đế quốc Mỹ đã sa lầy. Nhân dân khắp thế giới kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ đều lên án chúng. Nói tóm lại là chúng đã thất bại.

Vì thất bại mà Mỹ phải cầu cứu với xâm lược Đông Nam Á và khối Bắc Đại Tây Dương…

Vì thất bại mà Mỹ đã giết anh em Diệm…”

Trong một trường hợp khác, Người dùng từ “để”!

“Các công ty to thầu các thứ trang bị, được lãi rất nhiều. Trong 5 năm qua (không kể số tiền khổng lồ họ thu được do việc bán vũ khí cho các nước), họ đã lãi hơn 30.500 triệu đô la. Viên Bộ trưởng Quốc phòng hiện nay cũng là chủ một công ty to do thầu hàng quân sự.

Để xoay các khoản thu, gần 2000 đại biểu các công ty vào làm việc trong các cơ quan Chính phủ…”

Các trường hợp dùng các từ: “Để”, “do”, “vì” độc lập thì sau các từ ấy, nguyên nhân được nhắc lại như: “Thất bại”, “xay các khoản thầu”.

Khi dùng “do đó”, “vì vậy”, “vì lẽ đó”, “thì đó”, “vậy”, “lẽ đó” thay thế cho nguyên nhân được viết trong ngữ đoạn trước.

Ví dụ:

“Từ đầu năm nay, giặc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh ở miền Nam, leo thang ném bom, bắn phá miền Bắc. Đồng thời ở Mỹ, chúng bắt thêm nhiều thanh niên đi làm bia đỡ đạn, bắt nhân dân nộp thêm sưu thuế để chi phí vào chiến tranh.

Do đó, nhân dân Mỹ thấy rõ ràng cuộc chiến tranh xâm lược không những làm hại cho Việt Nam mà cũng có hại cho bản thân họ. Họ thấy rằng nhân dân Việt Nam và họ cùng có một kẻ thù chung là đế quốc Mỹ và muốn giữ gìn quyền lợi chính đáng của họ thì cần phải ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.

Vì lẽ đó, về tinh thần, mặt trận thống nhất phản đế đã hình thành giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Mỹ. Và từ đó, ở Mỹ, phong trào chống xâm lược ngày càng lên cao”.

Ở đây ngữ đoạn thứ nhất là nguyên nhân của ngữ đoạn thứ hai và ngữ đoạn thứ hai là nguyên nhân của ngữ đoạn thứ ba.

Qua các nhóm từ “do đó” và “vì lẽ đó”, ba ngữ đoạn liên kết với nhau rất chặt chẽ, diễn đạt vấn đề rất dễ hiểu. Một số trường hợp, Hồ Chí Minh dùng các từ và nhóm từ: “Thậm chí”, “hơn nữa”, “tệ hại nhất”, “kỳ quái hơn nữa”…

Để liên kết các ngữ đoạn có sự gia tăng về ngữ nghĩa. Chính bản thân các từ và cụm từ đó cũng đã biểu thị sự phát triển cao hơn về ngữ nghĩa.

Ví dụ, trong tiểu phẩm “Đế quốc Mỹ tiến gần miệng hố”, Hồ Chí Minh viết:

“Ở miền Nam Việt Nam, đi đôi với mục đích biến miền Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự Mỹ, chính sách Mỹ - Diệm đã làm cho nông dân miền Nam bần cùng, làm cho công thương nghiệp và thủ công nghiệp miền Nam phá sản để Mỹ có thể bán lương thực thừa và hàng hóa thừa của chúng.

Thậm chí, báo chí của phe Diệm cũng viết:

“Động cơ bác ái của viện trợ Mỹ chỉ là nhỏ bé, xen lẫn với nhiều động cơ khác: Chính trị, kinh tế, binh sĩ… “viện trợ Mỹ” nhằm những mục tiêu vị kỷ…” (Báo Tự do, 03-11-1959).

Độc ác hơn nữa là với giáo dục kiểu Mỹ chúng đang hủy hoại cả thế hệ con cháu miền Nam. Báo Tự do cũng phải nhận rằng: Trong non năm đã có ngót 4.000 thiếu nhi phạm tội giết người, đốt nhà, cướp bóc, hãm hiếp!.

Trong trường hợp này, thậm chí vạch rõ hơn tính chất xảo trá, lá mặt lá trái của chính sách Mỹ ở miền Nam Việt Nam và độc ác hơn nữa chỉ ra rõ hơn tính chất phản động, vô nhân đạo của Mỹ - Diệm là hủy hoại đầu độc thanh niên, thiếu niên trong các vùng bị chúng chiếm đóng.

Hồ chí Minh lúc đó dùng các từ và các nhóm từ: “Đồng thời”, “trong lúc đó”, “trong lúc”, “cùng trong lúc đó”…

Để liên kết các ngữ đoạn diễn đạt những vấn đề, sự việc tài liệu xảy ra trong cùng thời gian hoặc cùng địa điểm.

Ví dụ, trong tiểu phẩm: “Văn Minh Mỹ”, sau khi tố cáo chính quyền Mỹ cấm đoán những sách báo tiến bộ đương thời và cả tiểu thuyết của các tác giả Sếch-xpia, Mô-pát-xăng, Hồ Chí Minh viết:

“Trong lúc đó những thứ tiểu thuyết đầy những chuyện dâm ô, trộm cướp, giết người thì được in và bán hàng chục triệu quyển”.

Trong trường hợp này, ngoài việc biểu thị hai sự việc diễn ra cùng thời gian ở nước Mỹ, còn mang bao hàm ý so sánh hai sự việc đó để thấy rõ tính chất vô đạo đức, phi văn minh của cái gọi là “văn minh Mỹ”.

Ở tiểu phẩm “Thủ đoạn tội ác của đế quốc Mỹ”, Hồ Chí Minh tố cáo một loạt hành động, thủ đoạn của đế quốc Mỹ chuẩn bị leo thang chiến tranh, bắn phá miền Bắc, trong đó có cả việc bịa đặt ra sự kiện vịnh Bắc bộ. Tiếp theo Người viết:

Cùng trong lúc đó, tổng Giôn làm trò hề đã sắp xếp sẵn. Y vội vã họp quan văn, tướng võ và các lãnh tụ Quốc hội Mỹ vội vã tuyên bố tình trạng khẩn cấp trước nhân dân Hoa Kỳ, vội vã cho đại biểu Mỹ ở Liên hợp quốc, vu cho ta là kẻ “xâm lược”, vội vã phái Lốt cựu “đại sứ” ở Sài Gòn đi thuyết phục các nước đồng minh Mỹ”.

Sự việc trong ngữ đoạn sau liên kết với những sự việc trong ngữ đoạn trước thông qua nhóm từ cùng trong lúc đó, biểu thị so sánh của ngữ nghĩa của hai ngữ đoạn, chỉ ra bản chất xảo trá, giả dối của đế quốc Mỹ một cách khách quan, dễ hiểu.

Một thủ pháp được Hồ Chí Minh sử dụng phổ biến là liệt kê tài liệu để chứng minh cho một luận điểm, một ý kiến nào đó. Có trường hợp Người dùng cả biểu số thống kê. Thường khi nói về địch, Người dùng ngay những số liệu, lời nói của địch hoặc đồng minh của chúng, làm cho toàn tác phẩm mang tính khách quan cao, có sức thuyết phục lớn. Trong những trường hợp này, sự liên kết văn bản trong tác phẩm được hình thành do sự phát triển logic của ngữ nghĩa, ít khi cần đến sự hỗ trợ của các hình thức liên kết.

Ví dụ mở đầu tiểu phẩm “Mỹ mà không đẹp”, Hồ Chí Minh viết:

Chữ “Mỹ” nghĩa là tốt đẹp. Nhưng xã hội Mỹ thì không tốt đẹp chút nào. Chính các tổng thống Mỹ đã phải thú nhận điều đó.

Sau đó, người dẫn lời nói của các tổng thống Mỹ: Ken-nơ-đi, Giôn-xơn về tình hình nghèo khổ của nhân dân lao động Mỹ, tiếp theo là vài điều trích từ báo Hoa Kỳ để nói rõ thêm lời than phiền của các tổng thống Mỹ. Những điều trích dẫn đó viết về tình trạng nghèo khổ, thất nghiệp của công nhân, nông dân, học sinh, thanh niên, tình hình bệnh hoạn xã hội và những sự ngược đời nói về cuộc sống xa sỉ của bọn nhà giàu Mỹ. Cuối cùng tiểu phẩm đi đến kết luận: Bộ mặt thật của Mỹ là như vậy đó. Như vậy là những tài liệu khách quan, đã được liên kết chặt chẽ trong một logic chung, làm sáng tỏ cái mà đầu đề tác phẩm đã đặt ra: “Mỹ mà không đẹp”. Chỉ cần bằng các tài liệu, không cần đến sự bình luận mà Hồ Chí Minh đã vạch rõ bản chất, bộ mặt thật xấu xa của xã hội Mỹ. Trong tiểu phẩm Mỹ đi xuống dốc, sự liên kết được thực hiện bằng thủ pháp liệt kê tài liệu. Đầu tiên, Hồ Chí Minh nhận định bằng một sự so sánh: Trước kia một tay cầm bom nguyên tử để đe dọa, một tay cầm đồng đô la để mua chuộc, Mỹ nói gì là Chính phủ các nước ngoài phe xã hội chủ nghĩa đều phăng phắc vâng lời.

Nay thì trái lại: Từ Đông đến Tây, từ nhỏ đến lớn ở nhiều nước đã nổi lên phong trào chống Mỹ và cãi lại Mỹ.

Sau đó, Hồ Chí Minh chứng minh nhận định trên bằng tình hình chống lại Mỹ ở Phi-líp-pin, ở Cao Miên, ở Xây-lan, ở Ấn Độ, ở Ai Cập, ở Ai-xơ-len, ở Pháp, ở các nước khác. Cuối cùng Người viết:

Kết luận: Do những sự thật đó, nhiều chính khách, báo chí và hãng thông tấn Mỹ đã lo ngại. Như hãng UPI (30-3-1956) đã phải nhận rằng: “So với 10 năm trước thì ngày nay địa vị của Mỹ đang đi xuống dốc…”

Như vậy, đến cả lời kết luận, Bác cũng sử dụng tài liệu của kẻ địch. Ngữ nghĩa trong mỗi ngữ đoạn liên kết chặt chẽ với nhau trong chức năng làm sáng tỏ nhận định: “Mỹ đi xuống dốc”, làm cho toàn bộ tác phẩm ngắn gọn, chặt chẽ, dễ hiểu, khách quan, cụ thể, có sức thuyết phục. Trong một số tiểu phẩm khác, cũng là liệt kê tài liệu, nhưng Hồ Chí Minh liệt kê theo thời gian, thể hiện tính liên tục của vấn đề. Thí dụ trong các tiểu phẩm: “Tình hình tháng 1 năm 1965 ở miền Nam anh dũng”, “Đế quốc Mỹ rúc xuống hầm”. Người liệt kê sự thất bại của đế quốc Mỹ, sự thắng lợi của nhân dân ta theo tuần tự của các ngày trong tháng. Sự kế tiếp thời gian ấy chỉ ra rõ hơn sự thất bại của kẻ thù chung và thắng lợi của ta như một lẽ đương nhiên.

Trong nhiều tiểu phẩm, Hồ Chí Minh dùng câu hỏi làm phương tiện liên kết các ngữ đoạn, ngữ cảnh đẹp của toàn tác phẩm thành một thể thống nhất chặt chẽ. Thủ pháp này làm cho tác phẩm dễ hiểu, tập trung sự chú ý của người đọc vào vấn đề trung tâm mà tác phẩm đặt ra.

Ví dụ, trong tiểu phẩm “Chín triệu người điên”, Hồ Chí Minh trích dẫn tài liệu của Ủy ban Y tế Mỹ về người điên ở nước Mỹ. Sau đó, Người đặt câu hỏi: Vì sao ở Mỹ nhiều người mắc bệnh điên như vậy? Tiếp theo là trình bày các nguyên nhân của tình trạng quá nhiều người điên ở nước Mỹ. Tiểu phẩm này, Hồ Chí Minh không viết theo logic bình thường là nguyên nhân dẫn đến kết quả mà ngược lại. Cách viết này tạo cho người đọc sự chú ý ngay từ đầu do sự không bình thường về số lượng người điên ở một nước vẫn rêu rao là văn minh như Mỹ. Sự chú ý của người đọc càng cao trong những phần đầu thì hiệu quả của thông tin trong phần kết luận bất ngờ cũng càng cao. Người kết luận: Nhưng chính những người Mỹ điên thật những người tuyên truyền chiến tranh thì lại được quyền cao chức trọng mà không bị nhốt trong nhà thương điên.

Hiệu quả của thông tin tạo nên những mối tương quan giữa các bộ phận ngữ nghĩa của cả tiểu phẩm: “Chín triệu người điên”, chính là cái cười mỉa mai mà sâu cay đối với cái gọi là văn minh của xã hội nước Mỹ.

Một ví dụ khác, trong tiểu phẩm “Ta nhất định thắng, địch nhất định thua” Hồ Chí Minh viết:

“Bợm Giôn còn nói ý phải bảo vệ danh dự của Mỹ ở Việt Nam. Dùng bom na-pan và hơi độc để giết chết trẻ con và người bệnh Việt Nam, đốt phá làng mạc vào chùa chiền, bắn phá nhà thương và trường học… Phải chăng đó là danh dự của nước Mỹ? Không phải!

Trong trường hợp này, “phải chăng đó là danh dự của Mỹ?” Là một câu hỏi tu từ, nghi vấn nhưng thực chất là khẳng định. Mặt khác, câu hỏi đó có tác dụng liên kết các ngữ cảnh hẹp sau đó thành ngữ cảnh chung, cùng chứng minh cho sự dối trá, nham hiểm trong lời nói của Tổng thống Mỹ.

Nói chung, trong các tiểu phẩm báo chí, Hồ Chí Minh sử dụng một cách sinh động, phong phú nhiều phương tiện, thủ pháp để liên kết các thành phần trong tác phẩm. Với nghệ thuật viết điêu luyện mà giản dị, các tiểu phẩm báo chí của Người đều rất chặt chẽ, khúc chiết, dễ hiểu và hấp dẫn người đọc.

Đức Hiếu (Tổng hợp)
Còn nữa


 

Phần IV: Một số tiểu phẩm báo chí đặc sắc của Hồ Chí Minh

NHỮNG KẺ ĐI KHAI HÓA

Dưới đầu đề "Bọn kẻ cướp ở thuộc địa", đồng chí Víchto Mêrích đã thuật lại cho chúng ta nghe sự độc ác không thể tưởng tượng được của một viên quan cai trị thuộc địa nọ đã đổ nhựa cao su vào bộ phận sinh dục của một người phụ nữ da đen khốn khổ. Sau đó, hắn bắt chị phải đội một tảng đá lớn đứng phơi nắng cho đến chết.

Tên công chức dâm bạo đó hiện đang tiếp tục những thành tích của hắn trong một tỉnh khác với chức vị cũ.

Khốn thay, những việc bỉ ổi như vậy lại không hiếm gì ở cái nơi mà báo chí của các nhà cầm quyền thường gọi là "nước Pháp hải ngoại".

Hồi tháng 3 năm 1922, một nhân viên nhà đoan Bà Rịa (Nam Kỳ) đã đánh gần chết một phụ nữ An Nam làm nghề gánh muối, lấy cớ rằng người này đã làm mất giấc ngủ trưa của hắn, vì làm ồn ào ngoài hiên nhà hắn ở.

Hay ho nữa là người đàn bà này còn bị doạ đuổi khỏi nơi làm việc nếu bà thưa kiện gì.

Hồi tháng 4, một nhân viên nhà đoan khác đến thay cũng thật xứng đáng với tên trước về những hành động tàn ác của hắn.

Một bà cụ người An Nam, cũng làm nghề gánh muối, vì bị khấu lương nên cãi nhau với mụ cai. Mụ cai đến thưa với viên đoan. Viên này chẳng xét xử gì cả, tát bà cụ thợ muối hai cái thật mạnh và khi bà cụ già đáng thương cúi xuống nhặt nón, thì nhà khai hoá ấy, chưa vừa lòng với trận đòn mà hắn vừa trừng phạt bà cụ, liền đá một cái rất mạnh vào bụng bà cụ khiến cho máu ộc ngay ra lênh láng.

Khi bà cụ người An Nam đáng thương bị ngã quay xuống đất, đáng lẽ phải cấp cứu cho bà, thì người cộng tác viên của ông Xarô ấy lại cho gọi lý trưởng đến và ra lệnh cho lý trưởng đem người bị thương đi nơi khác. Lý trưởng từ chối không làm. Viên đoan liền cho gọi chồng người bị nạn đến, - ông này bị mù, ra lệnh bắt ông phải đem vợ đi. Hiện nay, bà cụ già khốn khổ đó đang nằm nhà thương.

Bạn có muốn đánh cuộc rằng hai ông đoan của chúng ta ở Nam Kỳ, cũng như bạn đồng nghiệp của họ là vị quan cai trị nọ ở Châu Phi, có bị làm rầy rà gì không? Họ hẳn đã được thăng chức nữa kia đấy.

Nguyễn Ái Quốc

Báo Le Paria, số 4, ngày 1-7-1922.

*

*          *

THÙ GHÉT CHỦNG TỘC

Vì nói đến đấu tranh giai cấp và quyền bình đẳng giữa con người mà đồng chí Lu-dông của chúng ta đã bị kết án là đã tuyên truyền thù ghét chủng tộc. Vậy ta hãy xem tình yêu thương giữa các chủng tộc đã được quan niệm và thực hiện ở Đông Dương như thế nào trong thời gian gần đây.

Hôm nay, chúng ta sẽ không nói đến tội ác của chính quyền thực dân là dùng rượu và thuốc phiện để đầu độc quần chúng và làm cho họ ngu muội đi. Việc ấy các đồng chí chúng ta trong đảng đoàn nghị sĩ tất sẽ có ngày bàn đến.

Mọi người đều biết rõ những thành tích lớn lao của tên quan cai trị sát nhân Đác-lơ. Tuy nhiên đâu có phải chỉ mình hắn mới có những thủ đoạn tàn ác đối với người bản xứ như thế.

Một gã Puốc-xin-hông nào đó, đã hùng hổ nhảy ra đánh một người An Nam chỉ vì người này dám tò mò và cả gan nhìn ngôi nhà của người Âu trong mấy giây đồng hồ. Hắn đánh anh và cuối cùng giết anh bằng một phát súng lục bắn vào đầu.

Một nhân viên sở hoả xa, đã dùng roi mây đánh một người lý trưởng Bắc Kỳ.

Ông Béc đấm vỡ sọ người lái xe cho ông ta.

Ông thầu khoán Brét, sau khi cho chó cắn một người An Nam đã trói tay người này lại, đá cho đến chết.

Ông Đépphi, chủ sở thuế đã giết chết người đầy tớ An Nam của ông ta bằng một cái đá hết sức mạnh vào mạng mỡ.

Ông Hăngri, thợ máy ở Hải Phòng, nghe ngoài phố có tiếng ồn ào; cửa nhà ông vừa mở thì một người đàn bà An Nam chạy xộc vào, sau lưng có một người đàn ông đuổi theo. Hăng-ri tưởng là một người bản xứ đang đuổi một “Con gái”, liền vớ lấy khẩu súng săn nổ một phát. Người đàn ông ngã vật xuống chết ngay. Đó là một người Âu. Hỏi thì Hăng-ri trả lời: "Tôi tưởng đây là một thằng bản xứ".

Một người Pháp buộc ngựa của mình vào một cái chuồng trong đó đã có sẵn con ngựa cái của một người bản xứ. Con ngựa đực nhảy chồm lên, làm cho người Pháp tức điên ruột. Ông ta đánh người bản xứ hộc cả máu mồm, máu mũi, rồi đem trói lại treo lên cầu thang.

Một nhà truyền giáo (Vâng! một vị linh mục nhân từ) nghi một học sinh trường thầy dòng người bản xứ ăn cắp của mình 1.000 đồng, ông ta trói người học sinh này lại, treo lên xà nhà, tra khảo. Người học sinh đáng thương ấy ngất đi. Họ hạ anh xuống. Khi anh hồi tỉnh, họ lại treo lên tra khảo. Anh đã gần chết. Có lẽ hôm nay thì chết rồi.

Vân vân và vân vân.

Toà án có trừng phạt những tên đó, những con người đi khai hoá đó hay không ?

Có tên thì trắng án, có tên thì không ai đụng đến lông chân. Sự tình là như vậy. Ấy thế mà bây giờ thì:

- Bị cáo Lu-dông, đến lượt anh nói đi!

Nguyễn Ái Quốc

Báo Le Paria, số 4, ngày 1-7-1922.

*

*          *

KHAI HÓA GIẾT NGƯỜI

Cũng trên mục diễn đàn này, gần đây chúng tôi đã nêu lên một loạt những vụ giết người mà thủ phạm là những kẻ đi "khai hóa" của chúng ta, nhưng vẫn không bị trừng phạt. Than ôi! Quyển sổ đoạn trường ấy cứ mỗi ngày một dài thêm, thật là đau xót.

Lại mới đây thôi, một người An Nam, trạc 50 tuổi, làm công cho sở xe lửa Nam Kỳ đã 25 năm nay, bị một viên chức người da trắng giết. Sự việc như sau:

Anh Lê Văn Tài điều khiển bốn người An Nam khác làm việc dưới quyền mình. Phận sự của họ là đóng cầu mỗi khi có xe lửa đi qua và mở cầu cho tầu bè qua lại. Theo lệnh đã quy định thì phải đóng cầu 10 phút trước khi xe lửa đi qua.

Ngày 2 tháng 4, hồi 16 giờ 30, một người trong bọn họ mới đóng cầu và hạ tín hiệu xuống, vừa lúc một chiếc thuyền máy công đi đến, trên thuyền chở một viên chức xưởng đóng tàu của hải quân đi săn về. Chiếc thuyền máy kéo còi lên. Nhân viên người bản xứ liền ra đứng giữa cầu, phất cờ đỏ báo cho những người trên thuyền máy biết rằng xe lửa sắp chạy qua và do đó cầu đã đóng rồi. Và sau đây là câu chuyện đã xảy ra: Chiếc thuyền máy ghé sát vào trụ cầu. Người viên chức Pháp liền nhảy lên bờ và hầm hầm tiến về phía người An Nam. Anh này khôn ngoan, chạy trốn về phía nhà ông Tài là "xếp" của mình. Người viên chức kia đuổi theo, lấy đá ném anh ta. Nghe có tiếng ồn ào, Tài liền chạy ra đón vị đại diện của nền văn minh, viên này mắng ngay: "Đồ súc vật, tại sao mày không mở ra ?". Vốn không biết tiếng Pháp, Tài chỉ còn biết trả lời bằng cách trỏ vào cái tín hiệu đỏ. Cử chỉ đơn giản ấy làm cho ông cộng tác viên của Ngài Lông nổi xung lên. Không phân phải trái gì, ông ta nhảy xổ vào Tài và sau khi đã "khiền" cho một trận, còn đẩy anh vào một đống than hồng ở gần đó.

Người An Nam gác cầu ấy bị bỏng một cách rùng rợn, được chở đến nhà thương, và sau sáu hôm cực kỳ đau đớn anh đã chết tại nhà thương.

Người viên chức kia vẫn được vô sự không có gì phải lo lắng cả. Trong lúc ở Mác-xây, người ta triển lãm cảnh phồn thịnh giả tạo của xứ Đông Dương thì ở An Nam đang có những người bị chết đói. Ở bên này, người ta ca tụng lòng trung thành, còn ở bên kia, người ta đang giết người! Như vậy nghĩa là thế nào hỡi Đấng chí tôn Khải Định và Cụ lớn Xa-rô?

T.B. - Trong khi tính mệnh của một người An Nam bị xem như thân con chó, không đáng giá một đồng trinh, thì Ngài Tổng thanh tra Rê-na, bị sướt có một chút da ở cánh tay mà được lĩnh 120.000 phrăng tiền bồi thường. Ôi, bình đẳng! Bình đẳng quý hoá thay!

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 5, ngày 1-8-1922.

*

*          *

"SỞ THÍCH ĐẶC BIỆT"

Từ khi đến Pari, Khải Định, Hoàng đế nước An Nam đã thành mục tiêu bao vây theo như thường lệ của một số bà buôn son bán phấn. Họ đã dâng lên Ngài Ngự nhiều bức thư nồng nàn tình tứ và nhiều tấm ảnh khêu gợi. Nhưng Khải Định vốn là bậc hiền triết, Ngài Ngự bèn truyền đem tất cả thư và ảnh ấy vứt vào sọt rác và ai hỏi, Ngài Ngự cũng đều từ chối không trả lời gì hết.

Ông Anbe Xarô đã trả lời một mỹ nhân hỏi về việc đó như sau:

- Ấy, Hoàng thượng Ngài có những sở thích rất đặc biệt.

Bà này rất đỗi ngạc nhiên và muốn hỏi cặn kẽ thêm, nhưng ông Bộ trưởng Bộ Thuộc địa đã đánh trống lảng:

- Hoàng thượng Ngài chỉ thích đọc sách thôi.

Bà ta lại hỏi:

- Thế hiện giờ Hoàng thượng đang đọc gì?

Ông An-be Xa-rô trả lời:

- Platông.

(Nghe Lỏm)

Bảo rằng Hoàng đế Khải Định là bậc hiền triết, điều đó ta không nghi ngờ gì cả. Nhưng hiền triết thì cũng không phải là không cần lễ độ và chúng tôi mạn phép kính tâu Hoàng thượng rằng cử chỉ của Ngài dù uy nghi đến đâu chăng nữa nhưng vẫn hoàn toàn thiếu lịch sự. Riêng chỉ nghĩ rằng những bà lịch sự kia, vì ham chuộng những cái của vua chúa mà bị khinh miệt một cách phũ phàng như thế ắt không khỏi sẽ trút tất cả mối căm thù ghê gớm của các bà vào những đề tài về Hoàng thượng, là người ta cũng đủ run lên rồi. Quan lớn Bộ trưởng vốn có tài ăn nói. Ông lại rất am hiểu chữ nghĩa của nước ông. Vậy mà câu ông trả lời mỹ nhân lại rất mập mờ. Ông dùng chữ "sở thích đặc biệt", thật ra là muốn nói gì nhỉ? Có phải ngẫu nhiên mà, mặc dầu vừa mới chân ướt chân ráo tới cái thành phố ánh sáng này, Đức Hoàng thượng rất ư thông thái và đầy tâm hồn nghệ sĩ đã làm quen được ngay với một nghệ sĩ nổi tiếng và một thi sĩ lừng danh rồi chăng? Đặt câu hỏi như thế, chính là đã trả lời rồi đó. Sau khi mỹ nhân muốn hỏi cặn kẽ thêm, và sau khi quan lớn Bộ trưởng đánh trống lảng, thì cái câu nói mập mờ rất hùng biện kia vẫn còn tiếp tục thêm rằng: Tuy trong chữ Théétète(1) có chữ Thé (như Víchto Huygô từng nói), chúng ta vẫn không tin rằng Hoàng thượng lại hạ cố đến những tác phẩm của người thầy học của Arixtốt, vì Hoàng thượng vẫn luôn luôn phải có người thông ngôn mới hiểu được tiếng Pháp (và cả tiếng Hy Lạp nữa) kia mà. Cho nên khi ông Bộ trưởng nói rằng Hoàng thượng hiện đang đọc Platông là ông chưa nói hết cái chữ mà ông định nói: Chắc là ông định nói chữ Platô...ních(2) đấy mà.

Amicus Plato, sed magis amica veritass(3)

Và chúng tôi xin trả lời:

"Ông bạn Platông ơi, Hoàng thượng chỉ thích xem thôi".

(1) Théétète, tên một bài đối thoại của Platông bàn về tri thức và cơ sở của triết học, viết vào khoảng năm 369 trước công nguyên. Tác giả viết câu này để nói ý rằng chữ Platông ở câu sau cũng còn dùng dở vần.

(2) Platonique nghĩa đen là theo học thuyết Platông: Thuần tuý lý tưởng. Nghĩa bóng là vô hiệu lực. Ở đây, muốn ám chỉ bệnh liệt dương của Khải Định.

