Chỉ mục bài viết

 80. Dù tá hay tướng đều phải lo phục vụ nhân dân

Vào khoảng tháng 7 năm 1944, một máy bay Mỹ bị quân Nhật bắn rơi ở Hòa An, Cao Bằng. Phi công Mỹ nhảy dù rơi xuống cánh rừng đã bị du kích địa phương bắt.

Lúc này Mỹ ở trong phe Đồng minh chống phát xít. Phi công Mỹ được đưa đến chỗ chúng tôi. Bác gọi tôi đến, chỉ thị:

- Tuy ta còn thiếu thốn, nhưng các chú cố gắng cho anh ta ăn uống tương đối, cư xử tử tế, nhân đạo để họ hiểu ta.

Vâng lệnh Bác, chúng tôi đã làm như vậy. Phi công Mỹ được ăn với khẩu phần hơn chúng tôi.

Sau đó mấy ngày, Bác cho đưa anh ta đến gặp Bác. Bác hỏi chuyện bằng tiếng Anh. Người phi công vô cùng ngạc nhiên, trố mắt nhìn Bác đầy vẻ kính phục, không sao hiểu nổi ở chốn rừng núi này lại gặp được một ông già gầy guộc, mặc áo chàm với đôi mắt rực sáng lại nói tiếng Anh rất thành thạo, am hiểu phong tục nước Mỹ.

Sao (Shaw) - tên người phi công - tha thiết xin được thả về bộ chỉ huy Mỹ đang đóng trên đất Trung Quốc, dù có phải tốn phí đến bao nhiêu khi về nước cũng xin Chính phủ Mỹ và gia đình lo chịu.

Bác mỉm cười và giải thích thêm:

- Các anh trong quân đội Đồng minh, cùng chung một mục đích chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hòa bình thế giới. Chúng tôi cư xử với anh như thế này là thể hiện những cam kết thiện chí chứ không phải dùng anh vào mục đích kiếm lợi.

Sao đã hiểu và càng kính phục, tin tưởng Bác. Sau đó, chính anh ta đã được Bác cho theo sang Côn Minh, trao lại cho Bộ Tư lệnh Mỹ.

… Bác ở Trung Quốc về được một thời gian, Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ điện cho Bác, xin được cử người sang để hợp tác bằng cách họ sẽ cho người nhảy dù xuống căn cứ Tân Trào.

Tôi lại được Bác giao nhiệm vụ đón 5 người Mỹ này. Chúng tôi đốt lửa lấy khói làm ám hiệu cho máy bay biết mục tiêu. Khi họ nhảy dù xuống, chúng tôi tập hợp bộ đội hoan hô họ. Họ rất cảm động trước việc làm đó của ta.

Sau khi tiếp nhận 5 nhân viên tình báo quân sự Mỹ, họ đều được Bác giao nhiệm vụ. Bác chỉ thị thành lập đại đội Việt - Mỹ và chỉ thị tôi làm Đại đội trưởng.

Một người Mỹ mang hàm Thiếu tá tên là Tô-mát làm Tham mưu trưởng đại đội. Lúc đó, tôi còn nhớ là đi rất tự hào. Tôi thưa với Bác là nếu Thiếu tá làm tham mưu trưởng, thì đại đội trưởng gọi là cấp gì, nào ngờ nét mặt Bác nghiêm lại. Bác bảo:

- Chú phải lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt, dù tá hay tướng, đã là một chiến sĩ cách mạng cũng đều phải lo phục vụ nhân dân cho tốt cả.

Từ bấy đến nay tôi luôn luôn nhớ lời dạy ấy.

(Thượng tướng Đàm Quang Trung)

81. Phải lắng nghe ý kiến của quần chúng

Dù bận nhiều việc làm, nhưng Bác rất quan tâm tới công tác văn nghệ. Bác dạy chúng tôi, một cách hết sức nhẹ nhàng. Tưởng Bác đùa, nhưng càng ngẫm càng thấy ý nghĩa sâu sắc vô cùng trong mỗi câu nói vui, bình thường của Bác. Có một dạo anh Đinh Đăng Định theo Bác đi công tác. Về rồi, một hôm Bác gọi anh sang ăn cơm và nói:

- Hôm trước chú chụp khá nhiều đấy. Bây giờ rửa ảnh ra xem cái nào dùng được, đưa qua Bác coi. Còn thì cất đi. Rồi Bác cười với chúng tôi: "Cái gì cũng đưa ra hết sao!".

Các bài báo của Bác, nghĩ đến đâu Bác đánh máy đến đấy. Bác không viết trước. Bác đánh từ từ, chậm rãi, đánh mổ cò bằng hai ngón tay. Anh Đinh Đăng Định đến xin chụp ảnh Bác, vừa đưa máy ảnh ngắm, Bác vội khoát tay:

- Không, Bác đánh mổ cò thế này... để Bác sửa lại đã. Không thì người ta cười cho!

Chẳng những Bác dạy chúng tôi đừng có tự nhiên chủ nghĩa trong nghệ thuật phải có một kiến thức rộng rãi, mà còn phải lắng nghe ý kiến quần chúng.

(Trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

82. Nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng hết sức vinh quang của các thầy, cô giáo

Bác đến. Cả hội trường reo lên. Bác vẫy tay chào mọi người, rồi bước lên bục nói chuyện. Nhìn thấy Bác, tôi vui sướng quá, nước mắt cứ trào ra. Bác mặc bộ quần áo kaki đã bạc trắng, và vẫn đi đôi dép cao su. Bác khỏe lắm, nước da đỏ hồng. Râu tóc đã bạc nhiều. Nhưng vẫn ánh mắt dịu dàng và nụ cười hiền hậu, gần gũi năm xưa... Ánh mắt, nụ cười mà tôi không bao giờ quên được.

 Bác nói chuyện với chúng tôi rất vui, rất sôi nổi. Bác hoan nghênh năm học vừa qua các thầy giáo, cô giáo đã có nhiều cố gắng.

 Bác nói:

 - Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước tiên phải có con người xã hội chủ nghĩa. Các thầy giáo, cô giáo là những người đào tạo cho Tổ quốc những con người mới. Các thầy giáo, cô giáo phải thấy nhiệm vụ đó là hết sức vinh quang nhưng cũng vô cùng nặng nề, mà mỗi người đều phải cố gắng vượt bậc mới hoàn thành được...

(Hiền Đức, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

83. Các chú có báo không?

Ông cụ bắt tay chúng tôi và hỏi:

- Các chú là tự vệ thôn đây?

- Dạ.

Ông cụ liền chỉ tay vào các đồng chí cùng đi, nói: - Các chú đây là Giải phóng quân.

Lâu nay ba tiếng Giải phóng quân có sức thu hút mãnh liệt đối với tôi. Hằng ngày cứ đứng trên đê, hướng về dãy núi Tam Đảo, tôi ao ước sao có cánh để bay tới chiến khu Tuyên - Thái mà sống cuộc sống chiến đấu và tự do trên ấy. Tôi đã nhiều lần đề nghị cấp trên cho thoát ly để tham gia Giải phóng quân, nhưng chưa được. Giờ đây trước mặt tôi là những con người ấy đang tươi cười bắt tay mình. Tôi không sao nén được cảm động trước những đồng chí mới gặp lần đầu này, đặc biệt là cụ già trong đoàn.

Sau phút chào hỏi, chúng tôi mời ông cụ về trụ sở tự vệ của chúng tôi trong thôn. Tới cổng thôn, ông cụ dừng lại xem các khẩu hiệu kẻ trên bức tường. Chợt nhìn thấy hàng dây cờ căng trước cổng thôn, ông cụ bỗng nhiên hỏi:

- Sao các chú làm cờ của ta nhỏ hơn cờ của các nước đồng minh?

Chúng tôi cùng nhìn lên, thì ra cờ của ta nhỏ hơn cờ của các nước đồng minh thật! Một đồng chí trong chúng tôi thưa với cụ:

- Dạ, giấy đỏ và giấy vàng nhân dân ta mua làm cờ nhiều quá nên thiếu ạ! Vì muốn cho đủ, nên chúng cháu phải cắt bỏ đi một chút ạ.

- Không nên - ông cụ khẽ lắc đầu và bảo. Các chú phải hiểu là: Cách mạng đã thành công, nước ta đã giành được độc lập và ngang hàng với các nước khác, vì vậy cờ của ta phải bằng cờ của các nước. Có thế mới tỏ rõ chí tự cường, tự trọng của mình.

Chúng tôi đều vâng lời, một đồng chí tự vệ vội trèo lên lấy dây cờ xuống để sửa lại.

Về tới trụ sở của đội tự vệ (nói là trụ sở, thật ra chỉ là một ngôi miếu gần đình làng tôi, cả ngôi miếu bấy giờ chỉ có hai cái phản để chúng tôi nghỉ mỗi khi đi tuần tra, canh gác về; sở dĩ chúng tôi chọn nơi đây là cốt để yên tĩnh và chờ đến tối sẽ chuyển sang địa điểm khác), tôi vội đi lên trước, toan trải chiếu, nhưng ông cụ gạt đi và thản nhiên ngồi xuống phản. Hai đồng chí Giải phóng quân cùng anh em tự vệ chúng tôi gác phía ngoài. Số còn lại thì vào nghỉ ở chiếc phản kề bên.

Tôi mang bộ đồ trà tới. Quen như tiếp khách ở nhà, tôi toan rót nước ra chén. ông cụ bảo:

- Cháu cứ để đấy, ai khát sẽ rót uống, không nên rót sẵn. Tôi vâng lời. Ông cụ lại hỏi:

- Các chú có báo không?

- Dạ, có ạ.

Tôi vội mang tới cho ông cụ tờ báo Cờ giải phóng chúng tôi vừa mua ban sáng. Ông cụ chỉ đầu bài rồi giao cho một đồng chí Giải phóng quân đọc, các đồng chí khác cùng ngồi quây quần lắng nghe. Ông cụ vừa nghe, vừa thỉnh thoảng ghi gì đó vào sổ tay. Có lúc ông cụ dừng lại, nêu câu hỏi để các đồng chí Giải phóng quân nêu ý kiến, rồi cụ giảng giải thêm, sau đó mới cho đọc tiếp.

(Trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

84. Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở Trại Kim Đồng

Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu ở trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối. Nói với các cán bộ phụ trách giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía:

- Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô, các chú lại rào dây thép gai như một nhà tù thế này?

Chú Thuận thưa:

- Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ!

Bác lắc đầu: Các cô, các chú phải tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai của các cháu.

Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui chơi. Bác khen: "Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn - Bác hỏi cán bộ phụ trách trại - còn thế nào, các cô, các chú biết không?

Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp:

- Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ. Bác Hồ mỉm cười:

- Chú nói mới đúng có một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu mồ côi, điều lớn nhất là phải bù đắp tình thương. Các cháu đã không còn bố, mẹ thì các cô, các chú ở đây là bố, là mẹ của các cháu. Các cô, các chú nuôi dạy các cháu phải đem cả tấm lòng làm mẹ, làm cha mà cư xử, mà săn sóc, mà dạy bảo. Bác thấy ở đây, đối với các cháu, còn cái vẻ "trại lính” thiếu cái ấm cúng của gia đình. Dạy cho các cháu vào khuôn phép, sống có kỷ luật, trật tự là đúng. Nhưng không được để các cháu mất cái hồn nhiên, mất cái vui tươi, thoải mái. Đừng biến các cháu thành các "ông cụ non". Các cô, các chú phải làm sao cho các cháu thấy trại Kim Đồng là gia đình của các cháu, đi xa các cháu nhớ, lúc ở nhà các cháu vui. Được như vậy thì cần gì phải rào dây thép gai, phải canh phòng nghiêm ngặt với các cháu?

Bác lại hỏi:

- Những cháu kém có nhiều không?

- Thưa Bác, còn nhiều lắm ạ.

- Nhiều là bao nhiêu?

Đồng chí phụ trách hơi bối rối. Bác nói ngay:

- Quản lý các cháu thì cần biết cụ thể từng cháu một, biết chắc chắn cái dở, cái hay của mỗi đứa. Có như vậy thì dạy mới có kết quả tốt.

Bác bảo chú Thuận đứng bên:

- Cho Bác gặp cháu nào kém nhất trại.

Em Quốc đứng khoanh tay trước mặt Bác, Bác cúi xuống vuốt ve nhè nhẹ tóc em. Bác hỏi:

- Tên cháu là gì?

- Thưa Bác, tên cháu là Quốc lủi ạ! Bác nhìn em, ái ngại:

- Ai đặt cho cháu cái tên ấy?

- Dạ thưa, các bạn gọi cháu thế ạ.

- Vì sao các bạn gọi cháu là Quốc tủi?

- Thưa Bác... Cháu... Cháu hay trốn trại. Cháu chui qua hàng rào, lủi và các ngõ phố ạ.

- Sao cháu không chịu ở trong trại mà lại trốn ra bên ngoài?

- Thưa Bác... ở trong trại khổ cực lắm ạ.

- Khổ cực như thế nào?

- Dạ chúng cháu bị gò bó đủ thứ ạ.

- Cháu nói rõ sự gò bó cho Bác nghe nào?

- Thưa Bác...

Quốc nhìn Bác Hồ mà nước mắt trào ra, nghẹn ngào không nói lên lời. Bác xoa đầu em, Bác đã hiểu thấu tất cả, dù em chưa nói ra dược những điều muốn thưa với Bác, Bác khuyên Quốc: "Từ nay cháu phải phấn đấu bỏ cái tên "lủi", giữ lại cái tên Quốc...". Nước mắt càng giàn giũa trên hai má Quốc.

Bác Hồ cầm tay em Quốc đi ra chỗ cả trại đang tập hợp đón đợi Bác. Bác thân mật kể cho các em nghe một số gương tốt của thiếu nhi trong kháng chiến chống Pháp, gương tốt của thiếu nhi ở Liên Xô và các nước bạn. Các em đã không cầm được nước mắt khi nghe Bác kể về thời niên thiếu của Bác, Bác đã từng thèm một cái đồ chơi, ước ao một bộ quần áo mới để mặc Tết. Bác cũng đã mồ côi mẹ từ năm lên chín, lên mười. Bác đã phải bế em trèo trẹo bên hông đi xin sữa cho em sau ngày mẹ qua đời.

Bác căn dặn các em như ông dặn cháu:

- Các cháu phải vâng lời các cô, các chú phụ trách. Thiếu nhi thì phải ngoan, phải thật thà, lễ phép với người lớn, kính trọng người già, giúp đỡ người tàn tật yếu đau. Các cháu ở trong tập thể với nhau càng phải thương yêu nhau như anh chị em ruột thịt. Và phải dũng cảm sửa chữa những khuyết điểm, những thói hư tật xấu để lớn lên làm người chủ của đất nước, đừng để tránh là cái gánh nặng của xã hội...

Rồi Bác bảo:

- Các cháu có hứa làm được điều Bác căn dặn không nào?

Một tiếng "có" vang lên, đều khắp và sôi nổi. Bác còn dặn thêm các em là, noi gương dũng cảm của liệt sĩ Kim Đồng trong học tập và rèn luyện, em nào đạt kết quả tốt, được ban phụ trách báo lên Bác, Bác sẽ gửi phần thưởng.

Và Bác thân mật hẹn: "Nếu cả trại cùng tiến bộ vượt bậc, Bác sẽ còn về thăm các cháu nhiều lần nữa".

Ngày hôm ấy, Bác đã để lại rất nhiều quà để chia cho các em. Nhận phần quà của Bác cho, nhiều em đã không ăn, cất làm kỷ niệm.

Từ hôm đó trong từng đôi mắt của các em, ngời lên mềm vui nhận quà Bác. Em Quốc không lủi ra ngoài trại nữa mà giữ gìn mình như giữ gìn kỷ niệm quà Bác trong Trái tim.

(Trích trong "Hoa râm bụt")

Tâm Trang (tổng hợp)


 82. Giờ nào, việc nấy

Khi Bác mới sang Liên Xô, nghe nói Quốc tế Cộng sản thấy Bác gầy yếu, có để Bác xuống nghỉ ở Xôtri, nhưng được một, hai ngày, Bác đã trở về.

Người Bác vẫn gầy, nước da vẫn xanh. Có điều lạ là Bác không bao giờ mệt, ốm không bao giờ chịu nằm luôn mấy hôm, chỉ thỉnh thoảng ho và khạc ra huyết.

Lần này, Bác ở Liên Xô lâu hơn hết. Mùa Đông rất rét, có khi đến 30, 34 độ dưới không, nhưng Bác vẫn giữ được sức khỏe là vì sinh hoạt của Bác rất đều, có giờ giấc rất nghiêm: Sáng nào dậy Bác cũng tập thể dục, trong buồng có những dụng cụ tập như quả tạ, dây chun, v.v...

Khi đi chơi, hoặc đến nhà anh em, bạn, Bác cũng rất điều độ, nói giờ nào đến thì đúng giờ ấy, nói ở chơi được bao lâu thì rồi chơi đúng bấy nhiêu, đố ai vì một lý do gì có thể giữ Bác lại được thêm mấy phút. Không lề mề, la cà, không việc nọ xọ sang việc kia, đó là một biểu hiện của lối kỷ luật, tính tổ chức, của tinh thần tự chủ mà Bác đạt đến độ cao.

Ở Mátxcơva, ngày kỷ niệm Lao động quốc tế 01-5, các đoàn đại biểu ngoại quốc đến rất đông. Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa có nhiều học sinh các thuộc địa. Để giữ bí mật, ngày đó nhà trường báo với học sinh không ra đường. Trong lúc ngoài phố thiên hạ nô nức, rộn rịp, Bác tổ chức cho anh em ăn Tết 01-5 ở nhà một cách thoải mái, vui vẻ.

Bác rất lo lắng đến việc học hành của anh em, nhất là đối với những người còn kém, học chậm. Có hôm tôi đến chỗ Bác, thấy Bác đang viết một bài lục bát, hỏi Bác làm thơ phải không, Bác bảo:

 Đây là bài địa lý lịch sử Việt Nam để dạy cho mấy anh em. Có người lớn tuổi, dạy thế nào cũng cứ quên, nên mình phải làm thế này để cho dễ nhớ.

Thường ở trường anh em học môn gì, sau lớp, Bác vẫn kiểm soát lại, một là xem anh em có hiểu mục đích, yêu cầu của môn đó không, hai là để xem học có thiết thực không, có dính liền với thực tế, với đấu tranh cách mạng không, ba là những danh từ trong bài có đúng không, anh em đọc có hiểu nghĩa không. Do đó mà nhiều khi Bác bổ sung thêm cho bài học, làm cho anh em hiểu thêm được nhiều.

Có điều là Bác làm một cách nhẹ nhàng, tự nhiên không phải quy định giờ để "kiểm soát", mà là hỏi han trong khi nói chuyện thường, thành ra không có không khí gò bó, khiến anh em lo phải "trả bài" cho Bác.

Thỉnh thoảng, ngày Chủ nhật, trong xóm tổ chức nấu cơm Việt Nam, có nơi các đồng chí phụ trách trường đến ăn, Bác cũng xuống bếp thổi nấu, dọn dẹp.

(Nguyễn Khánh Toàn, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

83. Nhà phải có cột mới vững chãi

Những ngày làm công tác ở cơ sở, tôi vinh dự được "Đồng chí già" nhiều lúc trực tiếp dạy bảo. Người luôn luôn có mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ với quần chúng, vì vậy quần chúng rất gần gũi Người, không hề cảm thấy có gì ngăn cách. Công tác huấn luyện quần chúng được Người tiến hành bất kể lúc nào trong câu chuyện, trong việc làm thường ngày, có khi là những lời ngắn gọn như một châm ngôn. Những bài học ấy thường rất cụ thể và có hình ảnh sinh động, đi vào trí nhớ của chúng tôi rất nhanh. Thú thực mà nói, có những vấn đề về Đảng, về giai cấp, về dân tộc, về kẻ thù... mà chúng tôi đã được một số đồng chí cán bộ khác giảng giải cho nghe, thật khó hiểu và rắc rối không còn biết lần đâu ra mối. Cái đó không phải là lỗi của những người truyền đạt, mà chủ yếu là vì chúng tôi đã quá quen với một cách nói cụ thể và có hình ảnh, vốn là lối suy nghĩ đặc biệt của người miền núi. "Đồng chí già" nắm rất chắc đặc điểm ấy trong cách nhận thức của chúng tôi. Người biến những suy nghĩ đậm đà màu sắc triết học, những khái niệm trừu tượng đầy tính khái quát, những chủ trương, đường lối và phương pháp cách mạng ngắn gọn, súc tích, thành cách nói mộc mạc, dễ hiểu cho quần chúng.

Có lần bàn về các đoàn thể cách mạng trong nước, Người nói: "Nhà thì phải có cột mới vững chãi. Các đoàn thể cách mạng cũng thế, phải có cái cột của nó mới đứng vững được, nghĩa là phải có Đảng lãnh đạo".

(Dương Đại Lâm, trích trong "Bác Hồ sống với mãi chúng ta")

84. Các dân tộc phải tiếp tục đoàn kết

Cách mạng thành công, tôi được trúng cử vào Quốc hội. Ước mơ được gặp Bác trở thành sự thật. Đã gần hai mươi năm qua rồi mà tôi vẫn không quên những cảm giác lần đầu tiên được gặp Bác, trong khóa họp Quốc hội lần thứ nhất, năm 1946. Biết tin được gặp Bác, suốt đêm tôi thao thức mong đợi. Cho đến khi được nắm bàn tay ấm áp của Bác, tôi vẫn ngỡ là mình đang mơ. Tôi cứ nắm tay Bác thật chặt, thật lâu. Hồi ấy, Bác gầy lắm, nhưng đôi mắt Bác thì sáng một cách kỳ lạ. Trán Bác cao và rộng, biểu hiện của một trí tuệ tuyệt vời. Bác nói thật giản dị và dễ hiểu: “Bác hoan nghênh các đại biểu dân tộc đã khởi nghĩa cùng một lúc với người Kinh. Các dân tộc đều đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, đều tán thành điều lệ, đường lối của Việt Minh. Tất cả đều xác định được công việc mình làm là tốt, mang lại quyền lợi cho dân tộc mình. Các đại biểu Quốc hội đã có quyền tham gia công việc nước nhà mà trước đó không có. Ngày nay, nước Việt Nam là nước chung của người Kinh, người Thượng. Quốc hội là Quốc hội chung, Chính phủ là Chính phủ chung của cả nước. Từ nay về sau, công việc còn nhiều, khó khăn cũng còn nhiều. Các dân tộc phải tiếp tục đoàn kết, đoàn kết với người Kinh để tiếp tục làm công việc của Việt Minh: Chống kẻ thù xâm lược và nhất định sẽ đánh thắng chúng”.

Lời Bác nói đến đâu thấm đến đó. Tôi thấy Bác gần gũi với các dân tộc Tây Nguyên quá. Bác như một nhân vật hiện ra trong ước mơ của các dân tộc Tây Nguyên.

(Bác sĩ Y Ngông Niêk Đam, trích trong "Bác Hồ sống với mãi chúng ta")

85. Bài thơ nổi tiếng của Bác Hồ căn dặn thanh niên được ra đời như thế nào

Đội Thanh niên xung phong công tác trung ương đầu tiên thành lập ngày 15/7/1950 theo chỉ thị của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch. Sau khi phục vụ chiến dịch Biên giới, Đội được giao nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường quan trọng: Cao Bằng - Bắc Kạn - Thái Nguyên. Đội đã được tổ chức thành nhiều Liên phân đội rải quân dọc tuyến đường và nhận nhiệm vụ bám trụ những nơi hiểm yếu. Liên phân đội TNXP 321 của chúng tôi được nhận trọng trách bảo vệ cầu Nà Cù (thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn), nằm trên tuyến đường từ thị xã Bắc Kạn đi Cao Bằng. Cầu Nà Cù lúc này không những đã trở thành mục tiêu ném bom bắn phá của máy bay địch, mà còn có nguy cơ bị nước lũ cuốn trôi.

Trung tuần tháng 9/1950, chúng tôi được tin báo có đồng chí Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp (nay là Tổng cục Hậu cần) sẽ đến thăm đơn vị. Đêm hôm đó, chúng tôi tổ chức lửa trại trong rừng Nà Tu để đón khách. Vừa trông thấy ánh đèn pin thấp thoáng từ ngoài cửa rừng đi vào, đoán là khách đã đến, tôi cho anh chị em vỗ tay hoan hô: "Hoan hô đồng chí Trần Đăng Ninh". Khách vào tới nơi, định thần nhìn lại, tất cả chúng tôi đều sững sờ trước niềm hạnh phúc thật bất ngờ: Bác Hồ đến thăm. Hàng ngũ của chúng tôi trở nên xáo động..., nhưng do việc giữ bí mật đã ăn sâu vào ý thức từng người nên trong hàng ngũ cũng chỉ truyền đi những tiếng reo khe khẽ: “Bác Hồ! Bác Hồ!”. Rõ ràng Bác đang ở trước mắt mà chúng tôi cứ ngỡ như một giấc chiêm bao! Bác vẫn giản dị với bộ quần áo bà ba màu nâu, chiếc khăn quàng cổ che kín cả chồm râu. Đi bên cạnh Bác là đồng chí Trần Đăng Ninh.

Bác tươi cười nhìn chúng tôi và giơ tay ra hiệu: - Các cháu ngồi cả xuống.

Chúng tôi đều răm rắp nghe theo lời Bác, im lặng ngồi xuống.

Những câu đầu tiên Bác hỏi chúng tôi là những lời hỏi thăm ân cần về tình hình đời sống của đơn vị.

Bác hỏi:

- Các cháu ăn uống có đủ no không?

- Thưa Bác có ạ!

- Các cháu có đủ muối ăn không?

- Thưa Bác đủ ạ!

- Quần áo, chăn màn, thuốc phòng bệnh chữa bệnh có đủ không?

- Thưa Bác đủ ạ!

Qua nụ cười hiền hậu trên nét mặt của Bác, chúng tôi thấy Bác biết thừa là chúng tôi nói dối để Bác vui lòng.

Bác đã được đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp báo cáo đầy đủ về chế độ cấp phát lương thực, thuốc men, quân trang cho thanh niên xung phong còn thiếu thốn. Bác lại hỏi:

- Các cháu có biết Đảng Lao động Việt Nam không?

- Thưa Bác có ạ!

Sau đó Bác lại hỏi tiếp:

- Đảng Lao động Việt Nam với Đảng Cộng sản Đông Dương khác nhau ở điểm nào?

Một số người trong chúng tôi được Bác kiểm tra trực tiếp toát mồ hôi, nên trả lời rất lúng túng.

Sau đó bằng những câu ngắn gọn, Bác đã truyền đạt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ II vừa mới họp về việc đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam. Tiếp đó Bác nhắc nhở: Lần sau cái gì không biết các cháu phải nói không biết, không biết mà nói biết là giấu dốt.

Rồi Bác đột ngột hỏi tiếp: - Đào núi có khó không?

Chúng tôi ai cũng dè dặt không dám trả lời ào ào như trước nữa. Thế là người trả lời: Khó, người sợ nói khó bị cho là tư tưởng ngại khó nên trả lời không khó.

Trả lời xong mà cứ nơm nớp sợ Bác hỏi thêm. Bác chưa kết luận mà hỏi thêm chúng tôi: - Có ai dám đào núi không?

Và chỉ định một đội viên gái ngồi ngay trước mặt Bác, đồng chí này mạnh dạn đứng lên thưa:

- Thưa Bác có ạ! Thanh niên xung phong chúng cháu ngày ngày vẫn đang đào núi để đảm bảo giao thông đấy ạ! (Hồi bấy giờ chúng tôi đào núi bằng cuốc, xẻng, không được cơ giới hóa như bây giờ). Nghe xong, Bác cười:

- Đào núi không khó là không đúng, nhưng khó mà con người vẫn dám làm và làm được. Chỉ cần cái gì? Chúng tôi đã bình tĩnh, lấy lại được tinh thần và mạnh dạn hẳn lên, thi nhau giơ tay lên phát biểu, có người trả lời "cần quyết tâm cao", có người "cần kiên gan bền chí", "cần vượt khó vượt khổ", có người "cần xung phong dũng cảm", toàn là những khẩu hiệu hành động của thanh niên xung phong chúng tôi hồi đó.

Bác động viên chúng tôi:

- Các cháu trả lời đều đúng cả: Tóm lại việc gì khó mấy cũng làm được, chỉ cần quyết chí. Tục ngữ ta có câu: "Có công mài sắt có ngày nên kim". Để ghi nhớ buổi nói chuyện của Bác cháu ta hôm nay, Bác tặng các cháu mấy câu thơ:

Không có việc gì khó

Chỉ sợ lòng không bền

Đào núi và lấp biển

Quyết chí ắt làm nên.

Đọc xong mỗi câu thơ, Bác lại bảo chúng tôi đồng thanh nhắc lại. Cuối cùng Bác chỉ định nhắc lại cả bài thơ cho tất cả đơn vị nghe. Thật may mắn, tôi đã nhắc trôi chảy không sai chữ nào.

Giữa rừng đêm khuya, dưới ánh lửa bập bùng, Bác cùng chúng tôi hòa nhịp theo bài ca "Nhạc tuổi xanh". Chúng tôi hát hào hứng, say mê. Đến khi bài hát được hát lại lần thứ hai, nhìn lại thì không thấy Bác đâu nữa! Bác xuất hiện và ra đi như một ông tiên trong chuyện cổ tích huyền thoại. Đám thanh niên chúng tôi ngẩn ngơ nuối tiếc hồi lâu.

Bài thơ nổi tiếng của Bác Hồ căn dặn thanh niên được ra đời như thế đó. Rất mộc mạc, giản dị nhưng lại vô cùng sâu sắc. Bài thơ đã là nguồn cổ vũ, động viên lớp lớp thanh niên xung phong chúng tôi lao vào cuộc kháng chiến và kiến quốc.

Sau này mỗi khi gặp khó khăn, hình ảnh của Bác Hồ và bốn câu thơ của Bác lại được tái hiện trong lòng chúng tôi, tiếp cho chúng tôi thêm sức mạnh để vượt qua.

(Trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

86. Bác Hồ thích ăn món gì nhất

Nhiều người quan tâm đến sinh hoạt đời thường của Bác Hồ đã có lúc đặt ra câu hỏi ấy. Mới xem qua, dường như nó chẳng có ý nghĩa gì mấy, bởi nó riêng tư, mỗi người đều có sở thích của mình, khẩu vị và thị hiếu là vấn đề không thể bàn cãi!

Đúng như vậy. Nhưng tìm hiểu sở thích của một người cũng là một hướng tiếp cận tính cách của con người đó, càng cần thiết hơn khi đó là một vĩ nhân.

Cũng như mọi người, có món ăn Bác Hồ rất thích, nhiều món ăn được, có món không thích. Ví dụ qua bữa cơm với bà Thanh được kể lại, ta biết cậu Thành từ nhỏ không ăn được tỏi.

Nét nổi bật là vị Chủ tịch nước đầu tiên của chúng ta lại rất thích ăn các món ăn dân dã như mắm, cà dầm tương, canh cua ăn với rau chuối thái ghém,...

Có lần, trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Chủ tịch Liên khu IV Lê Viết Lượng có gửi lên Việt Bắc biếu Bác một lọ cà dầm mắm. Bác rất thích ăn. Ngày đó, Bác vẫn thường ăn chung với các nhân viên phục vụ của mình. Có bữa bận phải ăn sau, Bác dặn:

- Các cô, chú cứ ăn thịt cá, để phần Bác món cà dầm mắm. Ở rừng, thỉnh thoảng vẫn thiếu rau. Bác bảo:

- Ta thiếu rau nhưng nhiều mít, cô Mai (vợ bác sĩ Chánh) làm món nhút ăn cho đỡ xót ruột.

Chị Mai thú thực không biết làm. Bác lại bày cho cách làm nhút từ quả mít xanh. Có lẽ trong các món mang hương vị quê hương, Bác thích nhất món cá bống kho lá gừng. Hôm nào đồng chí Cần, cấp dưỡng của Bác làm món ăn đó, Người thường ăn hết, để món thịt lại.

Có lần Bác được mời đi nghỉ tại Liên Xô. Bạn cho ăn toàn những món đặc sản vào loại tuyệt hảo. Bỗng một hôm Bác bảo: "Mình nhớ món cá bống kho lá gừng quá!".

Một chuyện thật đơn giản, nhưng trong hoàn cảnh đó thực hiện lại không dễ. Nấu ở nhà nghỉ thì không ổn, hơn nữa bạn lại rất sợ mùi nước mắm. Kho ở sứ quán rồi mang vào, lại sợ bạn biết sẽ phật ý. Cuối cùng, nhờ sự trổ tài khéo léo của đồng chí Vũ Kỳ trong việc giới thiệu các món ăn cổ truyền của dân tộc, món cá bống kho lá gừng đã được thực hiện.

Ở Việt Bắc, hôm nào có điều kiện ăn tươi, Bác lại bảo: Ra gọi cô Cúc (vợ đồng chí Phạm Văn Đồng) và cô Mai vào trổ tài cho Bác cháu mình thưởng thức. Chị Mai làm món gà rút xương, thịt băm trộn nấm hương nhồi đùi gà, đem hấp. Chị Cúc làm món bít-tết. Bác khen ngon, vì làm rất công phu. Bác nhận xét:

- Gia vị đối với món ăn Việt Nam rất quan trọng. Thiếu gia vị, món ăn sẽ giảm hương vị đi rất nhiều.

Coi trọng nội dung, Bác cũng nhắc nhở cần chú ý đến cả hình thức trình bày. Hồi ở Việt Bắc, có lần đi công tác, buổi trưa, Bác cháu dừng lại bên bờ suối nấu ăn. Bác bảo: Các chú nấu cơm, để Bác rán trứng cho. Bác làm rất thạo. Trứng rán xong mà cơm chưa chín. Bác lấy que sắt nung trên than hồng rồi đặt lên khoanh trứng thành những hình quả trám rất đẹp. Anh em cười thán phục. Bác bảo:

- Khi có điều kiện làm cho ngon hơn, đẹp hơn thì ta cứ làm chứ các chú!

Ngày 16/6/1957, Bác đi thăm Đồng Hới (Quảng Bình). Trong bữa cơm trưa có đủ các món đặc sản của Đồng Hới: Mắm tôm chua, rau muống chẻ, cá thu kho,... Bác cháu vừa ăn vừa trò chuyện. Bác chỉ tay sang bác sĩ Nhữ Thế Bảo nói đùa:

- Bác sĩ khuyên mọi người ăn chín, uống sôi, còn bản thân bác sĩ thì lại ăn rau muống sống hơi quá nhiều đấy!

Mọi người cười vang. Bữa ăn ngon lành càng thêm vui vẻ.

(Vũ Kỳ và vợ bác sĩ Chánh kể, Trần Song ghi, trích trong "Bác Hồ - con người và phong cách")

Tâm Trang (tổng hợp)


 87. Theo Bác đi chiến dịch

Năm 1950, Bác đi chiến dịch biên giới. Đi theo Bác có một số đồng chí bảo vệ. Tôi cũng được đi cùng với Bác. Đồng chí Trung, người nấu ăn cho Bác được phân công ở lại trông cơ quan.

Chuyến đi khoảng hơn một tháng. Riêng đi bộ hết hai mươi chín ngày. Chuyến đi vất vả nhưng chúng tôi học được bao điều bổ ích. Tôi còn nhớ được một số mẩu chuyện nhỏ. 

Có một lần, đoàn đi mải miết suốt ngày, tối mịt mới về đến một bản của đồng bào dân tộc. Vừa đói, vừa mệt, nhưng nhìn Bác càng thấy thương hơn. Chúng tôi vào bản tìm mua cam để Bác ăn. Nhưng vì trời tối nên người ta bán đắt quá. Tám hào (tiền Đông Dương) một quả (ngày thường chỉ hai, ba hào). Chúng tôi mua nhưng vẫn lo bị Bác phê bình vì mua đắt. Đem cam về Bác bảo bóc ra để anh em cùng ăn. Ăn xong tỉnh cả người, lúc đó Bác mới hỏi mua bao nhiêu tiền. Chúng tôi thưa mua tám hào một quả. Bác nói: "Đắt đấy, nhưng lúc này Bác cháu đang mệt, mua thế cũng được".

Một hôm đi mãi từ sáng đến trưa không nghỉ.

Chúng tôi mệt nhưng không dám đề nghị Bác cho nghỉ. Đến một đoạn đường có cây to, thấy nhân dân treo khẩu hiệu: “Hồ Chủ tịch muôn năm”. Bác cười vui vẻ hỏi: “Đố các chú đồng bào treo bảng gì kia?”. Anh em trả lời: “Thưa Bác, khẩu hiệu Hồ Chủ tịch muôn năm ạ”. Bác cười mà nói: “Không phải, Hồ Chủ tịch muốn nằm đấy”. Được lời như cởi tấm lòng. Anh em đề nghị Bác cho tạt vào rừng nghỉ, Bác đồng ý.

Đường lên Cao Bằng càng lên càng dốc. Hết lên đèo lại xuống đèo. Một lần ngồi nghỉ giải lao, Bác chỉ đồng chí cùng đi người Cao Bằng và bảo: “Tỉnh chú lấy tên là Cao Bằng là không đúng”. Đồng chí kia chưa hiểu Bác định nói gì, thì Bác cười vui nói tiếp: "Cao Bằng gì mà càng lên cao càng dốc, theo Bác phải đặt tên là Cao Cao mới đúng". Hiểu ý Bác đùa, Bác cháu cùng cười vang, quên cả mệt nhọc.

(Lê Văn Chánh, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

88. Bác phải làm việc nhiều thì miền Nam mới mau thống nhất

Tình thương của Bác đối với tôi thật không bờ bến. Tôi hiểu rằng Bác dành tình thương đó không chỉ riêng cho tôi mà cho toàn thể phụ nữ, thanh niên và đồng bào miền Nam gian khổ đi trước về sau.

Tôi còn nhớ một chiều Xuân 1968, tôi lại được vào thăm Bác. Các chú cho tôi đến trước giờ hẹn. Bác đang làm việc trên chiếc Nhà sàn đơn sơ. Tôi rón rén vào đứng sau lưng Bác. Bác đã biết, nhưng không quay lại, Bác bảo:

- Lý đó à. Cháu chờ Bác làm việc xong, một tí thôi!

Tôi thưa với Bác: Thưa Bác! Bác làm việc nhiều quá. Tuổi Bác ngày càng cao. Bác giữ gìn sức khỏe để vào thăm đồng bào miền Nam…

Bác xúc động nói:

- Bác phải làm việc nhiều thì miền Nam mới mau thống nhất, Bác sẽ vui nhiều, khỏe nhiều.

Tôi ứa hai hàng nước mắt và thẫn thờ ngồi nhìn Bác làm việc, lòng nghẹn ngào, không dám nói thêm với Bác một lời nào. Ôi, suốt cuộc đời của Bác, Bác đã đặt hết tâm lực vào cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Từng giờ, từng phút, Bác lo cho miền Nam. Bác đã hy sinh hạnh phúc cá nhân vì cả dân tộc.

(Trần Thị Nhâm (Lý), trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

89. Người là nghệ sỹ của nhân dân

Mấy năm gần đây, đã nhiều nhà văn tìm hiểu văn Hồ Chí Minh. Đồng chí Phạm Văn Đồng trong cuốn Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc, đã vạch rõ những bài học lớn trong đời sống, tư tưởng và tác phong của Hồ Chủ tịch.

Văn Hồ Chủ tịch giản dị như tâm hồn của nhân dân. Cái lớn lao của một nhà tư tưởng là tìm được đường lối giản dị, soi sáng cả muôn ngàn sự việc rắc rối, hỗn độn của đời sống hàng ngày. Cuộc chiến đấu gian nan và phức tạp của chúng ta đã được Hồ Chủ tịch soi sáng theo một đường lối minh bạch, ai cũng hiểu và tin.

Phân tích chủ trương chính trị của Người, đồng chí Phạm Văn Đồng viết: "Dân tộc Việt Nam bây giờ muốn gì? Muốn thống nhất độc lập, muốn no ấm, muốn biết chữ, muốn đời sống bớt tối tăm. Cho nên Hồ Chủ tịch chủ trương: Đoàn kết kháng chiến, tăng gia sản xuất, bình dân học vụ, đời sống mới". Tiến gần đến phản công, Hồ Chủ tịch dặn trước mọi người: "Càng gần thắng lợi thì càng nhiều gian nan". Ngày nay giặc đánh khu Ba, tàu bay khủng bố, thóc cao gạo kém, các bà các cụ nhà quê vẫn truyền nhau câu ấy mà hiểu được tình thế. Sự sáng rõ giản dị của Hồ Chủ tịch là do một tư tưởng khoa học đã thấm nhuần được vào cuộc sống bình thường làm lụng, chiến đấu hàng ngày.

Hồ Chủ tịch nói là để làm và để mọi người làm. Người nói một câu, viết một câu bao giờ cũng chú ý làm sao người tầm thường nhất cũng hiểu và làm theo được...

Giản dị, thực tế, luôn luôn từ đời sống nhân dân nảy lên, nên văn Hồ Chủ tịch không khô khan lạnh lẽo. Lời nói của Người đầm ấm thấm nhuần tâm hồn. Hồ Chủ tịch không những là nhà tư tưởng, người là nghệ sĩ của nhân dân. Trong mỗi lời của Người, ta nghe rõ lối cảm xúc của nhân dân. Người khuyên răn cán bộ đừng "đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị". Ai quên được bức thư trung thu đầu tiên của Người gửi cho nhi đồng: "Trăng Thu soi xuống các cháu êm ái như một người mẹ lành". Người để lại câu: "Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ". Hồ Chủ tịch bảo: "Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên". Nhắc nhở đồng bào phải cố gắng vượt bậc, Người nói: "Nước ta kinh tế lạc hậu, nhưng lòng yêu nước và chí quật cường chẳng kém ai"...

Nhân dân là nhà hiền triết cũng là nhà thi sĩ đầu tiên.

Những nhà tư tưởng và những nghệ sĩ thiên tài chỉ nảy lên khi nào họ đứng vào hàng ngũ nhân dân, tìm tòi thu hút những sáng tạo của nhân dân, khi nào là kết tinh của nhân dân.

(Nguyễn Đình Thi, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

90. Bài học về cách nói, cách dùng từ

Ở Bác tỏa ra một sự tươi tắn, mát mẻ, một niềm vui thường xuyên và một tình thương rộng lớn. Tôi hiểu rằng Bác thương yêu và Bác vui thích gặp những đứa con của miền Nam, nơi luôn luôn ở trong tim của Bác. Tôi lặng nhìn chòm râu bạc, đôi mắt sáng, nụ cười tươi mát đang hấp dẫn tôi đến mức tôi thật sự không còn để ý đến sự có mặt của những người chung quanh.

Bác bắt tay anh chị em chúng tôi rồi vui vẻ chỉ ghế mời chúng tôi ngồi. Bác hồn nhiên, cởi mở, chủ động và gần gũi với tất cả đàn con đang quây quần chung quanh Người. Vào câu chuyện, Bác nói lên một câu nói trang trọng đầy tình nghĩa. Nhìn Thủ tướng Phạm Văn Đồng rồi nhìn sang chúng tôi khắp lượt, Bác nói, giọng chậm rãi, ôn tồn, ấm áp:

- Hôm nay tôi và đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt 20 triệu đồng bào miền Bắc hoan nghênh các cô các chú trong Liên minh ra thăm miền Bắc.

Bác lần lượt hỏi thăm sức khỏe mỗi người chúng tôi. Người hỏi về chuyến đi từ trong vùng giải phóng miền Nam ra đến miền Bắc có an toàn không? Đi bằng phương tiện gì? Đường sá như thế nào? Ăn uống ra làm sao? Bác lại hỏi gia đình của mỗi chúng tôi hiện ở đâu? Có được an toàn không? Sinh sống làm ăn thế nào? Bác hỏi rất tỉ mỉ, rất thân tình. Chúng tôi không dám nói nhiều về bản thân nhưng khi nghe chúng tôi trả lời ngắn, Bác lại hỏi thêm một số chi tiết cho đầy đủ. Thấy tôi đeo kính cận thị Bác hỏi kính nặng mấy điốp. Rõ ràng là Người có sự quan tâm rất mực của một người cha hiền.

Bác hỏi chúng tôi rất kỹ về tình hình vùng giải phóng, vùng đô thị bị tạm chiếm. Nghe kể về Huế, Bác rất chăm chú, thỉnh thoảng Bác gợi lại vài kỷ niệm của thời thơ ấu, nhắc tới những nơi Bác đã từng sống qua: Trường Quốc học, thành nội, chợ Xép, quán Ao Hồ, cầu Tràng Tiền... Bác hỏi ở Huế có những chén chè nho nhỏ để trên cái trẹt bán mỗi chén một tiền còn hay không? Bác nhắc tới tên vài đường phố cũ ở Huế nà thuở nhỏ Bác đi học ở đây thường qua lại. Trí nhớ của Bác thật dồi dào, Bác hồ hởi nhắc lại tuổi trẻ của mình bên bờ sông Hương. Giọng Bác thực sự xúc động khi hỏi sông Hương hiện nay còn đẹp không? Đồng bào mình dưới ách Mỹ ngụy khổ đến mức nào? Câu nói dạt dào tình thương vô hạn đối với đồng bào miền Nam và gợi lên trong lòng chúng tôi một nỗi xốn sang căm thù da diết kẻ thù cướp nước và bán nước. Miền Nam! Miền Nam còn chưa giải phóng. Chúng tôi xót xa nghĩ tới miền Nam khi đang được ngồi dưới bầu trời miền Bắc, bên cạnh Cha già, hiện thân vĩ đại của độc lập, tự do.

Bác nói bằng lời văn giản dị, nôm na, ngắn gọn, cô đúc mà chúng tôi thấy thật là mới mẻ, nhẹ nhàng. Ở vùng tạm bị chiếm miền Nam, cả đến ngôn ngữ cũng bị vẩn đục, lai căng pha tạp. Những lời nói của Bác đối với tôi là cả một bài học lớn về tiếng nói, cách nói, cách dùng từ. Ngôn ngữ của Bác giàu hình tượng, sinh động như trong ca dao tục ngữ. Bác dùng chữ, đặt câu rất giản dị và chuẩn xác. Nếu có ai trong chúng tôi dùng chữ chưa được chuẩn, sử dụng từ Hán Việt nặng nề, phức tạp, không cần thiết thì Bác nhẹ nhàng vui vẻ chữa lại cho chúng tôi.

Qua cuộc nói chuyện, Bác đánh giá cao những hy sinh gian khổ, những sự tích anh hùng của đồng bào ta ở hai miền với một tấm lòng ưu ái đặc biệt dành cho miền Nam tiền tuyến đầu sóng ngọn gió. Bác nhắc nhở chúng tôi đức khiêm tốn và ý chí tiếp tục phấn đấu, đừng tự cao, tự mãn, Bác bảo chúng tôi:

- Giỏi thì có giỏi thật đấy nhưng cứ nói gì thì nói chứ đừng vội kết luận rằng dân tộc Việt Nam là nhất thế giới nhé.

Mọi người chúng tôi lấy làm vui được nghe Bác truyền cho bài học khiêm tốn, giản dị mà sâu sắc ấy. Ở gần bên Bác, tôi vừa cảm thấy được động viên, cổ vũ khích lệ rất nhiều, đồng thời cũng cảm thấy mình chưa làm được bao nhiêu so với  yêu cầu của thực tế và lòng mong muốn của Bác.

(Lê Thị Hảo, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

91. Ăn no rồi hãy đến làm việc

Anh em, bạn bè, họ hàng lâu ngày gặp nhau, cùng uống một chén rượu, ăn với nhau một bữa cơm cũng là việc thường tình. Cái chính là ở tấm lòng trung thực, tình nghĩa, kính trọng, yêu thương nhau chứ không nên "khách một khứa mười" tranh thủ chi tiêu "tiền chùa" xả láng. Khách không nên vì cương vị "gợi ý" khéo để chủ nhà "nghênh tiếp".

Anh em ở gần Bác cho biết, dù trong kháng chiến ở Việt Bắc, hay khi đã về Hà Nội, kể cả trong những năm chống Mỹ, cứu nước, hễ đi công tác xa, gần, là nhất định Bác "bắt" mang cơm đi theo. Khi cơm nắm, độn cả ngô, mì. Khi là bánh mì với thức ăn nguội. Chỉ có canh là cho vào phích để đến bữa, Bác dùng cho nóng.

Nhớ lần về thăm tỉnh Thái Bình, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân cố nài Bác ở lại ăn cơm. Bác nói: "Đi thăm tỉnh lụt còn ăn uống nỗi gì". Nói xong, Bác lại thương cán bộ vì đã có cơm sẵn. Bác gọi đồng chí cảnh vệ đưa cơm nắm thức ăn mặn của Bác đến và bảo:

- Mời đồng chí Bí thư và Chủ tịch đến ăn cơm với Bác. Còn chú và bác sĩ sang mâm kia ăn cơm với cán bộ tỉnh.

Thường là đi công tác, đến bữa, Bác cho dừng xe, chọn nơi vắng, mát, sạch, Bác, cháu mang cơm ra ăn. Làm việc xong, Bác chọn giờ ra về để kịp ăn cơm "ở nhà". Nếu không, lại có cơm nấu bữa thứ hai mang theo. Chỉ khi nào ở đâu, công tác lâu Bác mới chịu "ăn" cơm ở địa phương. Bao giờ Bác cũng dặn "chủ nhà":

- Đoàn Bác đi có từng này người. Nếu được, chỉ ăn từng này, từng này...

Dù không nghe lời Bác, chủ nhà dọn "cỗ" ra, Bác cũng có cách riêng của Bác. Bác nói với anh em:

- Bác cháu ta chỉ ăn hết món này, món này thôi. Còn món này để nguyên.

Nhà chủ thiết tha mời Bác dùng thử món "cây nhà lá vườn", Bác cũng chỉ gắp vào bát anh em và bát mình mỗi người một miếng rồi lại xếp ngay ngắn đĩa thức ăn ấy, kiên quyết để ra ngoài mâm, người ngoài nhìn vào thấy đĩa thức ăn vẫn như nguyên vẹn. Bác nói với cán bộ:

- Người ta dọn ra một bữa sang, Bác cháu mình có khi cũng chẳng ăn đâu, chẳng ăn hết. Nhưng đi rồi để lại cái tiếng: Đấy, Bác Hồ đến thăm cũng làm cơm thế này, thế nọ, cũng điều động người này, người nọ từ giao tế sang, mất thời gian. Thế là, tự mình, Bác lại bao che cho cái chuyện xôi, thịt... Cứ ăn no rồi đến làm việc.

(Nguyễn Việt Hồng, trích trong "Bác Hồ, con người và phong cách")

92. Bác Hồ chứ còn ai!

Trong Chiến dịch Biên giới, một lần đi gần tới Đông Khê (Cao Bằng), Bác rẽ vào nhà một đồng bào nghỉ ngơi. Một em bé Nùng gánh đôi bảng nước từ dưới suối đi lên trông thấy cụ già quen quá mà không rõ gặp ở đâu rồi. Em nghĩ chưa ra thì cụ đã tới gần. Giọng cụ ấm áp:

- Cháu gánh có nặng không?

- Ồ! Không nặng đâu!

Em bé vội đáp, ngạc nhiên trước cử chỉ của cụ. Em xốc lại đòn gánh thong thả bước. Cụ già bước theo lên cầu thang. Vào nhà, cụ hỏi em bé:

- Cháu tên là gì?

- Là Phấn.

 Cụ già xoa đầu Phấn.

- Pá (bố) đi dân công phải không? Cháu làm việc nhiều quá.

- Pá đi dân công phục vụ chiến dịch. Cháu ở nhà giúp mế (mẹ) gánh nước. Không mệt đâu. Cụ già lại hỏi:

- Cháu có biết đi dân công để làm gì không?

- Đi dân công để giết Tây.