(3) Nghĩa là tôi rất quý Platông nhưng đối với tôi, sự thật còn quý hơn nhiều. Đây là một câu châm ngôn rút trong tác phẩm của Amôniuyt, nhan đề là Cuộc đời của Arixtốt.

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 5, ngày 1-8-1922.

*

*          *

DƯỚI SỰ BẢO HỘ

Khi làm công sứ tỉnh Thái Nguyên (Bắc Kỳ), vì mục đích tống tiền, Đác-lơ đã bắt bớ, giam cầm và kết án vô cớ người bản xứ. Hắn đã giáng những cú đấm và những trận đòn roi vào những người bản xứ bị gọi đi lính "tình nguyện". Hắn đối xử tàn ác với những người lính lệ bản xứ, nắm tóc họ lôi xềnh xệch, đập đầu họ vào tường nhà của hắn.

Hắn đâm lưỡi kiếm vào những người tù khiến họ bất tỉnh nhân sự.

Viên công sứ Đác-lơ đánh một người bản xứ bằng roi sắt và làm gãy hai ngón tay của người này. Hắn dùng roi đánh túi bụi một viên đội người bản xứ. Hắn chôn đến tận cổ những người lính lệ bản xứ nào không làm vừa lòng và chỉ cho đào họ lên khi họ đã gần chết. Hắn dùng gậy đâm lòi mắt một viên đội người bản xứ khác.

Cuối cùng cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đã bùng nổ chống lại sự tàn ác của hắn và máu người bản xứ lẫn máu người Pháp đã đổ. Bao nhiêu máu đã chảy, bao nhiêu nhà đã bị phá, và bao nhiêu người vô tội đã bị chặt đầu.

Để thưởng những công trạng đáng khen ấy của viên công sứ Đác-lơ, người ta phong hắn chức chánh giám khảo các trường lớn ở Hà Nội và bổ nhiệm hắn làm đổng lý văn phòng của viên thống sứ Bắc Kỳ.

Báo L’Humanité và Hội Nhân quyền và Dân quyền đã phản đối.

Nếu viên sĩ quan Đức Phôn Sephen bị tù 20 năm khổ sai vì đã tàn sát người ở Rông-cơ thì viên công sứ Đác-lơ đáng phải tù ít nhất là gấp ba lần 20 năm khổ sai vì tội ác của hắn.

Nhưng các bạn có biết số phận của hắn ta như thế nào không?

Hắn đã trở thành uỷ viên Hội đồng Thành phố Sài Gòn, nghĩa là người cộng tác trực tiếp của các ngài Xa-rô và U-tơ-rây và làm chủ vận mệnh những người nhà quê ở Sài Gòn!

Hạnh phúc thay xứ Nam Kỳ!!

Nguyễn Ái Quốc

*

*          *

CHẾ ĐỘ NÔ LỆ "HIỆN ĐẠI HÓA"

Ở đồn điền của một chủ điền nọ, 6 người bản xứ đã bị bắt vì không nạp thuế.

Ra toà, những người bị cáo tuyên bố rằng, viên công sứ Đơ-la Rô-sơ khi thuê họ, đã hứa:

1. Trả một phần thuế cho họ,

2. Miễn công dịch cho họ, và

3. Trả cho họ 10 phrăng 30 ngày công.

Cần phải chú ý rằng, tên chủ đồn điền ấy đã thoả thuận với những người bản xứ: Họ sẽ chỉ làm việc cho hắn mỗi tuần một ngày thôi. Và người bản xứ đã ký giao kèo làm trong 30 tuần. Như thế nghĩa là bảy tháng rưỡi mới làm được 10 phrăng! Để kiếm kế sinh nhai, người bản xứ buộc phải làm thuê cho những người Mangát bên cạnh. Hơn nữa, viên công sứ Đơla Rôsơ không những không nộp thuế cho họ như hắn đã hứa, và còn chiếm mất số tiền mà những người bản xứ này chuyển cho hắn để nộp thuế.

Nhà chức trách địa phương mở một cuộc điều tra. Nhưng Nghiệp đoàn nhà nông ở Makhanôrô (có thể là Đơla Rôsơ là hội viên Nghiệp đoàn này) biết việc ấy, đã đánh điện cho viên toàn quyền phản đối cảnh binh không kịp thời đến đồn điền của công sứ Đơla Rôsơ, và đã yêu cầu trừng phạt trưởng đồn cảnh binh về tội đã vạch trần hành vi phi pháp của người Pháp.

Để ỉm "câu chuyện" ấy đi, viên toàn quyền đã nhanh chóng dập tắt dư luận.

Những người lao động ở thuộc địa được bảo hộ như thế đấy và chính sách hợp tác được thực hiện như thế đấy.

Nguyễn Ái Quốc
Báo LHumanité, ngày 26-10-1922.
In trong sách: Hồ Chí Minh, Những bài viết
và nói chọn lọc, tiếng Nga, Nxb. Chính trị
 quốc gia, Mátxcơva, 1959, tr.31.

VỤ HÀNH HẠ AMĐUNI VÀ BEN BENKHIA

Trong cuộc chiến tranh vì công lý để bảo vệ chính nghĩa, văn minh, v.v… người ta đã động viên 10 vạn người Tuynidi đi lính, và 60% trong số đó đã không trở về nữa. Thời đó, người Tuynidi được vuốt ve và trìu mến. Người ta đã ca ngợi rất là thắm thiết tình anh em ruột thịt giữa Pháp và Tuynidi, "mối tình ruột thịt đã đời đời gắn chặt vào trong xương máu và quang vinh". Người ta đã thực hành cả một chế độ kiểm duyệt để cấm báo chí dù thế nào cũng không được làm phật ý người bản xứ.

Ngày nay, tình anh em đó đã thay hình đổi dạng. Nó không phải chỉ thể hiện bằng những cái vuốt ve hoặc những cử chỉ trìu mến mà thôi, nó còn thể hiện một cách hùng hồn hơn bằng những phát súng lục hoặc những trận roi da kia. Bằng chứng là những việc sau đây. Khi trông thấy ba người bản xứ cho cừu vào ăn cỏ ở vườn cây ôliu của mình, một vị thực dân Pháp liền bảo vợ đi lấy súng và đạn ra. Khi vợ mang súng đạn ra, thì vị đi khai hoá của chúng ta nấp vào một bụi cây, rồi: Đoàng! Đoàng! Đoàng! Ba phát bắn ra, thế là ba người bản xứ ngã xuống, bị thương gần chết.

Một vị thực dân Pháp khác có hai anh công nhân bản xứ giúp việc, tên là Amđuni và Ben Benkhia; hai anh này hình như đã có lấy trộm vài chùm nho. Vị thực dân kia liền cho gọi hai người bản xứ đến, rồi dùng roi gân bò mà vụt họ lia lịa cho đến lúc họ chết ngất. Khi hai người này tỉnh lại, quan lớn bảo hộ của chúng ta liền sai trói giật cánh khuỷu lại và treo họ lên. Dù hai người khốn khổ kia đã bất tỉnh nhân sự, thế mà cuộc hành hạ bỉ ổi đó vẫn cứ kéo dài đến bốn tiếng đồng hồ, mãi đến khi có một người ở cạnh nhà phản đối mới thôi.

Hai người đáng thương đó được khiêng đến nhà thương và mỗi người bị cắt mất một bàn tay, còn bàn tay nữa chẳng biết có thể cứu khỏi được không.

Tình r...u...ột thịt như thế đấy!

Chả là ông Luyxiêng Xanh đáng tôn kính, vì đã quá bận về việc trục xuất những người cộng sản và các nhà báo, nên không có thì giờ nghĩ đến đời sống của người bản xứ "được bảo hộ" của ông đấy mà.

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 8, ngày 1-11-1922.

*

*          *

SỰ CHĂM SÓC ÂN CẦN

Đây là một câu chuyện cũ, nó cũng cũ như chiến tranh. Trong khi hứa hẹn phẩm hàm cho những người Đông Dương tình nguyện(?) còn sống và vàng mã cho những người chết "vì mẫu quốc", viên Toàn quyền Đông Dương đã thốt ra những lời cảm động như sau:

Các anh gia nhập quân đội hàng loạt, không do dự rời quê cha đất tổ, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Là lính trận, các anh đi tòng quân để hy sinh xương máu của mình; là lính thợ, các anh cống hiến hai bàn tay của mình" (1919).

Lịch sử chép như vậy đó!

Nếu người An Nam tỏ ra vui mừng khi người ta bắt họ đi lính thì tại sao người ta lại xích tay họ lùa đến các địa điểm tập trung? Tạo sao trong khi chờ đợi đưa xuống tàu, người ta lại nhốt họ trong Trường Trung học Sài Gòn, bên ngoài là lính cảnh vệ Pháp gác, lưỡi lê ở đầu súng, đạn đã lên nòng? Phải chăng những cuộc biểu tình đẫm máu ở Cao Miên, những cuộc nổi dậy ở Sài Gòn, Biên Hoà và ở nhiều địa phương khác là những cuộc biểu tình của "đám người" nôn nóng, muốn tòng quân "không do dự"?

Người ta ra sức đàn áp dã man các cuộc đảo ngũ (và có chừng 50% lính dự bị đảo ngũ). Do đó, các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra, nhưng bị bọn thực dân dìm trong bể máu. Những người An Nam ấy cũng bị chết trong thời chiến. Song người ta sẽ không cúng tế họ "sau khi chết", còn những người sống sót thì cũng chẳng được quan Toàn quyền khen thưởng.

Phải, quan Toàn quyền nói thêm rằng, dĩ nhiên muốn xứng đáng được hưởng "ân huệ" và "sự hậu đãi" của nhà nước thì các anh (những người lính Đông Dương) "phải có hạnh kiểm tốt, không mảy may tỏ ra thiếu thiện chí".

Hiện nay, khi họ dùng rượu và thuốc phiện do chính bàn tay Chính phủ bán thì có thể nào họ lại không phải là những người "dễ bảo"?

Nguyễn Ái Quốc
Báo LHumanité, ngày 2-11-1922.

*

*          *

NHỮNG QUAN TÒA THUỘC ĐỊA TỐT BỤNG CỦA CHÚNG TA

Bằng chỉ thị ngày 10 tháng 10 năm 1922, chính phủ đã thi hành nghị định về bổ nhiệm người vào chức quan toà thuộc địa. Trong số những người đó, chúng ta thấy tên các ông Luycaxơ và ông Oabrăng.

Cần nhắc lại sơ lược lai lịch của hai vị quan toà này.

Ông Luycaxơ là cựu chưởng lý ở Tây Phi thuộc Pháp, đã được nói tới nhân vụ rắc rối vừa rồi ở Tôgô. Trong thông cáo báo chí, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa đã buộc phải tuyên bố: "Cuộc điều tra đã xác định ông Luycaxơ có tham dự vào vụ việc, và điều đó đặt trách nhiệm rất nặng nề lên tổ chức quan toà".

Có lẽ để thưởng công về việc tham gia vụ bê bối, ông Luycaxơ đã được bổ nhiệm làm chủ toạ toà thượng thẩm ở Châu Phi xích đạo thuộc Pháp.

Còn về Oabrăng thì lai lịch của ông ta đơn giản hơn và ít nổi tiếng hơn. Năm 1920, một người Pháp họ là Đuyếcgri, nhân viên hãng Pâyruýtxắc ở Căngcan (Ghinê) đi săn. Ông ta bắn một con chim rơi xuống sông. Một em bé chạy ngang qua. Đuyếcgri túm em bé vứt xuống sông và ra lệnh tìm bằng được con chim. Sông sâu, nước chảy xiết, em bé không biết bơi, đã chết chìm. Cha mẹ nạn nhân kiện lên nhà đương cục. Đuyếcgri bị viên chỉ huy khu gọi đến. Y đồng ý trả 100 phrăng cho gia đình đau khổ để ỉm vụ này.

Người cha mẹ bất hạnh từ chối cách dàn xếp đê tiện ấy. Viên chỉ huy giận dữ đứng về phía người đồng bào giết người của mình và doạ bỏ tù hai vợ chồng nếu họ khăng khăng đòi trừng trị kẻ giết người, sau đó, nói chung đã ỉm vụ ấy đi.

Song có một bức thư nặc danh báo chuyện này cho tổng công tố viên ở Đắcca. Toà án tối cao giao cho công tố viên sở tại Oabrăng điều tra tại chỗ. Ông Oabrăng đến Căngcan, ngủ tối tại nhà ông trưởng ga. Ngày hôm sau, ông ở nhà Đơ Lavalie, trợ lý của viên chỉ huy khu, sau đó, đi về, thậm chí chưa hề bắt tay vào việc điều tra. Điều đó không ngăn cản ông Oabrăng kết luận rằng bức thư mang tính chất vu khống. Hội Liên hiệp thuộc địa báo sự việc này cho Hội Nhân quyền và Dân quyền (ngày 22 tháng 12 năm 1921), nhưng có lẽ Hội coi sự việc không lấy gì làm giật gân lắm, nên chẳng thèm quan tâm đến.

Sau chuyến viếng thăm Căngcan, ông Oabrăng trong khi chờ nâng cấp, vẫn yên ổn ở lại cương vị của mình, nhận những con gà mái tơ và những bao tải khoai tây từ người bạn của ông là ông Cudanh đơ Lavalie gửi biếu.

Như các bạn thấy đấy, ông Oabrăng quả là xứng đáng với... phần thưởng chính đáng của Chính phủ nước mình - được bổ nhiệm vào cương vị Tổng công tố viên của nước cộng hoà ở Đắcca.

Với sự có mặt của những Đáclơ, những Bôđoanh, những Oabrăng và những Luycaxơ, có thể nói rằng vận mệnh của nền văn minh tối cao, cũng như số phận của dân bản xứ ở các thuộc địa đều nằm trong những bàn tay đáng tin cậy.

Nguyễn Ái Quốc
Báo LHumanité, ngày 4-12-1922

Đức Hiếu (Tổng hợp)
Còn nữa


 

Y NHƯ Ở NƯỚC MẸ

Cho đến nay, trên thế giới chỉ có thành phố Tuyn-lơ(*) là có thể tự hào đã có những bức thư nặc danh vang dội. Ngày nay, xứ Nam Kỳ với lòng hiếu thảo và mong muốn tỏ lòng trung thành không bờ bến đối với nước khai hóa văn minh cho mình - vừa rồi cũng có cái vụ thư nặc danh “của nó”. Nhưng xứ thuộc địa này đã “bắt chước” vụng về vì không phải là vụ một nàng La-vai diễm lệ mà là một vụ hương chức Việt Nam già nua vừa bị bắt bỏ tù, không phải vì đã lạm dụng thư nặc danh mà vì đã bị thư nặc danh tố cáo. Việc ấy như thế này:

Một đêm tháng 12 năm 1922, cụ hương cả An Nam đang mơ màng thì bỗng nghe tiếng mõ huyên náo báo cho dân làng biết có cướp trên sông cái, ngay trước mặt Chợ Lách! Ô! Vậy thì cái nền văn minh mà các nhà chức trách từng ca tụng ở đâu nhỉ? Cụ hương cả nhà ta vùng dậy vớ lấy khẩu súng - nguyên cụ hương cả cũng đồng thời là trương tuần của một trại ấp lớn và lập tức cùng với hai gia nhân xuống thuyền bơi ra sông. Vừa đến nơi, cụ hương cả và hai gia nhân liền bị bọn cướp nổ súng bắn; một trong hai gia nhân đó bị trúng đạn giữa ngực và vài phút sau thì tắc thở. Cụ hương cả bắn trả lại bọn cướp một phát không trúng, trái lại bị bọn cướp bắn bị thương vào tay phải.

Rồi chỉ vì bức thư nặc danh tố cáo, mà cụ hương cả nọ đã bị bắt giam về tội là đã giết gia nhân của mình.

Mặc dù cha người xấu số và người gia nhân còn sống đã đệ đơn minh oan cho bị cáo; nhưng cụ hương nọ vẫn còn nằm trong buồng tối để chờ ánh sáng của công lý.

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 11 ngày 01-02-1923

(*) Tulle: Thành phố Tây Nam nước Pháp cách Pa-ri 464 km

*

*          *

TINH HOA CỦA XỨ ĐÔNG DƯƠNG

Trong đám tang Toàn quyền Lông, ông Nguyễn Khắc Vệ, tiến sĩ khoa luật học, tiến sĩ khoa chính trị học và kinh tế học, làm việc tại Tòa Biện lý Sài Gòn, đã quả quyết rằng, nếu có thể phát biểu thay toàn thể nhân dân Đông Dương, thì ông chắc chắn rằng, tiếng nói đó sẽ đau thương tỏ lòng tri ân Toàn quyền về tất cả những gì mà Toàn quyền đã ban cho dân tộc An Nam. Và ông Vệ trân trọng lớn tiếng:

“Và những ai, nhờ vào những biện pháp khoan dung của ngài, ngày nay đang cùng các vị đại diện của nước bảo hộ góp phần vào công cuộc phồn vinh ngày càng tăng tiến của xứ Đông Dương, sẽ cất lên từ đáy lòng mình lời tri ân ngài và lòng sùng kính đối với anh linh ngài. Vấn đề kinh tế là điều mà Ngài quan tâm hơn hết. Ngài từng mong muốn trang bị cho Đông Dương mọi khí cụ kinh tế sao cho nó trở thành một nước Pháp thứ hai, một nước Pháp Viễn Đông hùng cường, một con đỡ đầu của nước Pháp Cộng hòa”.

“Trong sứ mệnh của ngài, ngài đã toàn tâm toàn ý khai hóa cho một dân tộc bị ngưng trệ trên con đường tiến bộ vì một tổng hợp điều kiện lịch sử và khí hậu. Ngài là vị quán quân của tiến bộ, là sứ giả của công cuộc khai hoá...”

Về phần mình, ông Cao Văn Sen, kỹ sư, Chủ tịch Hội những người Đông Dương, thì nói rằng, việc ông Lông chết quá sớm là một cái tang cho toàn cõi Đông Dương. Rồi ông kết thúc bài điếu văn bằng những lời sau đây:

Bẩm quan Toàn quyền, chúng tôi thành tâm than khóc ngài vì đối với chúng tôi, ngài là một thủ hiến, một người cha nhân hậu…”

………………(*)

Từ sự việc trên, tôi đi đến kết luận rằng: Nếu quả thực tất cả những người An Nam đều cũng luôn cúi sát đất như hai đứa con này của guồng máy cai trị thì quả thực là dân này xứng đáng với cái số phận được cho.

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 13 tháng 4 năm 1923

(*) Dòng dấu chấm này là nguyên bản tiếng Pháp.

*

*        *

DIỄN ĐÀN ĐÔNG DƯƠNG

Nhờ độ lượng mẫu tử của nước Pháp bảo hộ, Đông Dương thật đã trở thành một chỗ náu thân cho bọn làm bậy.

Ông Bô-đanh mặc dù có bị tố cáo hẳn hoi về tội giả mạo và dùng giấy tờ giả mạo, bây giờ cũng cứ là Toàn quyền.

Ông Đác-lơ, nguyên bán cháo, trước là quan cai trị tỉnh, bị lên án là ăn hối lộ, là cường hào và đã gây ra cuộc nổi dậy đẫm máu ở Thái Nguyên, đã được Chính phủ thuộc địa cử vào Hội đồng Thành phố Sài Gòn.

Ông Teea, giám đốc một hãng buôn lớn, bị tố cáo là có tội nhũng lạm mà không bị rầy rà gì.

Giờ đến lượt Bu-đi-nô, viên quan cai trị này bị kiện: Đã đút túi số tiền lời của một cuộc chợ phiên tổ chức nhân dịp khánh thành tượng đài tử sĩ; đã đòi và nhận một món tiền “bồi thường” lớn trả cho sự có mặt của mình trong buổi chôn cất một mụ nhà giàu bản xứ, đã đòi những món tiền lớn chè lá khi cấp một giấy phép hay giấy lệnh nào đó.

Cuối cùng, đã lợi dụng, trong mọi trường hợp quyền hành quan cai trị (mà nước Pháp có chủ quyền đã ủy thác cho) để làm đổ mồ hôi sôi nước mắt người bị trị và để cho phình ví tiền của ông ta. Những lời kết tội nặng nhất là thế này: Làng Tân An (Nam kỳ) có một nhà máy điện. Việc khai thác có lợi và phố xá, nhà cửa trong làng có điện sáng mà không phải trả tiền. Quan cai trị Bu-đi-nô buộc làng phải nhượng không nhà máy cho một anh thầu khoán đã có vi thiềng cho ông ta.

Ít lâu sau, làng phải trả tiền điện dùng ngoài phố và trong nhà. Thấy hàng nghìn điều bất lợi, họ mới biết mình tự quản nhà máy thì lợi hơn. Họ phải bỏ ra mấy chục nghìn đồng để chuộc lại cái mà họ đã phải “nhượng không”. Lần thứ hai này, vị quan cai trị đút túi thêm mấy tờ bạc lớn nữa.

Bị kiện về tội buôn bán người chết, bóc lột người sống, tham ô lộ liễu, quan cai trị Bu-đi-nô vừa được công lý Pháp cho trắng án. Ngày mai có thể ông ta còn được Huân chương.

Bao giờ người ta cũng vì uy tín chủng tộc, mà xá tội cho lũ vô lại khả ố. Bao giờ người ta cũng nhân danh nhân dân Pháp mà bắt công lý làm đĩ bợm.

Văn minh là như thế đó.

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 15 tháng 6 năm 1923

*

*          *

TRÒ MÉC-LANH

Trong khi chờ đợi đi khai hóa những người Đông Dương tại Đông Dương, ngài Thái thú Méc-lanh muốn hãy khai hóa những người Đông Dương đã chết, các người biết đấy, những người chết cho Tổ quốc, cho công lý và vân vân, ở Pháp.

Cười ở nghĩa trang là một cái thú của những bậc vĩ nhân, nhưng ở đây mà cười một mình thì có thể là vô duyên. Vì vậy, bữa nọ, quan lớn Mác-xi-an Méc-lanh vẫn ra lệnh cho đoàn thanh niên An-na-mít được trợ cấp theo Ngài đến Vườn Người Chết ở Nô-giăng trên sông Mác-nơ vì ở đó sẽ được đọc một bài diễn văn do Ngài chứng giám. Bài diễn văn trước khi đọc cho công chúng, phải trình lên quan lớn để Ngài duyệt. Người ta đã trình và bài diễn văn bị coi là quá ngỗ ngược, quan lớn ra lệnh cứ việc bỏ đi để thay thế bằng một bài khác mà quan lớn cho dàn ý.

Cố nhiên, bài diễn văn xào nấu trong các thứ nước cốt của quan lớn như vậy, thì hương vị của lòng trung thành và lòng ái mộ bất diệt đối với nước Pháp phải xông lên đến ngạt mũi…

Nếu người chết nói được, như bọn đồng cốt bảo thế, thì những hồn ma An Nam ở Nô-giăng sẽ lên tiếng; “Cám ơn ông toàn quyền! Nhưng xin làm ơn... Cút đi cho!”.

N.

Báo Le Paria, số 15 tháng 6 năm 1923

*

*          *

TỆ ĐỘC ĐOÁN Ở ĐÔNG DƯƠNG - NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HỘ VÀ NGƯỜI ĐI BẢO HỘ

Ông Cẩm Đà Lạt (Trung kỳ) có một cách hiểu vai trò khai hoá của mình đến là hay. Một hôm, người cộng tác xứng đáng của ông Xa-rô này cần đến ván gỗ. Ông ta sai người đến kiếm ván ở nhà một người bản xứ làm nghề buôn bán. Nhà buôn này đòi phải trả tiền rồi mới được mang hàng đi. Nghe lời yêu cầu này, ông Cẩm nổi giận, phái ngay lực lượng vũ trang đến với nghiêm lệnh là dù “sống hay chết” cũng phải bắt cho được tên An Nam đó về sở.

Để tránh cơn giận của vị đại diện cho nước bảo hộ, nhà buôn không kể gì đang ốm cũng đành phải bỏ nhà và lánh sang tỉnh khác.

Một thầy thuốc người Âu chứng kiến tấn trò kể trên đã can thiệp để bênh vực nhà buôn bản xứ. Vụ can thiệp chướng tai gai mắt này làm cho viên thầy thuốc bị đuổi đi, bị đày lên Kon Tum, một nơi nước độc mà người Âu rất sợ. Chính đấy là nơi viên thầy thuốc đó đang đền cái tội thân người bản xứ của ông. Trong khi ấy thì bọn Đác-lơ, Bô-đoanh vẫn ung dung phè phỡn trong vinh dự và khoái lạc. (Kẻ mắc cái tội phạm uy tín kể trên là bác sĩ Hon-xta-rích – Chúng tôi xin tỏ tấm cảm tình của chúng tôi đối với ông ấy).

Còn nhà buôn Việt Nam thì ra sao? Anh ta bị ghi tên vào sổ những người bị tình nghi, liệt vào hạng “ghét Tây”, vào số những kẻ cần theo dõi. Một bầy mật thám Pháp và Việt Nam bám riết theo gót anh ta. Nhiệm vụ của bọn này là ghi từng giờ, từng phút mọi hành động cử chỉ của anh ta, là tô đen tất cả mọi ý định của mình.

Công cuộc theo dõi này được tiến hành một cách khá lộ liễu để làm cho bạn bè quen thuộc của người Việt Nam này phải chùn lại không dám lai vãng đến nhà anh ta nữa, đến nỗi đời sống của anh ta trở nên hết sức khó khăn. Bất cứ thế nào cũng không một người bản xứ nào dám đến nhà anh. Hoàn toàn bị cô lập với đồng bào của mình, nhà buôn này chỉ còn hai con đường: Hoặc là đi ăn cướp, hoặc đi ăn mày. Nhưng cái nghề thứ hai này thì lại làm cho anh càng đáng khả nghi hơn vì kiếp sống lang thang.

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 16 tháng 7 năm 1923

*

*          *

KHÔNG PHẢI CHỦ NGHĨA QUÂN PHIỆT ĐÂU, NHƯNG…

Ông Clê-măng-xô đã chứng minh rất rành rọt cho thế giới nói chung và người Mỹ nói riêng rằng nước Pháp không phải là một nước quân phiệt, cũng không phải là một nước đế quốc chủ nghĩa, hoàn toàn chẳng phải thế đâu nhé!

Thế nhưng ông Ác-sim-bô lại vừa mới làm cho tiêu mất đôi chút cái vẻ mỹ miều của những lời nói của “Ông Cọp”, khi ông Ác-sim-bô viết trong bản báo cáo vừa rồi của ông ta về ngân sách thuộc địa rằng:

Năm 1914, quân đội chiếm đóng gồm có 1.825 sỹ quan, 17.290 hạ sỹ quan và lính người Âu, 42.099 người bản xứ; lại phải thêm vào số đó 1.979 người trong các đội cảnh vệ bản xứ của Đa-hô-mây, Ghi-nê và Bờ Biển Ngà, hiện nay những đội lính này đã được thay thế bằng những đội quân chính quy, tổng cộng quân số là 63.220 người.

Từ sau chiến tranh người ta đã phải thiết lập lại các khu vực ủy trị, Tô-gô và Ca-mơ-run, những trại lính mà quân số lên tới 1.712 người.

Ngoài ra, còn phải thành lập, nhất là tại Tây Phi thuộc Pháp những đơn vị đặc biệt để tuyển mộ, đăng ký nhập ngũ và huấn luyện số binh lính người bản xứ phục vụ ở Pháp hoặc ở nước ngoài. Các đơn vị đó đã thu hút 2.237 người, trong đó có 271 sỹ quan và hạ sỹ quan người Âu.

Sau hết, con số những người bản xứ phục vụ ở Pháp hoặc ở nước ngoài và do các thuộc địa trực thuộc ở Bộ Thuộc địa cung cấp, là 45.000 người.

Nếu chúng ta nói thêm rằng, chỉ riêng ở Đông Dương, chi phí về quân sự năm 1921, cũng đã lớn hơn 35.600 Phrăng, trong khi đó ngân sách giáo dục có không đầy 350 nghìn đồng bạc và ngân sách về y tế không đầy 65 nghìn đồng bạc thì sẽ thấy ngay tất cả sự tốt đẹp của chế độ thực dân của cái nước Cộng hòa Pháp rất nhân từ và đã tài giảm quân bị này.