Phấn trả lời cụ già, rồi kể:

- Thằng Tây nó ác hơn cọp ông à! Tàu bay nó bắn cháy trường cháu ba lần. Bây giờ trường phải dời vào lũng xa lắm. Nó bắn chết cả Pu, con trưởng thôn.

Cụ già đặt tay lên vai Phấn, đôi mắt hiền từ nhìn Phấn, khẽ nói: - Bao giờ hết giặc, cháu sẽ không phải vất vả như thế này nữa.

Hai Bác cháu nói chuyện thêm một lát nữa. Rồi Bác nhắc Phấn đi ngủ.

Đêm gần về sáng. Phấn còn đang yên giấc ngủ thì cụ già đã cùng mấy người khác đi. Lúc tỉnh dậy, thấy nhà trống trải, vắng vẻ quá, Phấn bật lên khóc. Nhìn lọ thuốc ho, chiếc khăn quàng cổ cụ già cho, lòng Phấn càng nhớ cụ khôn xiết.

Cho đến lúc ấy, Phấn chưa nhận ra cụ già trọ ở nhà mình là ai? Mãi đến khi Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi, bố Phấn đi dân công về nghe chuyện mới quả quyết với con rằng:

- A lúi! Bác Hồ chứ còn ai!

Và hai bố con rất tiếc, nhưng rất sung sướng là Cụ Hồ đã đến ở nhà mình.

(Trích trong "Bác Hồ kính yêu")

Tâm Trang (tổng hợp)


  93. Từ Pác Bó đến Tân Trào

Tôi cùng anh Vũ Anh lên Pác Bó. Những ngày qua đã được tin chắc chắn Bác thoát khỏi tù ngục của bọn Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch và đã trở về nước. Nhưng trên đường đi vẫn hồi hộp. Khi được nhìn thấy Bác ở trong căn lán nhỏ trên sườn một quả đồi, mới thực tin là sự thực.

Bác vẫn như xưa với bộ quần áo chàm của đồng bào Nùng. Nhìn lâu, thấy Bác có gầy và già hơn trước. Không biết lấy gì so sánh với nỗi mừng khi được gặp lại Bác.

Những chuyện về thời kỳ Bác bị bắt, sau này chúng tôi mới biết nhiều, lúc ấy Bác chỉ kể qua rồi hỏi ngay về tình hình cách mạng trong nước.

Chúng tôi báo cáo xong, Bác nói: "Phong trào lên, địch khủng bố là chuyện tất nhiên, nhưng có phần vì ta bộc lộ lực lượng". Bác nhắc lại những cuộc duyệt binh huy động đến hàng ngàn người.

Bác nhận định: "Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị còn trọng hơn quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy mạnh phong trào tiến lên. Nếu phát động đấu tranh mà mỗi khi địch đến, nhân dân lại phải tản cư cả vào rừng núi, thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, phải làm sao cứ hoạt động vũ trang mà dân ở đâu cứ ở đấy sản xuất, chỉ cần tăng cường canh gác đề phòng không để địch bắt, hại những người hoạt động...".

Rồi Bác đề ra một cách giải quyết: "Lực lượng vũ trang của ta hiện nay đã ít lại phân tán quá. Bây giờ nên tập hợp những cán bộ, chiến sĩ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất tổ chức thành một đội vũ trang tập trung để hoạt động. Ta sẽ dùng hình thức vũ trang để gây ảnh hưởng cách mạng sâu rộng trong quần chúng. Tác chiến phải nhằm gây được ảnh hưởng tốt về chính trị, do đó mà mở rộng cơ sở, phát triển lực lượng vũ trang. Chúng ta sẽ lập đội quân giải phóng ...".

Ngay trong buổi họp đó, tôi được chỉ định đảm nhiệm công tác này. Rồi Bác hỏi:

- Việc này chú Văn phụ trách, chú Văn có thể làm được không? Tôi đáp:

- Có thể được.

Tôi trình bày cơ sở chính trị vũ trang tại vùng giáp giới hai tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn, từ Nguyên Bình đến Ngân Sơn, Chợ Rã; từ Tĩnh Túc, Phja Oắc đến Phja Bioóc. Cơ sở quần chúng tại vùng này rất tốt, trong suốt thời gian khủng bố của địch vẫn vững vàng, cơ sở lực lượng vũ trang cũng tốt.

Trước khi quyết định, Bác hỏi:

- Có thể tìm được một căn cứ "tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ", mình còn yếu, địch mạnh, nhưng nhất định không thể để địch tiêu diệt, có thể như thế được không? Tôi đáp:

- Có thể. Nhất định quân địch không thể tiêu diệt ta được.

Đêm hôm ấy, chúng tôi nằm nghe Bác nói chuyện rất khuya. Trên núi cao, cái rét của mùa đông đến sớm hơn. Trong căn lều lạnh giá, không đèn đóm, Bác và chúng tôi mỗi người gối đầu lên một khúc gỗ cứng. Bác phác ra những nét chính về đội Việt Nam Giải phóng quân, từ tổ chức đến phương châm hành động và vấn đề cung cấp lương thực, đạn dược. Bác hướng dẫn cho tôi làm một bản kế hoạch. Bác dặn đi dặn lại nhiều lần: "Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được. Tổ chức của đội phải lấy chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo". Chuyện trò hào hứng đến hai, ba giờ sáng.

Sáng hôm sau, tôi cùng một số anh em lên mỏm núi sau cơ quan trao đổi làm kế hoạch.

Buổi chiều, cuộc họp lại tiếp tục. Chúng tôi báo cáo lại bản kế hoạch đã dự thảo. Nghe xong, Bác nói:

- Được, tình hình quốc tế đang có nhiều điều kiện thuận lợi. Trong vòng một tháng phải có hoạt động. Trận đầu nhất định phải thắng lợi.

Đúng vào dịp này, anh chị Tống Minh Phương và bà con Việt kiều ở Côn Minh lại mới gửi về một số vũ khí: Một khẩu tiểu liên Mỹ Sub Machine gun và 150 viên đạn, 6 quả bom lửa, một hộp bom nổ chậm. Cùng với số vũ khí này, chúng tôi còn được nhận thêm 500 đồng để chi phí về quân nhu.

Sau khi suy nghĩ, Bác đề nghị thêm hai chữ "tuyên truyền" vào tên đội quân giải phóng cho đúng với nhiệm vụ hiện tại của nó.

Chúng tôi được giao trách nhiệm điều động tất cả 34 đội viên và cán bộ trong các đội vũ trang địa phương, hai khẩu súng thập, 10 khẩu súng trường vừa giáp năm, giáp ba, vừa khai hậu và súng Tầu chế tạo, 14 khẩu súng kíp.

Thế là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời.

Chúng tôi có hỏi Bác: "Đội tuyên truyền hoạt động theo kế hoạch của Liên tỉnh, khi tới một địa phương thì quan hệ giữa đội chủ lực và các lực lượng vũ trang địa phương ra sao?".

Bác nói: "Thống nhất chỉ đạo cả chủ lực và địa phương. Hai lực lượng ấy đoàn kết phối hợp chặt chẽ với nhau. Đội chủ lực có nhiệm vụ dìu dắt giúp đỡ các đội địa phương trưởng thành". Điều Bác nói đó chính là phương châm xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng mà chúng ta đã thực hiện trong suốt cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ của toàn dân, và đã thấy được hiệu lực vô cùng mạnh mẽ.

Anh em trong cơ quan mấy ngày trước đã nghe ngóng thấy Bác không đồng ý với nghị quyết phát động chiến tranh du kích của Liên tỉnh ủy, kém phần phấn khởi, lúc này được biết quyết định mới của Bác, vui hẳn lên.

Một buổi sớm tháng Chạp, chúng tôi từ giã Bác, trở về, Bác căn dặn chúng tôi một lần nữa: "Nhớ bí mật: Ta ở đông, địch tưởng ta ở tây, "Lai vô ảnh, khứ vô hình".

Để thi hành đúng chỉ thị của Bác: "Trong vòng một tháng phải có hoạt động để gây tin tưởng cho các chiến sĩ và gây truyền thống hành động tích cực nhanh chóng cho bộ đội". Chúng tôi họp bàn kế hoạch tác chiến, và quyết định sẽ chiến đấu ngay sau khi thành lập đội.

Vấn đề đặt ra là đánh ở đâu? Có ý kiến nêu lên là không nên đánh vào những nơi có cơ sở của ta để tránh cho cơ sở bị địch khủng bố. Nhưng khi bàn, thấy đánh vào nơi không có cơ sở thì chuẩn bị sẽ rất khó khăn, không nắm được tình hình, khi đánh thiếu sự giúp đỡ của nhân dân, khó đảm bảo thắng lợi. Chúng tôi nhận thấy trận đánh đầu tiên chỉ có thể thành công nếu đánh vào những nơi có cơ sở nhân dân thật tốt, giúp đỡ cho bộ đội chuẩn bị thật chu đáo. Các đồng chí tại các địa phương có địch đóng đều yêu cầu cứ đánh, còn đối với sự khủng bố của kẻ địch, chỉ cần có một kế hoạch đề phòng cho nhân dân.

Một điều rất quan trọng khác phải bàn bạc là đánh cách nào? Trong trận đầu chúng ta phải giành được thắng lợi mà không để bị tổn thất nặng nề về người cũng như về vũ khí. Lực lượng của ta trong thời kỳ trứng nước này còn rất mỏng manh. Vũ khí đã thiếu, đạn dược càng thiếu hơn. Mỗi khẩu súng trường trung bình chỉ có hai mươi viên đạn chỉ cần đánh một trận là sẽ bắn đến viên đạn cuối cùng, và khi đó khẩu súng trường, thứ vũ khí chủ lực của đội sẽ trở nên vô dụng. Khi bàn bạc thấy, nếu đánh phục kích các đội quân lưu động của địch thì tương đối dễ đạt thắng lợi và bộ đội cũng đỡ bị tổn thất, nhưng cũng thấy đánh phục kích thì chỉ có thể thu được một số súng mà không giải quyết được vấn đề đạn dược. Bọn chỉ huy người Pháp vốn không tin ở binh lính người Việt, khi đi tuần tiễu chỉ phát cho mỗi tên từ năm đến mười viên đạn. Về vũ khí lúc này, súng chưa quan trọng bằng đạn dược. Mặt khác, muốn đánh phục kích phải có thời gian mới gặp hoặc tạo nên được cơ hội, như vậy sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ trong vòng một tháng. Cuối cùng chúng tôi đi đến quyết định, trong mấy trận đầu phải tập trung vào đồn trại của địch để chiếm lấy đạn dược, mặc dầu đánh tập kích khó khăn hơn.

Một số đồn trại địch đóng trên dưới một trung đội trong vùng Kim Mã và Cẩm Lí được chọn để tiến hành công tác điều tra: Đđồn Phai Khắt và đồn Nà Ngần.

Các đồng chí Hồng Quân, Đức Long được phái đi trinh sát. Thực ra các làng địch đóng đều là quê của nhiều đồng chí trong đội. Địch ở Phai Khắt đóng chính ngay tại nhà đồng chí Lạc. Anh em có thể vẽ sơ đồ đồn địch, rồi phái một số đồng chí đến nơi đối chiếu lại, là biết rõ tình hình.

Việc khó khăn hơn là làm sao đột nhập đồn địch, điều tra cách bố trí, sắp xếp bên trong, và mọi quy luật hoạt động, sinh hoạt hàng ngày của chúng. Người trinh sát đầu tiên của đội lọt vào đồn là em bé Hồng.

Hồng mới mười hai tuổi. Ngày ngày em phải mang bánh và rượu vào đồn cho tên quan Tây trong đồn. Em đã lân la trò chuyện với lính địch, xem kĩ kho lương, kho đạn, nơi ăn ngủ, nơi canh gác, giờ giấc canh gác, giờ giấc sinh hoạt, tập hợp của địch. Đêm đêm em luồn ra khỏi luỹ tre làng đến báo cáo với Đội.

Căn cứ vào những quy luật hoạt động của địch tại vùng này, chúng tôi bàn nhau rất có thể cải trang thành lính dõng để đột nhập đồn địch.

Các đồng chí trung kiên dưới làng đi tìm gặp những hội viên là lính dõng, mượn ba chục bộ quần áo. Cũng phải trên một số hội viên cựu binh sĩ mượn thêm mấy bộ quần áo ka-ki để cải trang thành lính tập vì những đoàn lính dõng đi tuần bao giờ cũng có lính tập đi kèm. Ngoài ra, còn phải chuẩn bị một số nón lính. Các em ở dưới làng lên, mang theo vải chăm và kim chỉ để khâu áo nón. Nón của dõng bọc vải chăm, có viền vành trắng và điềm một miếng tròn trắng trên chóp. Khi qua cơ quan in báo Việt Nam độc lập, tôi đã mượn máy chữ ngồi đánh mấy tờ "Giấy đi tuần" giả. Các đồng chí tại cơ quan đã cắt củ khoai trổ một con dấu rất khéo, đóng đỏ chót lên cạnh chữ kí. Hồi đó, những giấy giới thiệu đánh máy là loại giấy có giá trị.

Ba chiếc lán bên cạnh sườn núi đã làm xong. Các đồng chí nhận lệnh điều động đã về đầy đủ. Bà con hội viên ở dưới làng có nhiệm vụ đi lại nơi trú quân để giúp đỡ Đội. Lần đầu thấy quân cách mạng tập trung đông đảo như vậy, súng ống lại nhiều, mọi người đều hết sức phấn khởi. Không khí tấp nập như ngày hội.

Chúng tôi tiếp tục hoàn thành việc thảo những lời thề và những điều kỉ luật của Đội. Mọi việc chuẩn bị đã xong.

Một ngày trước lễ thành lập Đội, chúng tôi nhận được một bức thư Bác đặt trong một bao thuốc lá. Giở ra, đó là chỉ thị của Bác về việc thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.

"Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang, nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam".

Về đến Chợ Chu đúng vào ngày mồng 01 tháng 5, chúng tôi dừng lại đây làm mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế lao động. Một số tin mừng đến. Bên chiến trường Châu Âu, phát xít Đức sắp hoàn toàn gục ngã trước Hồng quân Liên Xô và Đồng minh. Cũng lúc ấy, được tin Bác đi xa mới về, đang từ biên giới xuống với chúng tôi. Trước đó, có tin Bác định về dưới này, chúng tôi đã đề nghị Bác đi theo con đường Nam tiến Bác đã vạch ra cho Đội Tuyên truyền ngày trước.

Tôi vội vã đi đón Bác. Dọc đường ngựa phóng nhanh quên nghỉ. Lên Đèo Rẻ, qua Nghĩa Tá, tới Nà Kiên thì gặp Bác đang đi về, Bác ngồi trên mình ngựa, có vẻ mệt sau một chặng đường xa, mặt võ vàng, râu để dài, duy đôi mắt Bác vẫn tinh anh như bất cứ lúc nào.

Từ ngày Bác trao nhiệm vụ xây dựng Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đến bây giờ tôi mới được gặp lại Bác. Tôi không nén được xúc động, báo cáo với Bác:

- Vùng giải phóng đã mở rộng...

Tôi trình bày với Bác tình hình phong trào nhân dân trong những vùng rộng lớn mà chúng tôi đi qua, từ ngày Bác chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Tôi báo cáo đã liên lạc được với Trung ương, đã gặp anh Trường Chinh và các anh, phong trào cách mạng ở miền xuôi đang lên mạnh. Bác chăm chú nghe, bình tĩnh, điềm đạm, trong đôi mắt Bác có ánh vui.

Bác kể chuyện tình hình bên ngoài, thời cơ cũng đang có lợi cho ta. Bác nói, cần chọn ngay trong vùng Cao - Bắc - Lạng hoặc Tuyên Quang, Thái Nguyên một địa điểm có dân tốt, có cơ sở cách mạng tốt, địa hình tốt, có thể thuận tiện làm một trung tâm liên lạc với miền xuôi, miền ngược và ra nước ngoài.

Tôi trở về Kim Quan Thượng bàn với anh Song Hào. Chúng tôi nhận thấy nên chọn vùng Tân Trào. Tân Trào là một vùng rừng núi hiểm trở, giữa Tuyên Quang và Thái Nguyên, rất xa đường cái lớn. Từ ngày các anh Song Hào, Tạ Xuân Thu... thoát ngục Chợ Chu, đã về đây cùng các đồng chí Dục Tôn, Lê Trung Đình... xây dựng cơ sở và thành lập chính quyền cách mạng. Nhân dân và cơ sở tại đây rất tốt.

Bác về đến Tân Trào vào một buổi trưa, anh Song Hào cùng một số đồng chí cán bộ đón Bác trước đình Hồng Thái.

Bác ở lại ít ngày tại một gia đình cơ sở ở xóm Kim Lộng rồi chuyển lên một chiếc lán nhỏ làm trên sườn một quả đồi. Tiếng đồn bay đi khắp nơi: "Có ông cụ đã cao tuổi, sao mà nhanh nhất, tài giỏi, tốt đến thế. Dân mình lắm người tài, phen này nhất định lấy lại được nước" .

Thời gian này anh Cả ở xuôi lên và anh Hoàng Quốc Việt ở nước ngoài mới về, cũng đến Tân Trào. Tôi báo cáo lại với Bác và các anh những nghị quyết của Hội nghị quân sự Bắc Kỳ. Bác nhận xét hội nghị tiến hành rất tốt, nhưng Bác nói: "Chia các tỉnh ra làm nhiều chiến khu như thế rườm rà quá, không lợi cho việc chỉ huy. Vùng giải phóng ở miền ngược đã bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, địa thế nối liền với nhau, nên lập thành một khu căn cứ lấy tên là Khu Giải phóng. Thống nhất các lực lượng vũ trang lại là rất đúng, nên đặt tên là Quân Giải phóng. Bác bàn với chúng tôi làm dự thảo Nghị quyết về việc thành lập Khu giải phóng và quyết định triệu tập hội nghị cán bộ toàn khu để thống nhất lãnh đạo và triển khai công tác.

Theo Nghị quyết của Hội nghị cán bộ ngày 04/6/1945, được triệu tập theo chỉ thị của Bác, Khu Giải phóng phải trở thành một căn cứ địa vững chắc về mọi mặt: Chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa để làm bàn đạp Nam tiến, giải phóng toàn quốc.

Tân Trào được chọn làm Thủ đô của Khu giải phóng.

Tôi làm việc ở dưới làng, hằng ngày vẫn lên cơ quan của Bác để báo cáo.

Các đồng chí ở địa phương đã làm cho Bác một căn lán khá xinh xắn, náu kín trong khu rừng nứa ở sườn đồi. Lán chia làm hai gian nhỏ, một bên là nơi Bác nằm nghỉ, một bên vừa là chỗ làm việc, vừa là chỗ để tiếp khách.

Bác làm việc không mấy lúc nghỉ ngơi. Lần nào tôi lên cũng thấy Bác đang cặm cụi với công việc. Mọi giấy tờ chỉ thị, Bác đều tự tay đánh máy và đánh số cẩn thận, rõ ràng.

Trung ương đã quyết định cần tích cực chuẩn bị cho cuộc Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân Đại hội đại biểu. Bác giục chuẩn bị cho kịp họp hai hội nghị quan trọng này từ tháng 7. Tình hình đã khẩn trương lắm. Bác nói: "Có thể còn thiếu một số đại biểu nào đó chưa về kịp cũng họp. Nếu không thì không kịp được với tình hình chung". Nhưng, dù chuẩn bị rất gấp, các đại biểu của Đảng và các đảng phái dân chủ trong Mặt trận Việt Minh ở toàn quốc vẫn không thể về đúng hẹn.

Giữa lúc công việc bề bộn như thế, Bác bỗng bị mệt. Đã mấy hôm liền Bác sốt nóng. Song, Bác vẫn gượng làm việc. Mỗi khi tôi tới thảo luận công việc, hỏi thăm sức khoẻ, Bác chỉ nói: "Chú cứ xuống làm công tác, tôi không việc gì". Nhưng tôi thấy Bác yếu nhiều, người hốc hác hẳn. Có hôm tôi đến, Bác đang lên cơn sốt, miệng còn nói mê. Thuốc men chẳng có, chỉ kiếm được vài viên thuốc cảm và kí ninh, Bác đã uống mà không thấy đỡ. Thường khi, nếu không phải lúc nghỉ, không bao giờ Bác nằm, thế mà bây giờ Bác phải chịu nằm, lại mê sảng luôn. Bây giờ, trong các đồng chí thường gần Bác, chỉ còn lại mình tôi ở Tân Trào. Hôm ấy Bác mệt lắm, tôi rất lo. Tôi nói: "Hôm nay tôi cũng thong thả, xin ở lại với Bác đêm nay". Bác mở mắt và hơi gật đầu.

Đêm ấy, tôi nghỉ lại với Bác trên cái lán ở giữa rừng, lúc nào tỉnh, Bác chỉ nói chuyện tình hình: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Mỗi lúc nhớ ra điều gì, Bác lại dặn. Bác lúc ấy chắc cũng thấy mình yếu quá, có ý muốn dặn lại công việc. Chỉ có công việc, Bác nói về công tác củng cố phong trào: "Lúc nào cũng phải chú trọng xây dựng chi bộ, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên và các phần tử trung kiên. Trong chiến tranh du kích, lúc phong trào lên, ta phải hết sức phát triển, vừa phát triển vừa chú trọng xây dựng căn cứ cho thật vững chắc để đề phòng lúc khó khăn mới có chỗ đứng chân được”.

Suốt đêm ấy, Bác vẫn lúc tỉnh lúc mê. Hôm sau, tôi viết thư hỏa tốc về Trung ương. Tôi lại tìm hỏi bà con địa phương xem có thứ thuốc men gì không. Bà con nói gần đây có một ông lang quen trị bệnh sốt nóng. Tôi cho người cưỡi ngựa đi đón ông thầy về. Ông cụ lang già người Tày xem mạch, sờ trán Bác rồi đốt cháy một thứ củ vừa đào trong rừng về, hòa vào cháo loãng. Sau đó Bác tỉnh. Hôm sau, Bác ăn thêm vài lần với cháo loãng nữa, cơn sốt nhẹ dần. Bác lại gượng dậy tiếp tục làm việc ngay.

Mặc dầu Bác đã chỉ thị viết nhiều thư hỏa tốc, tung giao thông đặc biệt đi các hướng để thúc giục các đại biểu, nhưng vì đường sá trắc trở, liên lạc khó khăn, nhiều đại biểu đã cố gắng đi cho chóng mà mãi tới 13, 14 tháng 8 mới lên tới Tân Trào. Có những đoàn đại biểu 16, 17, 18 mới đến kịp.

Trung ương và Tổng bộ Việt Minh quyết định không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Ngày 11, 12 tin vô tuyến điện cho biết có hiện tượng nguy ngập tan rã trong quân đội Nhật.

11 giờ đêm 13, Ủy ban Chỉ huy Lâm thời Khu giải phóng hạ mệnh lệnh khởi nghĩa cho nhân dân và bộ đội.

Nửa đêm nhận lệnh, bộ dội và nhân dân reo mừng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh để thực hiện nhiệm vụ lớn. Các đơn vị giải phóng quân đóng tại Chợ Chu, Tuyên Quang được lệnh chuyển gấp về tập trung tại Tân Trào.

Ngày 14/8, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp, Bác vừa dứt cơn sốt, gượng tới họp, người còn võ vàng, Hội nghị nhận định: "Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới". Hội nghị quyết định mục đích của cuộc chiến đấu là giành quyền độc lập hoàn toàn cho đất nước, thành lập chính quyền nhân dân, thi hành mười chính sách của Mặt trận Việt Minh, định ra chính sách ngoại giao đối với Đồng minh. Để đạt mục đích đó, phải huy động toàn thế nhân dân gồm tất cả các giới, các đảng phái tham gia phong trào cứu quốc, phải gấp rút vũ trang nhân dân chống Nhật và mở rộng Giải phóng quân Việt Nam. Hội nghị định ra nhiệm vụ quân sự cần kíp thống nhất các lực lượng vũ trang thành Giải phóng quân Việt Nam; gấp rút củng cố và phát triển bộ đội, thống nhất biên chế, kỷ luật, tăng cường công tác chính trị, tổ chức Đảng trong quân đội lấy trung đội làm đơn vị cơ sở, củng cố các tổ chức chiến đấu và tiểu tổ du kích để lập những đơn vị Giải phóng quân mới ngoài khu giải phóng.

Sáng ngày 15, được tin đích xác Nhật Hoàng đã ra lệnh cho quân đội hắn đầu hàng, Hội nghị toàn quốc của Đảng đang họp quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc để lãnh đạo Tổng khởi nghĩa và lập Bộ Tư lệnh Giải phóng quân Việt Nam.

Một số chúng tôi ngừng họp và nhận nhiệm vụ mới. Tôi sẽ cùng Giải phóng quân tiến về phía Nam. Anh Song Hào về phía Tuyên Quang cùng các đồng chí ở đấy lãnh đạo nhân dân cướp chính quyền các tỉnh phía Tây.

Chiều 16/8, một đơn vị Giải phóng quân tập họp dưới cờ làm lễ xuất phát tiến về Nam. Các đại biểu về dự Quốc dân Đại hội đều có mặt dưới cây đa cổ thụ, cạnh ngôi nhà Hội đồng Cứu quốc xã Tân Trào để tiễn đưa bộ đội lên đường chiến đấu. Chưa bao giờ Tân Trào lại đón tiếp một đoàn người nhiều màu sắc như vậy. Cùng với màu chàm của rừng núi quen thuộc, còn có màu nâu dày dặn của đồng bằng và những màu sắc tươi sáng của đô thị. Những chiến sĩ Giải phóng quân, quần áo đủ kiểu, mang trên người dấu vết của những cuộc vật lộn ác liệt với quân thù trên các nẻo đường rừng trên các triền núi đá Việt Bắc, tề tựu nghiêm trang dưới cờ nghe đọc bản Quân lệnh số 01 của Ủyban khởi nghĩa.

Hỡi quân dân toàn quốc!

12 giờ trưa ngày 13/8/1945, phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật đã bị tan rã tại khắp các mặt trận. Kẻ thù chính của chúng ta đã ngã gục.

Giờ tổng khởi nghĩa đã đến.

Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!

Mang nhiệm vụ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa toàn quốc cho đến ngày toàn thắng. Ủy ban Khởi nghĩa đã thành lập.

Hỡi các tướng sĩ và đội viên quân Giải phóng Việt Nam!

Dưới mệnh lệnh của Ủy ban Khởi nghĩa, các bạn hãy tập trung lực lượng, kíp đánh vào các đô thị và trọng trấn của quân địch; đánh chẹn các đường rút lui của chúng, tước võ khí của chúng! Đạp qua muôn trùng trở lực, các bạn hãy kiên quyết tiến!

Hỡi nhân dân toàn quốc!

Dưới mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo quân Giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi quân thù.

Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!

Tổ quốc đang đòi hỏi những hi sinh lớn lao của các bạn!

Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!".

Trong lòng chúng tôi khi đó rạo rực lạ thường. Trước mắt chúng tôi lá cờ đỏ sao vàng rực rỡ hào quang, xa xa là nền trời xanh cao lồng lộng, tươi sáng vô cùng của nước Việt Nam giải phóng.

Đoàn quân giải phóng, áo vải chân đất, rầm rập tiến về phía Nam trước những bàn tay vẫn chào chúc mừng thắng lợi cất cao lời ca hùng tráng.

"Cờ giải phóng phất cao, mau thẳng tiến!

Trời phương Nam, dân chúng đang ngóng chờ...".

Tại Tân Trào, lần đầu từ khi về, Bác ra mắt các đại biểu đồng bào Trung, Nam, Bắc. Quốc dân Đại hội đã lập ra Uỷ ban dân tộc giải phóng toàn quốc, chuẩn bị khi cần có thể trở thành Chính phủ nhân dân lâm thời...

(Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể, Hữu Mai ghi, trích trong "Bác Hồ ở Tân Trào")

Tâm Trang (tổng hợp)


 94. Bác muốn biết sự thật kia

Hòa bình lập lại, mặc dù rất bận, Bác vẫn dành thời gian đi thăm bà con nông dân.

Lần ấy, vào vụ thu hoạch mùa. Anh em cảnh vệ chúng tôi được lệnh đến trước và bố trí một số chiến sĩ cùng gặt với bà con để tiện cho việc bảo vệ Bác.

Trên cánh đồng lúa vàng trải rộng, có khoảng năm sáu tổ đang khẩn trương gặt hái, mấy tổ gặt ở kề ngay đường còn một nhóm gặt mãi xa trong cánh đồng lầy lội. Chúng tôi nghĩ, chắc là Bác sẽ đến thăm mấy tổ gần đường, vì vậy một số anh em bảo vệ trà trộn cùng dân gặt trong những nhóm đó.

Chuẩn bị xong, chúng tôi yên chí chờ đợi... Một lúc sau xe Bác đến và dừng lại gần chỗ chúng tôi bố trí. Bác xuống xe nhưng không lại chỗ bà con đang gặt gần đường. Người xắn quần, tháo dép đi thẳng ra nhóm đang gặt ở đằng xa. Thấy vậy một đồng chí trong chúng tôi lúng túng gợi ý:

- Thưa Bác, chỗ đằng kia nông dân gặt đông quá ạ! Bác quay lại nói ngay:

- Đông gì? Các chú bố trí đấy! - Rồi Bác tiếp tục đi. Chúng tôi anh nọ nhìn anh kia ngượng quá.

Đến chỗ bà con nông dân đang gặt ở giữa cánh đồng, Bác ân cần hỏi han từ chuyện trong nhà đến việc ngoài đồng... Do hóa trang rất khéo, vả lại buổi đi thực tế của Bác rất bất ngờ, nên bà con nông dân cứ ngỡ là một cán bộ già đi qua đường xuống thăm nói chuyện với Bác rất tự nhiên, vui vẻ.

Lúc về nhà, Bác bảo chúng tôi: "Các chú nên rút kinh nghiệm, nếu làm việc gì cần phải bí mật, thì phải làm sao để không ai phát hiện được (hóa ra Bác đã thấy trong đám gặt gần đường có cả những anh "nông dân" mặc quần kaki đi gặt). Bác nói tiếp:

- Lần này đi thăm bà con nông dân. Bác muốn nói chuyện thật tự nhiên để biết tình hình thực tế. Bác thì Bác muốn biết sự thật kia! Đối với nông dân, điều đầu tiên là phải chân thực !

(Hồng Long, Văn Nam, Văn Phan - Cục Cảnh vệ kể, trích trong "Bác Hồ chiến sĩ")

95. Có như thế mới giữ được bí mật

Khoảng năm 1944, Bác Hồ và các anh đi bộ từ trong nước sang. Đến Côn Minh vừa đúng một tháng. Khi đi Bác mang theo một ống bương dài trong đựng một killôgam muối, một kilôgam mỡ và một kilôgam ớt. Tất cả cho vào một cái cóng đi đường. Cùng đi với Bác có anh Minh (người dân tộc thiểu số) và anh Phùng Thế Tài. Cứ sau một ngày đi đường, nghỉ ở đâu thì nấu cơm ăn ở đó. Gần đến Côn Minh, Bác bị sốt rét phải ở lại hai ngày. Anh Phùng Thế Tài đến trước báo cho chúng tôi. Anh Phạm Việt Tử và anh Tống Minh Phương (chồng tôi) mừng lắm, các anh nói với tôi là nhà ta sắp có khách. Buổi sáng một ngày tháng 10 có một Ông Cụ mặc quần áo và đội mũ của lính Tàu Tưởng, đi đôi dép rách, ngoài khoác cái chăn sợi cũ rách, cứ thế đi thẳng vào trong nhà tôi. Cầu thang đi lên gác phải qua bếp, Ông Cụ nhìn tôi, làm tôi giật mình, lúc đầu tôi hơi sợ vì thấy Ông Cụ có đôi mắt rất sáng. Ông Cụ lên gác, tôi thấy anh Việt Tử, anh Phương, cụ Lê và cả nhà nhộn nhịp hẳn lên. Tôi lên gác, Cụ nhìn tôi và hỏi: Phương đấy à. Lúc đó nhìn Cụ gầy gò tôi thấy thương Cụ quá. Sau đó Cụ lên cơn sốt, đến bây giờ nghĩ lại tôi vẫn thấy sợ. Anh Phạm Việt Tử đi mua thuốc ký ninh về tiêm ven cho Cụ, như vậy có chết người không? Tôi tiêm cho Cụ hai ngày, tiêm được hai ống thì dứt cơn sốt. Chúng tôi cho Cụ uống thuốc bổ, nhưng Cụ không chịu uống mà nói: Ở trong nước, thuốc bệnh cũng không có, có thuốc là tốt lắm rồi. Chúng tôi phải nói dối Cụ là thuốc của nhà thừa lại (lúc bấy giờ chưa gọi Bác), nếu Cụ không uống thì phí đi. Lúc đó Ông Cụ sợ lãng phí và sợ lộ bí mật. Vì thế thuốc mua về bỏ vỏ ra, đưa cho Cụ uống, uống được mấy hôm thì Cụ phát hiện ra là tôi nói dối.

Trong thời gian này, sáng nào chúng tôi cũng chuẩn bị cho Cụ một cốc cà phê sữa, nhưng phải nói khéo lắm Cụ mới uống. Ăn uống hàng ngày, Ông Cụ ít dùng đến thịt, cá. Lúc bấy giờ Cụ đã khỏe, mỗi bữa ăn được ba bát. Sau một thời gian ngắn, Cụ xuống bán hàng, mỗi ngày khoảng hai tiếng đồng hồ. Chúng tôi bảo với Cụ: Nếu cứ thế này thì lộ bí mật mất, nhưng Ông Cụ bảo: Có như thế này mới giữ được bí mật. Ông Cụ biết nhiều thứ tiếng, cửa hàng của tôi Tây vào nhiều. Lúc bấy giờ các cửa hàng ở Tàu chưa treo biển tiếng Pháp, chỉ sính tiếng Anh thôi, do đó biển treo toàn viết bằng tiếng Anh. Ông Cụ bảo: Bây giờ nhà mình viết biển bằng tiếng Pháp đi, vì đất này ít lâu nữa Pháp sẽ sang rất đông, mà cả cái tỉnh này, không có cửa hiệu nào treo biển bằng tiếng Pháp, chỉ nhà mình treo thì bọn chúng sẽ vào nhiều. Chúng tôi thấy ông Cụ nói có lý nên làm ngay. Ông Cụ nói hôm trước thì hôm sau kẻ lại biển và quả nhiên sau khi ông Cụ về, với cái biển cà phê Việt Nam bằng chữ Pháp, bọn Pháp sang đây và tập trung vào nhà chúng tôi rất đông.

(Trần Việt Hoa, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

96. Như lạc vào cảnh tiên

Bác còn là một tấm gương sáng về sự giữ gìn và rèn luyện sức khỏe. Bất kỳ thời tiết nào, dù nhiều việc bận đến đâu, sáng nào Bác cũng tập thể dục. Có lần tôi được thấy Bác tập võ. Giữa cảnh núi rừng hùng vĩ, nhìn Bác phất phơ chòm râu bạc, đi một đường quyền uyển chuyển nhẹ nhàng, tôi có cảm giác như đang lạc vào một cảnh tiên, gặp một ông tiên nào đó. Bác cũng thường nhân những lúc nghỉ, ra ngồi câu cá bên bờ suối. Nhất là những đêm trăng sáng, Bác hay gọi chúng tôi đến kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện trong đời hoạt động của Bác. Và chúng tôi như những đứa cháu nhỏ quây quần chung quanh ông nội, nghe ông kể chuyện. Thật là những giờ phút suốt đời tôi không bao giờ quên được.

(Diệp Minh Châu, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

97. Bỏ thuốc lá

Hút thuốc lá là thú vui duy nhất của Bác như Bác thường nói. Nhưng từ khi bị bệnh, theo lời khuyên của hội đồng thầy thuốc, Bác có kế hoạch quyết tâm bỏ dần. Bác nói:

- Bác hút thuốc từ lúc còn trẻ nay đã thành thói quen, bây giờ bỏ thì tốt nhưng không dễ, các chủ phải giúp Bác bỏ tật xấu này. Rồi Bác tự đề ra chương trình bỏ thuốc dần dần. Lúc đầu là giảm số lượng điếu hút trong ngày. Khi thèm hút thuốc Bác làm một việc gì đó để thu hút sự chú ý tập trung. Tuổi đã già phải làm như vậy thật quá vất vả. Tập một thói quen, bỏ một thói quen không dễ chút nào. Phải có một nghị lực phi thường mới làm được. Bác bảo đồng chí giúp việc để cho Bác một vỏ lọ Penixillin ở nơi làm việc và ở phòng nghỉ. Hút chừng nửa điếu Bác dụi đi để vào lọ đó. Sau hút lại nửa điếu để dành, anh em can bảo thuốc lá hút dở không có lợi, Bác bảo: “Nhưng hút thế để có cữ”. Với cách làm đó Bác đã giảm từ cả bao xuống ba bốn điếu một ngày. Cứ như vậy Bác hút thưa dần.

Đầu tháng 3-1968 nhân khi bị cảm ho nhẹ, Bác tự quyết định bỏ hẳn. Mấy ngày sau, trong một tuần lễ anh em vẫn để gói thuốc chỗ bàn làm việc của Bác, nhưng Bác không dùng.

Sau một tuần thấy Bác quyết tâm như vậy anh em cất hẳn thuốc lá. Một tháng sau, khi tiếp đồng chí Vũ Quang, lúc ấy là Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Bác nói: Bác đã bỏ thuốc lá rồi, chú về vận động thanh niên đừng hút thuốc lá. Sau này Bác có bài thơ Vô đề:

“Thuốc kiêng rượu cữ đã ba năm,

Không bệnh là tiên sướng tuyệt trần.

Mừng thấy miền Nam luôn thắng lớn,

Một năm là cả bốn mùa Xuân”.

(Lê Văn Mẫn, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

98. Phải dân chủ với dân

Khoảng 11 giờ thì đến Vật Lại, bà con xã viên, các cụ phụ lão, các cháu thiếu nhi chờ đón từ đầu đường rẽ lên đồi. Bác vui vẻ cùng mọi người quây quần dưới tán bạch đàn. Bác thân mật nghe cán bộ địa phương báo cáo và hỏi chuyện mọi người. Bác nói với chị Nguyệt, con cụ Chu Công Tự, chiến sĩ trồng cây của xã Vật Lại: “Các cụ thì biết chuyện cũ, chuyện mới, nhưng các cháu ngày nay chỉ biết chế độ dân chủ cộng hòa. Đất nước bây giờ là của ta, cho nên cần phải thi đua sản xuất giỏi, trồng cây giỏi”.

Chị Đỗ Thị Soạn, trưởng thành từ phong trào Cô gái Đại Phong, nay là Bí thư Đảng ủy xã Tòng Bạt, báo cáo với Bác phong trào nhân dân trong xã. Nghe xong, Bác dặn: “Phải dân chủ với dân. Phải để cho dân phê bình cán bộ, đảng viên”. Bác hỏi đồng chí Hán, Chủ nhiệm Hợp tác xã Hợp Thịnh: “Hợp tác xã có hay liên hoan chè chén không?. Đồng chí Hán báo cáo.

- Thưa Bác! Hợp tác xã chúng cháu dạo này không ăn uống xa phí nữa. Có người cho chúng cháu là keo kiệt.

Bác cười rất hiền và động viên:

- Cháu làm thế là đúng, là biết giữ gìn của cải cho xã viên.

Tôi ngồi nhìn Bác, chăm chú nghe cuộc đối thoại giữa vị Chủ tịch nước với người dân bình thường và phát hiện ra một điều là Bác Hồ đi trồng cây nhưng đang nói chuyện “trồng người”. Cuộc đối thoại này, những lời dạy đầu năm này của Bác, ngày mai sẽ bay đi khắp đất nước, bổ sung vào đợt giáo dục đạo đức cách mạng do chính Bác phát động.

Bác cùng các cụ trồng cây. Khung cảnh chung quanh thật đẹp. Nắng Xuân ấm áp. Lúa đang lên xanh. Một cụ già tóc bạc, da dẻ hồng hào, giữa đàn con cháu… Tôi nhớ đến câu:

Vì lợi ích mười năm, trồng cây

Vì lợi ích trăm năm, trồng người.

Mùa Xuân cuối cùng của cuộc đời, Bác Hồ vẫn chăm lo việc trồng cây, trồng người.

(Vũ Kỳ, trích trong “Bác Hồ viết Di chúc")

99. Tiết kiệm

Sáng 24-7-1957, trong buổi tiễn đoàn đại biểu nước ta, khi Chủ tịch Giavatxki cùng Bác từ trên gác bước xuống tầng dưới, đến một gian phòng rộng hàng ngàn thước vuông với ba chùm đèn có hàng trăm ngọn sáng trưng, trong khi mặt trời đã lên cao, bỗng nhiên Bác hỏi:

- Vụ trưởng Lễ tân có mặt ở đây không?

Mọi người ngạc nhiên, chưa biết Bác hỏi để làm gì. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước bạn bước lại gần Bác:

- Thưa Chủ tịch, Vụ trưởng Lễ tân đang ở ngoài sân bay. Tôi là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Xin Chủ tịch chỉ thị.

Bác hỏi:

- Chỗ tắt điện ở đâu?

Mấy chiến sĩ bảo vệ vội vàng chạy đi tắt đèn. Chủ tịch Giavatxki quay mặt đối diện với Bác, nói nghiêm trang:

- Xin cảm ơn đồng chí Hồ Chí Minh. Tôi chân thành nhận khuyết điểm chưa nghiêm túc thực hiện chỉ thị tiết kiệm của Lênin.

(Sơn Tùng, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

Tâm Trang (tổng hợp)


 100. Chú ăn no mới cày được, sao để trâu gầy đói thế?

Bác cùng đồng chí bảo vệ đi về khu ruộng Song nơi xã viên đang gặt lúa. Qua khu đồng Con Cá, tổ cày của hợp tác xã đang cày ruộng. Bác tới nơi mọi người đều ngỡ ngàng, gặp hai ông Nguyễn Hữu Uy và Nguyễn Đức Lân đang cày dưới ruộng, ông Uy đang dùng một con trâu vừa gầy vừa đói để cày ruộng. Bác hỏi ông Uy:

- Chú ăn cơm sáng chưa?

Ông Uy trả lời Bác:

- Thưa Bác cháu ăn cơm sáng rồi ạ!

- Chú ăn no mới cày được tới trưa! Sao lại để con trâu gầy đói thế?

Ông Uy đang lúng túng, ngượng ngùng chưa biết trả lời Bác ra sao, Bác nói tiếp:

- Con trâu là đầu cơ nghiệp, phải chăm sóc tốt thì nó mới đủ sức khỏe để cày sâu, bừa kỹ, mới sản xuất được ra nhiều lúa gạo cho dân ta ấm no, nước ta giàu mạnh.

Bác bảo ông Uy:

- Chú hạ cái cày xuống thêm một nấc để đường cày được sâu thêm.

Lời nói chân tình, giản dị nhưng vô cùng sâu sắc của Bác làm cho mọi người càng thấm thía, ai cũng không ngờ rằng ở Bác một lãnh tụ của Đảng, của dân tộc lại am hiểu tường tận công việc nhà nông đến như vậy.

(Nguyễn Thị TịchTrích, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

101. Chiến lược trăm năm trồng người

Cũng trong cuộc hội đàm, sau khi phía Cộng hòa Dân chủ Đức báo cáo xong những thành quả đã thu được trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Bác hỏi:

- Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lĩnh vực nào là quan trọng nhất?

- Thưa Chủ tịch, đó là lĩnh vực xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. - Thủ tướng trả lời.

Bác hỏi tiếp:

- Các đồng chí dự kiến bao nhiêu năm thì hoàn thành?

- Thưa Chủ tịch, khoảng bốn thế hệ.

Bác hỏi tiếp:

- Mỗi thế hệ là bao nhiêu năm?

Tổng Bí thư nhìn Thủ tướng có vẻ trao đổi bằng ánh mắt. Thủ tướng nói:

- Thưa Chủ tịch, mỗi thế hệ khoảng 20 đến 25 năm.

Bác có vẻ tán đồng: 

- Trăm năm trồng người là đúng.

Đây là một công việc lâu dài và rất quan trọng.

(Song Tùng, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

102. Những lời Bác dạy đầu tiên

 Mùa thu năm 1946, tôi và ba đồng chí nữa được vinh dự theo Bác về nước trên chiếc tầu Đuy-mông Đuếc-vin. Tàu này là một chiếc tầu chiến đã cũ, chạy lừ đừ chậm chạp. Lúc bấy giờ, tình hình ở trong nước đang căng thẳng ai nấy đều sốt ruột mong về sớm, nhưng giờ đây nghĩ lại, đối với chúng tôi, đó là một dịp may hiếm có để được kéo dài những ngày chung sống với Bác.

 Trên chuyến xe lửa từ Pa-ri đi Mác-xây, Bác nói:

- Nước ta còn nghèo vì 80 năm bị đế quốc bóc lột, chiếm đóng. Đồng bào Nam Bộ giờ đây còn đổ máu. Chúng ta còn gian khổ chiến đấu nhiều chứ chưa được sung sướng ngay đâu. Các chú về nước chính là để phục vụ Tổ quốc, phục vụ đồng bào...

Lên tàu rồi, một hôm Bác dặn:

- Ở nhà không có gì đâu. Nước ta thiếu máy móc, nguyên liệu, thiếu cả thợ lành nghề, tiền của ta lại ít. Song nước ta giàu về rừng núi, sông biển, đồng bào ta giàu về quyết tâm, dũng cảm và sáng tạo. Các chú về phải chịu thương, chịu khó làm ăn, đưa những cái đã học ở nước ngoài về áp dụng thiết thực vào trong nước, giúp đỡ và hướng dẫn anh em trong nước cùng làm.

Tôi còn nhớ lúc đi tàu, thỉnh thoảng có những hôm tên Đại tá chỉ huy tàu tổ chức tập trận giữa biển cả mênh mông, tiếng súng đại bác, súng máy các loại thi nhau gầm thét, khói mịt mù, nước biển tung toé ngoài khơi. Trong chúng tôi, thoạt tiên cũng có người hồi hộp, nhưng riêng Bác vẫn điềm nhiên, ung dung hút thuốc lá, đứng xem. Bác mỉm cười bảo chúng tôi:

- Đấy, người ta thử kiểm tra tinh thần của các chú. Các chú có sợ không?

Nhân đó Bác chỉ cho chúng tôi thấy bọn đế quốc thường hay phô trương, khoe khoang về sức mạnh vật chất, còn nhân dân cách mạng tuy nghèo nhưng hàng triệu người đoàn kết thành một khối, có tinh thần dũng cảm và mưu trí, nhất định đánh bại được bọn chúng....

Tại Đại hội liên hoan Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, tôi được Bác khen...

Vinh dự đó thuộc về anh em ngành Quân giới, trong đó tôi nhờ sự chỉ bảo dẫn dắt của Bác đã đóng góp một phần.

Những lời dạy của Bác như bức cẩm nang quyết định mọi thắng lợi trong công tác của tôi.

(Thiếu tướng, Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa)

103. Một cuộc đối thoại sinh động

Một lần, thăm trại thiếu nhi Tiệp Khắc gần Pra-ha, Bác Hồ đã có một cuộc đối thoại sinh động với các cháu:

- Các cháu thân mến! Các cháu có biết Bác là ai không?

- Ano (Có ạ). Strycek Hồ! (Bác Hồ), các cháu ríu rít trả lời.

  - Bác từ nước nào đến?

  - Việt Nam! Tất cả đồng thanh nói to.

  - Các cháu có yêu học tập không?

  - Ano!

  - Có yêu lao động không?

  - Ano!

  - Bác Hồ rất yêu các cháu. Các cháu có yêu Bác Hồ không?

  - Ano! Nhiều cháu chen nhau xin được hôn Bác. Bác cười đôn hậu nói vui:

Bác Hồ gầy, các cháu hôn Bác nhiều quá, Bác sẽ gầy hơn. Các cháu hãy cử đại biểu đến hôn Bác vậy.

Tất cả cười ngặt nghẽo.

(Theo Lê Bá Thuyên)

104. Tháng Tám năm 1945 ở Hà Nội

Đầu năm 1941, Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng.

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Hà Nội khởi nghĩa giành chính quyền, rồi lần lượt đến các tỉnh khác trong cả nước. Cuối tháng 8 năm 1945, Thường vụ Trung ương quyết định đưa Bác về Thủ đô Hà Nội để lãnh đạo, giữ vững và củng cố chính quyền non trẻ. Lúc ấy, Bác ốm và rất gầy. Chúng tôi mua ít tim gan nấu cháo cho Bác. Nhưng có thể do không may mua phải tim gan của lợn gạo nên Bác lại lên cơn sốt cao. Trên đường về Hà Nội, có lúc mệt quá, Bác không đi được, anh em dùng vải và đòn tre làm cáng. Nằm trên cáng, người sốt hầm hập nhưng Bác vẫn thấy vui vì đi tới đâu cũng thấy cờ đỏ sao vàng và đồng bào hào hứng hô vang: "Ủng hộ Việt Minh", "Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm".

Chiều 25 tháng 8, về đến ngoại thành Hà Nội, Bác dừng lại ở làng Phú Gia. Chiều tối chủ nhật, 26 tháng 8 năm 1945, đồng chí Trường Chinh đến đón Bác. Hà Nội hừng hực khí thế cách mạng. Khắp phố phường tràn ngập niềm hân hoan với cờ đỏ sao vàng. Ít ai để ý đến một chiếc xe cũ, màu đen chở Bác chạy từ phía Chèm, dọc theo đê Yên Phụ, xuống dốc Hàng Than, qua phố Hàng Giấy rồi rẽ Hàng Mã về đến trước số nhà 35 Hàng Cân. Xe đưa Bác vào cổng sau, rồi Bác lên thẳng gác 2 nhà 48 phố Hàng Ngang. Đây là ngôi nhà 3 tầng của ông Trịnh Văn Bô, một thương gia lớn của Hà Nội và là cơ sở của cách mạng. Nhà xây chắc chắn, rất tiện cho công tác bảo vệ. Tầng 1 và tầng 3 chủ nhà dành để ở và bán hàng. Còn tầng 2 dành cho cách mạng. Lúc này, chủ nhà chưa biết người cách mạng đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đi lên, đi xuống nhiều, chủ nhà chỉ thấy một cụ già dáng người gầy nhưng nhanh nhẹn, có đôi mắt sáng lạ thường. Sau này chủ nhà mới biết ngôi nhà của mình có vinh dự được đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay chiều tối hôm sau, 27 tháng 8, tôi (tức Vũ Kỳ) được Trung ương chọn làm thư kí cho Bác. Bác thân mật hỏi tôi:

- Chú tên gì?

Tôi thưa:

- Cháu tên Cần ạ (tên của tôi hồi đó).

Có lẽ tôi xúc động nói không rõ nên Bác nghe thành Cẩn. Bác trìu mến bảo: - Cẩn à, Cẩn là cẩn thận. Rất tốt.

Sáng hôm sau, Bác lại hỏi tên tôi, tôi thưa rất rõ: - Cháu là Cần ạ.

Bác tỏ ra rất vui và nói ngay:

- Cần thì càng tốt. Cần là cần, kiệm, liêm, chính.

Đó cũng là điều mong muốn của Bác về phẩm chất, đạo đức của người cán bộ mà những năm sau này mỗi dịp gặp cán bộ, mỗi khi đến thăm các lớp huấn luyện, Bác đều căn dặn mọi người phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính.