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le’Humanit ngày 28-9-1923

*

*          *

GIÁO DỤC QUỐC DÂN

“Cái dã man” Bô-sê-vích

Chính phủ Xô-viết đã cho thực hiện chương trình sau đây:

A- Giáo dục không mất tiền và bắt buộc; giáo dục phổ thông và bách khoa đối với các trẻ em nam nữ cho đến 17 tuổi; từ 17 tuổi trở lên thì giáo dục chuyên môn và chuyên nghiệp.

B- Nhà nước chịu phí tổn cho tất cả học sinh về ăn uống, quần áo, giày dép và những thứ cần dùng khác cho học sinh.

C- Thiết lập một hệ thống các trường mẫu giáo và vỡ lòng, nhà giữ trẻ, vườn trẻ, nhà nuôi trẻ… nhằm mục đích cải thiện việc giáo dục xã hội, giải phóng người phụ nữ.

D- Nhân dân lao động tích cực tham gia việc giáo dục quốc dân; phát triển các “Hội đồng giáo dục quốc dân”; tất cả những công dân có trình độ giáo dục phổ thông, đều thuộc quyền sử dụng của Nhà nước…

E- Trong ngành đại học, các sinh viên nghèo và nhất và công nhân và nông dân được cấp học bổng và những ưu tiên khác để họ có phương tiện vật chất theo học ngay cả các trường đại học.

“Nền văn minh” Pháp

Để truyền bá ánh sáng tốt lành của nền văn mình cao quý vào các nước được nước mẹ bảo hộ, nước Pháp đưa lại cho 40.000.000 “người Pháp hải ngoại” 8.700 trường học. Tôi không nói quá đâu. Dưới đây là con số thống kê chính thức.

Thuộc địa

Dân số

Trường học

Học sinh

Tây Phi thuộc Pháp

12.000.000

290

12.000

Châu Phi xích đạo thuộc Pháp

5.000.000

100

4.000

Đông Dương

19.000.000

2.965

148.000

Ma-đa-gát-xca

3.000.000

789

78.000

Xô-ma-li

64.000

2

250

Đảo Rê-uy-ni-ông

172.000

124

17.000

Ấn Độ thuộc Pháp

270.000

52

9.000

Ăng-ti-ơ

500.000

194

18.500

Guyan

144.000

23

2.000

Tân Đảo

17.000

18

600

Trong xứ Goa-đơ-lúp, 10.000 trẻ em không có trường học. Tại Angiêri thuộc Pháp, từ suốt 94 năm nay, trong số 5.000.000 dân chỉ có 35.000 học sinh là được hưởng thụ một nền giáo dục nhỏ giọt, còn 695.000 trẻ em bản xứ thì phải chịu dốt nát… Tại Cao Miên: 60 trường cho 2.000.000 dân! Tại Nam kỳ (thuộc Pháp từ hơn nửa thế kỷ nay): Trong số 2.500.000 người dân, chỉ có 51.000 học sinh.

May mắn thay, tuy chúng ta thiếu trường học, nhưng nước Pháp đã ban cho chúng ta rất nhiều nhà thổ, tiệm hút thuốc phiện và ty rượu.

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 29 tháng 9-1924

CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC PHÁP Ở VIỄN ĐÔNG VAREN VÀ ĐÔNG DƯƠNG

Panh-lơ-vê cử Va-ren sang Đông Dương vì sao?

1- Vì trước nguy cơ có một sự chia rẽ trong Cascten, Panh-lơ-vê tìm cách (thật khổ cho tôi phải nói ra) lấy lòng đảng viên xã hội, qua cá nhân Va-ren, kẻ được chọn trong số những kẻ độc ác nhất. Còn Va-ren trước và sau đều có đối thủ ganh đua, không mong gì hơn là được ngoạm mà miếng này thì đáng ngoạm thật!

Có nghĩa là 20 triệu dân Đông Dương, một lần nữa sẽ phải trả giá cho sự tha hóa của Nhà nước chính quốc và tham vọng của bọn hãnh tiến ở chính quốc.

Số phận của một dân tộc mất độc lập là như thế đấy… Và cũng là số phận vô sản ở chính quốc, vì họ cũng sắp bị Chính phủ và thủ lĩnh của họ gạt cho một lần nữa.

Vấn đề là còn phải liệu xem có ăn thua gì không?

2- Vì tình hình Đông Dương và quanh Đông Dương là nghiêm trọng.

Người An Nam chán ngấy nền đô hộ Pháp lắm rồi. Nỗi căm hờn âm ỉ trong lòng họ và chỉ chờ có dịp là nổ bung ra. Và dịp ấy là đây: Trung Quốc, sát nách Đông Dương đã cựa mình và bắt đầu đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc.

Ở biên giới Bắc Kỳ là Vân Nam. Pháp đã mấy lần toan xâm chiếm tỉnh này và tiến hành thuộc địa hóa về kinh tế nhờ vào con đường sắt của mình. Pháp đã mua chuộc tên tỉnh trưởng gần đấy, nhưng làm sao mà mua chuộc được nhân dân và tên tỉnh trưởng bị mua chuộc thì hiện đang bỏ chạy. Ngân hàng B.I.C bị phá sản đã kéo theo một cuộc tấn công vào số người Pháp ở Vân Nam phủ. Không biết hôm nay thì việc gì xảy ra?

Bây giờ đến Quảng Tây. Tháng 6 vừa qua, ở Pho Baya, xảy ra một cuộc đụng độ, trong trận này, viên giám binh Pháp, ông Lagác, bị thương nặng và nhiều lính khố xanh An Nam bị giết.

Ở Thượng Hải, chủ nghĩa đế quốc Pháp không bị đòn như các đế quốc khác. Nhưng rồi… sẽ đến lượt mình. Ở Quảng Châu, súng máy Pháp đã giết 30 người Trung Quốc, làm bị thương 70 người. Người Trung Quốc hẳn còn nhớ đấy.

Chuyện Marốc còn chưa xong, lại lạm phát, lại chuyện Xyri, có một hạm đội, thì thuộc loại xoàng, làm sao Pháp có thể bảo vệ Đông Dương, không phải là chỉ chống lại cuộc nổi dậy của người bản xứ mà còn phải chống lại cả một cuộc xâm lược từ bên ngoài. Chỉ có Nhật có thể giúp Pháp, nên Pháp tiến hành đàm phán kinh tế với Nhật, nhưng Nhật lại hướng về khối Nga-Á.

Cuối cùng cái hoa đỏ vẫn rình nhà ngươi đó, hỡi tên cướp Utơrây! Quảng Châu, nơi cư trú của những người cách mạng An Nam. Quảng Châu nơi có những trường võ bị, mà theo lời nhà ngươi, có đông người An Nam đến đăng ký học. Quảng Châu, mà nước Pháp thuê lính Vân Nam vẫn không triệt hạ nổi. Quảng Châu, trung tâm của chủ nghĩa bôn-sê-vích! Đó còn là một mối họa nữa. Mà mối họa lớn hơn cả, phải loại trừ nó trước tiên bằng cách ngăn không cho người bản xứ nghe lời người bôn-sê-vích!

Nhưng mà làm thế nào? Làm thế nào?

Vậy thì trong một ánh chớp vui sướng hệt như Ác-si-mét vừa ra khỏi nhà tắm. Panh-lơ-vê tự nhủ: Ta sẽ cử đến đấy một đảng viên xã hội. Một “đảng viên xã hội” chứ không phải một đảng viên xã hội- cấp tiến (ta đã đưa Đume và Xarô vào mà có ăn thua gì). Một đảng viên xã hội đúng thế! Các ngài có biết một đảng viên xã hội là thế nào không? Là kẻ ở đây thì không ra gì, nhưng ở nơi xa kia thì ghê lắm. Bất kể điều gì y nói ra, người bản xứ sẽ ngốn cả và họ sẽ xa lánh bọn bôn-sê-vích và họ sẽ ngồi yên. Ta sẽ ru ngủ dân bản xứ không chỉ bằng thuốc phiện và rượu cồn mà còn bằng hứa hẹn hàng đống những cải cách. Ta sẽ thực hiện mấy điều cho phải cách, vì trong “cải cách” thì có “cách” mà! Như thế đâu phải là sẽ không nắm được bọn da vàng, mà ngược lại thì có!

Vấn đề là còn phải liệu xem có ăn thua gì không?

Nguyễn Ái Quốc
Báo Le Paria, số 25 tháng 2-1925

Đức Hiếu (Tổng hợp)
Còn nữa


 

ÔNG TRỜI CÓ MẮT

Đó là một câu nói của Việt Nam, nghĩa của nó là “ông trời có mắt”. Từ khi nước Pháp thất bại thảm hại và đầu hàng, câu nói đó rất thịnh hành ở Việt Nam. Ký giả lúc đầu không rõ lý do tại sao, sau được một người bạn Việt Nam giải thích rằng: Hồi thế kỷ XIX, người Pháp phải mất 20 năm từ 1862 đến 1883 mới chinh phục nổi Việt Nam, vậy mà nay, chưa được vài tháng, nước Pháp đã hoàn toàn bị nước Đức chinh phục! Trước kia, đế quốc Pháp chiếm cả một khu vực rộng 12.000.000 cây số vuông, cai trị 60.000.000 dân thuộc địa, vậy mà nay, ba phần năm nước Pháp bị người ta chiếm đóng, 28 triệu người Pháp hóa thành dân mất nước, 14 vạn người chết trận, hơn 20 vạn người bị thương, 25 vạn người chạy ra nước ngoài, 2 triệu người bị bắt làm tù binh trở thành nô lệ cho quân Đức! Trước kia, đế quốc Pháp bóc lột vơ vét tận xương tủy dân Việt Nam và dân các xứ thuộc địa, vậy mà nay, nước Pháp mỗi ngày phải cung phụng cho quân Đức 400 triệu Phrăng, phải nộp 58 % bột mì, các nguyên liệu khác cũng bị  vơ vét mang đi sạch, đến nỗi 9 phần 10 dân vùng Pari thất nghiệp, dân chúng cả nước, chịu đói rét. Tất cả, tất cả những chuyện ấy chẳng phải là “ông trời có mắt”, đang trả thù cho các dân tộc nhỏ yếu chúng ta đó sao? Lại nữa, người Pháp đều gọi tất cả những cái gì là không hợp lý, là kệch cỡm bằng từ Chinoiserie, tức là “kiểu Tàu”, nay Pháp chịu quỳ gối đầu hàng, còn Trung Quốc thì anh dũng kháng chiến đã hơn ba năm và càng đánh càng mạnh, vậy từ nay, phàm tất cả những gì là nhu nhược, là đớn hèn, chúng ta có thể gọi đó là “kiểu Pháp” được rồi! Âu đó cũng là “ông trời có mắt”…

Ông bạn tôi vui vẻ kết luận: “Nếu dân tộc Trung Quốc và Việt Nam có thể sát cánh chặt chẽ với nhau, đá cho đế quốc đang áp bức chúng ta cút đi, thế thì ông trời chẳng những có mắt mà còn có cả chân nữa!”

*

*          *

TRÒ ĐÙA DAI CỦA RU-ĐƠ-VEN TIÊN SINH

Năm 1760(?), nước Mỹ một mình đơn độc chống lại người Anh. Để kéo cái đuôi con sư tử Grăng Brơtanhơ, Hoàng đế Pháp, phái tướng La Phayét thống lĩnh lính tình nguyện đạp sóng cưỡi gió, vượt trùng dương, đến Tân Thế giới để giúp người Mỹ đánh người Anh.

Trong chiến tranh đế quốc lần thứ Nhất, các nhà tư bản Mỹ cho Anh, Pháp và các nước đồng minh khác vay khá nhiều tiền. Đánh nhau đã hơn 20 năm, liên quân vẫn chưa nắm chắc phần thắng. Nếu quân Đức thắng, các nhà tư bản Mỹ lỗ vốn to. Cho nên Chính phủ Mỹ bèn cử tướng Pershinh chỉ huy đại đội binh mã, đạp sóng cưỡi gió, vượt trùng dương sang Cựu Thế giới để giúp Anh, Pháp đánh Đức.

Ngày đầu tiên đặt chân lên nước Pháp, việc đầu tiên tướng Pershinh làm là dẫn tất cả nhân viên trong Ban Tham mưu và cử quân đội đến đặt vòng hoa trước mộ La Phayét. Vị nguyên soái Mỹ đã đọc trước mồ vị tướng Pháp một bài diễn từ có thể nói là tráng liệt nhất, hùng hồn nhất và cũng gọn nhất thế giới. Ông ta nói: “La Fayette – we are here”. Chỉ có bốn chữ, không nhiều hơn cũng không ít hơn. Vẻn vẹn có mấy chữ mà ý nghĩa thật sâu sa. Có thể hiểu: “Chúng tôi đến để lấy đức trả đức” - thực ra là lấy oán trả “đức”, cũng có thể hiểu: “Thế kỷ trước các anh giúp chúng tôi đánh người Anh, đâu phải vì nhân đạo công lý quái gì, chẳng qua các anh muốn làm suy yếu thế lực của Anh. Nay chúng tôi giúp các anh đánh người Đức, cũng đâu phải vì tự do dân chủ, chẳng qua chúng tôi muốn thu hồi những món nợ của nước Mỹ. Dù sao, ơn huệ trước kia của các anh, chúng tôi giờ đã trả đủ, không bớt một chút xíu. Những món nợ hiện nay của phố Uôn, sau chiến tranh, các anh cũng phải hoàn trả đủ số.

Hai mươi lăm năm trước, tướng Pershinh là tử thù của người Đức, là đồng sự trong thắng lợi của tướng Pêtanh. Nhân tài ngoại giao của nước Mỹ đâu ít, vậy mà Tổng thống Ru-đơ-ven cứ khăng khăng cử một ông già đã ngoài tám mươi sang làm đại sứ ở Pháp, chắc không ngoài dụng ý chọc tức người Đức và làm bẽ mặt Pêtanh.

Ru tiên sinh thật đúng là chơi trò đùa dai.

Bình Sơn
Cứu vong nhật báo (Trung Quốc)
ngày 27-11-1940, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh

*

*          *

HAI CHÍNH PHỦ VÉC-XÂY

Ngày 23-11 các báo đều đưa tin điện của Mỹ: Chính phủ Visi sắp rời về Véc-xây. Tin này làm người ta nghĩ ngay đến lịch sử ô nhục của Véc-xây. Hồi thế kỷ XVIII, Lu-i 14 tự xưng là “Vua mặt trời” bóp nặn xương máu của bao nhiêu dân chúng Pháp, xây lên ở nơi cách Pa-ri chừng hai mươi dặm một cung điện to tát, lộng lẫy nhất thế giới. Bọn vương công quý tộc Pháp, “cha truyền con nối” sống những ngày cực kỳ xa hoa dâm dật. Một hôm bà hoàng Lu-i 16 nghe tả hữu than rằng dân Pháp đang đói to. Bà ta ngạc nhiên hỏi lại: “Sao họ không ăn thịt?!”. Chuyện vớ vẩn tạm bớt nói, xin vào câu chuyện chính.

Năm 1870, Pháp – Đức chiến tranh Napôlêông 3 đại bại ở Xơđăng. Quân Đức liên tiếp tấn công vua Phổ một mặt lên ngôi hoàng đế ở Véc-xây, một mặt đốc quân bao vây Pa-ri. Dân chúng Pa-ri chủ trương kháng chiến đến cùng, còn Tổng thống Pháp – Nguyên soái Mác Mahông và Thủ tướng của ông ta là Chie lại chủ trương đầu hàng. Bởi vậy, họ đã phái quân đội đi bắt dân chúng phải giao nộp vũ khí. Quân đội được cử đi làm nhiệm vụ lại liên hiệp với nhân dân. Tổng thống và Thủ tướng bèn đang đêm trốn khỏi Pa-ri, thành lập Chính phủ mới, rồi van xin quân Đức giúp chúng tàn sát nhân dân Pa-ri. Đó là Chính phủ Véc-xây thứ nhất.

Trong cuộc chiến tranh năm 1940, nước Pháp cũng thất bại tơi bời. Quân Đức liên tiếp tấn công, Chính phủ chuyển đi chuyển lại, cuối cùng chuyển đến Visi, nơi chuyên chữa trị bệnh ngoài da. Phải sau mấy lần La-van khóc lóc, xin xỏ, Hítle mới cho phép họ dời về Véc-xây, nhưng chỉ được làm việc ở khách sạn Trê-năng chứ không được dọn vào cung điện Véc-xây. Cái nhục vong quốc có thể nói đến thế là cùng!

Con cháu đời sau có thể nghĩ rằng, cách nhau 70 năm, lịch sử nước pháp đã in lầm mất một trang. Vì lẽ hai Chính phủ Véc-xây giống nhau như đúc, cùng đẻ ra trong thất bại của chiến tranh, đều do Nguyên soái làm Tổng thống, đều do luật sư làm Thủ tướng, đều là những anh hùng bán nước! Người Pháp giỏi hài hước gần đây truyền nhau một câu đối rằng:

“Tổng thống, hai tên nguyên soái, đều phường ăn hại

Thủ tướng, một cặp luật sư, rặt lũ bỏ đi”

Bình Sơn
Cứu vong nhật báo (Trung Quốc)
ngày 29-11-1940, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh

*

*          *

MẮT CÁ GIẢ NGỌC TRAI

Ở vùng địch chiếm đóng, đa số dân lành không muốn sống dưới gót sắt của giặc lùn. Họ chẳng quản ngần ngại hi sinh tất cả để được trở về trong lòng Tổ quốc. Lợi dụng cơ hội này, địch cho tay chân của chúng đóng giả dân lành, chui vào hậu phương, vừa để tung tin đồn nhảm, vừa để dò la tình hình quân ta. Cái trò mắt cá giả ngọc trai này đã bị chúng ta lật tẩy. Có một trò mắt cá giả ngọc trai khác, chúng ta cũng phải hết sức chú ý.

Phong trào dân tộc Việt Nam hiện nay đang lên mạnh, ai cũng biết cả. Công cuộc giải phóng của Việt Nam không thể tách rời ba điều quan trọng: 1- Liên Hoa; 2- Kháng Nhật; 3- Bài Pháp. Ba điều đó thiếu một không được. Giặc lùn căm nhất là hai điều đầu tiên. Cho nên chúng tìm mọi cách, hòng chia rẽ lực lượng nhân dân Việt Nam và làm mê hoặc hướng đi của họ. Thậm chí người Nhật còn lập ra “Đảng Cách mệnh” Việt Nam giả, giống như chúng đã tổ chức “Quốc dân đảng” giả và “Hội Cứu quốc” giả trong vùng chiếm đóng.

Hôm qua, sau khi đọc Tuyên ngôn của “Đảng thống nhất cách mạng Việt Nam”, ký giả thấy có điều kỳ lạ.

Thứ nhất - bản Tuyên ngôn này công bố ngày 12-10, đúng vào dịp Nhật đánh chiếm Bắc Kỳ, uy hiếp Sài Gòn, vậy mà trong Tuyên ngôn không có một chữ nhắc đến việc chống Nhật.

Thứ hai - phong trào giải phóng của Việt Nam là một mắt xích của mặt trận giải phóng các dân tộc bị áp bức trên thế giới, đặc biệt nó là một cánh quân của cuộc kháng chiến cách mạng Trung Quốc. Liên hệ mật thiết với Trung Quốc là một trong những điều kiện tối quan trọng của phong trào giải phóng của Việt Nam. Vậy mà trong Tuyên ngôn không có một chữ nhắc đến Trung Quốc.

Thứ ba - Cường Đế (xuất thân hoàng tộc Việt Nam được giặc Nhật nuôi nấng 35 năm nay, chuẩn bị để về làm bù nhìn. Mấy tháng trước, ông ta cùng với lũ lâu la họp ở Quảng Châu (xem các báo). Ở Việt Nam, họ cho xuất bản ba tờ báo thân địch, tài liệu và kinh phí do giặc Nhật cung cấp, vậy mà Tuyên ngôn lại công nhận lũ Việt gian ấy là đảng cách mạng. Cứ thế mà suy đủ thấy dụng ý của bản Tuyên ngôn này, một là mưu toan ly gián tình cảm giữa hai nước Trung-Việt, hai là mưu toan đánh lừa tai mắt người Việt. Trong các đảng phải yêu nước của Việt Nam, rất nhiều người sáng suốt, họ nhất định không bao giờ phát biểu những bài vô lý kiểu đó.

Đối với nhân dân Việt Nam, đối với phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam, chúng ta phải giúp đỡ bằng mọi khả năng có thể. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải cẩn thận phải vạch trần cái trò mắt cá giả ngọc trai đó.

Bình Sơn
Cứu vong nhật báo (Trung Quốc)
ngày 5-12-1940, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh

*

*          *

Ý ĐẠI LỢI THỰC BẤT ĐẠI LỢI

Đánh bạc với chiến tranh là thủ đoạn quen dùng của giai cấp thống trị Ý. Trước năm 1914, Ý là đồng minh của Đức. Sau khi cuộc chiến tranh đế quốc lần thứ nhất nổ ra, thấy trong túi của Anh, Pháp, Mỹ đầy ắp những tiền, máu tham nổi lên, bất chấp tình nghĩa, Ý đã bán đứng bạn đồng minh của mình, gia nhập liên minh, tuyên chiến với Đức. Ý chắc mẩm lúc đó Đức đã bị Anh, Pháp, Nga bao vây chặt, chỉ cần Ý tham gia là chiến tranh sẽ dễ dàng thu được thắng lợi. Khi đại bộ phận quân Đức bị giam chân ở Véc-xây, quân Ý bèn ào ào tiến quân vào Bắc Biacôvi với khí thế như rời non lấp biển. Dè đâu chưa kịp vượt sông thủy quân Ý đã bị quân Đức đánh cho tan tác tơi bời, không còn một mảnh giáp. Ngày chiến tranh Châu Âu kết thúc, ở Hội nghị Véc-xây, Ý được hưởng phần ăn chia chẳng bõ bèn gì so với cái đã mất.

Trong cuộc chiến tranh đế quốc lần này, nhà cầm quyền Ý thấy lão Hít phẩy tay một cái đã nuốt chửng bẩy nước, máu tham lại không kìm được. Thế là nó liều mạng, một mặt tấn công Ai Cập, một mặt xâm lược Hy Lạp. Ngờ đâu đại quân vừa xuất trận thì tin thất bại đã bay về như tuyết rơi. Trong cùng tháng (ngày mùng 9 tháng này), trên đất Ai Cập, quân Anh đột nhiên mở cuộc tấn công toàn diện, mấy nghìn quân Ý bị bắt làm tù binh… Dinh lũy cuối cùng của quân Ý chiếm  được ở Anbani – Agiloo Caxrorô – bị quân Hy Lạp đột phá, đó là thất bại lớn nhất của quân Ý kể từ ngày tham chiến… Quân đội Hy Lạp đã chiếm được ¼ Anbani… (tin điện Hoa Kỳ).

Trong khi đó giai cấp thống trị Ý lại gặp những chuyện bất lợi khác. Ở Tơrielít, ở Phuma và nhiều nơi khác có “phiến loạn” chống chiến tranh, chống phát xít. Ở Xanh Gô Lăng, nhân dân vũ trang nổi dậy, tập kích quân Ý, giết và làm bị thương hơn 200 binh sỹ… Xung đột kịch liệt đã xảy ra trong nội bộ đảng phát xít, đến nỗi Tổng Tư lệnh là tướng Patôgriô, Tư lệnh tiền phương là Nguyên soái Graxini… buộc phải từ chức.

Tất cả những sự việc đó cho chúng ta thấy rõ rằng giấc mộng của Mútxôlini muốn khôi phục lại Impiris Romano đã thành bong bóng xà phòng và cái ngày mà nhân dân Ý thoát khỏi gông xiềng xích phát xít đã sắp đến rồi.

Bình Sơn
Cứu vong nhật báo (Trung Quốc)
ngày 16-12-1940, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh

*

*          *

TRẢ LỜI CHO BỌN DE GAULLE

Gần đây, Pháp quốc phải giải phóng ủy hội ở Alger, tuyên bố rằng sau cuộc chiến tranh này, nước Pháp sẽ sẵn lòng ban cho dân Việt Nam sự cải thiện.

Thưa Ngài, Tổ quốc của Ngài đại Pháp, đã đầu hàng Hite, một cách rất vẻ vang, hơn 500 lính và hai triệu lính của quý quốc đương bị Đức cầm tù một cách rất oanh liệt, ba phần tư non sông quý quốc đang bị người chiếm lĩnh. Bốn mươi triệu đồng bào của Ngài đang trong kiếp ngựa, trâu, nhân dân quý quốc hiện nay bánh không có ăn, áo không đủ mặc, phải quyên quần áo cũ của nhân dân Việt Nam, một triệu thanh niên nam nữ nước Ngài phải qua làm cu ly bên Đức. Xin Ngài lo cứu nước và dân tộc Ngài đã rồi sẽ nói đến việc khác; còn Việt Nam chúng tôi, 40 năm nay nhờ “công đức” của quý quốc đã nhiều lần rồi. Lần này, chúng tôi quyết dùng súng, đạn, gươm, dao để đạp đổ ơn huệ ấy và giành lại độc lập tự do cho Việt Nam. Chúng tôi xin Ngài chớ lo! Và chúc Ngài hai chữ Thất Bại!

Hồ Chí Minh
Báo Đồng Minh số Xuân Giáp Thân

*

*          *

BỎ CÁCH LÀM TIỀN ẤY ĐI

Một ông Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã nọ, sang dự cuộc hội họp tại một thôn bên cạnh, nhân nói chuyện về những việc cải cách trong làng mình lại khoe rằng thôn ông trong tháng vừa qua đã bán thứ vị như Chánh Phó lý, Khán thủ.

…và đã thu được một món khá lớn.

Thật là trái ngược! Nói một hội đồng kỳ mục cũ làm tiền cho dân bằng cách bán thứ vị, còn nghe được. Một ủy ban nhân dân tổ chức theo một tinh thần dân chủ mới, rất cấp tiến lại đi làm tiền theo một phương pháp cũ rích chả có ý nghĩa gì, có ảnh hưởng xấu vô cùng là khác.

Các ông nói: Miễn sao có tiền cho dân là được?

Không được! Tiền là mạch máu cho mọi công việc, tiền là cần thật nhưng không phải vì cần tiền mà cứ đi đè đầu bóp cổ hay dùng những thủ đoạn không chính đáng để vơ vét lấy tiền.

Làm tiền bằng cách bán ngôi thứ tức là gây cho dân chúng có óc hiếu danh, trong khi cần phải trừ tiệt óc đó để gây cho mọi người có óc thiết thực, góp sức vào công cuộc giữ gìn và xây dựng đất nước.

Trong lúc xung quanh mình, người ta mở ngày Vàng, ngày Văn hoá, diễn kịch để lấy tiền giúp quỹ này, quỹ khác, ủy ban đó còn quay lại lối làm tiền cũ rích, bán ngôi thứ, thật đã tỏ rõ một khối óc đặc sệt. Những cuộc “làm tiền” phải đem theo nó một ý nghĩa tuyên truyền nữa mới được. Sao cho người ta nhận thấy rằng đồng tiền của người ta bỏ ra là một viên gạch để góp vào việc xây đắp nền móng quốc gia.

Bán ngôi thứ làm cho óc người ta đen tối thêm! Tiền lấy như vậy cũng là một thứ tiền phi nghĩa.

Lòng sốt sắng làm tiền cho dân của ông chủ tịch nọ đáng hoan nghênh thật, nhưng cách làm tiền của ông lại có hại cho sự tiến hóa của dân, cần phải bỏ ngay đi, cũng như cần phải phủi đi hết những thủ tục khác: Làm rượu ăn mừng được bầu vào ủy ban, dùng chữ nho trong những tờ thông đạt…

CHIẾN THẮNG
Báo Cứu quốc số 69, ngày 17-10-1945

*

*          *

THÊU GẤM VÀ CHO THAN

Người Tàu có câu thơ:

Thêu hoa trên gấm, bao nhiêu kẻ,

Gặp tuyết cho than, được mấy ai.