Trong căn nhà 48 phố Hàng Ngang, chủ nhà dùng căn phòng phía sau trên tầng 2 làm phòng ăn. Giữa phòng kê một chiếc bàn gỗ dài và to, quanh bàn có 8 chiếc ghế tựa đệm mềm. Bác dùng bàn này để làm việc với các đồng chí Thường vụ Trung ương. Cuối phòng kê một chiếc bàn tròn. Nơi đây Bác dùng làm bàn ăn. Trong cuộc sống hàng ngày, Bác không dành cho mình một sự ưu đãi nào. Bác là tấm gương sáng về đức tính giản dị của người cán bộ cách mạng. Bác thường ngồi làm việc trên chiếc bàn kê sát tường bọc dạ xanh màu lá mạ, vừa đủ để tập giấy bút và chiếc máy chữ nhỏ Bác mang từ chiến khu về. Trong những ngày này, Bác dành nhiều thời gian và tâm trí cho việc soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Hàng ngày Bác dậy sớm tập thể dục, sau đó ngồi vào bàn và đánh máy luôn bản thảo. Ban đêm, Bác cũng thức rất khuya, trầm ngâm suy nghĩ về những nội dung trong bản thảo Tuyên ngôn Độc lập.

Sáng 29 tháng 8, Bác chuyển đến Bắc Bộ phủ làm việc. Ở đây, Bác tiếp tục hoàn chỉnh bản Tuyên ngôn Độc lập. Sau mấy ngày sốt, tuy sức khoẻ giảm sút trông thấy, nhưng sức làm việc của Bác thì vẫn phi thường. Đêm 29 tháng 8, Bác thức khuya hơn bình thường vì ngày 02 tháng 9 đã cận kệ. Bác viết rồi lại sửa. Những lúc suy nghĩ căng thẳng nhất Bác thường đặt tay lên trán và đôi mắt sáng khi thì nhìn những dòng chữ như có hồn vừa được viết ra, khi thì nhìn vào đêm tối như tìm một điều gì đó mà chỉ riêng Bác mới hiểu.

Cho đến ngày 30 tháng 8, bản Tuyên ngôn Độc lập được dự thảo xong, Bác đưa ra tranh thủ ý kiến các đồng chí Trung ương.

Sáng 31 tháng 8, Bác hỏi tôi:

- Chú Cần có biết Quảng trường dự định họp mít tinh như thế nào không? Rồi Bác bảo tôi vẽ phác bản đồ cho Bác. Xem bản đồ xong, Bác hỏi:

- Liệu được bao nhiêu người?

Tôi thưa với Bác:

- Được vài chục vạn người đấy ạ. Bác hỏi tiếp:

- Thế các chú định bố trí để đồng bào đi vệ sinh ở đâu?

Tôi sững sờ trước câu hỏi của Bác và lúng túng không biết trả lời thế nào, thì Bác nói tiếp:

- Việc nhỏ, nhưng nếu không chú ý bố trí cho tốt thì rất dễ mất trật tự. Chú có biết không, Hương Cảng, công nhân lao động biểu tình thì chính quyền Anh chưa giải quyết, nhưng khi công nhân công ty vệ sinh đình công thì chính quyền Anh phải giải quyết ngay. Vì đã có lần giải quyết chậm, rác rưởi bẩn thỉu ngập đường phố.

Tiếp đó, Bác dặn tôi nói với Ban tổ chức nếu trời mưa thì kết thúc mít tinh sớm hơn, tránh cho đồng bào khỏi bị ướt, nhất là đối với các cụ già và các cháu nhỏ.

Thật hạnh phúc biết bao cho nhân dân Việt Nam khi được biết vị đứng đầu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ chỉ trước khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vài giờ vẫn chăm lo đến những cái nhỏ nhất trong đời sống.

Ngày 02 tháng 9 năm 1945 đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi: Khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại Quảng trường Ba Đình, khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, đến đoạn tố cáo tội ác của phát xít Nhật, cả biển người im phăng phắc. Nghĩ đồng bào nghe mình nói tiếng Nghệ An không rõ và quên cả mình là Chủ tịch nước đang trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, Bác ngừng đọc cất tiếng hỏi rất thân mật:

- Đồng bào nghe rõ tiếng tôi không?

Tiếng trả lời: "Có" như sấm dậy. Chưa bao giờ và chưa ở đâu, người ta lại thấy tình cảm giữa lãnh đạo cao nhất và dân chúng gần gũi và thân thương đến thế! Kết thúc cuộc mít tinh, ra về nhưng mọi người vẫn như nhìn thấy ánh mắt, vẫn như nghe thấy giọng nói ấm áp và hiền hậu của Bác.

(Trích trong “Những mẩu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

105. Bác Hồ với bộ đội ở Đền Hùng

- Các chú có mệt không? Mọi người đáp ran:

- Thưa Bác, không ạ!

Theo hiệu của Bác, tất cả cán bộ, chiến sĩ đều nhất loạt ngồi xuống bậc thềm, vây quanh lấy Bác.

Mở đầu câu chuyện, Bác chỉ tay lên đền, thân mật hỏi:

- Các chú có biết đây là nơi nào không? Đây chính là đền thờ vua Hùng, tổ tiên chúng ta. Bác cháu ta gặp nhau ở đây tuy tình cờ nhưng lại rất có ý nghĩa. Ngày xưa, các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Trải qua bao nhiêu thời đại đấu tranh, ông cha ta mới giữ được Thủ đô. Tám, chín năm nay, do quân dân ta kiên quyết kháng chiến nên mới có thắng lợi trở về Hà Nội. Vì thế, các chú được Trung ương và Chính phủ giao cho nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô, là được nhận một vinh dự rất lớn.

Sau đó, Bác nhắc nhở: "Quân đội ta không được vì sống trong hòa bình mà lơi lỏng tay súng. Còn đế quốc ở miền Nam, còn đế quốc trên thế giới thì còn phải xây dựng quân đội mạnh mẽ".

Ai nấy đều nhớ mãi lời khuyến khích, dặn dò ân cần của Bác. Lúc câu chuyện kết thúc, Bác nói: Đồng bào Hà Nội chờ mong các chú từ ngày các chú ra đi, nay đang mong cờ đỏ sao vàng, chờ đợi hoan hô các chú. Hãy xứng đáng với vinh dự đó, trách nhiệm đó.

Vô cùng phấn khởi, mọi người vội đứng cả dậy, xúm xít quanh Bác Hồ hô lớn: "Hồ Chủ tịch muôn năm! Chúc Bác vui khỏe, sống lâu".

Bác cười hiền hậu, nói:

          - Được, muốn Bác vui khoẻ sống lâu, các chú hãy làm đúng lời Bác dặn.

Những lời căn dặn của Bác Hồ với bộ đội tại Đền Hùng 48 năm về trước đã đặt ra cho thế hệ chúng ta hôm nay trách nhiệm nặng nề và rất vẻ vang.

(Trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

106. Các chú nói đúng nhưng chưa hợp lý

... Các đồng chí Bộ Chính trị đều tham gia ý kiến rồi gửi lại cho Bác. Bác xem và bảo đồng chí Vũ Kỳ lấy bản của đồng chí Trường Chinh làm bản gốc, vì bản này có nhiều ý kiến thiết thực, sau đó bổ sung các ý từ những bản của các đồng chí khác. Sửa xong, Bác cho đi đánh máy lại và ngày 30/01 mời đồng chí phụ trách tuyên huấn sang cùng Bác soát lại lần cuối. Đồng chí tuyên huấn đọc xong, cười gượng, nói:

- Thưa Bác, so với bản bên Tuyên huấn gửi sang, Bác sửa lại hầu hết ạ. Bác cười độ lượng:

- Bác có sửa nhưng các ý chính trong bài Bác có sửa đâu. Đồng chí phụ trách tuyên huấn thưa:

- Thưa Bác, cán bộ Đảng ta nói chung là tốt. Chỉ có một số ít thoái hóa biến chất. Bác đặt đầu đề như vậy thì mạnh quá, xin Bác đưa về "Nâng cao đạo đức cách mạng" lên trước, vế "Quét sạch chủ nghĩa cá nhân" xuống sau ạ!

Bác quay sang hỏi đồng chí Vũ Kỳ: - Ý kiến chú thế nào?

Đồng chí Vũ Kỳ thưa với Bác là đồng ý với đề nghị của đồng chí tuyên huấn. Nghe xong Bác nói:

- Các chú có lý, nhưng chưa hợp lý. Bác muốn hỏi điều này. Gia đình các chú tiết kiệm mua được một bộ bàn ghế và giường tủ mới. Vậy trước khi bê vào phòng, các chú có khênh đồ cũ ra quét sạch sẽ hay cứ để rác bẩn thỉu mà kê bàn ghế, giường tủ mới vào?

Ngừng một lát. Bác tiếp:

- Vì các chú là đa số. Bác đồng ý nhượng bộ, đổi lại đầu đề "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân", nhưng trong bài dứt khoát giữ nguyên ý: "Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng".

(Trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

Tâm Trang (tổng hợp)


 107. Các chú có báo không?

Ông cụ bắt tay chúng tôi và hỏi:

- Các chú là tự vệ thôn đây?

- Dạ.

Ông cụ liền chỉ tay vào các đồng chí cùng đi, nói: - Các chú đây là Giải phóng quân.

Lâu nay ba tiếng Giải phóng quân có sức thu hút mãnh liệt đối với tôi. Hằng ngày cứ đứng trên đê, hướng về dãy núi Tam Đảo, tôi ao ước sao có cánh để bay tới chiến khu Tuyên - Thái mà sống cuộc sống chiến đấu và tự do trên ấy. Tôi đã nhiều lần đề nghị cấp trên cho thoát ly để tham gia Giải phóng quân, nhưng chưa được. Giờ đây trước mặt tôi là những con người ấy đang tươi cười bắt tay mình. Tôi không sao nén được cảm động trước những đồng chí mới gặp lần đầu này, đặc biệt là cụ già trong đoàn.

Sau phút chào hỏi, chúng tôi mời ông cụ về trụ sở tự vệ của chúng tôi trong thôn. Tới cổng thôn, ông cụ dừng lại xem các khẩu hiệu kẻ trên bức tường. Chợt nhìn thấy hàng dây cờ căng trước cổng thôn, ông cụ bỗng nhiên hỏi:

Sao các chú làm cờ của ta nhỏ hơn cờ của các nước đồng minh?

Chúng tôi cùng nhìn lên, thì ra cờ của ta nhỏ hơn cờ của các nước đồng minh thật! Một đồng chí trong chúng tôi thưa với cụ:

- Dạ, giấy đỏ và giấy vàng nhân dân ta mua làm cờ nhiều quá nên thiếu ạ! Vì muốn cho đủ, nên chúng cháu phải cắt bỏ đi một chút ạ.

- Không nên - ông cụ khẽ lắc đầu và bảo. Các chú phải hiểu là: Cách mạng đã thành công, nước ta đã giành được độc lập và ngang hàng với các nước khác, vì vậy cờ của ta phải bằng cờ của các nước. Có thế mới tỏ rõ chí tự cường, tự trọng của mình.

Chúng tôi đều vâng lời, một đồng chí tự vệ vội trèo lên lấy dây cờ xuống để sửa lại.

Về tới trụ sở của đội tự vệ (nói là trụ sở, thật ra chỉ là một ngôi miếu gần đình làng tôi, cả ngôi miếu bấy giờ chỉ có hai cái phản để chúng tôi nghỉ mỗi khi đi tuần tra, canh gác về; sở dĩ chúng tôi chọn nơi đây là cốt để yên tĩnh và chờ đến tối sẽ chuyển sang địa điểm khác), tôi vội đi lên trước, toan trải chiếu, nhưng ông cụ gạt đi và thản nhiên ngồi xuống phản. Hai đồng chí Giải phóng quân cùng anh em tự vệ chúng tôi gác phía ngoài. Số còn lại thì vào nghỉ ở chiếc phản kề bên.

Tôi mang bộ đồ trà tới. Quen như tiếp khách ở nhà, tôi toan rót nước ra chén. Ông cụ bảo:

- Cháu cứ để đấy, ai khát sẽ rót uống, không nên rót sẵn. Tôi vâng lời. Ông cụ lại hỏi:

- Các chú có báo không?

- Dạ, có ạ.

Tôi vội mang tới cho ông cụ tờ báo Cờ giải phóng chúng tôi vừa mua ban sáng. Ông cụ chỉ đầu bài rồi giao cho một đồng chí Giải phóng quân đọc, các đồng chí khác cùng ngồi quây quần lắng nghe. Ông cụ vừa nghe, vừa thỉnh thoảng ghi gì đó vào sổ tay. Có lúc ông cụ dừng lại, nêu câu hỏi để các đồng chí Giải phóng quân nêu ý kiến, rồi cụ giảng giải thêm, sau đó mới cho đọc tiếp.

(Trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

108. Chú trả lời cho rõ hơn

Sau khi thăm xong khu nhà ở, chúng tôi đưa Bác tới hội trường, đồng thời cũng là câu lạc bộ của đơn vị. Thấy nền gạch trong hội trường được anh em lau rất sạch, Bác cởi dép để ngoài thềm, đi chân không vào hội trường. Chúng tôi cũng làm theo Người. Thấy vậy, Bác bảo:

- Nên để cái gì lau chân, vừa sạch nhà, vừa đẹp mắt.

Bước vào trong hội trường, Bác đưa mắt nhìn chung quanh một lượt, để xem cách bố trí hội trường và phòng đọc sách. Sau đó, Người lần lượt xem các bức vẽ và bích báo của các chiến sĩ. Bác chú ý những bài nói về kinh nghiệm học tập quân sự, chính trị, văn hóa, thành tích tăng gia... Bác khen:

- Các bức vẽ và bích báo đều tốt, nhưng thiếu mục phê bình!

Tới giữa hội trường, Bác nhìn lên khẩu hiệu dưới ảnh Người và bảo:

- Chữ viết đẹp. Nhưng là những chữ gì? - Nói xong, Bác liền đọc: "Hồ Chủ tịch muốn nằm".

Phê bình mà chúng tôi cũng không sao nhịn được cười. Bác cũng cười. Đuôi mắt Người nheo hẳn lại, chòm râu rung rung.

- Thưa Bác, chúng cháu viết khẩu hiệu "Hồ Chủ tịch muôn năm" đấy ạ! Sợ vì đánh dấu sẽ giảm mất mỹ thuật nên viết như thế ạ. - Đó là lời đồng chí Minh, người chiến sĩ vừa tòng quân năm 1961. Lần đầu gặp Bác, thấy Bác đọc khẩu hiệu như thế, Minh tưởng Bác đọc thật, vội trình bày lại.

Bác nhìn Minh, âu yếm hỏi:

- Chú bao nhiêu tuổi?

- Thưa Bác, cháu 18 ạ!

- Chú ở nhà làm gì? Gia đình hiện nay như thế nào?

- Dạ, cháu ở nhà đi học và giúp bố mẹ cháu làm trong hợp tác xã ạ! Bố cháu trước là cố nông, sau Cách mạng tháng Tám đi bộ đội, mới phục viên năm 1959 ạ!

- Chú học lớp mấy?

- Dạ, cháu học lớp 9...

Bác chỉ vào bản đồ Việt Nam treo trên tường và bảo Minh:

- Cháu chỉ cho Bác xem âm mưu Mỹ - Diệm dùng chất độc hóa học ở miền Nam Việt Nam như thế nào, tác hại ra sao?

Minh trả lời xong, Bác gật đầu tỏ vẻ bằng lòng:

- Chú hiểu đúng! Nên làm cho anh em khác cũng hiểu như mình. Nhắc Minh xong, Bác quay lại hỏi tôi:

- Lúc ở nhà chú làm gì?

- Ngày bé cháu đi ở cho địa chủ, lớn lên được người anh xin cho vào học việc ở nhà máy xe lửa Gia Lâm. Kháng chiến cháu tham gia đội nghĩa quân Hồng Hà, rồi sau chuyển sang sư đoàn Quân tiên phong ạ!

Bác quay lại hỏi Minh:

- Chú nghĩ như thế nào khi thấy mình học hết lớp 9 và trung đoàn trưởng của chú trước làm công nhân?

Minh suy nghĩ có vẻ khó khăn, đôi lông mày thanh thanh nhíu lại. Má lại đỏ bừng lên. Cuối cùng Minh trả lời gượng:

- Thưa Bác, đó là nhờ có sự lãnh đạo của Đảng và quân đội ta tiến lên chính quy hiện đại ạ!

Có tiếng xì xào Bác ra hiệu giữ trật tự rồi chỉ Thượng sĩ Bình, người chiến sĩ tình nguyện:

- Chú trả lời cho rõ hơn!

Rập chân đứng nghiêm lại, vẻ tự tin, Bình thưa:

- Đó là bản chất của chế độ ta, mặt khác cũng nói rõ quân đội ta là của quần chúng nhân dân lao động, công nông là chủ lực của cách mạng.

- Chú học lớp mấy? - Bác hỏi tiếp đồng chí Bình.

- Dạ, cháu học lớp 5 ạ! - Bình hơi thẹn, thanh minh thêm: Cháu vào bộ đội mới được học ạ!

Bác dặn:

- Hai chú cần học tập lẫn nhau, giúp nhau để cùng tiến bộ.

(Trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

109. Sự phân công

- Các cô, các chú nhiều người có đồng hồ ở đây chứ?

- Thưa Bác, có ạ!

- Các cô, các chú có thấy trên mặt đồng hồ kim giây chạy nhúc nhích suốt ngày đêm, kim phút di chuyển hơi chậm, kim giờ thì rề rề chuyển chỗ, chữ số nằm yên, cái máy nằm trong vỏ đồng hồ, có đúng thế không?

- Dạ, đúng ạ!

- Đó là sự phân công của bộ máy cái đồng hồ. Nếu giả sử các bộ phận ấy xin thay đổi, cái kim giây nói: "Tôi chạy thế này thì mệt quá, cho tôi chạy chậm lại hoặc nghỉ ít lâu". Mặt số kêu lên: "Đứng mãi một chỗ chán quá, cho tôi chạy như kim giây". Bộ máy lại nói: "Tôi làm nhiều việc mà chả ai biết đến, cho tôi làm mặt số". Các cô, các chú thử nghĩ xem, nếu ta để các bộ phận đồng hồ làm theo ý muốn riêng của mình thì sẽ thế nào?

Cả lớp vang lên tiếng cười. Có đồng chí nói:

- Thưa Bác, như vậy không còn là đồng hồ nữa ạ !

- Trong công tác cách mạng cũng như vậy, tuỳ theo trình độ và yêu cầu mà Đảng và nhân dân giao nhiệm vụ. Ví dụ: Bác được Đảng và nhân dân giao nhiệm vụ làm Chủ tịch nước, đồng chỉ cảnh vệ lo công tác bảo vệ, đồng chỉ cấp dưỡng lo nấu ăn, đồng chí văn thư lo việc giấy tờ, mỗi người một việc, như vậy hợp lại mới thành công việc chung. Đó là sự phân công của tổ chức.

(Trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

110. Bảo vệ Bác Hồ đón Giao thừa trong ngày Tết độc lập

Cứ mỗi khi đường phố Hà Nội tràn ngập hoa đào đỏ thắm và quất vàng tươi, báo hiệu mùa Xuân đến, đồng chí Tạ Quang Chiến lại bồi hồi xúc động nhớ lại kỷ niệm sâu sắc nhất của đời mình. Đó là trong ngày Tết độc lập đầu tiên của dân tộc, đồng chí vinh dự được bảo vệ Bác Hồ đi chúc Tết một số gia đình bà con ở Hà Nội và đón giao thừa ở Hồ Gươm.

"Những ngày đầu cách mạng, Nhà nước dân chủ nhân dân mới ra đời đã phải đương đầu với những thử thách cực kỳ gay go và ác liệt. Tháng 8-1945, với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật, 20 vạn quân Tưởng do Lư Hán đem theo hàng trăm tên tay sai phản động mang danh "Cách mạng Hải ngoại", "Cách mạng Quốc gia" do Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam... cầm đầu kéo vào miền Bắc nước ta. Chúng dựa vào quân Tưởng sách nhiễu nhân dân ta, tổ chức bắt cóc, ám sát cán bộ, gây rối chính trị và trật tự xã hội.

Trước tình hình đó, công tác bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp muôn vàn khó khăn. Trung ương quyết định tăng cường công tác bảo vệ, bổ sung người hiểu biết tình hình và địa bàn Thủ đô vào tổ cận vệ bảo vệ Người.

Tháng 10-1945, đồng chí Trần Quang Huy, Bí thư Thành ủy Hà Nội giới thiệu với đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Thường vụ Trung ương Đảng hai đồng chí trong đội Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu. Đó là đồng chí Nguyễn Hữu Văn và đồng chí Võ Chương bổ sung vào tổ cận vệ trực tiếp bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, chọn ông Vũ Đình Huỳnh, đồng chí Vũ Long Chuẩn làm thư ký và điều đồng chí Nguyễn Văn Lý là cận vệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ ở Tân Trào (Tuyên Quang) về phụ trách tổ cận vệ. Được về công tác tại tổ cận vệ bảo vệ Bác, tôi vô cùng phấn khởi và xúc động. Là một chiến sĩ trẻ, nay được trực tiếp bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại vừa lãnh đạo nhân dân cả nước đứng lên giành chính quyền từ tay thực dân, mang lại độc lập cho dân tộc Việt Nam, trong đó có gia đình tôi, tôi tự nhủ, phải phấn đấu hết mình trong côngtác để bảo vệ Người được tuyệt đối an toàn. Sau khi được vào công tác tại tổ cận vệ bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi cùng các đồng chí trong đơn vị triển khai công tác bảo vệ Người trong dịp Tết Nguyên đán năm 1946.

Tết Bính Tuất là Tết độc lập đầu tiên sau hơn 80 năm nô lệ, nên đồng bào cả nước rất vui mừng phấn khởi. Riêng Thủ đô Hà Nội, nhân dân tổ chức Tết mừng cách mạng thành công, nên đường phố nhộn nhịp đông đúc khác thường. Đối với Bác Hồ, sau bao nhiêu năm nếm mật, nằm gai nơi rừng sâu nước độc, đây là lần đầu tiên Người được đón Tết ở Thủ đô Hà Nội - trái tim của Tổ quốc, Bác rất vui và phấn khởi. Chiều 30 Tết năm ấy, Bác ở Bắc Bộ phủ về số 8 phố Vua Lê (nơi ở của Bác Hồ những ngày đầu cách mạng, nay là phố Lê Thái Tổ) sớm hơn mọi ngày.

Người cho gọi tổ giúp việc đến và dặn: "Tối nay, các chú đưa Bác đi chúc Tết một số gia đình và đi xem bà con Hà Nội chơi giao thừa, nhưng phải tuyệt đối giữ bí mật đấy!".

Nghe Bác chỉ thị chúng tôi sửng sốt. Lúc này tình hình vận nước đang "ngàn cân treo sợi tóc". Thù trong giặc ngoài câu kết với nhau hòng tiêu diệt nhà nước dân chủ cộng hòa non trẻ. Các tổ chức phản động đang ngày đêm rình rập tìm mọi cách ám hại Bác. Do vậy, bảo vệ Bác đi chúc Tết nhân dân và đón giao thừa ngoài phố là một việc vô cùng hệ trọng. Trước yêu cầu của Bác và tình hình an ninh - trật tự của Thủ đô, một kế hoạch bảo vệ Bác được chúng tôi xây dựng rất khẩn trương, chu đáo và sát hợp. Với phương châm bí mật, bất ngờ, đến không báo trước để Bác trực tiếp thấy được sự thật và làm cho kẻ địch có mắt cũng như đui, lực lượng trinh sát do Sở Liêm phóng Bắc Bộ chỉ đạo được triển khai hết sức chặt chẽ tại các vị trí theo kế hoạch...

Tối 30 Tết, theo kế hoạch đề ra, tôi và anh Nguyễn Văn Lý (tức đồng chí Hoàng Hữu Kháng, sau này là Cục trưởng Cục Cảnh vệ); anh Vũ Long Chuẩn (tức đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác) và một số người khác trực tiếp bảo vệ Bác đi chúc Tết một số gia đình nhân dân nghèo ở Hà Nội.

Hơn 7 giờ tối, chiếc xe ô tô đã cũ do anh Hà Ngọc Nguyên lái như bao nhiêu chiếc ô tô khác ở Hà Nội lúc bấy giờ, nhẹ nhàng rời nhà số 8 phố Vua Lê hòa vào dòng người, dòng xe đông đúc của phố xá Thủ đô đêm giao thừa.

Hôm ấy, chúng tôi đưa Bác đến thăm và chúc Tết một gia đình ở ngõ Hàng Đũa thuộc phố Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến); một gia đình ở phố Hàng Lọng (nay là đường Lê Duẩn); một gia đình ở phố Hàng Vải và thăm Cố vấn Vĩnh Thụy. Nhiều nhà dân Hà Nội trang trí cành đào, trên bàn thờ Tổ quốc có khẩu hiệu: "Tổ quốc trên hết".

Đặc biệt, cờ đỏ sao vàng và ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh treo ở nơi trang trọng nhất của mỗi gia đình. Nhiều khu phố còn bày bàn thờ Tổ quốc ra ngoài cửa tỏ lòng vui mừng về Tết Độc lập đầu tiên. Cả Hà Nội như không ngủ để chờ đón Xuân vào mọi nhà. Các gia đình được Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và chúc Tết đều rất ngạc nhiên và bày tỏ sự phấn khởi đến rơi nước mắt, được trực tiếp gặp Chủ tịch nước kính mến mà họ hằng ngưỡng mộ.

Và tối 30 Tết độc lập đầu tiên ấy, ngay giữa Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ đã tận mắt nhìn thấy cảnh Tết của những người dân lao động...

Khi tin Bác Hồ đi thăm và chúc Tết nhân dân nghèo được báo chí công bố, cả Hà Nội xôn xao bàn tán về tác phong gần gũi, thương dân của vị lãnh tụ dân tộc, để lại ấn tượng rất đẹp và sâu sắc trong lòng mọi người dân Thủ đô văn hiến.

Sau khi đến thăm và chúc Tết một số gia đình ở Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nhà số 8 phố Vua Lê để hóa trang đi đón giao thừa. Quần áo và đồ dùng hóa trang do đồng chí Nguyễn Lương Bằng chuẩn bị mang đến từ sớm theo yêu cầu của Người.