Ngày nay, chắc bà Tưởng Giới Thạch lòng ngậm ngùi đọc hai câu thơ ấy. Năm xưa, ông Tưởng đang có thế lực to lớn, bà Tưởng đi sang Mỹ, Chính phủ Mỹ đón tiếp bà hết sức long trọng.

Bà đến trường bay thì các vị bộ trưởng, các nhà lãnh tụ, quân đội, đoàn thể và nhân dân kéo đến hoan nghênh bà như một vị đế vương.

Bà được mời trú ở phủ Tổng thống. Bà được mời đến diễn thuyết trong Quốc hội. Bà đi đâu thì có xe đưa đặc biệt. Và đến đâu thì hàng triệu người Mỹ ra hoan nghênh. Trong mấy hôm bà ở Mỹ, các báo Mỹ ngày nào cũng tâng bốc bà. Họ kể tỉ mỉ những kiểu giầy bà đi, những thứ hoa bà cầm…

Nói tóm lại, hồi đó Mỹ đã tung bà lên chín tầng mây xanh. Nghĩa là người Mỹ đã thêu thêm hoa trên bức gấm đã sẵn đẹp.

Ngày nay, ông Tưởng thua trận này đến trận khác. Ông dọa ông sẽ tự tử. Bà Tưởng vội sang cầu cứu Mỹ. Thì nay người Mỹ đối với bà thế nào?

Sau đây những tin tức của hãng thông tin Mỹ nói về bà Tưởng: “Sự sốt sắng trước kia của các giới trong Quốc hội Mỹ đối với bà Tưởng, nay đã nguội lạnh rõ ràng. Ông nghị viện Bờ-lum (Bloom) trước đây đã xin Quốc hội mời bà đến tỏ bày ý kiến. Nay ông Bờ-lum đã tuyên bố rằng bà Tưởng không được mời!”.

Nghị viện kiêm Trưởng ban Ban Viện trợ ngoại quốc là ông Smith tuyên bố rằng: Ban ấy không muốn làm điều gì có thể làm cho Chính phủ Mỹ can thiệp vào việc nước Tàu.

Nghị viện kiêm Trưởng ban Ban Ngoại giao là ông Côn-na-ly tuyên bố ông Tưởng nên tự cứu trước, rồi nhờ Mỹ cứu sau.

Hãng thông tin ấy viết thêm: Các giới chính trị Mỹ tiếp đón bà Tưởng một cách rất lạnh lùng. Ngoài một viên nghi lễ, không có ai trong Chính phủ Mỹ đến trường bay đón bà.

Tệ hơn nữa là các báo Mỹ còn nhạo báng bà Tưởng một cách rất mỉa mai. Thí dụ báo Hoa Thịnh Đốn (Washington Post) vẽ bà Tưởng mặc áo tiên nữ ghẹo ông già Mỹ đang đứng dựa vào tủ bạc với nét mặt ghê gớm. Bà Tưởng nói khẽ với già Mỹ: “Chúng ta đi tàu thủy vào Tàu, anh muốn không? Đi tàu thủy để kéo dài thì giờ”.

Tờ thông tin, Thời báo (Times Herald) là báo to nhất ở Mỹ thì vẽ ông Tưởng với một võ quan miệng ngậm xì gà, mắt nhìn bức địa đồ một cách mơ màng. Già Mỹ hé cửa nhìn vào và hỏi hai người: “Này, sao hai ông không đi thăm một mặt trận một chút?”.

Lần này bà Tưởng sang Mỹ không kèn không trống, không tiếp bước, không hoan nghênh, mà chỉ có lạnh lùng và nhạo báng!

Thế là trong lúc bà Tường đang bị sương tuyết lạnh lùng thì người Mỹ chẳng ai cho bà một chút than cho đỡ rét. Song không trách được người Mỹ. Vì họ Tưởng đã đi ngược với quyền lợi của nhân dân Tàu, thì dù Mỹ có giúp thêm nữa thì nhân dân Tàu cũng không theo họ Tưởng.

A.G
Sự thật, số 106 và 107 năm thứ X,
Xuân Kỷ Sửu (1949)

Đức Hiếu (Tổng hợp)


 

 

VÀI CON SỐ HAY HAY CỦA PHÁP

Trong cuộc đại chiến thứ hai, hơn 250 vạn binh lính và dân Pháp bị Đức bắt làm tù binh. Trong số đó có gần 140 vị tướng. Chết 80 vạn thường dân, 20 vạn binh sĩ.

Trong năm năm Pháp bị Đức chiếm đóng, Đức bắt hơn 85 vạn người Pháp qua làm cu ly bên Đức.

Cũng trong thời kỳ đó, Đức đã giết chết hơn 65 vạn người Pháp kháng chiến, trong số đó 75.000 đảng viên cộng sản bị hy sinh.

Con số Pháp bị thiệt hại là:

1.102.000 nóc nhà tan nát.

170.000 toa xe lửa hư hỏng.

28.000 đầu xe lửa bị phá.

3000 cây số đường xe lửa bị bóc.

95.000 mẫu đất có địa lôi, không cày cấy được.

Tính tất cả của cải Pháp mất mát hư hỏng, đáng giá là 4.800 ngàn triệu bạc Pháp.

 Trong thời kỳ Đức chiếm đóng, nhân dân Pháp có một số người kháng chiến rất dũng cảm. Cũng có một hạng người hàng Đức một cách rất “oanh liệt” (giống như bọn Pháp ở đây hàng Nhật).

Kháng chiến thành công rồi nhân dân Pháp bắt đầu thanh toán bọn Pháp gian. Ngoài Pê-tanh và Le-van còn có:

266 quan tòa bị cách chức và trị tội.

1.195 người bị án tù chung thân.

2.894 người bị xử tử.

27.874 người bị mất quyền công dân.

Pháp gian nhiều ghê!

Nhưng từ giữa năm 1946 về sau, phái phản động được thể thì những Pháp gian còn lại, chẳng những không bị phạt, mà lại được thưởng! Vừa đây, I.H. là một trong 10 tên thân Đức có tiếng, được thưởng thứ mề đay cao quý nhất ở Pháp!

Hiện nay nước Pháp có 240 vị tướng. Trong đó có 40 vị tướng thất nghiệp.

Mỗi người lính Pháp, mỗi năm tốn cho ngân quỹ 840 ngàn phrăng. Vì vậy, mỗi năm Chính phủ Pháp tiêu vào binh bị hết một phần ba tiền bạc của Nhà nước thu được.

Hải quân của Pháp nhiều quan nhất trong thế giới. Cứ 14 lính là có một người quan.

Số quan lại Pháp cũng nhiều nhất trong thế giới. Chỉ trong một quận Xen (Sein) mà số quan lại đông hơn quan lại cả nước Na-uy.

Nhà Túc mễ Pháp, 4 năm trước chỉ có 600 công chức, năm nay tăng đến 3.500 công chức.

Vì bọn quan ăn bám nhiều quá, cho nên họ muốn chút bớt cho Việt Nam!

Giá sinh hoạt của mỗi người công nhân một tháng là 10.000 quan. Đầu năm nay, trong lúc công nhân đòi tăng lương chưa được, thì các ông hội đồng tự đề ra, tự thảo luận, rồi tự tán thành tăng lương của họ lên mỗi tháng là 50.000 quan.

Và trong lúc Pháp đăng dân cùng tài tận, mà một nhà đánh bạc công khai ở Enghien, gần Ba-lê, mỗi năm các con bạc ăn thua hơn 320 triệu và tiền hồ đến 92 triệu quan!

Thật là đạo đức thanh liêm của thực dân.

A.G.
Báo Sự thật, ngày 30 tháng 5 năm 1948

ĐẠO ĐỨC CỦA MỸ

Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái .

Phật Thích ca dạy: Đạo đức là từ bi.

Không tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa.

Còn đế quốc Mỹ thì: Đạo đức là giết người.

Nếu ai tưởng tôi nói vu cho Mỹ, thì xin nghe những lời của vài lãnh tụ Mỹ sau đây:

Tổng Tham mưu trưởng Mỹ nói: Tính đến 18 tháng 5, quân đội Mỹ ở Triều Tiên chết và bị thương hơn 142.000 tên.

Nghe vậy, cựu Tổng thống Mỹ tên là Táp nói: “Nên dùng lính ngoại quốc đi đánh, dù tốn kém hơn một chút cũng còn rẻ hơn dùng lính Mỹ và người Mỹ đỡ phải chết” (20-5-1951).

Tướng Mặt Ác-tệ (Mac Arthur) nói: Một viên đạn may ra chỉ giết một người Trung Quốc; một băng súng máy giết được 10 người, một quả bom giết 100 người, một bom nguyên tử giết vài 1000 người thôi. Nếu phá hoại cơ quan lương thực, thì có thể làm cho 50 triệu người chết đói trong một lúc. Vì vậy, hắn đề nghị bao vây kinh tế Trung Quốc.

Tên Kinh-xít-lây (Kingsley) nhận rằng: Từ ngày Mỹ đổ bộ đến nay, hơn 3 triệu người Triều Tiên tan nhà nát cửa và hơn 1 triệu người chết vì bom đạn.

Để gây chiến tranh thế giới đặng phát triển “đạo đức” ấy, chỉ trong 6 tháng năm ngoái, Mỹ đã giúp cho bè lũ tay sai 350.000 tấn bom đạn.

Đó: Bà con thấy chưa?

C.B.
Báo Nhân Dân ngày 14-6-1951

NÓI THẬT MẤT LÒNG

Bà Phin-tơn (Filton) là một vị giáo sư triết học người Anh. Hồi tháng 6, bà cùng Đoàn đại biểu Phụ nữ Dân chủ Quốc tế sang thăm Triều Tiên.

Khi trở về nước, bà đã trình bày trước dân Anh những tội ác của quân đội Mỹ và Anh ở Triều Tiên, với những chứng cứ rõ ràng, dân chúng Anh rất căm tức Chính phủ Anh và gây nên phong trào đòi quân đội Anh rút khỏi Triều Tiên.

Chính phủ phản động Anh thấy vậy, bèn cách chức giáo sư của bà, vu cho bà phạm tội phản quốc và toan đưa bà ra trước tòa án.

Nghe tin ấy, dân chúng Anh càng căm tức Chính phủ và quyết ủng hộ bà Phin-tơn.

Bà Phin-tơn nói: Chính phủ Anh cách chức giáo sư của tôi, xong không thể cách chức làm người của tôi. Họ có thể cúp tiền lương của tôi, xong không thể ngăn trở tôi nói thật.

Cả một đế quốc xưng hùng xưng bá, mà sợ một người đàn bà nói thật. Uy quyền của bọn phản động là như thế đó.

Đ.X.
Báo Cứu quốc số 1875 ngày 9-7-1951

*

*          *

ĐIÊN RỒ NHẤT THẾ GIỚI

Ta có câu:

“Mất tiền rồi lại thua thâm,

Chị em chúng bạn tri âm chê cười”

Đã mất tiền, lại thua thâm, là điên rồ, cho nên bị chê cười là đáng lắm. Mỹ thường khoe khoang cái gì Mỹ cũng nhất trong thế giới, nhà cao nhất, tiền nhiều nhất… Điều mà Mỹ không khoe là Mỹ cũng điên rồ nhất trong thế giới.

Sau đây là một chứng cớ:

Hôm 5/5, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ khai trước Nghị viện rằng: “Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan cũng như phe cánh Tưởng lén lút ở lục địa Trung Quốc, không lực lượng nào đánh đổ được Chính phủ Mao Trạch Đông... Từ 1945, Mỹ đã giúp Tưởng hơn 2.000 triệu đô la vũ khí và hàng 1000 cố vấn quân sự. Nhưng 3/4 vũ khí Mỹ giúp Tưởng đã lọt vào tay quân đội cộng sản…”

Thế là Mỹ đã mất tiền, lại thua thầm, chẳng điên rồ là gì?

Hơn nữa, Mỹ biết vậy nhưng cứ giúp Tưởng. Mỹ giúp cả Chính phủ bù nhìn Lý Thừa Văn, một Chính phủ mà viên Phó Chủ tịch đã kết án là hủ bại đến tận xương tủy và đã phải từ chức, Mỹ giúp Chính phủ bù nhìn Bảo Đại mà toàn thế giới gọi là “vua hộp đêm”.

Tóm lại, những lũ phản quốc đã bị nhân dân phỉ nhổ đều được Mỹ thâu lấy. Như vậy, chẳng điên rồ là gì?

C.B
Báo Nhân Dân, ngày 12-7-1951

*

*          *

QUÂN ĐỘI THỰC DÂN PHÁP

Cuối năm ngoái, cựu Thủ tướng Pháp là Ray-nô nói: Bộ đội Pháp ở Việt Nam đã chết và bị thương 40.486 tên.

Vừa rồi, Bộ trưởng Thuộc địa Pháp nói: Hơn 1.000 sỹ quan Pháp đã chết ở Việt Nam (2 chàng ấy chỉ nói 1 phần 3 thôi).

Binh sỹ Pháp chết nhiều, nhân dân Pháp chống chiến tranh tợn. Vì vậy mặc dầu thực dân tuyên truyền lừa bịp và tăng lương cho lính, thanh niên Pháp vẫn không muốn sang chết ở Việt Nam. Một ví dụ: Báo Hành động (L’Action) ngày 26-3 nói:

Tháng 10 năm ngoái, hơn 20 vạn thanh niên Pháp phải vào bộ đội, mà chỉ có hơn 700 người tình nguyện sang Việt Nam. Còn về sỹ quan, thì trong 84 người, chỉ có 4 người tình nguyện, 80 người bắt buộc phải đi, không đi thì bị tù và bị cách chức.

Chính 3 viên quan năm là Sác-tông, Lơ-pa-giơ, Đuy-rít bị ta bắt trong trận giải phóng biên giới cũng phải nhận rằng: “Chúng tôi bị tuyên truyền nhồi sọ. Nay chúng tôi thấy rõ rằng chiến tranh ở Việt Nam không có mục đích, không có nghĩa lý, không có hy vọng”.

Thống chế Xtalin nói: “Tướng lính Mỹ và Anh không kém ai, song họ thất bại là vì lính Mỹ và Anh biết rằng chiến tranh chống Triều Tiên và Trung Quốc là vô lý”.

Ta cũng có thể nói: Thực dân Pháp thất bại là vì binh lính Pháp biết rằng chiến tranh ở Việt Nam là vô lý. Và cũng vì vậy mà ta nhất định thắng.

Đ.X.
Báo Cứu quốc số 1861 ngày 14-7-1861

*

*          *

CỘNG SẢN

Trước ngày cách mạng Nga thành công, ở Âu Mỹ hễ ai nói động đến quyền lợi của giai cấp tư bản thì bị mắng là “bọn xã hội chủ nghĩa”. Có khi bị bỏ tù nữa.

Ngày nay, đã có nước cộng sản Liên Xô và nhiều Đảng Cộng sản, thì ở các nước tư bản hễ ai nói động đến chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân đều bị gọi là “cộng sản”.

Xin bà con lắng nghe câu nói này:

“22 năm công tác ở Viễn Đông, tôi thấy rất rõ rằng: Chế độ thực dân là xây dựng trên chiến tranh. Nó nhờ chiến tranh mà sống. Nó còn thì cứ còn chiến tranh. Cách tốt nhất để chấm dứt chiến tranh là:

- Nhận Trung Quốc vào Liên hợp quốc;

- Quân ngoại quốc phải rút khỏi Triều Tiên;

- Quân đội Anh phải rút khỏi Mã Lai;

- Quân đội Pháp phải rút khỏi Việt Nam.”

Người cộng sản nào nói như vậy?

Thưa không. Đó không phải là người cộng sản nào nói, mà chính là lời một vị lãnh tụ công giáo, Giám mục En-đi-cốt người Gia Nã Đại, nói trước Đại hội Hòa bình Thế giới hôm 24-2-1951.

Đ.X

Báo Cứu quốc số 1863 ngày 17-7-1951

*

*          *

DÂN MỸ CHỐNG CHIẾN TRANH

Đế quốc Mỹ ra sức gây chiến.

Song nhân dân Mỹ thì lại muốn hòa bình. Vài ví dụ:

Các đại biểu Quốc hội Mỹ như các ông Capehart, Ford, Thyé, Douglas… tuyên bố rằng 9 phần 10 cử tri ở các tỉnh đều chống chiến tranh xâm lược Triều Tiên.

Báo Tập tin tức Mỹ điều tra ý kiến của dân, kết quả thấy 9 phần 10 đòi rút quân Mỹ ra khỏi Triều Tiên.

Báo Công nhân Mỹ đăng nhiều thư của bạn đọc. Một phụ nữ viết:

“Nếu để cho lũ tướng tá kia tự đi đánh, thì chiến tranh không kéo dài, mà con em chúng ta sẽ được ở nhà…”

Một phụ nữ khác viết: “Ai bảo chúng ta đi đánh nửa thế giới này để bảo vệ nửa thế giới kia? Mà nửa thế giới kia có nhờ, có muốn bảo vệ đâu? Đó chỉ là cố ý đưa con em chúng ta đi đến chết đói thôi”.

Một bà viết thư cho Tổng thống Mỹ:

“Ông nói rằng nhân dân ủng hộ chính sách chiến tranh của ông. Tôi đã nói chuyện với nhiều hạng người, song không một ai tán thành chiến tranh ở Triều Tiên cả. Thưa ông, chúng tôi dân thành phố cũng như dân thôn quê, đều muốn hòa bình ngay”.

Ý dân là ý trời. Đế quốc Mỹ làm trái ý dân, ý trời cho nên chúng sẽ thất bại.

C.B.
Báo Nhân Dân, số 17 ngày 17-9-1951

*

*          *

NHÂN DÂN ĐỨC PHẢN ĐỐI

Phản động Mỹ có võ trang lại phản động Tây Đức và Nhật Bản để chuẩn bị Thế giới chiến tranh lần thứ ba. Nhưng nhân dân Nhật và Đức phản đối ầm lên. Đây là một chứng cứ rõ ràng:

Hôm 3-6-1951, Chính phủ Dân chủ Cộng hòa Đức mở một cuộc bỏ phiếu, hỏi ý kiến nhân dân về hai điều:

- Bạn có phản đối việc võ trang nước Đức?

- Bạn có yêu cầu nội trong năm nay các nước phải ký hòa ước với Đức không?

Số cử tri là 13 triệu 697.000 người.

“Tham gia bỏ phiếu” 13 triệu 618.000 người (tức là 99 phần 100 cử tri tham gia).

Số phiếu nói có: 13 triệu 34.000 người

Số phiếu nói không: 546.000 người (tức là 4 phần 100 phản đối).

Ý dân là ý trời. Mỹ dù nhiều đồng đô la, nhiều bom nguyên tử, nhưng toàn dân đã phản đối thì Mỹ cũng phải co vòi.

Đ.X

Báo Cứu quốc số 1876 ngày 23-7-1951

*

*          *

CỌP, NAI, THỎ

Một hạ sỹ quan Pháp tên là Ghi-ông (Guillon) bị ta bắt ở Ninh Bình. Y khai rằng: Bộ đội y ở Đồng Nai (Nam Bộ) bị điều động đến Hòn Gai. Bị ta đánh thua ở Uông Bí, bộ đội y lại đưa đến Ninh Bình. Đến đây y được lệnh đuổi cha cố và đồng bào công giáo, chiếm nhà thờ làm vị trí, đục gác chuông làm ổ súng. Nhưng vì bị ta đánh bất thình lình cho nên chỉ trong 19 phút thì bộ đội y thua và bị bắt như thỏ. Thế mà thông cáo của bộ tham mưu Pháp nói rằng bộ đội Pháp đánh thắng hăng như cọp.

Lời khai của Ghi-ông có Nai, có Thỏ, có Cọp, như một vườn bách thú. Song con cọp Pháp chỉ là cọp giấy.

Nhưng điều đáng chú ý trong lời khai này là:

1- Giặc đến đâu cũng chiếm đóng nhà thờ của Chúa và ngược đãi đồng bào công giáo.

2- Hễ ta đánh bất thình lình thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng. Mà muốn đánh bất thình lình thì bộ đội và nhân dân ta phải tuyệt đối giữ bí mật.

Biết giữ bí mật tức là đã thắng địch được một phần.

Đ.X.
Báo Cứu quốc số 1869 ngày 25-7-1951

*

*          *

ĐỜI SỐNG Ở MỸ

Truyền rằng dân Mỹ rất sung sướng.

Sung sướng thế nào? Tờ báo Mỹ Vệ quốc (National Guadian)viết:

“...Đêm khuya, tôi thấy một đàn người moi móc trong những thùng rác. Mỗi người một tay xách cái bị, một tay móc thùng rác. Trời ơi, phải chăng đây là nước Mỹ có thừa dân chủ để bán cho cả thế giới.

Tôi thấy hàng nghìn người lượm lặt trong thùng rác mà sống. Họ phải tranh nhau với chó. Một mụ già moi được một cái xương lợn, một con chó nhỏ chạy lại tranh cái xương và cắn tay mụ. Mụ lẩm bẩm nói: Thôi tao nhường cho mày, tao đi tìm thùng khác vậy…”

 Con nhiều tờ báo kể những chuyện “sung sướng” như thế. Trong lúc dân khổ như vậy thì bọn bán súng làm giàu càng giàu thêm. Báo Mỹ Công thương viết:

“Bọn lợi dụng chiến tranh là hung ác hơn cả mọi loài thú dữ. So với chúng, thì Mọi ăn thịt người còn lương thiện lắm, vì họ chỉ ăn thịt kẻ thù và ăn cho đỡ đói. Con bọn kia thì xui dân mình đi chết (như chiến tranh ở Triều Tiên) để làm giàu”.

Một chứng cớ nữa: Tháng 10 năm ngoái, hơn 10 vạn thanh niên đi khám sức khỏe để tòng quân thì hơn 5 vạn 2 nghìn người vì thiếu thức ăn mà không đủ sức khỏe.

Dân khổ mặc dân, đế quốc Mỹ, mỗi năm cứ khoét dân hàng vạn triệu để chuẩn bị chiến tranh thế giới. Than ôi Mỹ mà không đẹp!

Đ.X.
Báo Cứu quốc ngày 28-7-1951

*

*          *

ĐỐP! ĐỐP!

Giặc Pháp và Việt gian bù nhìn huênh hoang tuyên truyền:

- Pháp cho Việt Nam độc lập thật sự rồi.

- Bù nhìn nắm cả ngoại giao nội chính rồi.

- Quân đội Pháp chỉ có mục đích giữ gìn quyền độc lập cho Việt Nam…

Vừa rồi, lũ bù nhìn bị giặc Pháp tát một cái đốp! Câu chuyện là thế này:  Bù nhìn Bảo Đại mưu vay tiền Mỹ. Mỹ nhận lời. Hai bên định ngày 27-6 thì ký giấy.

Bù nhìn đã dọn dẹp nhà cửa, sắm sửa bánh trái, trưng bày cờ quạt, gửi giấy mời khách (Việt Nam và ngoại quốc). Chuẩn bị xong xuôi cả rồi. Đùng một cái Tát-xi-nhi bảo: “Không! Không cho phép ký, vì Tổng thống Pháp chưa chuẩn y”.

Thế là bù nhìn “xôi hỏng bỏng tay”.

Đó là một cái tát vào mặt lũ bù nhìn.

Đó cũng là một chứng cớ mâu thuẫn giữa thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ.

Đó lại là một tiếng chuông thức tỉnh số ít người Việt còn lưng chừng.

Đ.X.
Báo Cứu quốc số 1875, ngày 03-8-1951

Còn nữa
Đức Hiếu (Tổng hợp)


 

CÔNG LÝ CỦA MỸ

Chính phủ phản động Mỹ vừa bỏ tù nhiều đảng viên cộng sản, vì có tội tuyên truyền Cộng sản.

Song Chính phủ Mỹ đối với bọn có tội ăn trộm, ăn cướp, buôn lậu, giết người, bắt cóc, tống tiền thì thế nào?

 Hôm 1-5-1951, Ủy ban Điều tra của Thượng nghị viện Mỹ vừa ra một bản báo cáo dày 200 trang về vấn đề này và kết luận rằng: “Xã hội Mỹ không thể hoàn toàn tẩy sạch những tội ác có tổ chức”.

Vì sao? Vì “bọn chỉ huy những tội ác ấy rất khôn khéo. Chúng mua chuộc các người đại biểu của pháp luật, của tòa án, của các tổ chức chính trị, các người tai mắt trong kinh tế và các báo chí… Hơn nữa: Nhiều chủ nhà máy giúp cho chúng phát tài để chúng giúp cho họ trị công nhân và công chức, phá hoại các công hội và các cuộc bãi công”.

Thế là rõ: Quốc hội Mỹ đã thừa nhận rằng những tổ chức chính trị, kinh tế, tài chính, pháp luật, báo chí của Mỹ thông đồng với lũ trộm cướp để ăn hối lộ và để trị những công nhân và công chức giác ngộ và vì vậy, Mỹ không nên tẩy bọn trộm cướp đó.

Đ.X.
Báo Cứu quốc ngày 6-8-1951

*

*          *

QUỶ SỨ MỸ

 Ngoài tên quỷ sứ, không còn biết dùng tên gì để gọi bọn Mỹ hung ác dã man. Bà con hãy xem:

Hôm 30 - 01, chúng rót 3 vạn 6 nghìn lít bom dầu xuống vùng Vu-ôn (Su-won) ở Triều Tiên đốt cháy 26 thành thị và làng mạc trong một khu rộng 60km. Đó chỉ là một ví dụ. Báo Phi-ga-rô (Figaro) ngày 12-2 viết: “Triều Tiên ngày nay giống một vùng sa mạc…”

Ngoài bom đạn, Mỹ còn dùng thuốc độc. Hãng thông tin UP Mỹ viết: “Mỹ mỗi năm tốn 12 triệu đô la để nuôi thuốc độc. Hôm 18 tháng 5 chiếc tàu số 1.091 đến bến Nguyên Sơn tiêm thuốc độc vào tù binh (quân tình nguyện Trung Quốc) để thí nghiệm. Mấy hôm sau tàu ấy đến đảo Cự-tế tiêm thuốc độc vào tù binh Triều Tiên. Mỗi ngày tiêm vào 3000 người”. Báo Tin hàng tuần (News Week) của Mỹ hôm 9-4 cũng đăng tin ấy. Hơn nữa, trước khi rút lui khỏi một vùng nào chúng tiêm bệnh đậu mùa vào nhân dân vùng ấy, để cho bệnh lây lan đến bộ đội Trung - Triều. (Báo cáo của Bộ Ngoại giao Triều Tiên)

Hãng thông tin AP (8-7) đăng tin: Máy bay Mỹ từ Tây Đức sang rải trùng sâu bọ xuống đồng ruộng Tiệp Khắc. Máy bay Liên Xô sang giúp Tiệp Khắc tiêu diệt những trùng sâu bọ ấy.

Như vậy, Mỹ không phải quỷ sứ là gì!

Đ.X.
Báo Cứu quốc, ngày 8-8-1951

*

*          *

MỒ CHA KHÔNG KHÓC, KHÓC MỒ MỐI

Mỹ đưa tiền đưa thuốc đi giúp các nước. Trong lúc đó, nhân dân Mỹ sống thế nào?

Ngày mùng 5-7, Tổng thống Mỹ nói: Có 32 triệu người Mỹ không có thầy thuốc. Năm ngoái hơn 1 triệu người Mỹ chết vì bệnh lỵ, bệnh đau ruột. Hơn sáu mươi vạn người Mỹ có bệnh thần kinh (điên), hơn 25 triệu người có bệnh này hoặc bệnh khác. Đại đa số người Mỹ không có tiền mời thầy, mua thuốc.

Hôm 18 - 8, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Mỹ báo cáo: “Hơn 10 triệu gia đình Mỹ sống ngắc ngoải. Sinh hoạt bi đát, sức khỏe bi đát, chỗ ở bi đát. Ngoài trẻ con, người lớn không được ăn thịt. Áo quần thì mua đồ cũ. Khi đau ốm thì bó tay ngồi chịu không có tiền mua thuốc men. Vô số trẻ con trưởng thành trong những nơi bẩn thỉu…”

Đó, bà con thấy chưa? Nhân dân Mỹ sống nheo nhóc như thế, mà phản động Mỹ thì vãi tiền ra giúp thực dân Pháp, giúp bù nhìn Tưởng Giới Thạch, Lý Thừa Văn, để truyền bá văn minh Mỹ cho các dân tộc Á Đông!