Hôm ấy, Bác hóa trang thành một cụ già. Người đội chiếc khăn xếp màu đen, mặc áo the, cổ quàng khăn len quấn mấy vòng che kín bộ râu. Bác tự hóa trang rất khéo. Bác và đồng chí Vũ Long Chuẩn đóng giả thành hai bố con người Hà Nội đi chơi Tết. Sắp đến giờ giao thừa, chúng tôi bí mật đưa Bác tản bộ đến ngắm cảnh Hồ Gươm. Hồ Gươm trong ngày Tết độc lập đầu tiên đượctrang hoàng lộng lẫy. Đèn màu trang trí được kết thành hoa và cờ Tổ quốc sáng rực xung quanh hồ. Người đi dự lễ nườm nượp. Qua cầu Thê Húc vào đền Ngọc Sơn, mặc dù chúng tôi rất lo lắng nhưng không ai nhận ra Bác. Qua ánh mắt và cử chỉ của Bác, chúng tôi thấy Người rất vui trước quang cảnh ngày hội. Đây là lần đầu tiên kể từ khi đặt chân đến Thủ đô, Bác được đi lẫn trong dòng người Hà thành nô nức đi hái lộc xuân tại nơi thiêng liêng giữa trái tim của Thủ đô. Bác dừng lại rất lâu trước những tấm bia, ngắm nghía các câu đối rồi ra đứng ở đình Trấn Ba ngắm mặt nước Hồ Gươm lăn tăn ánh điện. Người thốt lên:

- Hồ Gươm đẹp lắm! Hà Nội đẹp lắm!

Chúng tôi đưa Bác đi bách bộ quanh hồ một lát. Trên đường, vừa đi Bác vừa nói:

- Mình bây giờ mới biết đồng bào Hà Nội đón giao thừa như thế nào, hái lộc ra sao. Vui quá!

Bây giờ mỗi lần đi qua Hồ Gươm, tôi lại hình dung thấy Bác trong lần đón giao thừa trong ngày Tết độc lập. Lòng tôi lại bồi hồi xúc động nhớ về Người, một lãnh tụ vĩ đại nhưng gần gũi thân thương".

(Tạ Quang Chiến, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Thể dục Thể thao)

Tâm Trang (tổng hợp)


 111. Kỷ niệm không quên

Tôi sinh ra và lớn lên trên sông nước. Bố mẹ tôi làm ở Hợp tác xã thuyền buồm Hợp Nhất chuyên chở sỏi cát. Do hoàn cảnh gia đình đông con, nghèo, nay đây mai đó, tôi là con lớn phải bế hết em này đến em khác nên không được ăn học đến nơi đến chốn. Năm 17 tuổi tôi phải theo thuyền, khi chèo đẩy, khi ngược gió phải lên bờ kéo dây. Sau hai năm, tôi được về công tác ở Công ty Vận tải đường sông. Năm 1965, tôi được Công ty cho đi học trường trung cấp hàng hải khóa 8 ở Hải Phòng. Lớp của tôi có 6 học sinh con gái, hai người học máy, bốn người học boong (lái). Đây là lớp đầu tiên có con gái học boong máy.

Học xong, chúng tôi lại được trở về công tác tại Công ty Vận tải đường sông Hà Nội. Công ty giao cho chị em chúng tôi hai con tàu nhỏ bằng gỗ. Lúc ấy đang thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có phong trào "ba đảm đang", hai con tàu của chúng tôi được mang tên "ba đảm đang" tự hào ấy, Nguyễn Thị Đông là thuyền trưởng tàu "ba đảm đang" số 1, tôi là thuyền trưởng tàu "ba đảm đang" số 2.

Được biết mình là thuyền trưởng con gái đầu tiên và hai con tàu đều do con gái quản lý, chúng tôi bảo nhau phải đoàn kết phấn đấu hết sức mình. Tàu của tôi có Mai là thuyền phó, Xuyên là máy trưởng, Điển là máy phó và Loan là thủy thủ. Chúng tôi chở hàng đường dài, khi đi Phú Thọ, Tuyên Quang, khi đi Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, mỗi con tàu của chúng tôi kéo theo 6 chiếc thuyền, mỗi thuyền chở 30 tấn hàng.

Do thời chiến, hai con  tàu của chúng tôi được trang bị 10 khẩu súng trường. Thường là đêm đi ngày nghỉ. Bao giờ chúng tôi cũng tìm đủ cành lá ngụy trang cho tàu và giấu tàu ở những nơi xa làng mạc, dù đến địa phương nào chúng tôi cũng phối hợp với dân quân, nếu máy bay giặc đến đánh phá thì hiệp đồng chiến đấu. Đi đường dài được hơn một năm, hai tàu "3 đảm đang" được chuyển sang công tác đưa đồng bào qua sông Hồng. Sông rộng, người đông. Tiếng còi báo động vang lên liên tiếp, chúng tôi càng phải khẩn trương để không ứ đọng người ở bến. Ngày đầu tiên chúng tôi chỉ đưa được trên một vạn người qua sông. Vừa lái tàu vừa quan sát, rút kinh nghiệm từng ngày để sắp xếp phương tiện, sửa sang bến làm bậc cho đồng bào lên xuống dễ dàng, nhất là chúng tôi động viên lẫn nhau phải bình tĩnh dũng cảm để hoàn thành nhiệm vụ. Sau đó chúng tôi đã đưa được tám vạn người qua sông mỗi ngày.

Cho đến một hôm tôi ghi vào nhật ký là 19/8/1967 hôm ấy trời đẹp lắm. Từng đám mây trắng mỏng như tơ non nhẹ nhàng trôi trên nền trời mùa thu xanh trong. Nước sông Hồng đỏ phù sa cuồn cuộn. Vào khoảng gần 2 giờ chiều, hai con tàu của chúng tôi vừa cập bến buông neo, đồng chí Trần Nghiên chủ nhiệm Công ty xuống tàu một cách vội vã:

- Các cô lên bờ ngay, chiều nay chúng ta sẽ đi gặp đoàn nhà báo quốc tế. Chúng tôi nhao nhao lên là gặp nhà báo quốc tế thì phải ăn mặc cho tươm tất nghĩa là phải cho chúng tôi có thì giờ chuẩn bị. Song đồng chí chủ nhiệm lắc đầu:

- Không cần, không cần. Người ta muốn tiếp các cô một cách thật tự nhiên như lúc các cô đang lao động ấy. Điều cần thiết là khi người ta hỏi thì trả lời cho đàng hoàng, không được e lệ như cô dâu về nhà chồng đâu đấy.

Điều đồng chí chủ nhiệm căn dặn quả là đúng lý. Vì chúng tôi cầm lái cho con tàu xuôi ngược trên sông nước có khi gặp mưa to gió lớn hoặc máy bay giặc  gầm rít trên đầu nhưng vẫn vững vàng, có khi gặp trường hợp cần phải đối đáp với thanh niên trong nghề nghiệp hay lúc mọi người tò mò quan sát "con gái lái tàu" chúng tôi vẫn bình tĩnh, thản nhiên. Song cứ hỏi đến thành tích, đến sự phấn đấu, rèn luyện v.v... là chúng tôi rất hoảng, sẽ nói chẳng ra đâu với đâu. Gặp nhà báo chúng tôi đã ngại đằng này lại là nhà báo quốc tế.

Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải chấp hành nghiêm mệnh lệnh cấp trên, lên bờ ngay. Vừa đi tôi vừa tranh thủ chải lại mái tóc, buộc thành hai túm nhỏ sau gáy. Lên đến bờ đã thấy chiếc xe com-măng-ca chờ sẵn. Đồng chí Trần Nghiên cùng lên xe với chúng tôi. Đó là điều làm chúng tôi yên tâm hơn, vì có người "đỡ đòn" khi lúng túng.

Chiếc xe đưa chúng tôi qua đường Điện Biên Phủ, Trần Phú rồi đến quãng rẽ vào Câu lạc bộ quốc tế. Chúng tôi khẽ bấm nhau chắc là gặp đoàn nhà báo ở đây. Nhưng chiếc xe cứ đi thẳng vào Phủ Chủ tịch. Bọn chúng tôi nhìn nhau, không ai bảo ai, đều nghĩ ngay chắc sẽ được gặp Bác. Mới nghĩ thế thôi, tim tôi đã đập thình thịch. Đồng chí đi đón chúng tôi lúc này mới nói:

- Bác cho chúng tôi đi đón các đồng chí lên gặp Bác, trong khi chờ đợi, các đồng chí hãy đi xem vườn hoa, toàn cây Bác trồng đấy, Bác đang bận một chút.

Nghe đồng chí giúp việc Bác nói, chúng tôi sung sướng ôm choàng lấy nhau. Chúng tôi được gặp Bác Hồ. Điều vui sướng vô vàn và quá bất ngờ làm chúng tôi luống cuống. Ôi nếu biết trước, chúng tôi phải ăn mặc chỉnh tề chứ mấy chị trong tàu tôi còn mặc cả bộ quần áo lao động rộng thùng thình thế kia! Nhưng chúng tôi lại an ủi lẫn nhau:

- Hồi rời nước nhà ra đi tìm đường cứu nước cứu dân, Bác từng làm bồi tàu cơ mà! Bác cũng đã lao động như chúng ta. Riêng tôi, tôi bồi hồi xúc động. Các bạn tôi chắc cũng tâm trạng như thế. Tôi chợt nhớ tới bố mẹ với những cuộc đời lênh đênh trên sông nước. Chẳng riêng gia đình tôi, trong chị em cùng đi với tôi hôm nay, có chị đã ra đời trên chiếc xuồng nát dưới một lùm tre... và chúng tôi thường được cha mẹ răn dạy:

- Cuộc đời của chúng tao xưa kia cực lắm. Một khoang thuyền hẹp, ăn đấy ngủ đấy. Ngày nắng đã vậy, ngày mưa lấy áo tơi bằng lá che trùm cho con cái, còn mình cứ ngồi thu lu mong trời mau tạnh. Một chữ bẻ đôi không biết. Bây giờ các con được lên bờ, được học hành, con gái cũng được đi lái tàu. Thật là đổi đời, thật là sung sướng. Đó là ơn của Đảng, của Cụ Hồ, các con phải sống cho xứng đáng... Bố mẹ ơi, chúng con sắp được gặp Bác Hồ, chúng con vinh dự hơn bố mẹ nhiều lắm. Gặp Bác, con sẽ nói những điều mà bố  mẹ vẫn dạy dỗ con, những điều bố mẹ muốn nói với Bác...

Các bạn tôi thì thầm với nhau:

- Trước kia cứ bảo nhau có lẽ chẳng bao giờ được gặp Bác. Bác trăm công ngàn việc, đồng bào cả nước ai cũng gặp thì bao giờ đến lượt mình. Vậy mà hôm nay chúng ta được gặp Bác. Ôi cứ như người nằm mơ ấy.

Chúng tôi sửa sang lại quần áo cho ngay ngắn, vuốt lại tóc cho nhau. Một lát sau, chúng tôi được đưa vào phòng khách, mấy chị rụt rè không dám bước vào. Đồng chí giúp việc Bác thấy vậy cười thân mật:

- Đây là nhà của Bác, các cô đã được đón vào đây thì cứ tự nhiên.

Được lời, chúng tôi bạo dạn hẳn lên. Ai nấy tự tìm chỗ ngồi và không ai bảo ai, đều ngắm chung quanh. Đó là một căn phòng nhỏ kê vừa đủ hai chiếc bàn dài phủ vải trắng, trên đặt mấy bát hoa hồng. Hai bên bàn là những chiếc ghế tựa mà chúng tôi đã ngồi.

Trước mặt tôi đặt một bát hoa rất đẹp. Tôi chỉ vào bông hồng bạch đang còn hàm tiếu, xí phần với các bạn:

- Bông này là của tớ. Lát nữa tớ phải xin Bác. Bỗng một chị ngồi phía trước mặt tôi đứng dậy:

- Bác đã đến!

Tôi vội ngoảnh nhìn ra và đứng lên theo. Bác đã đến bên bàn. Chúng tôi vỗ tay và ùa đến vây quanh Bác, ríu rít, quên phắt những lễ nghi đã định khi Bác đến, quên phắt những bộ quần áo quá xuềnh xoàng làm chúng tôi ngượng nghịu.

Bác vui vẻ ra hiệu cho chúng tôi về chỗ ngồi rồi cất tiếng hỏi:

- Cháu nào là thuyền trưởng, cháu nào là thuyền phó và máy trưởng?

Chúng tôi chưa kịp thưa, đồng chí giúp việc của Bác đã giới thiệu từng người trong chúng tôi với Bác:

- Thưa Bác, cả hai cô Nguyễn Thị Lan và Nguyễn Thị Đông là thuyền trưởng. Nguyễn Thị Thục, Trương Thị Xuyên là máy trưởng, cô Mai, cô Tạo là thuyền phó. Còn các cô Điền, Thanh, Bát, Loan là máy phó và thủy thủ.

Lúc này tôi mới nhớ ra đồng chí giúp việc Bác có dạo rất hay xuống tàu xem chúng tôi làm việc. Tôi cứ tưởng đồng chí là người trên công ty. Thảo nào mà đồng chí thuộc tên chúng tôi thế. Bác quay sang đồng chí Trần Nghiên:

- Còn chú này, chú làm gì?

Đồng chí Nghiên vội đứng lên:

- Thưa Bác, cháu làm Bí thư Đảng ủy Công ty Vận tải đường sông Hà Nội ạ!

Khi đã biết rõ từng người, Bác đưa cho chúng tôi mỗi người một mảnh giấy và nói:

- Các cháu viết đi, viết rõ họ tên, bao nhiêu tuổi, học lớp mấy, bố mẹ làm nghề gì?

Chúng tôi cắm cúi viết theo lời Bác. Đến đồng chí Nghiên cũng cầm lấy một mảnh giấy thì Bác xua tay, nói vui:

- Chú không có "tiêu chuẩn" viết.

Chúng tôi đưa những mảnh giấy đã ghi cho Bác. Bác xem rồi gật đầu:

- Bố mẹ là dân thuyền, con cũng là dân thuyền rồi là thuyền trưởng, thủy thủ thế là tốt lắm.

Bác hỏi đồng chí Trần Nghiên:

- Công ty của chú đang làm gì?

- Thưa Bác, công ty chúng cháu làm nhiệm vụ vận tải hàng hóa. Từ ngày giặc Mỹ bắn phá Thủ đô, chúng cháu nhận thêm việc đưa nhân dân qua sông Hồng ạ!

Bác chăm chú nghe rồi kể lại một câu chuyện đại ý ngày xưa Bác cũng thường qua sông qua đò, song người lái đò không hề nghĩ đến khách, đợi đò đầy người mới chở. Khách đợi hàng buổi, mưa, nắng cũng mặc. Bây giờ địch đánh phá Thủ đô, các cháu có nhiệm vụ đưa đồng bào đi sơ tán. Đồng bào đi như vậy có rất nhiều khó khăn, các cháu phải làm sao cho mọi người đi lại thuận tiện dễ dàng...

Ngồi nghe chuyện của Bác trong lòng chúng tôi càng thấm thía. Bác nói giản dị mà như thấu hiểu từng suy nghĩ của chúng tôi. Nhiều lần chúng tôi muốn tiết kiệm nhiên liệu nhưng lại giống người lái đò ngày xưa là đợi người xuống đầy phà mới nhổ neo. Như vậy người xuống trước phải đợi hàng giờ, hơn nữa đường xuống bến còn gập ghềnh, cầu tàu lại hẹp, lại nhỏ, cụ già dễ bị vấp ngã. Ngay ngày mai chúng tôi phải khắc phục những việc này.

Bác quay sang hỏi đồng chí Nghiên:

- Tàu của các chú đi những đâu?

Đồng chí Trần Nghiên thưa với Bác là tàu của công ty đi khắp các triền sông vận chuyển lương thực, thực phẩm, chất đốt về cho nhân dân thành phố.

Bác lại hỏi:

- Thế các chú có làm cái mà các chú vẫn gọi là "vận trù học" không?

Chúng tôi hiểu Bác muốn hỏi về việc kết hợp hàng hai chiều và đưa mắt nhìn nhau tỏ ý nhắc nhau Bác thông thạo nghiệp vụ vận tải lắm đây.

Đồng chí Nghiên thưa:

- Thưa Bác, cũng có đường kết hợp được hàng hai chiều, có đường không làm được vì không có hàng ạ!

Bác hỏi tiếp:

- Tàu của công ty ta có to không? Đồng chí Nghiên báo cáo với Bác tàu to nhất của công ty cháu là 150 mã lực. Bác cười nhắc nhở:

- Gọi là sức ngựa chứ đừng gọi là "mã lực" - quay sang chúng tôi.

Bác hỏi - các cháu có biết tại sao người ta lấy sức ngựa mà không lấy sức trâu bò làm đơn vị đo sức kéo của máy không? Điều này các thuyền trưởng và máy trưởng đều đã được học ở trường trung cấp hàng hải, không hiểu sao khi Bác hỏi, chúng tôi chẳng thể nhớ ra. Thấy Bác nhìn như khuyến khích, tôi ấp úng:

- Thưa Bác, vì ngựa khỏe, dai sức và chạy nhanh ạ. Bác cháu được một trận cười giòn tan. Tôi đỏ bừng cả mặt không dám nhìn Bác. Bác giải thích rằng ngày xưa ở bên Châu Âu ngựa kéo thay sức người. Sau đó khi phát minh ra máy nổ, người ta lấy sức ngựa làm đơn vị đo sức máy. Bác nói dễ hiểu quá. Bác hỏi về hai con tàu của chúng tôi rồi dặn dò:

- Bây giờ đất nước đang có chiến tranh, đồng bào còn nhiều vất vả. Các cháu phải khẩn trương, dũng cảm phục vụ nhân dân đánh thắng giặc Mỹ. Các cháu phải vừa làm vừa chiến đấu, vừa học thêm văn hóa và kỹ thuật nữa. Bây giờ các cháu lái tàu nhỏ, sau này các cháu sẽ lái con tàu to hơn.

Bác nói với đồng chí Nghiên:

- Chú là Bí thư Đảng ủy, phải tạo điều kiện, chăm lo cho các cháu học hành tiến bộ hơn. Bác giở tờ báo Hà Nội mới có in bài và ảnh về đồng chí Nguyễn Văn Tường do bình tĩnh dũng cảm đã đưa tàu qua cầu Long Biên giữa lúc địch ném bom. Bài báo ấy được Bác dùng bút chì đỏ đánh dấu. Bác hỏi đồng chí Nghiên:

- Chú Tường ở đơn vị chú phải không? Đồng chí Nghiên đã đọc bài báo ấy, nhưng Bác hỏi đột ngột nên trả lời lúng túng:

- Thưa Bác, vâng ạ!

Bác cười rất vui:

- Chú xem lại đi, chú Tường ở xưởng đóng thuyền chứ có phải là người của chú đâu mà chú "vơ vào" thế!

Chúng tôi lại được dịp cười khúc khích.

Sau bốn mươi lăm phút Bác cháu trò chuyện thân mật, Bác đứng dậy nói:

- Bác cháu ta gặp nhau thật vui vẻ, bây giờ Bác đưa các cháu đi xem phim với Bác.

Ở phòng xem phim tôi thấy có nhiều đồng chí bộ đội trẻ. Xem xong bộ phim hoạt hình "Con gấu giấu mặt trăng" Bác quay sang tôi đang ngồi cạnh:

- Cháu Lan này, mấy con thỏ đang vui chơi sao lại đốt đuốc làm gì nhỉ?

Tôi dè dặt thưa với Bác:

- Thưa Bác, bầy thỏ đang nhẩy múa dưới ánh trăng bị gấu giấu mặt trăng nên chúng đi tìm gấu đòi lại ánh sáng ạ!

Bác gật gật đầu. Các anh bộ đội - tôi đoán là trong Đội Bảo vệ Phủ Chủ tịch - thấy mười chị em tôi bèn hỏi chuyện. Bác bảo chúng tôi hát cho vui. Các anh bộ đội hát rất nhiều bài. Đến lượt chúng tôi, tôi thưa với Bác là chúng cháu hát không hay. Bác cười:

- Không hay cũng cứ hát đi.

Chúng tôi bảo nhau hát bài "Cô gái lái tàu", bài hát mà lần anh Đỗ Nhuận cùng các nhạc sĩ khác đến thăm chúng tôi đã sáng tác ngay tại chỗ.

Tàu hôm nay chở hàng hay khách

Xuôi Thái Bình hay ngược dòng Lô?

Tuổi năm nay em bao nhiêu nhỉ?

Mà bây giờ em lái con tàu đi

Ơ... con cháu Bác Hồ ngại chi gian khổ...

Chúng tôi hát xong, cánh bộ đội vỗ tay râm ran hẹn: "Chở nhiều hàng cho các anh nhé" chúng tôi cũng nhắc "Các anh bắn rơi nhiều máy bay giặc Mỹ nhé". Trở lại phòng khách, Bác bảo chúng tôi uống nước, ăn bánh và nhắc gói bánh đem về. Lúc này, chị Đông mới hỏi xin Bác những bát hoa. Bác vui vẻ nói:

- Các cháu cứ lấy đi. Bác nghe cháu Lan dành phần bông hồng trắng còn tất cả các cháu chia nhau nhé.

Chúng tôi vui sướng chia nhau những bông hoa tươi thắm. Người thì cài lên mái tóc, người thì nâng niu cầm về cho bè bạn, gia đình.

Xe ô tô đưa chúng tôi trở về tới đơn vị thì đèn điện vừa bật sáng. Tin chị em hai tàu "ba đảm đang" được lên gặp Bác chẳng mấy chốc đã lan nhanh trên sông nước. Thủy thủ các tàu bạn tới tấp đến hai tàu của chúng tôi để chia vui. Chúng tôi đem kẹo và hoa của Bác cho mọi người. Tôi phải kể lại không biết bao nhiêu lần câu chuyện được gặp Bác khi trở về khu tập thể Hợp tác xã thuyền buồm Hợp Nhất ở bên kia sông Hồng. Bố mẹ tôi, các em tôi và bà con cô bác xóm giềng ai cũng chăm chú lắng nghe, và mọi người cứ thích biết lúc Bác nói, Bác hỏi thì thái độ, cử chỉ của Bác thế nào...

Riêng chị em chúng tôi bàn bạc với nhau làm sao thực hiện được lời Bác dạy. Chúng tôi làm lại đường xuống bến cho rộng hơn, mắc đèn ở cạnh đường để đồng bào đi lại dễ dàng, cầu tàu cũng được đóng rộng hơn và về thời gian, cứ đúng giờ quy định là chúng tôi nhổ neo để đồng bào qua sông, không phải chờ đợi...

Mười tám năm đã qua kể từ ngày chúng tôi được lên gặp Bác. Cuộc sống và nghề nghiệp trên sông nước đối với tôi trước sau vẫn thiết tha gắn bó. Do hoàn cảnh gia đình hoặc sức khỏe, các bạn tôi hầu hết đã lên bờ, thay đổi công tác. Tôi lập gia đình, rồi có con nhỏ. Trong thời gian chống Mỹ, chồng tôi công tác ở phòng kỹ thuật sửa chữa máy nổ phải đi vào phía Nam phục vụ mấy năm liền. Tôi gửi con cho cô Xuân em gái mới 14 tuổi, Xuân vừa trông nom ba em vừa trông cháu vì bố mẹ tôi vẫn đi xà lan chở hàng, hàng tháng mới về. Riêng tôi, tôi vẫn làm thuyền trưởng cho đến nay...

Từ Phòng công đoàn của Công ty nhìn ra phía sông, trời vẫn còn sương mờ mờ. Một con tàu chợt chạy lướt qua khoang cửa nơi chúng tôi nhìn ra. Chị thuyền trưởng Nguyễn Thị Lan khẽ đập vào cánh tay tôi:

- Chị nhìn kìa, con tàu của chúng tôi cũng giống như thế đó. Chị thấy cảnh sông nước có đẹp không?

Khi chị dẫn chúng tôi lên con tàu nhìn vóc dáng mảnh mai của chị với mái tóc uốn cao, đôi guốc gót nhọn, ai dám bảo đó là chị thuyền trưởng đã nhiều năm lái tàu đi trên khắp các triền sông? Và khi đã ngồi trên tàu rồi, chị Lan say sưa kể về sông, về nắng gió, về mây trời... về những đêm trăng và cả những ngày giông bão... Nhưng rồi chị thú thật:

- Hai mươi năm lái tàu, dù đẹp trời thì tôi vẫn phải chăm chú nhìn vào bánh lái. Chưa một lần nào tôi được đi chơi, ngồi trên tàu ngắm trời mây sông nước một cách thảnh thơi. Tuy nhiên, tôi vẫn yêu nghề, có lẽ tôi sẽ lái tàu cho tới lúc đủ tiêu chuẩn nghỉ hưu.

Trong cuộc đời làm thuyền trưởng, lần được gặp Bác Hồ kính yêu là kỷ niệm không thể quên, không thể phai mờ, mặc dù lâu lắm rồi, hôm nay tôi mới kể lại...

(Theo Nguyễn Thị Lan, trích trong "Bác Hồ với phụ nữ Hà Nội")

112. Bác ơi! Thương nhớ vô vàn

Tôi về xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp tìm đến nhà ông Huỳnh Văn Đầy (Tư Tây), như để tìm thăm chiêm ngắm một “Bông Hoa Đất” theo cách nói ví von của nhà giáo Phương Thanh, người đang dạy học ở Cao Lãnh, đất xoài cát ngon nức tiếng, người vừa viết một bài viết ngắn in trên chuyên trang Văn nghệ Cao Lãnh, cho tôi những chi tiết đầy ấn tượng về "Bông Hoa Đất" Tư Tây - Huỳnh Văn Đầy!

Ông Tư đã gần chín chục tuổi, ông là một cán bộ cách mạng lão thành, người đã có 60 năm tuổi Đảng. Mấy chục năm nay, ngày nào cũng thấy ông băng qua hết lối này tới ngõ kia. Khi thấy ông ở Ủy ban nhân dân xã gặp các đồng chí lãnh đạo để bàn bạc công chuyện xã hội, tham mưu hiến kế nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh trật tự tại địa phương. Khi ông ngồi với bà con trong xóm ấp để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của người dân, cũng có khi ông ngồi vận động nhân dân đóng góp công của xây dựng cầu đường, giúp đỡ các cháu con nhà nghèo hiếu học. Ông Tư Tây tuổi cao, chân chậm, mắt mờ trên đường làng. Bên mình ông là chiếc giỏ xách đựng nhiều thứ giấy tờ.