Điên rồ thật. Điên rồ hơn nữa là bọn phục vụ Mỹ, tin Mỹ, sợ Mỹ.

Đ.X.
Báo Cứu quốc, ngày 12-10-1951

*

*          *

BA HOA

Các ông Mỹ ở Hoa Thịnh Đốn (Thủ đô Mỹ) cậy có đôla và bom nguyên tử hay nói ba hoa. Có mấy nghị viên nói trắng trợn rằng: “Thà tốn tiền trang bị cho vài triệu lính ngoại quốc để họ đi đánh, còn hơn để người Mỹ đi chết ở chiến trường”.

Hôm cuối tháng 7, trong một phiên họp Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lại nói: “Mỹ có “giúp” các nước Tây Âu, mới có thanh niên các nước ấy làm bia đỡ đạn cho Mỹ”. Y nói tiếp: “Mỹ xuất tiền trang bị cho binh sĩ các nước khác, không phải trang bị cho binh sĩ Mỹ. Chúng ta thà suất tiền còn hơn xuất binh”.

Nói xong, y thấy hơi quá lố bịch, bèn vội vàng xin xóa câu ấy đi. Chủ tịch Ban Ngoại giao Mỹ cũng yêu cầu các báo chớ đăng câu ấy. Nhưng đã chậm rồi.

Đó cũng là bệnh nói ba hoa.

Cũng trong phiên họp ấy, Bộ trưởng Mỹ nói: “Tôi rất ngạc nhiên rằng nhân dân Mỹ đã ủng hộ lời đề nghị (lời đề nghị hòa bình ở Triều Tiên) của đại biểu Liên Xô một cách sốt sắng như thế. Điều đó chúng ta thật không ngờ đến”.

Một câu nói của ông Ma-lích đã được nhân dân Mỹ cùng nhân dân thế giới ủng hộ, lại làm cho cả phe đế quốc hoang mang.

Đó là cách nói mác xít.

Đ.X.
Báo Cứu quốc, ngày 17-8-1951

*

*          *

KẺ CƯỚP BỊ CƯỚP

Các đế quốc Tây Âu, nhất là Anh và Pháp, quen đi cướp nước người ta.

Ngày nay, Anh bị đá ra khỏi Ấn Độ, Pháp đang bị ta đá ra khỏi Việt Nam. Hơn nữa, hai nước ấy đang bị Mỹ dùng làm như thuộc địa.

Do kế hoạch Mác-san, mà kinh tế của Anh và Pháp đã phụ thuộc vào kinh tế Mỹ. Vì Anh và Pháp mắc nợ Mỹ, mắc đến cổ cho nên chính trị hai nước ấy cũng bị Mỹ giật dây.

Về quân sự, còn tệ hơn nữa. 40 vạn lính Mỹ đóng quân ở Tây Âu. Hải, lục, không quân của Anh, Pháp và các nước Tây Âu đều dưới quyền chỉ huy của một người Mỹ làm Tổng Tư lệnh.

Hơn 20 trường bay ở Anh bị Mỹ chiếm đóng. Khắp nước Pháp quân Mỹ chiếm đóng 29 địa phương, trong số đó có 23 trường bay, ba cửa bể to là Mác-xây, Boóc-đô, Séc-bua và hai chỗ để bom nguyên tử ở Nim và Gi-rông.

Thế là:

“Quen mồm cướp nước người ta

Nước mình bị phỗng khóc mà ai thương”

Đ.X.
Báo Cứu quốc, ngày 24-8-1951

*

*          *

DA ĐEN NHƯNG LÒNG ĐỎ

 Tờ báo to nhất của người da đen ở Mỹ là báo Tin tức tỉnh Pít-bớt (Pitsburg News), hôm 14 - 7 đăng một bức thư của 54 người lính ra đen từ Triều Tiên gửi về. Họ viết: “Vì sao chúng tôi phải đi lính? Vì sao Mỹ đánh Triều Tiên? Nhiều người trong quân đội Mỹ và bố mẹ, vợ, con, anh em mỗi người lính đều đặt câu hỏi ấy.

Chúng tôi lính da đen ở đây cũng bị khinh rẻ như lúc ở nhà. Mẹ chúng tôi, con chúng tôi ở trong nước vẫn lưu ly cực khổ. Chúng tôi không có chút tự do nào. Thế thì chúng tôi hy sinh cho ai?... Ở trong nước, chúng ta không được tự do, mà Chính phủ Mỹ muốn đưa tự do cho dân tộc khác? Thật vô lý… Họ bắt lính da đen đi hy sinh ở Châu Á, ở Châu Âu mà trong nước chính chúng ta không được tự do, chúng ta phải lên tiếng. Nếu chúng ta đoàn kết thành một khối, thì chúng ta chắc chắn tranh được hòa bình và tự do, vì đoàn kết là sức mạnh…!”.

Đế quốc Mỹ thường khoe khoang: “Tự do, dân chủ”, xong đối với 1,5 triệu người da đen ở Mỹ thì chế độ nô lệ vẫn còn. Nay đế quốc Mỹ lại mưu mở rộng chế độ nô lệ ấy đến toàn thế giới. Lời lẽ mộc mạc của những người lính da đen rất đúng.

6 năm trước đây, phát xít Đức cũng có tham vọng như Mỹ, chúng đã thất bại. Nay đế quốc Mỹ cũng có tham vọng như phát xít Đức, thì lực lượng dân chủ hòa bình thế giới sẽ làm cho chúng đi đời nhà ma.

Đ.X.
Báo Cứu quốc, ngày 7-9-1951

*

*          *

KHÓC THAN KHÔN XIẾT SỰ TÌNH

Hôm 6 - 9, Phó Thủ tướng Pháp là Maye thở than với các nhà báo Mỹ:

“Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Pháp chưa lại sức thì đã phải mang một gánh quá nặng là binh bị. Pháp đã mất vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam hơn 30.000 binh sĩ và năm nay phải hao tổn vào đó 1.000 triệu đô la, tức là gấp đôi số tiền Mỹ cho Pháp và các thuộc địa Pháp vay.

 Về binh sĩ, Pháp chịu nặng hơn các nước trong khối Đại Tây Dương. Mà lương bổng lính Pháp thì không bằng nửa lương bổng lính Mỹ.

Sức sản xuất của Pháp không bằng một phần ba của Mỹ. Mà dân Pháp thì phải đóng thuế nặng hơn, hy sinh nhiều hơn, tiền công ít hơn tiền công người Mỹ…”

Lời của Phó Thủ tướng Pháp thật là:

“Một lời cay đắng, đôi dòng lệ rơi”. Nó đã chứng tỏ tình hình vô cùng khốn đốn của Pháp. Nó lại chứng tỏ cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam đã làm cho Pháp “người chết của hết, tiền mất tật mang”.

Kết luận là:

Bọn cướp nước đã gần ngày qụy xuống.

Nhân dân ta phải hăng hái tiến lên!

C.B.
Báo Nhân Dân, ngày 11-10-1951

*

*          *

ĐÙNG ĐÙNG!

 Đã mấy năm nay, nhất là từ ngày chiến tranh ở Triều Tiên, Mỹ thường đưa bom nguyên tử ra dọa thiên hạ.

Đùng một cái, hôm 6 - 10, Thống chế Stalin tuyên bố: “Liên Xô cũng có bom nguyên tử đủ các cỡ”.

Thế là Mỹ hoang mang, thất vọng, lo sợ, như bị một quả bom nguyên tử tinh thần. Các nước Tây Âu và Mỹ càng run vì nếu có chiến tranh thứ ba, thì các nước đó sẽ hưởng bom nguyên tử trước hết. Các báo Anh (7-10) đã kêu van: “Số bom nguyên tử của Liên Xô đủ ném tan những Thủ đô của các nước Tây Âu trong chốc lát”.

Trước đây, Mỹ mắc bệnh chủ quan khinh địch, cho rằng Liên Xô không đủ tiền, đủ sức làm bom nguyên tử. Từ nay, thái độ Mỹ thế nào? Chúng ta hãy chờ xem.

Liên Xô luôn luôn chủ trương hòa bình, nên Thống chế Stalin một lần  nữa, đề nghị cấm dùng bom nguyên tử và đem sức nguyên tử dùng vào việc xây dựng kinh tế hòa bình.

C.B.
Báo Nhân Dân, ngày 18-10-1951

*

*          *

QUYỀN TỰ DO CỦA MỸ

Ông Gia-ri-cô, Ủy viên trong Ban Khoa học Văn nghệ toàn quốc Mỹ nói:

“Cha tôi dạy tôi yêu nước, thật thà lo lắng đến nhân dân và tương lai của đất nước.

Ngày nay chữ “tự do” và chữ “nước Mỹ” khác nhau. Vì sao? Người ta nói: Vì Cộng sản. Người ta nói: Muốn ngăn cản chiến tranh, thì phải chuẩn bị chiến tranh. Người ta bắt chúng tôi trung thành với Tư bản, chứ không phải trung thành với Tổ quốc Mỹ. Người ta bắt chúng tôi tỏ lòng yêu nước bằng cách tán thành chiến tranh để tiêu diệt nhân loại… Chúng tôi, những người khoa học, văn nghệ bị thải và bị hăm dọa, chúng tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu, phát minh, sáng tác. Chúng tôi sẽ sáng tạo cho nước Mỹ một nền văn học nhân dân thực sự…”

Ông Gia-ri-cô nói như vậy trước mặt “Ban Điều tra những hoạt động chống Mỹ”.

Ban này bảo: “Không được ghi những lời ấy vào biên bản và mời ông Gia này vào nhà tù!”.

Hiện nay, hơn 100 vị giáo sư và một số đông văn nghệ sĩ nổi tiếng, chỉ vì chống chiến tranh mà bị ở tù.

Văn minh thay, tự do thay, nước Mỹ vậy ôi!

Đ.X.
Báo Cứu quốc, ngày 23-10-1951

*

*          *

VĂN HOÁ MỸ HAY LÀ THUỐC ĐỘC TINH THẦN

 Ở Pari Pháp, hôm 30 tháng 4 năm 1951 có một vụ án xử trộm cướp, mà kẻ cướp là 17 đứa trẻ từ 10 đến 14 tuổi do 1 tướng cướp 12 tuổi chỉ huy.

Hôm 7 - 5 - 1951, lại có một vụ án giết người. Những phạm nhân đều là thanh nên từ 16 tuổi đến 18 tuổi.

Lúc quan tòa xét hỏi, chúng đều khai là chúng thường xem tiểu thuyết Mỹ và chiếu bóng Mỹ, rồi chúng học theo!

Hiện nay, những thứ thuốc độc đó, Mỹ đang gieo rắc cho đồng bào ta trong vùng tạm bị chiếm. Báo Nữu Ước (21 - 3) viết: Sở Thông tin Mỹ ở Sài Gòn mỗi tháng phát cho người Việt Nam hàng chục vạn truyền đơn, sách nhỏ, tranh ảnh, sách giáo khoa, sách lịch sử Mỹ… Sở Thông tin Mỹ sắp in hơn 30 vạn quyển sách bằng tiếng Việt để tuyên truyền chống cách mạng, chống kháng chiến, mở những phòng xem sách, xem báo, những lớp dạy tiếng Anh. Chúng “giúp đỡ” các báo chí Việt gian tuyên truyền “văn hóa” Mỹ. Nói tóm lại: Mỹ đang ra sức đầu độc người Việt Nam bằng “văn hóa” Mỹ? Ta phải kịch liệt chống thứ “văn hóa” Mỹ đó.

Đ.X.
Báo Cứu quốc, ngày 31-10-1951

*

*          *

MỸ LÀ XẤU

Mỹ nữ là gái đẹp. Mỹ đức là nết tốt. Nhưng Mỹ quốc lại là nước xấu.

- Xấu, không những vì Mỹ gây chiến tranh, vì Mỹ xâm lược Triều Tiên, vì Mỹ giúp giặc Pháp và bù nhìn ở Việt Nam. Chính trong nước họ cũng xấu. Bà con hãy xem hai việc sau đây:

Bốn đảng viên Đảng Cộng sản bị kết án 3 và 4 năm tù vì tư tưởng chính trị tòa án đòi tám vạn đô-la bảo đảm. Bốn người cộng sản không có tiền. Hội dân quyền nộp giùm. Tòa án hỏi: Ai quyên số tiền đó? Viên Thư ký của Hội không chịu khai tên ai, vì e vạ lây đến hỏi. Vì vậy viên Thư ký hội dân quyền cũng bị ba tháng tù.

Linh mục Man, người da đen, thường bênh vực đồng bào da đen của ông. Một hôm hai người ra trắng bắt cha Man trói lại, đổ dầu lửa đầy người rồi đốt ông chết cháy. Tòa án Mỹ không đả động đến hai tên giết người ấy.

Chuyện giống như vậy còn nhiều. Thế mà nói Mỹ là tốt sao được

Đ.X.
Báo Cứu quốc, ngày 03-11-1951

*

*          *

NHÂN ĐẠO CỦA MỸ

 1 triệu người chết vì bệnh kinh niên.

60 vạn người mắc bệnh điên, 25 triệu người mắc các bệnh khác.

75 triệu người thiếu thuốc thang, 32 triệu người ở trong những vùng không có thầy thuốc.

Vì sao? Vì các trường học thuốc thiếu tiền, vì học sinh không có tiền ăn học.

Tình hình ở đâu?

- Ở Mỹ.

Phải chăng đó là những người cách mạng bới móc để nói xấu Mỹ?

- Không phải. Đó là lời của Tổng thống Tu-ma nói hôm 22-6-1951.

Đã nói như vậy, phải chăng Tổng thống Tu-ma rút tiền cho các trường học thuốc, rút tiền cho những người ốm đau nghèo nàn?

Không, Tổng thống đã chi 61 ngàn triệu đô-la để chuẩn bị chiến tranh, nhưng không giúp 1 đồng xu nào cho việc y tế.

Nhân đạo của Mỹ là như vậy đó (39 trường thuốc to ở Mỹ lỗ vốn 10 triệu đô la).

Đ.X.
Báo Cứu quốc, ngày 12-11-1951

*

*          *

TU MA ĐẦU BÒ

 Nhiều bạn đọc bảo: Đ.X. nói chính trị nhiều rồi, hôm nay hãy nói một chuyện gì hay hay, tức cười cho bà con nghe. Vâng, thì đây!

Đây là một chuyện trích trong báo ngoại quốc: Ở Berlin Thủ đô Đức, bên này phân giới, người Hồng quân đứng gác, bên kia một tên lính Mỹ đứng canh. Hai người nói chuyện chính trị.

Tên Mỹ khỏe: “Ở nước tao, tự do dân chủ hơn ở Nga. Này như tao đây, mai kia tao về Mỹ, tao có thể đến gặp Tổng thống Tu-ma và bảo ông ta: “Ông Tu-ma, ông là đầu bò”. Tuy vậy ông Tu ma cũng không phạt tao”.

Người Hồng quân nói: “Ở nước tao mới thật tự do dân chủ. Này như tao đây, mai kia tao về Liên Xô, tao có thể đến gặp đồng chí Stalin và nói: “Thưa đồng chí, Tu-ma là đầu bò”. Tuy vậy, đồng chí Stalin không những không phạt tao mà còn cho tao là nói đúng”.

Thế rồi hai chiến sĩ bắt tay nhau cười.

Đ.X.
Báo Cứu quốc, ngày 19-11-1951

*

*          *

KU-KLUK-KLAN

Ở vùng tạm bị địch chiếm cũng như ở các xứ theo Mỹ, Mỹ ra sức tuyên truyền “sinh hoạt văn minh” của Mỹ.

Văn minh thế nào?

Mỹ có những tổ chức như Ku-Kluk-Klan chuyên môn giết chóc người da đen và hãm hại những người dân chủ. Hội ám sát chuyên môn đi ám sát thuê…

Chỉ trong một tuần lễ, ở thành Nữu-Ước có 99 vụ giết người, 7 vụ cướp nhà băng, 3 vụ bắt cóc trẻ con, 14 vụ đào ngạch, 2 vụ đốt nhà, 2 vụ tử tự, một vụ tống tiền.

Mỗi ngày trong toàn nước Mỹ, trung bình có 36 vụ giết người, 255 vụ đánh lộn và hiếp dâm, 1.032 vụ trộm.

Theo báo cáo của công ty an ninh Mỹ phát biểu hôm 12-3-1951, thì năm 1950 ở Mỹ có 1 triệu 79 vạn 30 vụ phạm tội nặng, nghĩa là cứ 3 phút đồng hồ là có một vụ phạm tội.

Ông A-lăng (R.S.Allen) (ký giả Mỹ) viết: “Những việc rất phổ biến ở Mỹ là: Quan lại tham nhũng; tư bản áp bức; nhưng người ốm đau, già yếu cô đơn bị hắt hủi tàn tệ…”.

Các cơ quan chính quyền đều là những dụng cụ trong tay bọn tư bản độc quyền và bọn phản động… Pháp luật bị xem khinh. Rất nhiều công dân không được hưởng quyền lợi theo Hiến pháp”. (Ông A-lăng là một người tư sản chứ không phải cộng sản).

Thế mà Mỹ muốn dùng chiến tranh để “bán” văn minh ấy cho Việt Nam và thế giới.

Đ.X.
Báo Cứu quốc, ngày 14-11-1951

Đức Hiếu (Tổng hợp)
Còn nữa


 

TINH THẦN TRÁCH NHIỆM

Hiện nay, phong trào tự phê bình và phê bình đang mở rộng ở nhiều nơi. Đó là một bước tiến đáng mừng. Nhưng trong những cuộc kiểm thảo, có một thiếu sót chung và quan trọng là chưa nêu thật rõ tinh thần trách nhiệm.

Tinh thần trách nhiệm là gì?

Là khi Đảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công.

Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy…, là không có tinh thần trách nhiệm. Vài thí dụ:

Người đầu bếp, lo làm cho luôn luôn cơm lành canh ngon, bát đũa sạch sẽ. Không phí phạm của công. Tìm cách tăng gia, trồng rau, nuôi gà (có kế hoạch động viên anh em giúp). Khi anh em ốm yếu, thì có bát canh bát cháo. Khi bộ đội đang mải đánh giặc, thì tìm cách đưa cơm đến nơi cho anh em ăn. Khi tiếp tế khó khăn thì tìm mọi cách vượt qua, không để anh em thiếu thốn. Như thế là có tinh thần trách nhiệm.

Người cán bộ quân sự, thì luôn luôn học hỏi chính trị và kĩ thuật, chiến thuật. Luôn luôn săn sóc đến tinh thần và vật chất của đội viên. Đoàn kết nội bộ. Giúp đỡ nhân dân. Kiên quyết chấp hành mệnh lệnh trên giao xuống. Khi đánh giặc thì làm cho toàn đội thấm nhuần tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Gặp việc khó khăn thì cố tìm cách giải quyết đúng. Như thế là có tinh thần trách nhiệm.

Bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm.

Tinh thần trách nhiệm là: Nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ.

Đảng và Chính phủ điều tra, nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận nhằm vào lợi ích chung của nhân dân, đặt chính sách. Cán bộ phải nghiên cứu, hiểu suốt, thấm nhuần chính sách ấy. Theo chính sách ấy mà điều tra, nghiên cứu, hiểu suốt hoàn cảnh thiết thực của đơn vị mình, địa phương mình. Rồi đặt kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực, để giải thích, tuyên truyền, cổ động quần chúng, làm cho mọi người hiểu thấu và ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như là của họ, rồi thi đua thực hiện đầy đủ chính sách ấy. Như thế là làm trọn nhiệm vụ. Để thực hiện chính sách, làm trọn nhiệm vụ, cán bộ chẳng những phải chịu khó giải thích, tuyên truyền, cổ động mà còn phải bàn bạc với quần chúng, hỏi han ý kiến, gom góp sáng kiến của quần chúng. Lãnh đạo quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình… Tóm lại, phải đi đúng đường lối quần chúng. Thế là có tinh thần trách nhiệm đối với Đảng, đối với Chính phủ, đối với nhân dân.

Bệnh quan liêu, mệnh lệnh, chủ quan, hấp tấp, tự tư tự lợi là trái hẳn với tinh thần trách nhiệm.

Tách rời chính sách ra một đường, nhiệm vụ ra một đường là sai lầm. Tách rời chính sách và nhiệm vụ ra một đường và đường lối quần chúng ra một đường cũng là sai lầm. Tinh thần trách nhiệm là gắn liền chính sách và đường lối quần chúng, để làm trọn nhiệm vụ.

Cuộc kháng chiến vĩ đại của ta đã tỏ rằng nhân dân và bộ đội ta rất tiến bộ. Công việc kháng chiến kiến quốc ngày càng nhiều, càng mới, càng to, càng phức tạp. Cán bộ ta không khỏi vấp khuyết điểm trong tiến bộ. Nhưng với sự giáo dục của Đảng, của Chính phủ và của quần chúng, cùng với lòng kiên quyết dùi mài tinh thần trách nhiệm của cán bộ, chúng ta nhất định chiến thắng khuyết điểm cũng như nhất định chiến thắng thực dân.

C. B.

Báo Nhân Dân, số 36 ngày 13/12/1951.

*

*          *

“NHÂN ĐỊNH, THẮNG THIÊN”

Đại ý nghĩa là: Người mạnh hơn trời. Đây là một thí dụ:

Vùng Hoa Bắc (Trung Quốc) sống nhờ ruộng đất. Nhưng trời lại hay phũ phàng, cứ 10 năm thì 9 năm hạn hán. Vùng nào tránh được hạn thì bị lụt. Sau lụt và hạn, lại thường bị sâu. Hạn, lụt, sâu là ba kẻ địch hung ác của nông dân. Vì thế, trước ngày giải phóng đất tuy tốt mà dân lại thường bị nạn đói.

Từ ngày giải phóng, một mặt do Đảng và Chính phủ lãnh đạo, một mặt do nông dân hăng hái xung phong, nên đã đánh bại được ba kẻ địch ấy.

Để chống giặc hạn, nông dân đã thi đua đào giếng, khơi mương và cày bừa sớm. Khi có hạn hán, họ ra sức gánh nước tưới đất.

Để chống giặc lụt, họ thi đua đắp đê, sửa đê, giữ đê và giữ rừng.

Để chống giặc sâu, họ tổ chức thi đua giết sâu.

Mùa vừa rồi, ruộng bông ở Hoa Bắc bị nạn sâu. Thế mà bông vẫn được mùa. Vì hơn 6 triệu nông dân, già trẻ gái trai, đã xuất hơn 80 triệu ngày công, để giết sâu cho 4.254 vạn mẫu bông. Do đó, họ đặt câu hát:

“Ra sức thi đua,

thì mùa chắc được”.

Chắc rằng: Việc gì anh em nông dân Trung Quốc làm được, thì đồng bào nông dân Việt Nam ta cũng làm được.

C. B.

Báo Nhân Dân, số 37 ngày 19/12/1951.

*

*          *

NHI ĐỒNG XÃ HIỆP HÒA (THÁI NGUYÊN)

Trong 4 ngày hồi tháng 10, các em nhi đồng Hiệp Hòa đã thi đua:

Làm giúp 11 gia đình thương binh, tử sĩ và 10 gia đình cán bộ neo người.

Quét 16 cái sân, dọn sạch 2 cái giếng.

Khơi 3 cái rãnh, sửa 95 thước đường đi.

Gánh 14 gánh rạ, 4 gánh lúa.

Gặt 2 mẫu 7 sào lúa, đập 400 lượm lúa, đánh 1 đống rơm, xay 2 thúng thóc, vân vân….

Tuy việc nhỏ, nhưng tinh thần to. Các em đã cố gắng làm đúng lời Bác Hồ dạy: Yêu lao động, yêu đồng bào.

Và nếu các em nhi đồng khắp nơi đều làm được như thế, thì những việc nhỏ ấy sẽ cộng thành một số lao động khá to.

Các em ở Hiệp Hòa làm được, thì chắc các em nơi khác cũng làm được, vì các em nhi đồng nào cũng có tinh thần hăng hái, ham làm.

Nếu được cán bộ, thanh niên và phụ nữ khéo tổ chức và hướng dẫn phong trào Trần Quốc Toản chắc sẽ lan rộng và lên cao.

Đ.X

Báo Cứu quốc số 1980, ngày 28-12-1951

*

*          *

HUYỆN ĐỊNH HÓA THI ĐUA

Trong một đợt học tập thuế nông nghiệp và những việc quan trọng khác, 2.558 đại biểu của 9 xã đã tham gia.

Về công việc sửa chữa đường cầu và vận tải thóc thuế, toàn huyện đã cung cấp hơn 10.500 công dân công. Nay cán bộ huyện và xã đang tìm cách tổ chức dân công cho công bằng hợp lý hơn, sao cho những người đi làm thì công việc nhà có người giúp đỡ.

Về việc giúp đỡ bộ đội đã có 6 xã hứa bán gần 3000 cân thịt trâu và thịt lợn, hơn 2000 cân rau khô, 25.000 cân sắn.

Chị em phụ nữ thì hứa may giúp 1.125 chăn và áo trấn thủ.

Đồng bào trong huyện đã tổ chức 419 hội đổi công gồm 2.633 gia đình và gần 5.000 người để thi đua tăng gia sản xuất và thi đua gặt nhanh, giấu nhanh, nộp thuế nhanh.

Đồng bào và cán bộ Định Hóa thi đua như thế là khá, là thiết thực.

Nhưng vẫn còn khuyết điểm: Thi đua chưa lan rộng (mới có 6 xã thi đua bán sắn, rau và thịt cho bộ đội, chưa có sáng kiến mới (như nuôi giúp lợn cho bộ đội đến khi lợn to thì chia hai, bộ đội lấy một nửa, người nuôi lấy một nửa)….

Mong đồng bào và cán bộ huyện Định Hóa cố gắng thêm và mong các huyện khác thi đua với Định Hóa.

Đ.X

Báo Cứu quốc số 1982, ngày 31-12-1951

*

*          *

SỰ NGHIỆP VĨ ĐẠI CỦA LÊ-NIN

Ngày 21 tháng 1, nhân dân lao động toàn thế giới và các dân tộc đang đấu tranh cho sự tự do của mình, đều thành kính tưởng nhớ Lê-nin. Lê-nin và Stalin chẳng những đã lãnh đạo giai cấp vô sản biến nước Nga phong kiến và lạc hậu thành một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh nhất thế giới, mà còn đưa loài người lao động tiến lên con đường hạnh phúc vẻ vang.

Lê-nin sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870.

Năm 24 tuổi, Lê-nin vào Đảng Xã hội - Dân chủ Nga. Từ đó Lê-nin thành một người tổ chức và lãnh đạo cách mạng.

Năm 1903, Đảng Xã hội - Dân chủ chia làm hai phái. Phái thiểu số (men-sê-vích) chủ trương thỏa hiệp với tư bản. Phái đa số (bôn-sê-vích) là phái chân chính cách mạng do Lê-nin lãnh đạo.

Năm 1905, Lê-nin tham gia lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân chủ Nga đầu tiên. Tháng 12 năm ấy, Stalin gặp Lê-nin trong một cuộc hội nghị của Đảng. Từ ngày ấy, Stalin trở nên người bạn thân và đồng chí trung thành nhất và kiên quyết nhất của Lê-nin.

Năm 1917, Lê-nin và Stalin lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Tiếp theo là 5 năm kháng chiến, chống đế quốc xâm lược và bù nhìn bán nước.

Năm 1919, Lê-nin cùng các lãnh tụ cách mạng các nước lập nên Quốc tế Cộng sản (Đệ tam quốc tế) để lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới.

Ngày 21 tháng 1 năm 1924, Lê-nin mất, thọ 54 tuổi.

Stalin là người thừa kế, củng cố và phát triển sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Lê-nin.

Lê-nin là người đã thực hiện và phát triển chủ nghĩa Mác. Là người cha của cách mạng vô sản và cách mạng dân tộc giải phóng. Là người thầy đã đào tạo ra những chiến sĩ cách mạng thế giới, chẳng những bằng lý luận cách mạng khoa học nhất, mà còn bằng đạo đức cách mạng cao cả nhất.

Lê-nin dạy chúng ta đoàn kết toàn dân và toàn giai cấp để chiến thắng kẻ thù chung là giai cấp bóc lột và đế quốc xâm lược.

Lê-nin dạy chúng ta đối với mọi việc phải xem xét kỹ lưỡng mọi mặt, không nóng nảy, hấp tấp. Song khi đã định kế hoạch hẳn hoi rồi thì phải quả quyết thực hiện cho kỳ được.

Lê-nin dạy chúng ta giản đơn khiêm tốn, trong sạch chính trực.

Lê-nin dạy chúng ta không sợ gian nan cực khổtin chắc vào lực lượng của quần chúng, vào tương lai của cách mạng. Sau Cách mạng Tháng Mười, 14 nước đế quốc từ ngoài đánh vào, phản động trong nước nổi loạn lung tung, gần 9 phần 10 đất nước thành vùng tạm bị chiếm. Lê-nin và Đảng bôn-sê-vích nói kháng chiến nhất định thắng lợi. Quả nhiên kháng chiến đã thắng lợi hoàn toàn. Lê-nin dạy chúng ta muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công thì quyết phải tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Lê-nin nói: “Kinh tế và tài chính phải do nhà nước thiết thực quản lý, giám đốc, thống kê và điều chỉnh; cần quy định cách phân phối sức lao động cho đúng đắn, quý trọng sức dân, tuyệt đối không được lãng phí sức dân, cái gì cũng phải tiết kiệm”. Đối với tệ tham ô hủ hóa, Lê-nin rất nghiêm khắc. Có một lần tòa án Mạc Tư Khoa xử nhẹ một vụ ăn hối lộ, Lê-nin liền viết trong một bức thư: “Không xử bắn bọn ăn hối lộ mà xử nhẹ như thế, là một việc xấu hổ cho những người cộng sản, những người cách mạng…”.

Lê-nin dạy chúng ta phải giữ vững nguyên tắc cách mạng: “Chỉ có chính sách trung thành với nguyên tắc mới là chính sách đúng”.

Lê-nin dạy chúng ta yêu Tổ quốc và yêu nhân dân một cách thiết tha, không bờ bến và ghét cay ghét đắng kẻ địch của Tổ quốc, của nhân dân, đồng thời gắn liền tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế.

Lê-nin dạy chúng ta phải thật thà tự phê bình và phê bình để đoàn kết chặt chẽ và tiến bộ mãi mãi.

Lê-nin dạy chúng ta tuyệt đối tin tưởng vào Đảng, vào tương lai tất thắng của cách mạng và Tổ quốc, vào lực lượng vô cùng to lớn của giai cấp, của nhân dân.

Mỗi một người yêu nước Việt Nam cố gắng thực hiện những lời dạy bảo của Lê-nin, tức là kỉ niệm Lê-nin một cách xứng đáng, vì đó là con đường đưa chúng ta đến kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công.

C. B.

Báo Nhân Dân, số 42 ngày 24-01-1952.

*

*          *

TINH THẦN ĐOÀN KẾT QUÂN DÂN NGÀY THÊM BỀN CHẶT

Nhân dân ta có câu hát:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước, thì thương nhau cùng”.

Không bao giờ ý nghĩa câu hát ấy được thực hiện rõ như ngày nay trong chính sách đại đoàn kết của Đảng, mặt trận và Chính phủ. Cũng không đâu thực hiện sự đoàn kết ấy sâu rộng và thấm thía hơn giữa quân đội và nhân dân ta.

Quân đội ta là quân đội nhân dân.

Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để tranh lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào khác.

Quân đội ta biết rằng: Cơm quân đội ăn, áo quân đội mặc, vũ khí quân đội dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân tăng gia sản xuất, đóng thuế nông nghiệp mà có. Nhân dân thức khuya dậy sớm, ăn gió nằm sương, để đắp đường xây cầu cho bộ đội đi. Nhân dân không quản trèo đèo lội suối không quản khó nhọc gian lao, để chuyên chở súng đạn cho bộ đội đánh giặc. Tóm lại quân đội sinh trưởng, thắng lợi, là nhờ nhân dân ra sức giúp đỡ. Vì thế, bộ đội rất biết ơn và yêu mến nhân dân.

Về phía nhân dân thì ai cũng biết rằng: Có quân đội đánh giặc và giữ làng giữ nước, mình mới được yên ổn làm ăn, Tổ quốc mới được thống nhất, độc lập. Trong công cuộc kháng chiến cứu nước, nhân dân hy sinh là hy sinh một phần của cải và thời giờ. Của cải hết, có thể lại làm ra; thời giờ qua, thời giờ lại đến. Nhưng bộ đội hy sinh là hy sinh xương máu, có khi hy sinh cả tính mạng mình. Cụt chân gãy tay, chân tay không thể mọc lại; người chết không thể sống lại. Đó là sự hy sinh tuyệt đối. Đồng bào biết rằng: Các chiến sĩ trong bộ đội ai cũng có cha mẹ anh em, ai cũng có gia đình thân thích. Nhưng họ đã hy sinh tiểu gia đình của họ, họ đã không ngại rời cha mẹ, bỏ quê hương, ra xông pha bom đạn, để phụng sự đại gia đình dân tộc gồm cả gia đình của mỗi đồng bào. Do đó, nhân dân rất biết ơn và yêu mến bộ đội.

Lòng yêu mến lẫn nhau giữa quân và dân rất rõ rệt ở các chiến dịch. Trong Chiến dịch Hòa Bình và Liên khu III hiện nay, nó càng rõ rệt thêm.

Hàng nghìn hàng vạn đồng bào, gái trai già trẻ, đã hăng hái tham gia dân công, phục vụ chiến dịch. Nhiều người đã làm xong phiên mình, lại xung phong thêm mấy phiên nữa. Tại mặt trận sau lưng địch, đồng bào nhường cơm sẻ áo cho bộ đội, cùng bộ đội đánh giặc. Đánh giặc xong, lại ra sức củng cố cơ sở, xây dựng làng chiến đấu, chuẩn bị chống càn quét.

Theo phong tục ta, ngày Tết là một ngày rất quan trọng. Trên thì cũng bái tổ tiên, dưới thì sum họp gia đình. Vì vậy, dù đi xa hay công việc cấp bách thế nào, đồng bào cũng tìm về nhà ăn Tết. Nhưng trong dịp Tết vừa rồi, đồng bào đi dân công đã tình nguyện ở lại với bộ đội trước mặt trận. Các đồng bào ấy nói: “Đánh thắng giặc, năm sau ăn Tết càng vui hơn”. Lời nói giản dị, ý nghĩa sâu sa. Nó vừa tỏ rõ nhân dân yêu mến bộ đội, bộ đội biết làm cho nhân dân yêu mến, vừa tỏ rõ lòng quyết chiến, quyết thắng của bộ đội và nhân dân.

Do lòng yêu mến ấy, mà có nhiều mẩu chuyện rất cảm động. Vài thí dụ:

Nhiều xóm ở gần mặt trận, đồng bào đã tự động nhường nhà cho bộ đội làm trại quân y, người nhà thì lên lán hoặc lấy lá lấy rơm làm lều ở tạm. Đồng thời suốt ngày suốt đêm, xay thóc giã gạo để tiếp tế cho bộ đội.

Làng X... Ở gần đường. Đèo dốc vì đường trơn, khó đi. Mỗi đêm, các em nhi đồng cầm đóm đi trước, các cụ mẹ chiến sĩ gánh trấu đi sau. Khi đoàn thương binh đến gần, thì cháu soi đường, bà rắc trấu, để những người khiêng thương binh đi cho dễ. Có khi sương sa gió lạnh, các bà, các cháu vẫn vui vẻ chờ suốt đêm.

Nhiều bà cụ và chị em gánh quà bánh đi hàng 5, 7 ngày, đến nấu nướng cho chiến sĩ ăn Tết. Ngày Tết xong, lúc chia tay các cụ, các chị khóc, các chiến sĩ cũng rơi nước mắt.

- Bà cụ V… hơn 70 tuổi đồng bào Mèo tự mình lăn cối và chày từ đỉnh núi xuống, rồi ở luôn tại mặt trận để bày cho các chiến sĩ cách làm gạo dễ dàng.

- Em Nguyễn Thị Vạn 16 tuổi và em Nguyễn Thị Thanh 17 tuổi (hai em ở hai nơi khác nhau), xung phong giúp đỡ thương binh. Băng bó, giặt dịa, nấu nướng, săn sóc, việc gì các em cũng xung phong, việc gì cũng làm chu đáo. Tính nết hai em lại vui vẻ, cho nên anh em thương binh và anh chị em dân công đều rất yêu mến hai em.

- Ông K… có vợ và năm con nhỏ, khi xung phong đi dân công, còn dặn dò vợ lo cấy chiêm trồng màu, để mùa sau cung cấp nhiều lương thực hơn cho bộ đội.

Những mẫu chuyện cảm động như thế rất nhiều.

Vì lòng yêu mến bộ đội, mà nhân dân nảy ra nhiều sáng kiến, để vượt mọi khó khăn.

Vì lòng yêu mến nhân dân, mà bộ đội càng thêm dũng cảm khi ra trận diệt giặc.

Vì lòng yêu mến lẫn nhau, mà nhân dân càng ra sức thi đua tăng gia sản xuất, bộ đội càng ra sức thi đua diệt giặc lập công.

Hồ Chủ tịch nói: Quân dân nhất trí, ta nhất định thắng, giặc nhất định thua, là như thế.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ ta, tình đoàn kết giữa quân và dân đã thành một lực lượng vô cùng to lớn mạnh mẽ. Chính vì tình đoàn kết ấy mà ta đã thắng nhiều chiến dịch và sẽ thắng nhiều nữa. Chính vì tình đoàn kết ấy, mà kháng chiến nhất định thắng lợi hoàn toàn.

Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Quân dân đoàn kết, là đường thành công

C.B.
Báo Nhân Dân số 47-48, ngày 3-3-1952

*

*          *

AI LÀ ANH HÙNG?

Ngang giữa đèo, gần con suối. Đá nằm lổng chổng, nước chảy reo reo. Trong cảnh nên thơ ấy một số chiến sỹ ngồi nghỉ chân và đang bàn bạc sôi nổi. Tôi lắng tai nghe mới biết họ đang thảo luận vấn đề: Ai là anh hùng?

 Người nói thế này, kẻ nói thế khác. Một anh ráng chừng là chính trị viên, móc trong ba lô ra một quyển sổ, rồi giơ tay nói: “Xin các đồng chí cho tôi kết luận. Đây là lời của Bác: “Anh hùng là những người thật cần kiệm liêm chính, hết lòng hết sức phục vụ kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Là những người đầy tớ trung thành của nhân dân, của giai cấp”. Đây là lời của đồng chí Chu Đức(1): “Anh hùng là những người đặt lợi ích cách mạng cao hơn hết; đối với sự nghiệp cách mạng, có tinh thần trách nhiệm và tính tích cực hơn hết. Lòng son da sắt, suốt đời đấu tranh vì cách mạng, không bao giờ nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Là những người không những hy sinh lợi ích cá nhân, mà còn vui vẻ hy sinh cả tính mệnh mình cho cách mạng. Bất kỳ làm việc gì cũng vì lợi ích của quần chúng; lợi ích cá nhân tuyệt đối phục tùng lợi ích của quần chúng”. Các đồng chí nhận rõ rồi chứ?” Anh em rất chăm chú nghe, rồi vỗ tay vang cả quãng rừng. Còn tôi thì khen thầm đồng chí chính trị viên khéo giáo dục.

C.B.
Báo Nhân dân số 54, ngày 17-4-1952

(1) Chu Đức: Tổng Tư lệnh Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc

Đức Hiếu (Tổng hợp)
Còn nữa


 

 

NỮ ANH HÙNG GIAO THÔNG

Chị Đ. quê ở Hưng Yên,

Giao thông một huyện gần miền hoả xa.

Từ tiếng súng bùng kháng chiến,

Huyện chị Đ. giặc chiếm xung quanh.

Mỗi năm mấy cuộc "tảo thanh",

Xóm làng xơ xác, cỏ xanh ngập đồng.

Tuy vậy, dân ta vẫn một lòng kiên quyết,

Quyết làm sao tiêu diệt giặc Tây.

Cho nên: Đấu tranh càng tiến càng gay,

Nhóm kia bị quyét, nhóm này nổi lên.

Trong lúc đó, chị Đ. phụ trách đi làm trạm giao thông bí mật khắp các làng trong huyện.

“Đi đêm nhiều, gặp ma”,

Chị Đ. bị bắt, bị tra sáu lần.

Nhưng lần nào chị cũng giấu được tài liệu, không để lọt vào tay địch. Chị bị địch tra tấn dã man: Mấy lần chết đi, sống lại, kiên quyết không nói một lời. Lần thứ 6, chị bị đánh tợn hơn, bị giam lâu hơn hết. Rồi một tên nguỵ binh đòi lấy chị làm vợ. Chị “tương kế, tựu kế”:

Miễn là ích nước lợi dân,

Hy sinh nào quản chi thân phận mình.

 Từ đó, chị ra sức thăm dò tin tức, bí mật viết lại và nhờ người chuyển đến các nơi. Nhờ vậy:

Mấy lần quân địch đi càn,

Ta đều biết trước, sẵn sàng phản công.

Một hôm, nhân lúc trong đồn địch lộn xộn, chị Đ. bỏ trốn. Vừa bỏ vừa chạy mấy cây số, đến một ao rau muống, chị lặn dưới ao suốt một ngày. Đến tối, chị mới mò lên, tìm về địa điểm bí mật. Thật là:

Mấy phen chìm nổi, lênh đênh

Mà lòng kháng chiến trung trinh không sờn.

C.B.
Báo Nhân dân số 55, ngày 24-4-1952

*

*          *

ĐẠO ĐỨC LAO ĐỘNG

Sau đây là mấy ý kiến của Lênin và Stalin đối với người lao động và chiến sĩ thi đua:

Lênin nói: Công nhân và nông dân… cần phải săn sóc nhà máy và ruộng đất như săn sóc của riêng của mình.

Chủ nghĩa cộng sản là… công nhân tự giác, tự động, tăng năng suất lao động cao hơn năng suất ở các nước tư bản.

Stalin nói: Chỗ xuất sắc nhất của phong trào thi đua là nó làm cho người ta thay đổi thái độ đối với lao động. Trước kia người ta cho lao động là việc nặng nề, xấu hổ. Nay lao động là sự nghiệp vinh quang, vẻ vang, vui thú và anh dũng.

Kế hoạch sản xuất là hành động thực tế của hàng triệu người… Nó là thiết thực, vì nó là chúng ta, là ý chí lao động của tất cả chúng ta, là quyết tâm công tác theo lề lối mới, quyết tâm thực hiện kế hoạch của chúng ta.

Phong trào thi đua đã chứng tỏ: Một số người làm việc kém, một số người làm việc khá, lại có một số người làm rất giỏi - theo cho kịp những người làm rất giỏi để phổ biến việc nâng cao năng suất, thế là thi đua.

Anh hùng lao động là những người cố gắng làm cho giỏi, ra sức phụng sự nhân dân.

Chiến sĩ thi đua… là những gương mẫu làm việc đúng đắn và thiết thực. Họ quý trọng thời giờ. Trong công tác nhưng họ không lãng phí một phút nào, mà cũng không lãng phí một giây nào.

Đ.X.
Báo Cứu quốc số 2092, ngày 4-6-1952

*

*          *

CHỐNG QUAN LIÊU, THAM Ô, LÃNG PHÍ

Vì quan liêu, tham ô, lãng phí có hại cho nhân dân, cho Chính phủ, cho đoàn thể, cho kháng chiến và kiến quốc, nên mọi người có quyền và có nghĩa vụ phải chống. Bước đầu thì chống bằng cách kiểm thảo và phê bình. Còn những người, những cơ quan hoặc đoàn thể nào phạm những điều ấy, thì cần phải thật thà và công khai tự kiểm thảo và kiên quyết sửa đổi.

Gần đây, nhân dân và báo chí đã bắt đầu (tuy còn e dè, thưa thớt) phê bình. Xong những tổ chức hoặc cơ quan bị phê bình thì im lìm, không đăng báo tự phê bình, không tìm cách sửa chữa. Đó là thái độ “bưng mắt bắt chim”, thái độ “giấu bệnh sợ thuốc”, một thái độ không thật thà, không đứng đắn. Mong những ai, những cơ quan nào đã được nhân dân hoặc báo chí phê bình, thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, trên báo chí.

Chúng ta nhiều công việc, ít kinh nghiệm, không tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, mà sợ không kiên quyết tự kiểm thảo và sửa chữa.

Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần kiệm liêm chính, để đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân, toàn quốc. Đó là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi người chúng ta.

C.B.
Báo Nhân Dân số 68, ngày 31-7-1952

*

*          *

*

*          *

MỪNG KÊNH VÔNGA - ĐÔNG HOÀN THÀNH (27-7-1952)

Xưa có câu:

Đào núi và đắp bể

Luyện đá vá trời xanh,

Việc gì, dù khó mấy

Quyết chí, ắt làm thành.

Ngày nay:

Chính sách Stalin

Quyết xây dựng hòa bình,

Và gìn giữ hòa bình,

Tạo phúc cho dân sinh.

Cho nên:

Cuộc thi đua ái quốc

Quýnh toàn dân Xô - Liên,

Công nông và trí thức,

Phụ nữ và thanh niên,

Người người đều thi đua,

Góp sức và góp tiền.

Kết quả là:

Kinh đào Vôn ga - Đông,

Hôm nay mừng thành công,

Mỹ xưởng điện khổng lồ

Tung điện ra khắp vùng

Kênh hơn bảy trăm dặm

Rất tiện cho giao thông,

Hăm tám triệu mẫu cát

Thành ruộng cho nhà nông.

Vì vậy:

Nước đã mạnh, thêm mạnh.

Dân đã giàu, càng giàu.

Thái bình và hạnh phúc,

Hưởng mãi muôn đời sau.

                      *

                *         *

Nước ta đang kháng chiến

Để diệt lũ thực dân.

Khi kháng chiến thắng lợi,

Ta xây dựng dần dần.

Liên Xô đã bước trước,

Việt Nam sẽ tiến sau.

Ta ra sức thi đua,

Thành công ắt cũng mau.

Ta mừng Vônga - Đông,

Ta phất ngọn cờ hồng.

Và hô to:

Kháng chiến nhất định thắng lợi!

Kiến quốc nhất định thành công!

C.B.
Báo nhân dân số 69, ngày 7-8-1952

*

*          *

MỘT LÀNG TIÊN TIẾN KIỂU MẪU

Là làng Thọ Xuân (Thanh Hóa). Sau khi nghiên cứu kỹ và hiểu rõ kế hoạch sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ, đồng bào toàn xã cùng nhau kiểm điểm: Mình đã tiết kiệm chưa? Kết quả là thấy rõ mỗi năm nhân dân toàn xã đã lãng phí 12 vạn nhân công, nghĩa là ta có thể cày cấy thêm 1.000 mẫu ruộng. Thấy như vậy kế hoạch sản xuất và tiết kiệm, lập chương trình nghề nghiệp phụ như kéo sợi, làm vải, vân vân. Rồi phân công cho mọi người từ các cụ già đến các em bé, ai cũng có việc làm. Thế là:

Phân công hợp lý cả làng.

Sản xuất tiết kiệm rõ ràng thi đua.

Một mùa gặt bằng hai mùa.

Dân no, nước mạnh tha hồ đánh Tây.

Chúng tôi chúc đồng bào Thọ Xuân thành công và mong đồng bào các nơi khác cố gắng thi đua với đồng bào Thọ Xuân.

Đ.X.
Báo Cứu quốc số 2141, ngày 12-8-1952

*

*          *

NHÂN NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ

Ngày 8-3-1909, công nhân phụ nữ Mỹ có cuộc đấu tranh to.

Năm 1910, Đại hội Phụ nữ quốc tế quyết định lấy ngày 8-3 làm Ngày Quốc tế phụ nữ.

Năm 1911, phụ nữ nhiều nước bắt đầu kỷ niệm ngày 8-3.

Năm 1917, phụ nữ Nga kỷ niệm ngày 8-3 rất to và đã ảnh hưởng lớn đến cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga.

Năm 1924, phụ nữ Trung Quốc bắt đầu kỷ niệm 8-3 ở Quảng Châu.

Năm 1930, phụ nữ Việt Nam kỉ liệm 8-3 ở nhiều nơi.

Nhân dịp này, tôi xin nêu một số thành tích của phụ nữ, đặc biệt là của chị em Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam ta.

Liên Xô, trong mọi ngành chính trị, kinh tế, văn hóa, phụ nữ đều gánh một phần nhiệm vụ quan trọng như:

Xô Viết tối cao toàn Liên Xô có 280 đại biểu phụ nữ;

Xô Viết tối cao các nước cộng hòa, 1.500 đại biểu phụ nữ;

Xô Viết các địa phương, 50 vạn đại biểu phụ nữ;

Trong các ngành công nghiệp và nông nghiệp, 38 vạn kỹ sư, và nhân viên chuyên môn phụ nữ;

Chiến sĩ lao động thi đua, 73 vạn người;

Anh hùng lao động, 2.170 người;

Giáo viên, giáo sư, 1 triệu người;

Bác sỹ, y tá, 1 triệu người;

Mẹ anh hùng (có 10 con trở lên), 35.000 người.

Trung Quốc, Chủ tịch ủy ban xã, ủy ban tỉnh, đến các bộ trưởng và Phó Chủ tịch Chính phủ Trung ương, đều có phụ nữ.

Trong các Ủy ban Quân sự cũng có phụ nữ.

9 phần trăm các chiến sĩ và anh hùng lao động là phụ nữ

60 phần trăm phụ nữ nông dân tham gia hội đổi công, hợp tác xã

Gần 27 triệu phụ nữ nông dân tham gia nông hội…

Trong Phong trào bảo vệ hòa bình thế giới, phụ nữ cũng giữ một địa vị quan trọng. Nhiều phụ nữ đã được vinh dự nhận Giải thưởng Hòa Bình quốc tế Stalin, như bà Tống Khánh Linh (Trung Quốc), Phác Chính Ái (Triều Tiên), Phen-tông (Anh), Cô-tông (Pháp), Brăngcô (Brêdin).

Việt Nam ta, trong phong trào thi đua diệt giặc lập công, tăng gia sản xuất, phục vụ chiến dịch, bình dân học vụ, du kích, nữ anh hùng, nữ chiến sỹ và nữ thanh niên xung phong đã có nhiều thành tích vẻ vang. Chúng ta cũng nhớ công ơn các bà mẹ và chị chiến sỹ.

Năm nay, trong việc phóng tay phát động quần chúng để triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, phụ nữ ta, trước nhất là phụ nữ nông dân, cần phải hăng hái tham gia, thi đua thực hiện chính sách của Đảng, Chính phủ và Mặt trận. Mong rằng ngày 8-3 năm sau, phụ nữ ta sẽ có quyền tự hào mà tuyên bố trước phụ nữ thế giới rằng: “Chúng tôi đã làm tròn nhiệm vụ”.

C. B.
Báo Nhân Dân số 98,
 từ ngày 6 đến ngày 10-3-1953

*

*          *

CỘT DÂY THÉP

Tôi đi công tác qua làng T.L., đồng bào đang khai hội, kiểm điểm công tác thuế nông nghiệp. Tôi cũng tham gia. Đến mục phê bình và tự phê bình, dân làng phát biểu ý kiến rất sôi nổi. Một chị phụ nữ nói: "Gần làng ta, có một cột dây thép bị mối ăn, ngả xuống đã 4,5 hôm mà các anh cán bộ vẫn chưa cho thay cột khác. Thế là không biết giữ gìn của công, như lời Bác dạy..." Chủ tịch xã và Bí thư chi bộ đến nhận lỗi và hứa sáng hôm sau nhất định sửa lại cột dây thép.

Tiếp lời, mấy thanh niên nông dân nói: "Đó là khuyết điểm chung của mọi người. Sáng mai, thanh niên nhất định xung phong trồng lại cột dây thép". Mọi người vỗ tay.

Một cụ phụ lão nói: "Bảo vệ của công là bổn phận của mọi người công dân. Tôi đề nghị: Từ nay hễ ai thấy đường hỏng hoặc cột dây thép xiêu ngả, thì phải lập tức báo cáo để động viên dân làng đi chữa ngay". Mọi người vỗ tay tán thành.

Tôi mừng thầm: Nhân dân, bộ đội, cán bộ đều biết bảo vệ của công, đó là thêm một bằng chứng tỏ rõ kháng chiến nhất định thắng lợi, kiến quốc nhất định thành công.

C.B.

Báo Nhân Dân số 103,
từ ngày 26 đến ngày 30-3-1953

*

*          *

CHỐNG BỆNH QUAN LIÊU

Từ ngày Đảng và Chính phủ mở phong trào chống bệnh quan liêu, tham ô lãng phí, bằng cách giáo dục tự phê bình và phê bình, quần chúng đã biết phê bình, báo chí đã đăng những lời phê bình của quần chúng. Đó là một tiến bộ. Nhưng báo chí đăng rồi mà không kiểm tra, những cán bộ và những cơ quan bị phê bình thì cứ im lặng. Đó là một khuyết điểm cần sửa chữa.

- Các báo chí cần nêu những việc kiểu mẫu, phân tách rõ ràng, làm cho mọi người nhận rõ: Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Và do đó mà khuyến khích quần chúng, mở rộng phong trào phê bình từ dưới lên trên.

Khi nhận được thư phê bình của quần chúng, thì không lên vội đăng mà phải lựa chọn, điều tra. Khi phải trái đã rõ ràng, mới đăng lên báo. Như vậy, phê bình mới có kết quả thiết thực.

Phải làm cho quần chúng hăng hái phê bình, nhưng đồng thời phải lãnh đạo việc phê bình của quần chúng. Như vậy, thì mối liên hệ giữa báo chí với quần chúng càng thêm chặt chẽ và việc quần chúng là báo chí giúp giáo dục cán bộ cũng có kết quả thêm.

- Các cơ quan và các cán bộ lãnh đạo thì cần liên hệ những việc kiểu mẫu, với công tác của ngành mình và do đó mà mở rộng phong trào phê bình từ trên xuống dưới. Không nên vì việc phê bình ấy không quan hệ trực tiếp với ngành mình mà không nghiên cứu. Cũng không nên tách rời việc phê bình với công tác hàng ngày.

Trong việc “3 chống”, các báo chí cũng như các cơ quan, cần nhằm vào cải tạo tư tưởng. Quan liêu, tham ô, lãng phí cũng như mọi khuyết điểm khác, nguồn gốc là vì tư tưởng không đúng. Tư tưởng trong sạch, lập trường vững, hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, thì tránh được nhiều khuyết điểm.

- Những người bị phê bình (cán bộ hoặc cơ quan), thì phải thật thà tự kiểm thảo trước quần chúng (đăng lên báo), phải quyết tâm sửa đổi. Đè nén phê bình, hoặc phớt phê bình, cũng là tội lỗi.

Mở rộng dân chủ phê bình trong cơ quan và ngoài quần chúng, từ trên xuống và từ dưới lên. “Trên đe dưới búa” của phê bình, thì nhất định tẩy được bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí.

Khéo lãnh đạo, thì đó là một cách rất hay để cải tạo tư tưởng cán bộ, để xây dựng đạo đức trong sạch, để đẩy mạnh công việc kháng chiến và kiến quốc.

C.B.

Báo Nhân Dân số 116,
từ ngày 6 đến ngày 10-6-1953

*

*          *

HẠT ĐỖ TRẮNG VÀ HẠT ĐỖ ĐEN

Đồng chí Nguyên đi dự lớp chỉnh huấn về, quyết tâm sửa chữa sai lầm, phát triển ưu điểm.

Ngoài những cuộc tự phê bình và phê bình ở chi bộ, đồng chí Nguyên dùng một cách tự kiểm thảo như sau:

Đồng chí ấy sắm 2 cái ống và 2 nắm đỗ: - 1 nắm đỗ đen và 1 nắm đỗ trắng. Mỗi khi mắc một khuyết điểm, thì bỏ một hạt đỗ trắng vào ống B. Cứ 10 hôm thì đưa hai ống đỗ ra đếm một lần.

Lần đầu tiên, thấy đỗ đen nhiều hơn đỗ trắng.

Lần thứ hai, hai thứ đỗ bằng nhau.