Trong giỏ có một thứ không thể thiếu, luôn được ông gìn giữ rất cẩn thận. Đó là những bức ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những người quen biết ông, hỏi lý do giữ ảnh, đã nghe ông trả lời rõ ràng từ lâu rồi:

- Để nhà nào có nhu cầu lập bàn thờ, hoặc treo là có tặng liền!

Tính ra, từ khi ông nghỉ hưu năm 1978 đến nay, số ảnh chân dung Bác Hồ ông đã tặng bà con lên tới 1.200 bức.

Toàn bộ số tiền mua ảnh, tiền ép nhựa, tiền mua khung vô ảnh cho trang trọng từ tiền lương hưu của ông.

Ngồi trò chuyện với tôi một cách chân tình là một ông già Nam Bộ. Ông hiền từ, ít nói, ít cười cũng ít muốn bộc lộ về bản thân mình. Nghe chuyện, biết rõ ý định của tôi, ông Tư hỏi:

- Chú có đọc bài viết về tôi in trong chuyên trang Văn nghệ Cao Lãnh rồi phải không? Đó, việc tôi làm có bấy nhiêu, nói hết rồi.

Tôi nhỏ nhẹ bày tỏ:

- Cháu muốn hỏi để biết thêm điều này: Riêng về chuyện tình cảm với Bác Hồ kính yêu, chắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đánh Mỹ bác từng có những kỷ niệm, ký ức hay ấn tượng sâu sắc nào đó nên khiến bác tâm huyết như vậy?

Ông Tư ngồi trầm ngâm một hồi mới lên tiếng:

- Có chứ! Tôi đi theo cách mạng từ ngay sau tháng 8-1945, đi theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lúc đó chỉ nghe nói tên Người chớ đâu có thấy chân dung hình ảnh của Người như thế nào đâu. Chừng mấy năm sau khi tỉnh  mình tổ chức lễ thành lập Mặt trận ở khu căn cứ, tôi được cử đi dự. Thiệt là xúc động khi lần đầu tiên được nhìn thấy ảnh Bác Hồ - Bức chân dung thể hiện một con người mà chỉ mới nhìn thoáng qua đã có thể nhận ra nét cương nghị, tinh anh, bao dung, nhân ái. Lòng tin của tôi với Đảng, với Bác trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ càng ngày càng thêm bền chắc kể từ bữa đi dự lễ ấy. Ông Tư chậm rãi hớp một ngụm trà. Rồi kể tiếp: - Có một lần, đâu như năm 1950, trong một chuyến tôi đi cùng một đồng chí sang cù lao Tân Lộc, Thốt Nốt, Cần Thơ dự hội nghị, khi trở về, lúc đang vượt qua sông trên một chiếc xuồng nhỏ thì bị tàu Tây pha đèn phát hiện bắn xối xả. Chúng tôi phải bỏ xuồng lặn thoát thân. Khi vào được trong bờ thì trời đã gần sáng. Nhắm hướng chúng tôi biết mình đang ở một xóm thuộc khu vực xã đạo Hòa Hảo đất Lai Vung. Hết nguy hiểm này lại gặp nguy hiểm khác! Hồi ấy, nghe nói giữa Việt Minh với Hòa Hảo còn đương có chuyện hiềm khích nhau, chúng tôi lấy làm ái ngại lắm. Đương lúc vừa lạnh vừa đói, tôi nảy ra ý nghĩ: Bà con mình dù theo đạo nào cũng là người Việt Nam, mất nước bị thằng Tây nó hà hiếp như nhau, cùng là người nông dân biết coi trọng nghĩa khí khi thấy người khác hoạn nạn, nên thử liều một phen xem sao. Chúng tôi mò mẫm tới một ngôi nhà lá nhỏ đang leo lét ánh đèn, bên trong thấy một ông già ngồi rị mọ nấu nước châm trà. Nhà không đóng cửa, chúng tôi bước vào. Ông già ngẩng lên nhìn, hỏi:

- Mấy chú ở đâu? Tìm ai?

- Dạ! tụi cháu là dân đi buôn, qua sông bị chìm xuồng, ghé đây xin bác giúp đỡ.

Ông già chăm chú nhìn chúng tôi một hồi mới tiếp tục lên tiếng:

- Mấy chú cứ nói thiệt đi, bộ dạng mấy chú như thế này không giống người đi buôn đâu. Lúc khuya tôi có nghe tiếng súng nổ rân trời. Có phải mấy chú là…?

Biết không giấu được ông già, tôi thú thiệt:

- Dạ! Tụi cháu là cán bộ Cụ Hồ!

Ông già chợt à lên một tiếng, nét mặt tươi cười:

- Có vậy chớ! Tui mặc dù theo đạo Hòa Hảo, thờ Đức Huỳnh Giáo Chủ, nhưng biết mấy chú theo Cụ Hồ đánh Tây giành độc lập cho dân mình, tui rất nể, nên việc gì phải giấu. Rồi ông đứng dậy xăng xái đi tìm hai bộ quần áo khô đưa cho chúng tôi thay, lại biểu vợ con đi bắt gà nấu cháo, sau đó còn chỉ dẫn cách thức cho chúng tôi vượt qua đồn bót địch một cách an toàn. Từ đấy tôi càng hiểu: Tình cảm kính yêu đối với Bác Hồ đâu chỉ có riêng ở những người đi theo Việt Minh như chúng tôi hồi ấy. Bởi vậy… trên nét mặt bác Tư Tây chợt nở nụ cười hiền hậu, chân thành. Ông bảo mấy việc ông làm không cần nhắc chi nhiều.

Bất chợt ông vỗ tay vào cái giỏ:

- Nè! Chú có viết thì báo cho mọi người, ai cần ảnh Bác Hồ để thờ cứ kêu Tư Tây ở xã Bình Hàng Tây, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp là có liền nhe!

 (Theo Nguyễn Trọng Quý, trích trong cuốn "Miền Tây Nam bộ nhớ mãi Bác Hồ")

Tâm Trang (tổng hợp)


 113. Bác Hồ dạy chúng tôi làm báo

Cách đây hơn sáu thập kỷ, vào mùa Xuân năm 1948 (xuân Mậu Tý), lực lượng Công an nhân dân ngày đó mới chưa đầy ba tuổi. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng Công an nhân dân đã lập nhiều thành tích to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng và bảo vệ nhân dân.

Công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân ta vẫn là một công tác đặc biệt thường xuyên được coi trọng… để động viên tổ chức toàn dân vượt mọi khó khăn quyết đánh thắng hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc. Đối với lực lượng Công an nhân dân thì công tác chính trị tư tưởng lại càng quan trọng.

Nhận thức sâu sắc điều đó, Sở Công an Khu 12 một mặt ra sức tăng cường các mặt công tác nghiệp vụ, mặt khác coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Chấn chỉnh tờ nội san, cơ quan tuyên truyền giáo dục và hướng dẫn công tác của lực lượng. Sở Công an Khu 12 lúc bấy giờ hoạt động trên một địa bàn tương đối rộng gồm sáu tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Yên, Hòn Gai, Hải Ninh. Cũng mùa Xuân năm đó, nội san Bạn Dân ra số "Xuân" với nội dung, hình thức được cải tiến một bước đáng kể và được in bằng máy. Sau khi nhận được số báo mới in xong, mọi người đều hăng hái nhiệt tình góp sức để phát hành nhanh chóng, mong sao báo đến tay bạn đọc đúng vào dịp Tết Nguyên đán.

Một buổi tối giáp Tết năm ấy, mọi người quây quần trong phòng họp của Sở, kể cho nhau nghe về những chiến công của quân và dân ta trên chiến trường Việt Bắc, những lần được gặp Bác Hồ tại các cuộc hội nghị, những lớp học hoặc những lần được bảo vệ Bác. Và cũng trong buổi nói chuyện đầm ấm cuối năm ấy, đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Sở Công an Khu 12 nghĩ đến việc gửi thư chúc Tết Bác Hồ và kính biếu Người một tờ báo Xuân.

Về kỷ niệm này, đồng chí Hoàng Mai kể lại: Đêm đó, tại phòng làm việc ở núi rừng Việt Bắc, tôi ngồi viết thư chúc Tết Bác Hồ. Nội dung chính là chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu mãi mãi để cùng với Trung ương Đảng, toàn dân đánh thắng hoàn toàn giặc Pháp xâm lược, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Đồng thời, kính biếu Bác một số báo Tết của Sở Công an Khu 12 và đề nghị Bác cho ý kiến chỉ bảo để tờ báo có thể làm tròn chức năng của mình.

Tôi chọn một phong bì đẹp, có in một nhành hoa Xuân và tìm một tờ báo đẹp nhất đóng gói cẩn thận, ngoài phong bì tự tay viết một dòng chữ “Kính gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu!” rồi đưa giao liên của Sở gửi theo đường nhanh nhất. Mặc dù với niềm hy vọng thiết tha rằng Bác sẽ đọc và sẽ trả lời, nhưng rồi vẫn lo Bác bận trăm công nghìn việc quan trọng của cách mạng, của đất nước, không biết Bác có thời gian đọc và trả lời không... Nhưng một điều rất bất ngờ đã đến! Một buổi sáng mùa Xuân năm Mậu Tý (năm 1948), mưa Xuân lất phất đầy trời, cây đào dưới góc sân đang nở rộ như cùng vui Xuân với những người chiến sĩ công an. Tôi đang làm việc thì đồng chí giao liên đưa đến một phong bì đề chính tên tôi. Cầm phong bì, nhìn nét chữ đề ngoài phong bì mà linh tính như mách bảo, có thể là thư của Bác. Tôi hồi hộp bóc thư. Nhìn tiêu đề của bức thư và con dấu, chữ ký… đúng là thư của Bác rồi. Tôi mừng quá, đọc một lượt nhanh rồi đọc lại một lần nữa, lần nữa…

Ngày 11 tháng 3 năm 1948

Gửi: Đồng chí Hoàng Mai.

Bác đã nhận được thư và báo cháu gửi tặng Bác. Bác thấy có sự cố gắng, đáng hoan nghênh. Nhưng báo theo cháu nói từ 24 đến 32 trang thì dài quá, cần làm ngắn lại và viết những vấn đề thiết thực, mọi người đều có thể hiểu và làm được như thế mới có tác dụng giúp thúc đẩy công tác, đẩy mạnh thi đua, trên báo cần thường xuyên làm cho anh chị em công an nhận rõ công an của ta là công an nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc. Nhân dân ta có hàng chục triệu người, có hàng chục triệu tai, mắt, tay, chân. Nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong. Trên tờ báo phải luôn luôn nhắc nhở anh em rèn luyện tư cách, đạo đức…

Chào thân ái và quyết thắng!

Hồ Chí Minh.

Sau khi nhận được thư Bác, tờ nội san của Công an Khu 12 đã chấn chỉnh lại theo ý kiến chỉ bảo của Bác. Và cũng từ mùa Xuân ấy, Công an Khu 12 cũng như khắp nơi hưởng ứng phong trào học tập và thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy. Lời Bác dạy năm xưa cho đến nay đã hơn 65 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự. Lực lượng Công an nhân dân đã lấy đó làm phương châm, nguyên tắc và là kim chỉ nam cho mọi hành động và công tác hằng ngày.

(Dẫn theo lời kể của đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Sở Công an Khu 12)

114. Bác Hồ đặt tên cho Thảo

Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm chăm lo thế hệ trẻ. Những lời dạy, sự chăm sóc động viên của Người là động lực để lớp lớp thanh niên trưởng thành trong cách mạng. Trong số những chiến sĩ cảnh vệ vinh dự được bảo vệ Bác, có nhiều đồng chí được Người đặt tên như: Đồng chí Phùng Thế Tài, người cận vệ đầu tiên bảo vệ Bác từ Côn Minh (Trung Quốc) trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau 30 năm đi khắp năm châu bốn biển tìm đường cứu nước. Hoặc tám chiến sĩ cảnh vệ: Trường - Kỳ - Kháng - Chiến- Nhất - Định - Thắng - Lợi bảo vệ Bác trở lại chiến khu Việt Bắc tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp… Và trong số các chiến sĩ cảnh vệ được Bác Hồ đặt tên có đồng chí Nguyễn Văn Thảo, chiến sĩ thuộc Đại đội 34, Tiểu đoàn 600 (nay là Trung đoàn 600, Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Bộ Công an).

Trong trang sử vàng của lực lượng Cảnh vệ Công an nhân dân vinh dự được bảo vệ Bác Hồ ghi lại, ngày ấy vào cuối năm 1953, Trung ương Đảng quyết định tổ chức Hội nghị căn cứ địa để đánh giá tình hình kết quả các mặt công tác bảo vệ căn cứ địa. Sau hội nghị, Ban Bảo vệ căn cứ địa đã tổ chức triển khai và thực hiện theo nghị quyết đã đề ra.

Một trong những nội dung cần triển khai ngay là tăng cường lực lượng bảo vệ căn cứ địa; đặc biệt tăng cường lực lượng cho đơn vị bảo vệ Bác Hồ và các đồng chí trong Thường vụ Trung ương. Theo kế hoạch, một số chiến sĩ được bổ sung vào đơn vị bảo vệ Bác Hồ ở Yên Sơn (Tuyên Quang).

Với tình cảm và sự quan tâm, ngay tối hôm vừa mới đến nhận nhiệm vụ, các chiến sĩ cảnh vệ được Bác cho gọi lên hỏi chuyện. Xung quanh bếp lửa hồng, các chiến sĩ cảnh vệ bảo vệ Bác và các đồng chí mới được bổ sung về đơn vị ngồi quây quần bên Bác. Mọi người thấy Bác rất vui và chủ động nói chuyện với mọi người. Bác ân cần hỏi thăm từng người một, không khí thật thân mật và đầm ấm. Đến lượt đồng chí Nguyễn Văn Thểu, chiến sĩ mới được bổ sung tự giới thiệu. Sau khi nghe xong, Bác ngạc nhiên hỏi:

- Sao chú tên là Thểu?

Không giấu nổi xúc động, Thểu lặng người đi và nghẹn ngào kể lại quãng đời niên thiếu của mình.

- Thưa Bác! Ngày ấy khi Đảng chưa giành được chính quyền, nhà cháu nghèo lắm, cha mẹ cháu phải đi cày thuê cuốc mướn cho địa chủ để sinh nhai. Khi sinh cháu, cha mẹ cháu đặt tên cháu là: "Thằng cu Nậy". Biết là tên đó không hay nhưng bố mẹ cháu vẫn cứ đặt vì xung quanh bọn trẻ con nhà nghèo đều đặt tên xấu như vậy. Thế rồi không may cho gia đình cháu, năm 1945 mẹ cháu bị chết đói. Từ đó cha cháu trong cảnh “gà trống nuôi con”. Do quá khó khăn, cơ cực không nuôi nổi các con, cha cháu đã phải bán các em cháu cho địa chủ để làm người ở. Còn cháu vẫn phải lang thang, thất tha thất thểu đầu đường xó chợ làm thuê để kiếm ăn. Và cũng từ đó mọi người quen gọi cháu là: "Thằng Thểu". Thế là cái tên "Thằng cu Nậy" mà cha mẹ cháu đặt cho cháu mất đi từ đấy. Cho đến khi lớn lên, đi bộ đội, vào lực lượng Cảnh vệ cháu vẫn tên là Thểu.

Lặng nghe Thểu kể, Bác và mọi người xúc động. Người nắm tay Thểu động viên:

- Bác cháu ta đi làm cách mạng là để xóa bỏ nếp sống cũ, xây dựng đời sống mới, cháu nên thay tên mới để thể hiện sự thay đổi của đời mình. Nói đến đây, Bác dừng lại nhìn các chiến sĩ của mình một lượt rồi Người nói tiếp:

- Từ nay, Bác đặt tên chú là Thảo, như thế vừa giữ được phụ âm đầu là Th mà vẫn giữ được kỷ niệm của thời thơ ấu, lại có ý nghĩa chú cũng như các chiến sĩ của chúng ta hiếu thảo với nhân dân.

Thểu sung sướng không cầm được nước mắt, quay sang ôm chầm lấy Bác, ấp úng mãi mới nói được thành lời:

- Thưa Bác! Cháu cảm ơn Bác, cháu xin hứa với Bác sẽ cố gắng phấn đấu để xứng đáng với cái tên Bác đặt và với lòng mong mỏi của Bác.

Các chiến sĩ ngồi xung quanh vô cùng xúc động và kính phục Bác, suốt cuộc đời hoạt động của mình, lúc nào Bác cũng nghĩ đến dân đến nước. Bác mong sao cho đất nước được độc lập tự do, nhân dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Vì vậy, khi đặt tên cho chiến sĩ của mình, Bác cũng gắn với dân, gắn với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Bác muốn người chiến sĩ ai cũng trung với Đảng, hiếu với dân.

115. Trận bóng chuyền ngày Tết

Là cận vệ của Bác Hồ từ tháng 5-1945 cho đến khi Người qua đời, ông là một trong tám người vinh dự được Bác Hồ đặt tên theo khẩu hiệu: Trường - Kỳ - Kháng - Chiến - Nhất - Định - Thắng - Lợi.

Ba mươi sáu năm tham gia lực lượng Cảnh vệ, trong đó có 28 năm là lãnh đạo Cục, ông là Hoàng Hữu Kháng, nguyên Cục trưởng Cục Cảnh vệ (nay là Bộ Tư lệnh Cảnh vệ), Bộ Công an.

Khi cung cấp tư liệu để phục vụ công tác biên soạn lịch sử cảnh vệ Công an nhân dân Việt Nam, ông kể lại: Ngày 25-5-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang) để tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên tổng khởi nghĩa giành chínhquyền về tay nhân dân. Để bảo vệ tuyệt đối an toàn và chăm lo việc ăn nghỉ của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đồng chí Trần Đăng Ninh và đồng chí Võ Nguyên Giáp đã bổ sung tôi vào tổ cận vệ bảo vệ Người. Và tôi đã vinh dự trở thành cận vệ của Bác Hồ từ thời điểm lịch sử đó.

Hỏi về những kỷ niệm với Bác Hồ kính yêu, ông Hoàng Hữu Kháng kể lại: Tôi vô cùng vinh dự có 24 năm được bảo vệ và phục vụ Bác Hồ, do đó có rất nhiều kỷ niệm về Người. Nhưng có một kỷ niệm gắn với ngày Tết cổ truyền là Xuân Kỷ Sửu (năm 1949), anh em bảo vệ, phục vụ thi đấu bóng chuyền dưới sự điều khiển của Bác và được nhận phần thưởng của Người.

Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, cơ quan Trung ương, Chính phủ sơ tán lên chiến khu Việt Bắc. Mặc dù đời sống vật chất lúc đó còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng noi gương Bác, chúng tôi vẫn giữ được tinh thần văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, nhất là vào những dịp ngày lễ và đón Xuân.

Hôm ấy, chỉ một tuần nữa là đến Tết Nguyên đán, đồng chí Hồ Tùng Mậu - Tổng Thanh tra Chính phủ, Trưởng ban tổ chức các hoạt động trong dịp Tết của Cơ quan Phủ Chủ tịch đang chủ trì buổi họp bàn về chương trình đón Xuân mới. Đến các hoạt động văn hóa, văn nghệ và thể dục thể thao, mọi người đang phát biểu rất sôi nổi thì ai đó bỗng reo lên:

- Bác Hồ! Bác Hồ đến các đồng chí ơi!

Không ai bảo ai, mọi người đứng dậy đồng thanh:

- Chúng cháu chào Bác ạ! Hồ Chủ tịch muôn năm! Bác vẫy chào mọi người, cười hiền hậu:

- Năm nay các cô, các chú đón Tết thế nào, có tổ chức văn nghệ và thi đấu bóng chuyền mừng Xuân mới không?

Sinh thời, Bác Hồ bận trăm công ngàn việc, phải lo toan nhiều việc lớn của đất nước nhưng Người vẫn tranh thủ luyện tập thể dục thể thao để có sức khỏe phục vụ cách mạng, phục vụ đất nước. Bác còn vận động toàn dân, toàn quân hằng ngày phải thường xuyên rèn luyện thân thể để giữ gìn sức khỏe.

Trước câu hỏi của Bác, đồng chí Hồ Tùng Mậu đứng lên lễ phép:

- Thưa Bác! Năm nay cơ quan đón Tết rất vui, có tổ chức cả văn nghệ và thi đấu bóng chuyền "cổ truyền" đấy ạ.

Bác nhìn mọi người vui vẻ cười:

- Hôm thi đấu, các cô, các chú nhớ gọi Bác sang xem nhé.

Mọi người phấn khởi đáp lời Bác, không khí càng thêm nhộn nhịp.

Sáng mùng 2 Tết, mặt trời vừa ló lên khỏi dãy núi phía trước mặt, xua tan màn sương mờ trắng đục, đem lại cho núi rừng Việt Bắc không khí ấm áp của ngày Xuân.

Tại sân bóng chuyền nằm trên một quả đồi, đội bóng chuyền Tổ bảo vệ do tôi làm Đội trưởng và đội bóng chuyền Tổ phục vụ do đồng chí Chánh làm đội trưởng đã sẵn sàng vào trận. Dưới sự điều khiển của Bác, những gương mặt cầu thủ tươi rói đang chờ lệnh. Bác thổi "tuýt..." một hồi còi rồi vui vẻ tuyên bố:

- Bác làm "trọng tài chính" cho hai đội thi đấu mừng Xuân, các chú tích cực đua tài. Đội nào thắng sẽ được phần thưởng của Bác. Hai đội nhất trí không? Tất cả các vận động viên và cổ động viên hai đội đều reo hò sung sướng. Những tràng pháo tay kéo dài vang dội cả khu rừng. Cuộc thi đấu diễn ra hào hứng và gay cấn. Cả hai đội đều quyết tâm để giành phần thưởng của Bác kính yêu. Kết cục, đội bóng của Tổ bảo vệ chúng tôi thắng hai séc. Tôi dẫn cả đội khoái chí dàn hàng ngang hân hoan đón chờ phần thưởng của Bác, đội bạn tuy thua nhưng chẳng có gì buồn cả, lại còn kéo nhau đứng nối tiếp theo hàng của đội thắng chúng tôi.

Đồng chí Chánh lại gần, đứng nghiêm trước Bác, nói nhỏ nhưng không giấu được vẻ láu lỉnh:

- Thưa Bác! Đội chúng cháu cũng thắng một séc đấy chứ ạ!

Đồng chí Chánh vừa dứt lời thì một số cổ động viên cũng chạy đến xếp hàng cùng các vận động viên của hai đội phấn chấn:

- Thưa Bác! Chúng cháu cũng nằm trong thành phần đội thắng, vì chúng cháu có công cổ vũ cho đội thắng ạ! Cả bên thắng, bên thua và mọi người xem thi đấu đều cười vang. Không khí thật vui vẻ và đoàn kết. Trước tình thế đó, Bác cũng không nhịn được cười, Người trìu mến nhìn tất cả anh em chúng tôi nói:

- Đúng, các chú nói đúng, các chú đều chiến thắng, chúng ta đều chiến thắng. Năm mới sẽ là năm thắng lợi của quân và dân ta. Bác mở hộp thuốc lá, rồi tự tay chia cho mỗi người một điếu. Đón nhận phần thưởng của Bác, chúng tôi ai nấy đều vui mừng và xúc động. Cuối sân đằng kia, mấy cây đào cũng đang thi nhau khoe sắc như vui cùng chúng tôi.

(Theo lời kể của ông Hoàng Hữu Kháng, nguyên Cục trưởng Cục Cảnh vệ, Bộ Công an)

Tâm Trang (tổng hợp)


 116. Chuyện về nữ cảnh vệ suốt đời vì công việc

Đó là Đại tá Nguyễn Thị Bích Thuận, nguyên Phó Cục trưởng Cục Cảnh vệ, tham gia cách mạng từ ngày tiền khởi nghĩa, kinh qua nhiều vị trí công tác, trên nhiều lĩnh vực; đặc biệt, bà có hơn 22 năm vinh dự làm công tác kiểm nghiệm thức ăn, nước uống bảo vệ Bác Hồ, các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước.

Bà sinh năm 1922 trong một gia đình công nhân tại làng Lãng Yên, tổng Thanh Nhàn (nay là phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Mồ côi mẹ từ nhỏ, nhưng nghe lời dạy của cha: "Phải học để có một cái nghề nương thân", ngay từ nhỏ ngoài thời gian giúp đỡ công việc gia đình, cô bé Bích Thuận đã chú tâm học tập. Thông minh chăm học, năm 17 tuổi, cô nữ sinh trường Đồng Khánh đã đỗ bằng Điplôm. Cuối năm 1944, từ bỏ việc dạy học ở trường Hoài Đức, Bích Thuận tham gia phong trào phụ nữ Mặt trận Việt Minh, được cử đi bán tín phiếu lấy tiền xây dựng quỹ cho tổ chức. Với nhiệt huyết cách mạng và ước nguyện mãi mãi đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, tháng 10-1945, Bích Thuận vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương trước khi Đảng tuyên bố rút vào hoạt động bí mật và được tổ chức điều về phụ trách một số chị em làm công tác nuôi quân tại Ty Liêm phóng Bắc Bộ.