Lần thứ ba, đỗ trắng nhiều hơn đỗ đen.

Cứ như thế mãi, mỗi lần đỗ trắng càng nhiều thêm, đỗ đen càng ít đi, cho đến ngày gần đây, đồng chí Nguyên thấy không còn đỗ đen, chỉ có đỗ trắng. Anh em cũng đều nhận thấy đồng chí Nguyên tiến bộ nhiều.

Nhưng đồng chí Nguyên thì vừa mừng vừa lo. Mừng vì đã tiến bộ, không phụ công ơn Đảng giáo dục. Lo sợ vì không khéo thì sẽ mắc bệnh tự kiêu, tự mãn, đỗ đen sẽ lại mọc lên.

Cách tự kiểm thảo ấy rất tốt. Địch, bạn rõ ràng, phải, trái rõ ràng, đen, trắng rõ ràng, thì lập trường và tư tưởng cũng rõ ràng.

C.B.

Báo Nhân Dân số 116,
từ ngày 6 đến ngày 10-6-1953

Đức Hiếu (Tổng hợp)
Còn nữa


 

CHỐNG SÂU BỌ, DIỆT GIẶC DỐT

Sâu bọ là loài vật tham ô. Nó là bạn đồng minh của đế quốc và địa chủ phong kiến, vì nó âm mưu ăn hại của dân và phá hoại mùa màng, gây ra đói kém.

Ta có quyết tâm, thì nhất định tiêu diệt được chúng nó. Vài kinh nghiệm:

Ở Hưng Yên, bộ đội địa phương đã cùng đồng bào bắt sâu, bảo vệ được mùa màng.

Ở Thái Bình, học sinh và nhi đồng 2 xã trong 1 tuần lễ (ngoài giờ học), đã bắt được 1 triệu rưỡi con sâu ngô.

Ở Phú Thọ, nông hội các xã Ngô quyền và Liên Hiệp đề ra khẩu hiệu “Bắt sâu ngô”. Toàn thể đồng bào trai, gái, già, trẻ đều tham gia và đã tiêu diệt hết sâu ngô trong xã.

Ở Nam Định, chi bộ xã L. động viên các em nhi đồng trong 15 đêm đã bắt được 933 ki lô sâu, cứu được 686 mẫu ngô.

Thế là:

Tiêu diệt loài sâu bọ tham ô,

Bảo vệ mùa màng, lúa với ngô.

Đồng tâm hiệp lực thì thắng lợi.

Việc chi cũng rứa, khó chi mô!

C.B.

Báo Nhân Dân số 117
từ ngày 11 đến ngày 15-6-1953

*

*          *

ÍCH NƯỚC, LỢI NHÀ

Vì cán bộ và đồng bào làm đúng chính sách tăng gia sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ, mà xã Xuân Huy (Phú Thọ) đã thành một xã kiểu mẫu. Đồng bào trong xã đã quyết tâm vượt mọi khó khăn, cải tiến cách trồng trọt cho nên đã thu được kết quả tốt đẹp như sau:

Toàn xã thu hoạch được 30 phần trăm hơn mùa trước.

95 nhà tăng hơn 50 phần trăm.

13 nhà tăng gấp 2 hoặc hơn nữa.

Nhà tăng nhiều nhất thì 1 sào gặt được 163 kilô lúa tẻ, 185 kilô lúa nếp.

Nhiều nhà, riêng số bội thu về tăng năng suất, đã đủ đóng thuế nông nghiệp.

Ông Nguyễn Vũ Miên là một chiến sỹ dân công, lại được bầu làm chiến sỹ nông nghiệp. Ông Miên đã tăng năng suất 83 phần trăm.

Hoan hô đồng bào xã Xuân Huy!

Xã Xuân Huy làm được, thì các xã khác cũng làm được. Các xã nếu làm được như xã Xuân Huy, thì đồng bào và bộ đội tha hồ no ấm.

Mong rằng các cơ quan và đoàn thể phụ trách huyện và tỉnh, trước hết là nông hội, ra sức phổ biến kinh nghiệm của xã Xuân Huy khắp huyện và tỉnh, để tranh lấy thắng lợi rộng hơn và to hơn nữa.

Thi đua tăng gia,

Ích nước, lợi nhà.

Xuân Huy gương mẫu thật là vẻ vang.

C.B.

Báo Nhân Dân số 118
từ ngày 16 đến ngày 20-6-1953

*

*          *

CÔNG TÁC CẦU ĐƯỜNG

Cầu đường là mạch máu của một nước.

Cầu đường tốt thì lợi cho kinh tế: Hàng hóa dễ lưu thông, sinh hoạt đỡ đắt đỏ, nhân dân khỏi thiếu thốn.

Cầu đường tốt thì lợi cho quân sự: Bộ đội ta chuyển vận nhanh, đánh thắng nhiều.

 Cầu đường tốt thì lợi cho chính trị: Ý nguyện và tình hình của nhân dân nhanh chóng lên đến Đảng và Chính phủ, chính sách của Đảng và Chính phủ mau chóng đến nhân dân.

Nói tóm lại, cầu đường tốt thì mọi việc dễ dàng và thuận lợi hơn. Vì vậy, làm cầu đường cũng như một chiến dịch. Người làm cầu đường cũng là chiến sỹ. Cho nên:

Lãnh đạo về chính trị và kỹ thuật phải vững chắc.

Tổ chức từ xã đến công trường phải chặt chẽ.

Kế hoạch phải tỉ mỉ và đầy đủ, để tránh lãng phí dân công, vật liệu và ngày giờ.

Tư tưởng phải thông suốt từ cấp lãnh đạo đến anh chị em dân công.

Tác phong phải dân chủ, dựa vào lực lượng quần chúng, học hỏi sáng kiến của quần chúng để lãnh đạo quần chúng.

Cán bộ phải làm gương mẫu đi sát với quần chúng, việc tuyên truyền, cổ động, đôn đốc, kiểm tra, thưởng phạt phải đúng mực.

Việc làm cầu đường đã nảy nở nhiều chiến sỹ thi đua xuất sắc, như:

Đồng chí Mao (nữ thanh niên) tăng năng suất hơn gấp 5 mức đã định.

Đồng chí Lý (nữ thanh niên) tăng năng suất hơn gấp 3.

Đồng chí Chum tăng năng suất hơn gấp 4 rưỡi.

Đồng chí Phúc tăng năng suất hơn gấp 4.

Đồng chí Chiểu tăng năng suất hơn gấp 3 rưỡi.

Đồng chí Đoan tăng năng suất hơn gấp 3.

Còn nhiều chiến sỹ khác. Các chiến sỹ có thành tích xuất sắc cần được khen thưởng. Những kinh nghiệm quý báu cần được phổ biến mau chóng và rộng khắp. Phong trào thi đua cần được đẩy mạnh và bền bỉ. Như vậy, thì công tác cầu đường nhất định thắng lợi.

C.B.
Báo Nhân Dân số 119
từ ngày 21 đến ngày 25-6-1953

*

*          *

RA SỨC GIỮ ĐÊ PHÒNG LỤT

Ngày 20-4-53, Chính phủ đã có lời đôn đốc đồng bào về việc đắp đê, hộ đê (báo Nhân Dân, ngày 20-5-1953).

Mỗi năm, mùa mưa đến thì giặc lụt lại uy hiếp.

Giặc LỤT là tiên phong của giặc ĐÓI. Nó là đồng minh của giặc NGOẠI XÂM. Nó mong làm cho dân ta đói kém, để giảm bớt sức kháng chiến của chúng ta.

Đắp đê, giữ đê là để chống giặc lụt và giặc đói, cho nên cũng như một chiến dịch.

Vì nếu “lụt thù lút cả làng”, cho nên cần phải động viên tất cả đồng bào ở vùng có đê, hăng hái tham gia chiến dịch đắp đê, giữ đê.

Trong việc đắp đê, giữ đê, kế hoạch phải rất tỉ mỉ, phân công phải rất rành mạch, chuẩn bị phải rất chu đáo, lãnh đạo phải rất thống nhất.

Cán bộ, quân, dân, chính, Đảng, những vùng ấy phải xem việc đắp đê, giữ đê là việc chính. Tổ chức phải thật đầy đủ. Tuyệt đối chống cách khoán trắng, chống quan liêu, mệnh lệnh.

Đối với đồng bào dân công, phải giải thích, tuyên truyền, cổ động, tổ chức đến nơi, đến chốn. Phải làm cho mọi người hiểu rõ: Đắp đê, giữ đê là lợi ích chung của địa phương, mà cũng là lợi ích thiết thân của mỗi người. Phải chú ý bồi dưỡng tinh thần và vật chất cho dân công. Phải hết sức tránh lãng phí ngày giờ, nhân lực và vật lực cho đồng bào.

Việc thi đua phải tổ chức chu đáo và bền bỉ; phải báo cáo tên những chiến sỹ hoặc những nhóm có thành tích đặc biệt, để Hồ Chủ tịch và Chính phủ khen thưởng. Đắp đê, giữ đê là công việc hính. Nhưng đồng thời, phải xếp đặt các công việc khác cho ăn khớp, chứ không phải vì việc chính mà bỏ trôi những công việc khác.

Lời kêu gọi của Chính phủ nói: “Công tác chống lụt năm nay phải đặt dưới khẩu hiệu: “Đề phòng và đấu tranh”.

Nghĩa là phải tỉnh táo để đề phòng và đấu tranh chống âm mưu địch phá hoại. Đề phòng năm nay nước có thể to hơn mấy năm trước.

Tục ngữ nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”. Từ kháng chiến đến nay, chúng ta đã thắng giặc lụt, đã thắng giặc ngoại xâm, vì quân và dân ta đoàn kết một lòng.

Năm nay, ở những vùng có đê, cán bộ và đồng bào ta nhất định phải đoàn kết một lòng, đưa toàn tâm toàn lực vào việc đắp đê, giữ đê, thì chúng ta nhất định thắng lợi.

C.B.

Báo Nhân Dân số 123
từ ngày 16 đến ngày 20-7-1953

*

*          *

BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG

Đồng bào ta nhiều gia đình có 3 và 5 con ở bộ đội, đã được Chính phủ tặng thưởng Bằng vàng danh dự và Huân chương Kháng chiến.

Nhưng có bà cụ Huân ở Việt Bắc, là Bà mẹ anh hùng bậc nhất. Bà cụ có:

4 con trai,

3 con gái,

1 con dâu,

1 cháu nội.

Tất cả 9 người hoặc ở bộ đội chủ lực, hoặc ở bộ đội địa phương. Trong 9 người một chị làm tổ trưởng du kích đã oanh liệt hy sinh, 3 người đã lập công và được khen thưởng.

Bà cụ tuy tuổi già, sức yếu, nhưng vẫn ra sức giúp đỡ bộ đội và cán bộ, làm gương mẫu trong mọi công việc kháng chiến.

Gia đình bà cụ đã được tặng Bằng vàng danh dự và Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Vừa rồi lại được Chính phủ đặc biệt tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba. Gia đình bà cụ Huân thật là xứng đáng:

Cả nhà kháng chiến,

Muôn thủa rạng danh,

Nêu gương dân tộc,

Việt Nam quang vinh.

Đ.X.
Báo Cứu Quốc số 2466,
ngày 11-11-1953

*

*          *

“ANH HÙNG” GIẢ VÀ ANH HÙNG THẬT

- Anh hùng giả là những người có độ lượng nhỏ bé, như cái vỏ hến, một giọt nước cũng đủ đầy tràn. Khi có chút ít thành tích, thì họ liền ra mặt “anh hùng”.

Họ không hiểu rằng: Có thành tích đó là nhờ lực lượng của quần chúng, nhờ chính sách của đoàn thể. Họ tự cao tự đại, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, không cầu tiến bộ nữa. Tiếp đến, việc to họ không làm được, việc nhỏ họ không muốn làm. Rồi họ than phiền “đại tài, tiểu dụng”, quần chúng quên “ơn” họ, đoàn thể quên “công” họ. Họ đâm ra uất ức, bất mãn. Họ không biết rằng: So với thành tích của toàn Đảng, toàn dân, toàn giai cấp, toàn thế giới thì thành tích của họ khác nào một hạt cát trên bãi bể Đông.

- Anh hùng thật là những người có bất cứ việc to việc nhỏ, luôn luôn cố gắng, vượt qua khó khăn, làm tròn nhiệm vụ.

Khi có thành tích, họ càng khiêm tốn, càng cố gắng, càng gần gũi quần chúng – như vậy càng to thì rễ càng ăn sâu xuống đất. Họ không vểnh mặt lên trời. Họ không “kể ơn” với nhân dân, với đoàn thể. Trái lại, họ càng lo làm cho có thành tích hơn nữa, đặng đền ơn nhân dân và đoàn thể đã bồi dưỡng và giúp đỡ họ thành công.

Tiền đồ của họ rộng thênh thang, họ tiến bộ mãi. Quần chúng và đoàn thể quý trọng họ mãi, tin cậy họ mãi.

Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc khắp các ngành các nơi, chúng ta đã có những anh hùng như vậy và chúng ta cần nhiều anh hùng như vậy. Ai mà có quyết tâm phụng sự nhân dân, phụng sự kháng chiến, thì đều trở nên anh hùng thật.

C.B.
Báo Nhân Dân số 149
từ ngày 21 đến ngày 25-11-1953

*

*          *

TÍCH CỰC VÀ NÓNG NẢY

- Tích cực là bất kỳ làm việc gì cũng vui vẻ, hăng hái, có tinh thần phụ trách, vượt mọi khó khăn, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ. Đối với mọi việc đều điều tra cẩn thận, nghiên cứu rõ ràng, dựa theo hoàn cảnh thiết thực, có kế hoạch, có từng bước, tỉnh táo, bền bỉ, không chủ quan.

Thế là tích cực. Mà như thế thì mọi việc đều thành công.

- Nóng này là việc gì cũng chủ quan, không điều tra nghiên cứu kỹ lưỡng, vội vàng, muốn làm cho mau, làm ẩu. Thiếu kiên nhẫn, thiếu tinh thần chịu khó.

Như người nông dân nọ: Muốn lúa mau cao, mau tốt bèn nắm lúa nhổ lên!

Làm việc nóng nảy, thì nhất định thất bại.

Nóng nảy là một thứ bệnh “tiểu tư sản”.

Tích cực là “gắn liền khí khái cách mạng với tinh thần thực tế”.

Chúng ta phải tránh tính nóng nảy, phải nâng cao tinh thần tích cực.

Tích cực, thì sẽ thành công,

Nóng nảy, kết quả sẽ không ra gì

C.B.

Báo Nhân Dân số 150
từ ngày 26 đến ngày 30-11-1953

*

*          *

VÀI KHUYẾT ĐIỂM TRONG VIỆC PHÁT ĐỘNG QUẦN CHÚNG

Đảng và Chính phủ đã định rõ ràng chính sách đối với các tầng lớp trong nông thôn. Nhưng có một số cán bộ chưa thấm nhuần tư tưởng và nắm vững chính sách cho nên:

Có cán bộ cho rằng: Sau khi phát động, thì bần cố nông “lên mặt”.

Có cán bộ cho rằng: Những bần cố nông có buôn bán chút đỉnh, hoặc đi củi, trồng rau, là không phải “nông dân thuần túy”.

Có cán bộ cho rằng: Thanh niên nông dân “không cực khổ”, cho nên không cần phát động thanh niên.

Có cán bộ cho rằng: Đã đấu địa chủ thì “đấu tất”, cần gì phải phân biệt đối đãi.

Cũng như những sai lầm khác, những sai lầm kể trên đều vì cán bộ tư tưởng chưa được thông, chưa nắm vững chính sách. Mà đã sai lầm, thì “sai một li, đi một dặm”, ảnh hưởng lớn đến công tác.

Vậy toàn thể cán bộ ta cần phải nghiên cứu thật kỹ, thấm nhuần thật sâu, thi hành thật đúng chính sách của Đảng và của Chính phủ - đó là con đường duy nhất để đi đến thành công.

C.B.
Báo Nhân Dân số 156
từ ngày 26 đến ngày 31-12-1953

*

*          *

THANH NIÊN NÔNG DÂN

Chiến sỹ trong quân đội ta (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích), đại đa số là thanh niên nông dân.

Đồng bào đi dân công, đại đa số là thanh niên nông dân.

Trong những đội thanh niên xung phong, đại đa số cũng là thanh niên nông dân.

Mà đại đa số thanh niên nông dân thì bị phong kiến địa chủ áp bức bóc lột tàn tệ…

Nói tóm lại, đại đa số thanh niên nông dân, gái cũng như trai đều bị đói rách, nghèo nàn, lầm than cực khổ; cho nên chí khí đấu tranh của họ rất cao. Đi đánh giặc, đi dân công, tham gia phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất, thanh niên đều rất hăng hái.

Vì vậy, các đội công tác cũng như cán bộ phụ trách địa phương cần phải chú trọng việc phát động, tổ chức, giáo dục và cất nhắc thanh niên nông dân. Thanh niên là một cái nguồn vô tận, từ nguồn ấy mà chúng ta đào tạo những cán bộ tốt cho hiện tại và tương lai của nước nhà.

C.B.
Báo Nhân Dân số 159
từ ngày 11 đến ngày 15-1-1954

*

*          *

LÒNG TRÁCH NHIỆM VÀ CHÍ CẦU TIẾN

Lòng trách nhiệm và chí cầu tiến là thế nào? - Trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc, bất kỳ việc to, việc nhỏ đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Cho nên việc gì cũng quý, việc gì cũng cần. Công cuộc cách mạng là do nhiều việc nhỏ, nhiều bộ phận mà xây dựng nên. Nếu không có những việc nhỏ, những bộ phận nhỏ cộng lại, thì sẽ không thành việc lớn. Công việc xã hội cũng giống như cái đồng hồ, nếu thiếu một cái đinh nhỏ cũng sẽ ảnh hưởng đến cả cái đồng hồ.

Vì vậy, khi chúng ta phụ trách một công việc gì, bất kỳ to nhỏ, chúng ta cũng phải luôn luôn nhớ đến việc đó quan hệ với cách mạng, ảnh hưởng đến cách mạng. Chúng ta phải đưa toàn tâm, toàn lực làm cho thành công, làm trọn nhiệm vụ. Chỉ làm cho xong chuyện, làm cho qua loa, tức là có hại cho cách mạng, có hại đến nhân dân.

Tư tưởng ta thông như vậy thì gặp việc gì chúng ta cũng cẩn thận, cố gắng, quyết tâm làm cho vượt mức. Thế là lòng trách nhiệm.

Xã hội ngày càng tiến, công tác của ta cũng phải ngày càng tiến. Chúng ta phải kháng chiến thắng lợi, phải thực hiện dân chủ mới, phải tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, năng lực của ta, sáng kiến của ta, tiến bộ của ta cũng phải luôn luôn phát triển, tiến lên không ngừng. Không tiến, tức là thoái.

Chúng ta quyết tâm cầu tiến bộ, quyết tâm vượt khó khăn, thì dù công việc to lớn như cải tạo xã hội, cải tạo thiên nhiên, chúng ta cũng làm được. Người Liên Xô đã đổi rừng hoang làm thành phố, biến bãi cát thành ruộng vườn, cũng vì có chí cầu tiến không ngừng. Vì vậy, mỗi người chúng ta đều phải có lòng trách nhiệm và chí cầu tiến.

Đ.X.

Báo Nhân Dân số 194
từ ngày 6 đến ngày 10-2-1954

Đức Hiếu (Tổng hợp)
Còn nữa


 

VỮNG CHẮC VÀ CỐ CHẤP

Lập trường chắc chắn và tư tưởng cố chấp, hai điều đó khác nhau, nhưng có người nhầm lẫn cố chấp với chắc chắn. Vì nhầm lẫn ấy, mà tưởng chỉ có ý kiến của mình là “đúng”, ý kiến của người khác là “sai”. Khi bàn việc gì, dù sai hay là đúng, cũng cứ khư khư giữ lấy ý kiến của mình, tưởng như thế là “lập trường chắc chắn”, “có tính nguyên tắc”. Thế là cố chấp.

Thế nào là lập trường vững chắc?

- Tức là đứng hẳn về lập trường giai cấp công nhân. Không có chút tự tư tự lợi làm mờ tối tư tưởng và hiểu biết của mình. Lý luận phải chăng đều do công tác thực tế thử thách. Việc đúng là đúng, chứ không phải cứ tự cho mình là đúng. Khiêm tốn, cẩn thận, chứ không phải hàm hồ khinh người. Người khác đúng thì mình thật thà hoan nghênh và sẵn sàng học tập. Người khác sai thì mình chịu khó lắng nghe, bền lòng giải thích. Dù sai lầm của mình rất nhỏ, cũng mạnh dạn thừa nhận, kiên quyết sửa chữa. Dù ý kiến của người khác chỉ đúng một chút, mình cũng phê phán chỗ sai, hoan nghênh chỗ đúng.

Ai mà tư tưởng cố chấp, chắc chắn là người chủ quan. Chỉ nghe, chỉ hiểu một chút, hoặc chỉ có chút kinh nghiệm, rồi cứ lắp nguyên văn vào tất cả mọi việc một cách máy móc. Kết quả là đầu óc cứng đờ, không biết biến hóa, trái ngược với thái độ của giai cấp công nhân, trái hẳn với khoa học cách mạng.

Vì vậy, chúng ta phải học tập và rèn luyện, làm cho lập trường vững chắc và chống tư tưởng thái độ cố chấp và chủ quan.

C.B.
Báo Nhân Dân số 165,
từ ngày 11 đến ngày 15-2-1954

*

*          *

CHIẾN SỸ GƯƠNG MẪU

Trong công tác phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất, số đông cán bộ đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Nhưng vẫn có những cán bộ phạm sai lầm như: Chủ quan khinh địch, sợ khó sợ khổ, chủ quan bao biện… Có một số (rất ít) hủ hóa. Có một số cán bộ rất kỳ quái - trong lúc “3 cùng” mà dùng nước hoa.

Cuộc phát động quần chúng là một trường huấn luyện rộng lớn, để rèn luyện và cải tạo cán bộ cũ, để đào tạo và cất nhắc cán bộ mới. Đó là một cuộc thi đua ái quốc thiết thực và dài hạn cho tất cả cán bộ cũ và mới.

Chúng ta vui lòng nêu lên những chiến sỹ xuất sắc sau đây (ở Liên khu IV). Những chiến sỹ này đã: Chịu khó chịu khổ, đi sâu làm kỹ, thực hiện dân chủ, giữ vững ý thức tổ chức và kỷ luật, đoàn kết nội bộ và quần chúng, làm đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, theo đúng đường lối của nhân dân.

Nữ đồng chí: Đào, Thiều, Nam, Bút (đồng bào thiểu số); đồng chí: Tỉnh (Công giáo), Thi, Quang, Tiếp, Loan, Thúc, Thuần, Phát, Ban, Thu Giang, Thương (1 cán bộ Công giáo đã 60 tuổi).

(Mong các đoàn công tác gửi tên chiến sỹ gương mẫu cho chúng tôi để đăng tiếp).

Đ.X.
Báo Cứu quốc số 2546
ngày 5-3-1954

*

*          *

CHỐNG NẠN GIẤY TỜ

Từ các bộ ở Trung ương đến cơ quan các xã, nạn giấy tờ rất nặng, làm hại rất nhiều. Như: Bộ Nội vụ: Một bản thông tư (biên chế) dài 26 trang; một biên bản (hội nghị củng cố xã) dài hơn 100 trang, v.v.

Bộ Tài chính: Riêng Vụ Ngân sách, một tháng đòi hỏi hơn 10 báo cáo, có báo cáo dài hơn 10 trang; bản thống kê dài 53 cột, v.v…

Bộ Canh nông: Là một bộ có quan hệ nhiều nhất với nông dân, cho nên chúng tôi có nhiều thí dụ hơn:

- Giấy tờ quá nhiều, quá dài: Bộ đã gửi công văn (về việc mở trường chuyên nghiệp) cho 38 cơ quan, trong đó nhiều cơ quan không cần nhận công văn ấy. Một biên bản (tổng kết vụ chiêm 1953) kèm thêm tài liệu phụ lục dài 120 trang. Một cơ quan canh nông địa phương đòi hỏi ở xã cung cấp một thống kê dài 153 cột.

- Quá chậm trễ: Chỉ thị về việc giữ gìn trâu bò khỏi rét: Mùa rét đã lâu rồi, chỉ thị mới đến. Bộ viết giấy xin giống nấm, Thứ trưởng ký rồi, sau một tháng giấy vẫn còn nằm ở Văn phòng của Bộ.

- Không đúng nguyên tắc: Có những công văn gửi lên Ban Kinh tế Trung ương, mà Bí thư ký tên; công văn gửi cho ủy ban các liên khu, mà Giám đốc ký tên. Những công văn ấy phải do Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng ký tên mới đúng.

- Cách làm luộm thuộm: Như chương trình sản xuất, đánh máy luộm thuộm, đến nỗi Quốc hội xem không được phải gửi trả lại.

- Kém giữ bí mật: Bộ dùng điện thoại đánh điện, phải kinh qua nhiều trạm chuyển mà nói cả những điều cần phải giữ bí mật.

Nguyên nhân: Vì không sát thực tế, không gần gũi quần chúng. Cán bộ chỉ lo viết nhiều chỉ thị, thông tư… Nhưng không lo việc làm phải ăn khớp với lời nói, chỉ thị phải có thể thực hành. Cán bộ nhầm tưởng rằng cứ gửi nhiều thông tư, chỉ thị là xong việc; mà không theo dõi, đôn đốc, giúp đỡ địa phương, không kiểm tra công việc thực tế.

Cách chống nạn: Mỗi cán bộ cần phải thiết thực phụ trách công tác thực tế, mọi việc phải làm cho có kết quả thiết thực. Phải gần gũi quần chúng, học tập quần chúng, để hướng dẫn và giúp đỡ quần chúng, phải rút bớt thời giờ viết công văn, thêm nhiều thời giờ công tác thực tế. Phải mở rộng dân chủ, thực hiện thật thà tự phê bình và phê bình từ trên xuống, từ dưới lên, nhất là từ dưới lên.

Kết luận: Nạn giấy tờ đã làm tốn của hao công của nhân dân, nó cũng làm hỏng tư tưởng, tác phong của cán bộ. Nó là di tích của đế quốc và phong kiến, là hiện tượng tai hại của nạn quan liêu. Mà nạn quan liêu là mẹ đẻ ra nạn tham ô, lãng phí.

Nhân dân rất mong các bộ thi đua tiễu trừ triệt để bệnh giấy tờ và đôn đốc cấp dưới cũng thi đua như vậy. Đó là một cách để thực hiện cần, kiệm, liêm, chính.

C.B.
Báo Nhân Dân số 170,
từ ngày 6 đến ngày 10-3-1954

*

*          *

NHIỆM VỤ CỦA CHI BỘ Ở CÁC CƠ QUAN

Chi bộ phải là động lực của mỗi cơ quan. Bởi vậy, nhiệm vụ của chi bộ là:

- Làm sao cho toàn thể nhân viên đều cố gắng thực hiện đầy đủ chính sách của Đảng, của Chính phủ và hết lòng hết sức phụng sự nhân dân.

- Làm sao cho mọi người thực hành cần, kiệm, liêm, chính.

- Làm sao để tẩy trừ những bệnh quan liêu, hình thức, tham ô, lãng phí, a dua, dối trá, trái luật lệ của Chính phủ, trái kỷ luật lao động. Vạch rõ các khuyết điểm và đề ra các sửa chữa, không để khuyết điểm nhỏ chồng chất thành khuyết điểm to.

- Xét kỹ ngân sách của cơ quan, nâng cao năng xuất công tác, giữ gìn bí mật của nhà nước, sắp xếp chu đáo và kiểm tra đến nơi đến chốn mọi công việc.

- Tăng cường giáo dục chính trị và học tập nghề nghiệp của nhân viên. Chăm sóc giúp đỡ cho mỗi một người tiến bộ.

- Giải thích cho mọi người thấu hiểu chính sách của Đảng, của Chính phủ, khuyến khích mọi người đề nghị ý kiến để thực hiện đầy đủ những chính sách ấy. Làm cho mọi người đều hiểu rõ nhiệm vụ vẻ vang của mình, ở bất kỳ địa vị nào, làm công việc gì đều vì nhân dân, vì Tổ quốc mà đấu tranh, đều thi đua làm đúng những nghị quyết và kế hoạch của Đảng, của Chính phủ.