Tháng 11-1946, được lệnh của Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, bà Thuận đi nhận nhiệm vụ mới, phụ trách công tác mật mã, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Trần Quốc Hoàn, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy. Ngày đó Văn phòng Xứ ủy đóng tại một ngôi nhà gần Pháo đài Láng, Hà Nội. Thời gian này, bà đã được vinh dự mã hóa bức điện lịch sử ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Nhớ lại kỷ niệm về một thời khó khăn nhưng rất oanh liệt của dân tộc, bà xúc động kể lại: "Tình hình đất nước những ngày đầu cách mạng ở vào thế "ngàn cân treo sợi tóc", mặc dù Chính phủ ta đã nhân nhượng trong một số điều của Thỏa ước nhưng thực dân Pháp đã không tôn trọng mà ngày càng lấn tới, ráo riết đánh chiếm nhiều nơi. Khả năng hòa hoãn với thực dân Pháp đã chấm dứt, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Trước tình hình cấp bách đó, đồng chí Trần Quốc Hoàn trực tiếp giao nhiệm vụ cho tôi mã hóa bức điện mật của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi vào mặt trận Liên khu I cho đồng chí Lê Trung Toản, Bí thư Liên khu I. Bức điện có đoạn: "Các em là đội cảm tử. Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau". Nhận được bức điện của Bác vào những ngày hết sức quyết liệt, toàn thể cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô coi đây là mệnh lệnh, lời kêu gọi kháng chiến của dân tộc, của non sông đất nước, nên như được tiếp thêm sức mạnh. Thay mặt cán bộ, chiến sĩ, đồng chí Lê Trung Toản điện ra hứa với Bác và Trung ương: "Nguyện quyết tử để Tổ quốc quyết sinh". Ở vào thời điểm nước sôi lửa bỏng, khi mã hóa hai bức điện lịch sử trên, tôi không cầm nổi nước mắt vì cảm động trước tình cảm của vị lãnh tụ tối cao của Đảng và Nhà nước đối với bộ đội".

Mùa Xuân năm 1947, bà Bích Thuận được tổ chức điều về công tác tại Văn phòng Trung ương Đảng. Tại an toàn khu Thái Nguyên, đồng chí Lê Đức Thọ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng đã giới thiệu bà với đồng chí Lê Văn Lương (đồng chí Lê Văn Lương sau này là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương). Nhớ về kỷ niệm này, bà như sống lại thời con gái đang tràn đầy ước mơ và hoài bão, bà kể lại: "Sau một thời gian tìm hiểu, tôi thấy anh Lương người cao, nước da trắng trông rất thư sinh, đặc biệt anh là người sống có lý tưởng cách mạng, nên tôi đặt niềm tin vào anh. Tình yêu trong sáng của hai người cùng chung một con đường và lý tưởng cách mạng đã đưa hai chúng tôi đến hôn nhân. Lễ cưới của hai chúng tôi được tổ chức đơn giản nhưng rất ý nghĩa. Bác Tôn Đức Thắng làm chủ hôn. Anh Trường Chinh, anh Lê Đức Thọ, anh Hoàng Quốc Việt và các đồng chí trong cơ quan tôi đến dự. Đặc biệt, Bác Hồ gửi thư chúc mừng: "Chúc Lương - Thuận đoàn kết, chặt chẽ". Chị Hai Sóc và mọi người vào rừng hái hoa tặng cô dâu và chú rể. Sau khi xây dựng gia đình, chúng tôi sống rất hạnh phúc và tạo điều kiện thuận lợi cho nhau trong cuộc sống và công tác".

Theo chủ trương trí thức hóa công nông của Đảng, bà Bích Thuận được cử đi học. Năm 1961, tốt nghiệp Trường Đại học Y dược Hà Nội, bà được cử về Cục Cảnh vệ làm công tác kiểm nghiệm thức ăn, nước uống bảo vệ tuyệt đối an toàn cho Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước. Và cũng từ đây bà vinh dự trở thành người cận vệ được bảo vệ Bác Hồ. Bà kể lại: "Công việc của tôi thì hay được vào gặp Bác, tôi có nhiều kỷ niệm về Người nhưng có lẽ nhớ nhất là lần tôi có việc vào chỗ Bác và được ở lại ăn cơm với Bác. Bữa cơm của Bác, của một vị Chủ tịch nước mà lại rất thanh đạm. Trong lúc ăn cơm, Bác cho tôi biết Người vẫn nhớ những món ăn quê nhà như ăn cơm với cà nghệ, mắm chua. Nhưng các đồng chí bác sĩ chăm sóc sức khỏe Bác không muốn Bác dùng, đề phòng rối loạn tiêu hóa. Trong suốt bữa ăn, ngồi bên Bác mà tôi miên man nghĩ tới những bữa ăn hằng ngày Bác ngồi ăn cơm chỉ có một mình... Tôi cảm thấy bùi ngùi, cổ cứ nghẹn lại!".

Năm 1963, tôi được Bộ Công an cử đi học chuyên ngành của Ủy ban An ninh ở Liên Xô. Trước khi lên đường, tôi đến chào Bác. Người rất vui và dặn dò: "Cô muốn học gì thì học, đừng cho Bác ăn chuối như chú Kháng vẫn cho Bác ăn". Tôi không hiểu thế nào nên hỏi lại anh Kháng (đồng chí Hoàng Hữu Kháng là cận vệ của Bác). Anh Kháng cười và kể lại: "Anh em bảo vệ lúc đầu không dám mua chuối ở ngoài sợ bị đầu độc, nên cứ lấy chuối trong vườn tự tăng gia để Bác dùng. Chuối quả nhỏ, lại không biết rấm nên không ngon". Là người được sống và làm việc gần gũi bên Bác Hồ, bà Bích Thuận luôn được Bác động viên, dạy bảo, nhất là trong công tác. Mỗi lần Bác góp ý là một bài học để bà trưởng thành.

Hơn 60 năm hoạt động cách mạng, bà luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Bà đã được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất và nhiều huân, huy chương cao quý khác. Vừa tham gia hoạt động cách mạng, bà còn làm tròn trách nhiệm của phu nhân đồng chí Lê Văn Lương, vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước và là người mẹ hiền nuôi dạy con cháu trưởng thành. Hiện nay, tuy tuổi đã cao nhưng bà vẫn tích cực tham gia công tác ở khu phố. Đặc biệt, là nhân chứng lịch sử, bà đã nhiệt tình cung cấp tư liệu và tham gia góp ý vào công tác biên soạn lịch sử Văn phòng Trung ương, lịch sử phụ nữ Công an nhân dân, lịch sử Cảnh vệ Công an nhân dân... Bà thật xứng đáng với truyền thống người phụ nữ Việt Nam: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

(Ghi theo lời kể của Đại tá Nguyễn Thị Bích Thuận, nguyên Phó Cục trưởng Cục Cảnh vệ)

117. Nhớ đêm 30 Tết năm Kỷ Dậu

Trong gần 30 năm công tác tại Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Bộ Công an, chị Lê Thị Thọ vinh dự nhiều lần được gặp Bác Hồ. Mỗi lần gặp Bác đều để lại trong lòng người con gái thành phố hoa phượng đỏ những kỷ niệm sâu sắc.

Trong thời khắc thiêng liêng chuẩn bị bước sang năm mới, năm Quý Tỵ 2013, chị Lê Thị Thọ bồi hồi xúc động kể lại kỷ niệm đêm 30 Tết năm Kỷ Dậu 1969, chị vinh dự cùng một số chị em cảnh vệ được vào Phủ Chủ tịch biểu diễn Mai Hoa quyền phục vụ Bác và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước (Mai Hoa quyền là bài quyền truyền thống của lực lượng Cảnh vệ). Vào trung tuần tháng 11-1968, sau khi tham gia hội thao ở Bộ Công an về, cán bộ, chiến sĩ các đội tuyển của Cục Cảnh vệ (nay là Bộ Tư lệnh Cảnh vệ) trở về đơn vị công tác; đang phấn khởi về những thành tích xuất sắc trong đợt hội thao, được ít hôm thì có kế hoạch tập trung. Đồng chí võ sư Phạm Văn Long phụ trách đội quyền triệu tập 20 chị em trong đội quyền nữ lên quán triệt: Theo sự chỉ đạo của lãnh đạo Cục Cảnh vệ, đội quyền của chúng ta lại tiếp tục đi vào tập luyện. Mọi người xì xào hỏi nhau, không hiểu hội thao xong rồi còn tập luyện làm gì, đang băn khoăn thì đồng chí Phạm Văn Long nói tiếp: Bài Mai Hoa quyền của chúng ta được tham gia vào chương trình văn nghệ mừng Xuân trong đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu tới. Thế là những ngày sau đó, chị em trong đội quyền lại lao vào luyện tập, không biết mệt mỏi. Chỉ có điều mọi người chưa biết biểu diễn ở đâu? Cho ai xem? Lúc đầu mọi người đoán chắc biểu diễn cho lãnh đạo Cục, chỉ huy các đơn vị và cán bộ, chiến sĩ trong Cục xem.

Một hôm, như thường lệ sau buổi tập, đồng chí Phạm Văn Long tập trung đội hình, nhận xét về kết quả buổi tập và động viên chị em. Đồng chí còn dặn riêng đồng chí Lê Thị Thọ: Là người biểu diễn trước một lần, sau đó cả đội vào biểu diễn nên đồng chí cần cố gắng hơn. Về kỷ niệm này, chị Lê Thị Thọ kể lại:

Cuối buổi nhận xét, đồng chí Long mới tiết lộ: Bài quyền của chúng ta được chọn là một tiết mục biểu diễn tại Phủ Chủ tịch phục vụ Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo cấp cao trong đêm 30 Tết này. Nghe đến đây, chị em chúng tôi mừng quýnh cả lên, ai cũng phấn khởi vì sắp được gặp Bác, được vào chúc Tết Bác.

Sau khi được biết tin vui đó, mọi người trong đội càng hăng say tập luyện hơn, quên cả không khí Tết mà nhân dân Thủ đô Hà Nội đang phấn khởi tất bật chuẩn bị, mặc các vết tích ngổn ngang của những trận bom bắn phá mà đế quốc Mỹ gây ra.

Tối 29 Tết, đồng chí Hoàng Hữu Kháng thay mặt Đảng ủy và lãnh đạo Cục Cảnh vệ đến đội quyền của chúng tôi ở 192B Quán Thánh động viên và giao nhiệm vụ:

- Bác Hồ rất quan tâm đến lực lượng Cảnh vệ, nhất là công tác nghiệp vụ và rèn luyện sức khỏe của chúng ta. Tháng 02-1962, với tình cảm đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ Cục Cảnh vệ tại Hội nghị tổng kết công tác năm. Người căn dặn một số vấn đề về công tác cảnh vệ. Đặc biệt, Người dạy: “Muốn bảo vệ thì người bảo vệ phải biết đánh địch, phải biết võ giỏi, phải khỏe…”. Lời Bác dạy đã được ghi vào truyền thống vẻ vang của đơn vị và được lực lượng Cảnh vệ lấy đó làm quan điểm, phương châm trong công tác nghiệp vụ và xây dựng lực lượng.

Sau khi đồng chí Cục trưởng xuống động viên và giao nhiệm vụ, chị em chúng tôi vừa mừng vừa lo, mừng vì ngày mai được gặp và chúc Tết Bác, mong muốn này mọi người đang thấp thỏm chờ mong, lo vì biểu diễn thế nào đạt kết quả tốt nhất để khỏi phụ lòng tin của Bác với lực lượng Cảnh vệ. Đêm hôm đó chúng tôi không sao ngủ được, nằm thao thức kể cho nhau nghe những lần mọi người được gặp Bác, được Bác tặng quà. Ôi! Sao mà Bác tình cảm, gần gũi đến thế. Ngoài trời mưa xuân nhẹ phủ trắng cả không gian.

Sáng 30 Tết, chị em chúng tôi được nghỉ để chuẩn bị trang phục và tinh thần tối biểu diễn. Ăn cơm chiều xong, chúng tôi được lệnh đến Phủ Chủ tịch. Từ 192B Quán Thánh tắt qua vườn hoa Mai Xuân Thưởng đi vào cổng Đỏ, vì là "người nhà" nên thủ tục kiểm tra ở cổng đối với chúng tôi nhanh gọn hơn một số đoàn khác.

Phủ Chủ tịch đêm giao thừa thật lộng lẫy và tràn đầy không khí Tết. Những cây quất, cây đào và muôn loài hoa đua nhau khoe sắc cùng những chùm đèn màu lung linh rực rỡ. Cùng biểu diễn phục vụ Bác hôm ấy còn có các cháu thiếu nhi quận Ba Đình, đoàn Văn công giải phóng, đoàn Ca múa nhạc Trung ương, đoàn Ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam, đoàn Nghệ thuật Công an vũ trang và một số ca sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng khác. Trong trang phục lộng lẫy, sặc sỡ của các đoàn, màu xanh đồng phục của chúng tôi mang dáng con nhà võ, gọn gàng khỏe khoắn làm cho không khí ngày hội mừng Xuân chúcTết Bác thêm phong phú hơn.

Đúng 19 giờ, Bác xuất hiện trong tiếng vỗ tay vang dậy, Người mặc chiếc áo bông trông thật giản dị, đi cùng với Người có Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng PhạmVăn Đồng và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Mặc dù ban tổ chức đã phổ biến nội quy, nhưng chẳng ai chịu đứng yên, ai cũng muốn đứng gần Bác. Biết mình thấp, tôi cố len lên phía trước để nhìn Bác được rõ hơn. Bác ra hiệu cho mọi người ngồi xuống, còn Bác ngồi ở chính giữa làm "khán giả". Tất cả vừa ổn định trật tự thì các đoàn liền cử đại diện lên tặng hoa và tặng quà Bác. Tôi nhìn thấy nhiều bó hoa tươi thắm, đặc biệt đoàn Công an vũ trang tặng Bác những sản phẩm do chính đơn vị mình tăng gia được. Bác rất vui, không khí càng thêm ấm cúng. Sau tiết mục của các đơn vị, Bác tặng hoa cho các diễn viên, làm cho không khí đêm liên hoan thật sôi nổi và hào hứng. Đến tiết mục của mình, hồi hộp quá, nhưng nghĩ đến trách nhiệm của mình trước đơn vị, tôi lấy lại được bình tĩnh. Sau động tác chào "kiểu nhà võ", tôi thấy Bác vỗ tay nhìn tôi mỉm cười. Tôi nhanh chóng tập trung cao độ để các thế võ được khỏe, các động tác di chuyển được uyển chuyển, mềm mại. Vừa biểu diễn tôi vừa nhìn về phía Bác. Đến lượt cả đội biểu diễn, 20 chị em chúng tôi đều tăm tắp, những cánh tay chém trong không khí phần phật. Khi biểu diễn xong bài quyền cũng là lúc kết thúc chương trình văn nghệ, Bác đứng dậy tặng hoa cho chị em chúng tôi. Tặng hoa xong, Người nói:

- Bác cảm ơn các cháu đã biểu diễn cho Bác xem một chương trình mừng Xuân rất hấp dẫn. Bác thấy mình trẻ lại. Nhân dịp chuẩn bị bước sang năm mới, Bác chúc các cháu mạnh khỏe, cố gắng hơn nữa trong công tác của mình. Dứt lời Bác là tràng vỗ tay vang dậy. Mọi người ai cũng muốn đứng gần Bác để được chụp ảnh với Người. Chụp ảnh xong, Bác bắt nhịp cho mọi người hát vang bài "Kết đoàn"và bài "Giải phóng miền Nam". Giọng hát của các lứa tuổi hòa quyện với nhau làm cho không khí tưng bừng náo nhiệt. Bác cũng vỗ tay theo nhịp của bài hát.

Bây giờ cứ mỗi khi Tết đến xuân về, tôilại hình dung buổi biểu diễn phục vụ Bác như vừa diễn ra hôm qua. Lòng tôi xúc động nhớ tới công ơn trời biển của Người. Tôi lại tự hứa với bản thân, phải cố gắng hơn nữa để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

(Ghi theo lời kể của đồng chí Lê Thị Thọ, nguyên cán bộ Cục Cảnh vệ

118. Cây vú sữa

Đất nước Việt Nam trong lịch sử đấu tranh cho hòa bình thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ có chuyện "Cây vú sữa miền Nam", lại có chuyện "Cây vú sữa Bác Hồ". Chuyện cây vú sữa, chuyện của đất nước, của dân tộc. Những cây vú sữa xanh tươi gợi lên hình ảnh của đồng bào miền Nam ruột thịt, hình ảnh Bác Hồ muôn quý ngàn yêu!

Chuyện cây vú sữa gắn với địa chỉ xã Trí Lực, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Xã Trí Lực là vùng đất có truyền thống đấu tranh cách mạng với những sự tích anh hùng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, xã Trí Lực có trận đánh Pháp bên dòng kinh Chắc Băng lừng tiếng.

Trong kháng chiến chống Mỹ - ngụy, xã Trí Lực nằm trong địa bàn đồng khởi 1960 lừng danh huyện Thới Bình. Xã Trí Lực, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau thuộc vùng rừng và miệt đồng. Một miệt đồng kinh rạch và phù sa phì nhiêu, ở cuối đất cùng trời phương Nam, nhưng lại mang truyền thống dựng nước, giữ nước của ông bà từ ngàn năm lịch sử. Ấy là tinh thần “ngự binh ư nông”. Kháng chiến chống thực dân Pháp có những đơn vị bộ đội chính quy tới ở Trí Lực cùng dân lo sản xuất lấy lương thực, cùng dân đánh giặc. Ở miệt đồng sống thuần nông với đất. Trên ruộng chỉ có lúa, những giống lúa Tiên Đôi, Nàng Cum và giống nếp với cái tên thật dễ thương “nếp Tất Nợ” (nếp giống tốt, năng suấtcao trả hết nợ (!)). Đồng ruộng ấy cùng kinh rạch kia còn cónhiều tôm cá. Những cá lóc, cá rô, cá trê vàng, trê trắng, cá chèm dính sáng lưới, làm mắm, ăn tươi, làm khô. Miệt vườn cây ăn trái chỉ có ít loại xoài, mít, cam còn đa phần là chuối, khóm; rau lang, rau muống, rau ngò, bông súng...

Chuyện cây trái đất Trí Lực phải nhắc tới cây vú sữa. Chỉ có một cây duy nhất trên bờ Chắc Băng, thuộc ấp số 10. Cây vú sữa của ông Hai Phường lấy giống từ Tiền Giang về trồng. Một thời gian sau ông di dời để lại khu đất cho ông Đương. Ông Đương là tên dân gọi theo nghề nghiệp của ông. Một tay chuyên sống bằng nghề đồ tre, vót cần câu, đan lát, thúng mủng, rổ rế. Cây vú sữa đã có trái. Cây trái lạ ngon ngọt quý hiếm và giá mua bán rất mắc. Mỗi chục một giạ lúa. Chỉ khi lễ trọng cúng ông bà, chỉ khi có người bệnh nhiều mới mua cho ăn lấy lại sức. Đất nuôi quân đánh giặc cũng chỉ cần lúa gạo, rau cá. Thường nhật lấy gạo nấu cơm, kéo lưới, đặt lờ lợp, dỡ trà lấy cá kho, nấu canh chua. Trúng mùa vụ, đánh trận thắng hay ngày lễ, Tết thì các má chiến sĩ nấu xôi, nấu chè liên hoan thắm thiết tình nghĩa quân dân.

Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng toàn cầu, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hòa bình lập lại ở Đông Dương. Theo tinh thần Hội nghị Giơnevơ, nước Việt Nam tạm chia hai miền. Hai trăm ngày tập kết, là những ngày chia tay, kẻ ở người đi đầy thương mến. Khi đó, một đại đội của Tiểu đoàn 307 đóng ở Trí Lực. Má Lê Thị Sảnh (Tư Sảnh), hội viên Hội mẹ chiến sĩ làm 14 công ruộng, lâu nay gia đình má nuôi chứa Ban Chỉ huy đại đội, má đã nghĩ ra việc gửi theo những anh bộ đội Cụ Hồ biếu Bác Hồ cây vú sữa như gửi lòng mình, gửi sản vật quý giá của quê hương mình tới Bác tỏ lòng yêu thương, tỏ ý chí thống nhất đất nước. Má cùng cô con gái thứ Bảy còn nhỏ xíu lo cây vú sữa nhỏ gửi tặng Bác Hồ. Cây vú sữa đã được Bác trồng, chăm sóc lớn lên bên Nhà sàn Bác Hồ.

Năm 2003, chúng tôi làm phim kỷ niệm 50 năm ngày tập kết (1954-2004) cùng với cán bộ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau, cùng đồng chí Đặng Minh Tâm, Bí thư Đảng ủy xã Trí Lực đã tới nhà má Tư Sảnh ở ấp 10, thắp nhang và ghi lại hình thờ của má và chồng má, là ông Đỗ Văn Tốn, gặp các con cháu của má Tư Sảnh. Chúng tôi nghe ông Nguyễn Văn Phận, 81 tuổi, nguyên là Tổ trưởng tổ Đảng của ấp 10 thời gian năm 1954 kể lại: Trong cuộc mít tinh tiễn đưa các chiến sĩ đi tập kết, ông Phận đã giới thiệu má Tư Sảnh lên khán đài gửi cây vú sữa tặng Bác Hồ kính yêu. Đại đội trưởng Kiên, người quê Bến Tre, bị thương cụt một cánh tay trái, đã thay mặt anh em chiến sĩ nhận cây vú sữa từ tay má Lê Thị Sảnh, đem theo đoàn tập kết ra miền Bắc để tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cây vú sữa trên đất Trí Lực do má Lê Thị Sảnh gửi tặng Bác Hồ đã được Người chăm sóc chu đáo. Cây xanh tươi thân thương như hình ảnh miền Nam thương yêu bên Người. Cây xanh tươi, đơm bông kết trái như sức sống bất diệt, sự gắn bó máu thịt của miền Nam với Bác Hồ kính yêu. Cây vú sữa mang cái tên đầy yêu thương là cây vú sữa miền Nam.

(Linh Hương - Phạm Văn Tắc, trích trong "Miền Tây Nam bộ nhớ mãi Bác Hồ")

Tâm Trang (tổng hợp)


 119. Hãy gọi các cháu lên đây với Bác

Vinh dự được bảo vệ Bác từ năm 1958 đến khi Người qua đời, tôi đã được chứng kiến nhiều lần Bác đến thăm các trường học, đến các trại hè, các đại hội thiếu nhi, các cuộc liên hoan…

Ông tiên giữa đời thường

Những lần Bác đi công tác cần bảo đảm bí mật, lực lượng cảnh vệ đã làm nhiều cách để ít người nhận ra Bác. Nhưng đối với các cháu thiếu nhi ở thành thị cũng như ở nông thôn, chỉ thoáng thấy Bác là các cháu đã hò reo, vẫy gọi và ùa đến quanh Bác. Những lần như vậy, các cháu thường được Bác chia kẹo, phát quà và có nhiều lần Bác đã cho dừng xe vui với các cháu thiếu nhi.

Một lần, trên đường đi công tác, vì đường còn xa nên chúng tôi bố trí Bác nghỉ tạm trên một đồi cây, xung quanh là cánh đồng lúa đang độ trổ bông, tỏa hương thơm ngát. Chúng tôi yên trí vì đã chọn được một nơi yên tĩnh, không khí trong lành và quan trọng hơn là nơi đây vắng vẻ, ít người qua lại, có thể bảo đảm tuyệt đối an toàn.

Bác vừa ngồi xuống gần một gốc cây thì chúng tôi bỗng nghe thấy có tiếng bì bõm đâu đây. Lát sau tiếng lội rõ hơn, xen lẫn tiếng xì xào ở trong ruộng lúa. Tôi tiến lại gần, thấy gần chục cháu nhỏ, các cháu cầm giỏ bắt cua đang đi về phía chúng tôi. Thấy vậy, chúng tôi bàn nhau cử người đến bảo các cháu hãy đi nơi khác kẻo ảnh hưởng đến việc nghỉ ngơi của Bác. Chúng tôi đang nói với các cháu chợt nghe tiếng Bác:

- Có chuyện gì vậy các chú? Tôi phải báo cáo thật:

- Thưa Bác! Có mấy cháu thiếu nhi đi bắt cua đồng ạ. Như hiểu được ý định của chúng tôi, Bác nói:

- Các chú đừng có đuổi các cháu. Hãy gọi các cháu lên đây với Bác. Không còn cách nào khác, chúng tôi phải cử một đồng chí xuống đón các cháu. Các cháu phấn khởi nhìn nhau cười rồi tiến lại gần chỗ Bác ngồi. Vừa nhìn thấy Bác, các cháu sung sướng mừng quýnh cả lên:

- Chúng cháu chào Bác ạ! Bác Hồ các bạn ơi! Bác nhìn các cháu âu yếm:

- Các cháu làm gì ở đây? Một bé trai nhanh nhảu:

- Thưa Bác! Chúng cháu qua đây thấy Bác nên muốn đến để được ngắm Bác ạ. Các bé ào đến quây quần bên Bác như đàn cháu lâu ngày mới được gặp người ông, tranh nhau ôm lấy tay Bác. Có cháu sà vào lòng Bác, Bác xoa đầu một cháu ngồi gần, giọng ấm áp:

- Các cháu có được đi học không? Các cháu đồng thanh:

- Thưa Bác! Chúng cháu được đi học, vui lắm ạ.

- Các cháu có giúp đỡ bố mẹ, có giữ gìn vệ sinh không? Các cháu tranh nhau trả lời:

- Thưa Bác, chúng cháu đều giúp bố mẹ những việc nhỏ trong nhà ạ! Bác rất vui, khen các cháu:

- Thế là tốt! Bây giờ các cháu hát cho Bác nghe một bài. Các cháu cùng hát bài: “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng”.

Dưới bóng cây râm mát lộng gió trời thu, đàn cháu nhỏ quây quần như được gặp ông tiên trong truyện cổ tích mà ngày nhỏ được bà kể lại. Nhưng tại lúc này, Bác là “ông tiên” của đời mình, “ông tiên” của lòng mình. Đã đến giờ lên đường, tôi mời Bác lên xe. Xe từ từ chuyển bánh, Bác giơ tay vẫy chào các cháu. Qua cửa kính, tôi còn thấy những đôi bàn tay nhỏ xinh xinh như những bông hoa vẫy mãi.

Bài học dạy trẻ

Một lần khác vào mùa Hè năm 1963, Bác thăm một trường mẫu giáo ở Hà Nội. Khi chúng tôi đến chuẩn bị thì lãnh đạo ở đây tuy không nói ra nhưng đều biết là Bác sẽ đến thăm, không còn cách nào khác, mọi việc vẫn phải tiến hành theo kế hoạch.

Đúng 9 giờ sáng hôm đó