Chi bộ cần phải làm được như vậy. Mà muốn làm được như vậy, thì mỗi đảng viên phải xung phong làm gương mẫu trong mọi việc, đồng thời phải thật thà đoàn kết và giúp đỡ anh em ngoài Đảng.

Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên quyết chống cái thói “cả vú lấp miệng em” ngăn cản quần chúng phê bình. Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ.

Cần chú ý: Để làm những việc trên đây, chi bộ phải dùng cách chính trị, giáo dục, đề nghị, giải thích, khai hội bàn bạc với quần chúng… Chứ tuyệt đối không được lạm quyền, mệnh lệnh. Phải nhớ rằng: Chi bộ là một tổ chức lãnh đạo chính trị, chứ không phải là một tổ chức hành chính.

Các chi bộ bất kỳ ở cơ quan to nhỏ, đều nên đặt kế hoạch thi đua thiết thực, thi hành những công tác nói trên để góp sức làm trọn hai nhiệm vụ trung tâm mà Đảng và Chính phủ đã đề ra; đẩy mạnh kháng chiến và cải cách ruộng đất.

C.B.
Báo Nhân Dân số 176,
từ ngày 6 đến ngày 10-4-1954

*

*          *

KINH NGHIỆM XẤU VÀ KINH NGHIỆM TỐT

Trong bước đầu kiểm tra việc chỉnh lý thuế nông nghiệp năm 1953, ta đã thấy những kinh nghiệm xấu. Vì cán bộ mắc bệnh quan liêu, hoặc bệnh tự tư tự lợi mà có những khuyết điểm tai hại như:

Chỉ ở trung du Việt Bắc đã để lậu 1 vạn 366 mẫu ruộng. Ở tả ngạn, có huyện bỏ quên 4,5 trăm mẫu không khai. Ở miền núi, nhiều cán bộ ban thuế đã ẩn lậu, tính đổ đồng, mỗi cán bộ lậu độ 8 sào. Số ruộng đất thì giấu bớt, số người thì man khai thêm. Cả hai cách đều để lậu thuế. Như ở Hải Hậu có địa chủ khai man thêm 8 người, ở Thạch Bi có địa chủ khai man thêm 11 người, vân vân…

Kinh nghiệm tốt - Khi hiểu rõ chính sách, thì nhân dân rất hăng hái. Chẳng những không khai man, ẩn lậu mà còn thi đua nộp nhanh, nộp đủ, có nơi nộp vượt mức. Ví dụ:

Thôn Xuân Liêm, chỉ trong một tiếng rưỡi đồng hồ nộp đủ 62 tạ. Rồi đồng bào còn tự động đi gánh giúp các thôn khác. Thôn Liên Đôi, chỉ trong 2 tiếng đồng hồ nộp đủ 74 tạ.

Xã Hải Châu, chỉ trong một ngày rưỡi nộp xong 1.150 tạ, vượt mức 32 tạ. Cán bộ lại thanh toán xong nợ Chính phủ mắc của dân, miễn thuế và giảm thuế đúng mức cho dân nghèo. Thành thử thuế thu nhanh chóng, vượt mức, nhân dân lại phấn khởi, vui vẻ tăng gia sản xuất và hăng hái làm công việc kháng chiến.

Kết luận: Nhân dân ở đâu và lúc nào cũng hăng hái, chính sách của Đảng và Chính phủ bao giờ cũng đúng đắn. Nếu cán bộ tẩy trừ sạch bệnh quan liêu và ích kỷ, làm đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, đi đúng đường lối quần chúng, thì việc gì to mấy, khó mấy cũng thành công.

Đ.X.
Báo Cứu quốc, số 2573, ngày 12-4-1954

*

*          *

CÁCH NÓI CỦA QUẦN CHÚNG

Phụ nữ xã T.T. họp, một cốt cán là chị Nâu hướng dẫn. Chị Nâu nói: Hôm nay chị em ta họp để bàn cách chia ruộng đất thế nào. Ví dụ, nay chị em ta hái được một buồng chuối, có nải to nải nhỏ, thì chia thế nào cho đều được?

Một chị nói: “5 ngón tay có ngón dài, ngón ngắn. Chị em ta phải thương yêu nhau, nhường nhau, chứ thế nào nải to, nải nhỏ cũng có chênh lệch một tí”.

Chị Nâu nói: “Thế thì ruộng đất cắt ra thật đều mà chia có được không?”.

Một chị khác nói: “Không, ta phải nhân nhượng nhau chứ?”.

Chị Nâu lại nói: “Hái được buồng chuối, tôi giữ nải to lại nhiều quả, chị em thì giữ nải nhỏ, như vậy có nên không?”.

Các chị em đều nói: “Không nên, chuối là của chung, một người giữ nhiều quá để chị em khác không có thế là không thương yêu nhau”.

Chị Nâu nói tiếp: “Thế thì ruộng đất chúng ta đấu tranh được, người nhận được nhiều có nên rút bớt chia cho người khác không?”. Mọi người đều tán thành rút bớt. Chị Nâu kết luận: “Thế thì chúng ta phải đoàn kết thương yêu nhau để chia ruộng đất. Người nhận nhiều ruộng phải nhường bớt để chia cho người thiếu hoặc không có ruộng đất”. Tất cả chị em vui vẻ tán thành.

Trong cuộc khai hội, ai cũng có ý kiến, cũng tham gia hoặc bàn bạc. rồi ai cũng hiểu chính sách và tán thành chính sách. Cuộc họp đã vui vẻ lại không tốn nhiều thì giờ.

Đó là cách khai hội, cách bàn bạc của quần chúng và kết quả tốt của nó.

Đó là điều mà cán bộ ta nên học tập để tránh những “khách quan chủ quan, tích cực tiêu cực, sự thực cầu thị, dây muống dây cà…” mà kết quả là kéo dài thời giờ, quần chúng ít hiểu.

Cách nói không mất tiền mua,

Giản đơn, dễ hiểu, thì vừa tai dân

Đ.X.
Báo Cứu quốc, số 2574, ngày 14-4-1954

*

*          *

MẤY KHUYẾT ĐIỂM CỦA BÁO CHÍ TA

So với mấy năm trước, thì nay báo chí ta có tiến bộ, nhưng vẫn còn nhiều khuyết điểm cần phải sửa chữa. Vài thí dụ:

Đối với các ngành hoạt động, nêu các thành tích - thế là đúng nhưng rất ít phê bình các khuyết điểm - thế là không đúng. Có khi phê bình, thì cũng “đánh trống bỏ dùi”, không đi sâu xét kỹ vì sao có khuyết điểm ấy? Và sau khi phê bình những cơ quan hoặc những người bị phê bình đã thật thà tự kiểm thảo và sửa đổi chưa?

Về thi đua tăng gia sản xuất thì các báo chí ta chưa làm trọn nhiệm vụ như: Nghiên cứu tỉ mỉ, nêu lên rõ ràng và bày cách áp dụng rộng rãi những kinh nghiệm tốt. Chưa lắng nghe những lời phê bình và những điều đề nghị của anh em lao động trong các ngành. Chưa phê bình nghiêm khắc những cách làm việc thủ cựu và những cái gì nó ngăn trở bước tiến trong các công tác. Chưa khen ngợi một cách đúng mức (không thổi phồng) những thành tích đã thu được, đồng thời nhắc nhở những việc còn phải làm để tiến bộ hơn nữa…

Lại thí dụ như các hội đổi công ở nông thôn, các báo chí ta chỉ nêu những con số phát triển, nhưng không nghiên cứu kỹ càng những hội ấy có ưu điểm gì, để giúp họ phát triển; có khuyết điểm gì để giúp họ sửa đổi; những khó khăn gì, để giúp họ giải quyết.

Nói tóm lại: Để làm trọn nhiệm vụ tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn, thì các báo chí ta cần phải gần gũi với quần chúng hơn nữa, đi sâu vào công việc thực tế hơn nữa, cách làm việc của các báo chí phải cải thiện hơn nữa.

C.B.
Báo Nhân Dân số 181,
từ ngày 1 đến ngày 5-5-1954

*

*          *

CHỚ KIÊU NGẠO, PHẢI KHIÊM TỐN

Bệnh cá nhân chủ nghĩa đẻ ra bệnh kiêu ngạo.

Kiêu ngạo là: Khi công tác có ít nhiều thành tích, ít nhiều thắng lợi thì lên mặt anh chị, lên mặt công thần. Rồi đối với việc học tập thì lười biếng không ra sức nâng cao trình độ của mình. Trong công tác thì xem thường nhân dân, xa rời quần chúng. Ở trong Đảng thì không thực hiện chế độ dân chủ tập trung, không tuân theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Phớt kỷ luật và chính sách của Đảng và Chính phủ. Khinh rẻ ý kiến của cấp dưới. Xem thường chỉ thị của cấp trên. Không muốn chịu kiểm tra, không muốn nghe phê bình. Thân với những kẻ xu nịnh tâng bốc mình. Xa tránh những người tính trực, nói thẳng…

Kết quả của bênh kiêu ngạo là: Thoái bộ, xuống dốc, rồi đi đến bất mãn, hủ hóa.

Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhân dân lao động, chứ không phải của anh hùng cá nhân. Công việc kháng chiến kiến quốc ngày càng nhiều, càng to, càng mới. Đại đa số chúng ta thì trình độ còn thấp, kinh nghiệm còn ít. Có như thế mới làm trọn nhiệm vụ mà nhân dân giao phó cho chúng ta.

Chúng ta phải tuyệt đối chống bệnh kiêu ngạo, phải luôn luôn khiêm tốn. Mọi công tác phải dựa hẳn vào quần chúng, hoan nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra. Trong đoàn thể thì phải giữ vững dân chủ tập trung, tập thể lãnh đạo, phải mở rộng tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên trên. Có như vậy, mới tiến bộ chung, tiến bộ mãi.

Thế là khiêm tốn. Khiêm tốn là một đạo đức mà mọi người cách mạng phải luôn luôn trau dồi.

C.B.
Báo Nhân Dân số 181,
từ ngày 1 đến ngày 5-5-1954

Đức Hiếu (Tổng hợp)
Còn nữa


 

CẦN PHẢI XEM BÁO ĐẢNG

Đảng ta mạnh vì Đảng ta tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, suốt từ trên xuống dưới. Tờ báo của Đảng có nhiệm vụ làm cho tư tưởng và hành động thông suốt và thống nhất. Trong báo Đảng có những mục giải thích về:

Lý luận Mác - Lê-nin.

Tình hình thế giới và trong nước.

Đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và của Chính phủ.

Chương trình và kế hoạch của những công tác cấp thiết.

Đời sống và ý nguyện của nhân dân.

Những kinh nghiệm tốt và xấu của các ngành, các địa phương.

Các học tập, công tác, tự phê bình và phê bình…

Tờ báo Đảng là những lớp huấn luyện giản đơn, thiết thực và rộng khắp. Nó dạy bảo chúng ta những điều cần biết làm về tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo và công tác. Hàng ngày nó giúp nâng cao trình độ chính trị và năng suất của chúng ta.

Nếu cứ cắm đầu làm việc mà không xem, không nghiên cứu báo Đảng, thì khác nào nhắm mắt đi đêm; nhất định sẽ lúng túng, vấp váp, hỏng việc.

Vì vậy, cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng, toàn thể đảng viên và cốt cán cần phải xem báo Đảng.

Có những đồng chí mượn cớ quá bận việc, hoặc cớ này, cớ khác mà không chú ý xem báo Đảng. Đó là che giấu bệnh lười, đó là một khuyết điểm to cần phải sửa chữa ngay. Vô luận công việc bận đến thế nào, nếu khéo sắp xếp thì nhất định có thời giờ xem báo. Hồ Chủ tịch và nhiều đồng chí Trung ương cũng bận việc không kém các cán bộ khác, nhưng ngày nào cũng xem được sách và nhiều thứ báo. Đó là một điều chúng ta phải học tập.

Hai vấn đề nữa: 1) Số báo ta có hạn mà người cần xem báo thì nhiều; 2) Nhiều người không sẵn tiền mua báo. Để giải quyết hai khó khăn ấy, các chi bộ, cơ quan, đơn vị, nhà máy… nên tổ chức góp nhau mua báo, cùng nhau đọc báo. Khi xem báo thấy những vấn đề quan trọng thì nên cùng nhau thảo luận. Gặp vấn đề gì khó hiểu thì nên viết thư hỏi nhà báo.

C.B.

Báo Nhân Dân số 197,
 từ ngày 22 đến ngày 24-6-1954

*

*        *

KINH NGHIỆM PHÁT ĐỘNG QUẦN CHÚNG

Trong đợt 5, gần 3.300 cán bộ (non một nửa là cán bộ cũ) đi phát động ngót 200 xã.

Nhiều cán bộ thật sự “ba cùng”, thăm nghèo hỏi khổ. Có đội đã giúp nông dân đào giếng tát nước, tăng gia sản xuất...

Nhưng vẫn còn một số cán bộ phạm những khuyết điểm nghiêm trọng. Khuyết điểm chính là không biết tuyên truyền chính sách, không biết chấp hành chính sách. Do đó, mà sinh ra những khuyết điểm khác như:

- Có đội thì nghi ngờ tất cả cán bộ địa phương, không phân biệt người tốt kẻ xấu.

- Có đội thì không chịu được khổ, không thật “ba cùng”, bắt rễ lung tung, nhờ tổ chức cũ.

Đối với trung nông, có đội thì giải thích: "Trung nông lừng chừng, cho nên chỉ đoàn kết thôi" (Công Liêm, Thanh Hoá). Có đội thì bắt bớ lung tung, niêm phong cả nhà trung nông (Yên Bái). Có đội thì đấu cả trung nông, không cho trung nông tố khổ và giam giữ cả bần nông (Tuyên Quang).

- Đối với phú nông, có đội cấm cả phú nông không cho đi lại và vạch thành phần lung tung, từ 11 địa chủ tăng đến 65 địa chủ (Trường Văn, Thanh Hoá).

- Đối với địa chủ ương ngạnh, đội thì không dám trấn áp, đội thì trấn áp tràn lan bừa bãi. Có đội đấu địa chủ trong Đảng cũng như đấu ở ngoài dân, đấu từ chiều đến sáng hôm sau, dùng cách "phát hiện ngay, buộc tội ngay" (Yên Bái).

- Có đội thì phát động các em nhi đồng chửi rủa địa chủ, có đội thì nói: "Không thoái tô, thì chết".

- Đối với nông dân công giáo, có đội đã đưa chủ nghĩa Mác-Lênin ra giải thích. Nhiều cán bộ hễ nói đến cha xứ, không phân biệt tốt xấu, cứ gọi là thằng, làm cho nông dân công giáo khó chịu.

Đây chỉ là vài thí dụ về một số khuyết điểm đã ảnh hưởng xấu đến công tác. Để giành lấy kết quả tốt, tất cả các đội cần phải thật thà kiểm thảo từng bước công tác để sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm.

C.B.

Báo Nhân Dân số 214,
 từ ngày 13 đến ngày 15-8-1954

*

*        *

PHẢI THEO ĐÚNG KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG

Đoàn kết là sức mạnh của Đảng. Đoàn kết chặt chẽ và kỷ luật nghiêm khắc, hai điều đó không thể rời nhau.

Kỷ luật nghiêm minh, để bảo đảm tư tưởng nhất trí và hành động thống nhất của toàn Đảng, toàn dân.

Chủ trương của Đảng ta là: Trong nội bộ thì mở rộng dân chủ, tự phê bình và phê bình. Nguyên tắc tổ chức thì cực kỳ nghiêm, tức là bất kỳ ở hoàn cảnh nào, mọi đảng viên và cán bộ cũng phải thật thà và triệt để chấp hành chính sách và nghị quyết của Đảng, phải làm đúng chế độ gửi báo cáo và xin chỉ thi.

Mỗi khi gặp tình hình mới, công tác mới, nhất là hiện nay từ chiến tranh đổi sang hoà bình, là một cuộc đổi mới rất lớn

Tư tưởng của một số đảng viên và cán bộ không khỏi bỡ ngỡ, lệch lạc, hoặc tả hoặc hữu. Cho nên thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất kỷ luật, tập trung lãnh đạo là việc cực kỳ cần thiết và cực kỳ quan trọng.

Nhiệm vụ của Đảng ta là một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Ngoài lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Để làm tròn nhiệm vụ nhân dân giao phó cho Đảng, toàn thể cán bộ và đảng viên, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Trung ương, Phải tuyệt đối chấp hành mọi chính sách và nghị quyết của Đảng.

Hiện nay, chính sách của Đảng và của Chính phủ ta là: Thi hành đúng đắn hiệp định đình chiến, giữ gìn và củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc. Mọi hoạt động của Đảng, của Chính phủ và của nhân dân ta đều nhằm vào mục đích ấy. Mỗi lời nói, mỗi việc làm của đảng viên và cán bộ ta đều phải nhằm vào mục đích ấy. Các cơ quan tuyên truyền, tổ chức, giáo dục của Đảng phải làm cho cán bộ và đảng viên nhận rõ và theo đúng kỷ luật của Đảng. Đối với mỗi công tác quan trọng, cần phải làm cho mọi người hiểu cái gì nên làm, cái gì nên tránh, thế nào là đúng, thế nào là sai kỷ luật của Đảng. Như vậy kỷ luật của Đảng sẽ được bảo đảm, công tác của Đảng sẽ được thuận lợi, nhiệm vụ của Đảng sẽ chắc chắn hoàn thành. Toàn thể đảng viên và cán bộ ta hãy quyết tâm làm theo đúng kỷ luật của Đảng!

C.B.

Báo Nhân Dân số 217,
 từ ngày 22 đến ngày 24-8-1954

*

*        *

PHÁT ĐỘNG QUẦN CHÚNG, KINH NGHIỆM TỐT

Đồng chí Nguyễn Thị Kim được phái về phát động một làng đồng bào công giáo và thiểu số. Trong các cuộc họp, đồng bào có vẻ e dè, ít phát biểu ý kiến.

Đồng chí Kim ra sức thăm nghèo hỏi khổ, đi sâu xét kỹ, thì thấy đồng bào có thắc mắc:

- Thiếu trâu bò, thiếu thóc giống để cày cấy - lo thiếu ăn.

- Trong trận địch càn quét, nhiều nhà cửa bị phá - thiếu chỗ ở.

- Nhiều con em bị bắt đi ngụy binh, đồng bào lo không biết Chính phủ sẽ đối với họ thế nào.

Đồng chí Kim đến từng nhà, từng xóm, giải thích vận động, tổ chức hội đổi công, giúp nhau trâu bò và thóc giống. Kết quả các nhà đều gieo được mạ.

Lại tổ chức các nhóm đi cắt tranh, giúp nhau làm nhà.

Trong lúc đó, lác đác có bệnh đậu mùa. Đồng chí Kim tổ chức một tuần lễ vệ sinh. Nhờ sạch sẽ mà đậu mùa đỡ được nhiều. Trong khi làm những việc đó, đồng chí Kim giải thích rõ ràng chính sách khoan hồng của Chính phủ đối với nguỵ binh và những người khác đã lầm đường theo địch. Từ đó, đồng bào yên lòng, hết e dè thắc mắc, rất tin cán bộ và rất hăng hái đấu tranh.

Đồng chí Kim có thành tích tốt là vì đã đi sát với quần chúng, hiểu rõ tâm trạng của quần chúng, giúp đỡ quần chúng thiết thực giải quyết những thắc mắc và những khó khăn trong đời sống hằng ngày.

Đồng chí Kim là một gương mẫu mà mọi cán bộ đều nên noi theo.

C.B.
Báo Nhân Dân số 218,
 từ ngày 25 đến ngày 27-8-1954

*

*        *

NHỮNG KINH NGHIỆM CẦN PHẢI TRÁNH TRONG CÔNG TÁC PHÁT ĐỘNG QUẦN CHÚNG

Ở Hà Tĩnh có những khẩu hiệu: "Tố lên nỗi khổ để Đảng và Bác nghe", "Triệt để giai cấp địa chủ, nông dân". Không nói triệt để cái gì?

- Có cán bộ giải thích: "Vì trung nông thờ ơ với thuế nông nghiệp cho nên chỉ đoàn kết với họ. Vì phú nông kháng chiến mạnh, cho nên liên hiệp với họ".

- Ở Thái Nguyên có cán bộ đảo ngược chính sách đã nói: "Rút xấu bù tốt, rút xa bù gần". Kết quả: Ai cũng muốn bù tốt, bù gần.

- Ở Cao Bằng, tại một nơi trước bị địch chiếm, khi giải thích chính sách khoan hồng của Chính phủ, cán bộ nói: Ai có tội, nói thật sẽ được khoan hồng. Giấu không được. Bay lên trời cũng có súng bắn. Chui xuống đất cũng đào lên. Trốn vào hang cũng đục đá bắt bằng được.  Một cách khoan hồng thật quái lạ!

- Khi phê bình cán bộ không nắm vững chính sách, vì đã nói đến địa chủ và phú nông trước hết, rồi nói đến trung nông, sau cùng mới nói đến bần cố nông. Thế là đoàn ủy đã đảo ngược chính sách.

Trong một bản báo cáo của tòa án nhân dân đặc biệt, một thẩm phán đã viết: “Địa chủ đã đánh vào gáy ông Y, máu chảy lan rộng bằng một gian nhà. Hiện nay ông Y còn sẹo ở gáy dài độ năm mươi phân tây”. Một cái sẹo ở gáy dài nửa thước tây! 

- Trong đợt 4, chỉ có độ nửa số cán bộ “ba cùng” mà có nơi đã bị 90  phần 100 rễ là rễ xấu.

- Ở xã T, Đồng chí A chắc 2 cốt cán đã được “bồi dưỡng” 100 %. Khi sắp giới thiệu hai người vào Đảng họ đều nói: “Nhà neo người, không dám vào Đảng. Chúng em có xin vào đâu”. Thế là đã rất sơ suất đối với việc giới thiệu người vào Đảng.

Một khuyết điểm rất phổ biến là: Khi nói với bà con nông dân, cán bộ hay dùng danh từ: Sách lược, quan điểm, đối tượng, cao độ, v.v và v.v... Kết quả là “dầm” suốt buổi mà chẳng ai hiểu cán bộ “dầm” cái gì.

Những cái tếu trên đã làm hại nhiều cho công việc. Mong cán bộ ta cẩn thận từng lời nói, việc làm, thật thà “ba cùng”, làm đúng chính sách, để giành lấy kết quả tốt hơn trong công tác phát động quần chúng.

C.B.

Báo Nhân Dân số 221,
 từ ngày 4 đến ngày 6-9-1954

*

*        *

BỌ ĐỘI ĐÁNH THẮNG GIẶC LỤT

Quân đội nhân dân chẳng những khi cầm súng đánh giặc, mới lập được công. Mà trong thời kỳ hòa bình cũng lập được công. Thí dụ:

Năm nay, nước sông to hơn mọi năm trước. Ở Liên khu III, nhiều chỗ đê vỡ. Bộ đội ta ở những vùng đó đã ra sức cùng nhân dân chống lụt, giữ đê, đã có những hành động oanh liệt và anh hùng tập thể như: Ở Vụ Bản (Nam Định), và Lý Nhân (Hà Nam) khi thấy đê sạt, cống vỡ, toàn thể đại đội L. và trung đội M. liền nhảy xuống nước, nắm chặt tay nhau, dùng thân mình làm con đê sống. Nước lên ngập cổ, các chiến sĩ vẫn kiên quyết giữ vững để đơn vị khác và nhân dân có đủ thời giờ chữa lại đê.

Nhiều đơn vị không quản mưa to gió rét, làm việc suốt ngày đêm. Có đơn vị đã khéo kết hợp việc giúp dân giữ đê với việc tuyên truyền giải thích cho đồng bào rõ chính sách của Đảng và của Chính phủ.

Kết quả là đã cứu được hàng vạn mẫu ruộng, lại thắt chặt thêm mối đoàn kết giữa quân và dân. Đồng bào Nam Định đã đặt câu hát thắm thiết để tặng bộ đội:

Dù rằng công việc khó khăn,

Các anh bộ đội cũng lăn mình vào.

Dù nguy hiểm đến thế nào,

Các anh bộ đội chẳng bao giờ chùn.

Một lòng vì nước, vì dân,

Các anh xứng đáng là con Bác Hồ!

Đó là một giải thường rất quý báu cho bộ đôi! Chúng tôi được tin rằng Hồ Chủ tịch và Chính phủ định khen thưởng thêm những đơn vị đã có công đánh thắng giặc lụt.

Hoan hô tinh thần anh dũng của bộ đội ta!

C.B.

Báo Nhân Dân số 237,
 từ ngày 11 đến ngày 12-10-1954

*

*        *

TUYÊN TRUYỀN

Mỗi người yêu nước đều phải làm tuyên truyền. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động của chúng ta có thể là một công tác tuyên truyền. Vài thí dụ:

Mới đến chỗ động, cơ quan N. liền đặt kế hoạch, chia, phân công vận động nhân dân. Tổ thì khuyến khích và giúp sức cùng đồng bào làm vệ sinh khắp phố. Tổ thì giúp mở lớp bình dân học vụ v.v.... Chỉ trong mấy hôm mà cán bộ cơ quan và nhân dân trong phố đoàn kết thân mật, như anh em một nhà.

Nghe nói bộ đội ta rất trong sạch, một Hoa kiều muốn thử xem có thật như thế chăng. Mỗi khi các chiến sĩ đến mua gì, ông ta cứ thoái thừa tiền. Mấy lần như vậy, lần nào các chiến sĩ cũng đưa trả số tiền cho ông ta. Sau đó, tự ông ta đi tuyên truyền khắp phố: “Bộ đội cụ Hồ liêm chính thật”.

C.B.

Báo Nhân Dân số 273, ngày 25-11-1954

*

*          *

THẦY THUỐC NÓI

Chữa bệnh lâu năm thì phải uống thuốc đắng cay nhiều ngày mới khỏi. Đối với một người như vậy, đối với một nước cũng như vậy.

Việt Nam ta bị bệnh mất nước 80 năm trường, tức là hơn 29.000 ngày! Xương tủy bị vi trùng thực dân đục khoét. Lại bị 15 năm - tức là hơn 5.400 ngày chiến tranh tàn phá (kể từ năm 1939, Đại chiến thế giới lần thứ Hai).

Bệnh thật nặng! Song, vì nòi giống Tiên Rồng khí huyết rất khoẻ, cho nên sau 8, 9 năm uống thuốc kháng chiến, ta đã thoát khỏi tai nạn mất nước, đập tan ách nô lệ giành lại độc lập, chủ quyền. Đó là một kết quả cực kỳ to lớn nhưng mới là kết quả bước đầu.

Bệnh khỏi, còn phải trải qua một thời kỳ cố gắng gay go, mới đến ngày thật khỏe. Sau một trận ốm 29.000 ngày, chúng ta phải trải qua một thời kỳ chịu khó, chịu khổ, vượt nhiều khó khăn để khôi phục lại mức sống bình thường về mọi mặt. Cũng như nhà nông làm ruộng, từ khi chuẩn bị gieo mạ cho đến gặt lúa, phải trải nhiều ngày thức khuya dậy sớm, chân lấm tay bùn. Không nên sốt ruột!

Từ sau cách mạng thành công đến ngày khôi phục lại nền kinh tế, Liên Xô đã trải qua 12 năm gian khổ., Trung Quốc trải qua 3 năm.

Kinh nghiệm thiết thực ấy chứng tỏ rằng sau vài năm phấn đấu chúng ta có thể khôi phục lại kinh tế nước nhà. Với hai bàn tay không, chúng ta đã anh dũng kháng chiến 8,9 năm, đã giành được tự do, độc lập. Thì với lòng nồng nàn yêu nước và chí kiên nhẫn, cố gắng của mọi người dân và mọi tầng lớp, chúng ta nhất định xây dựng được một đời sống hòa bình tươi đẹp, mọi người đều có công ăn việc làm, áo ấm cơm no.

C.B.

Báo Nhân Dân số 275, ngày 28-11-1954

Đức Hiếu (Tổng hợp)
Còn nữa

Bài viết khác: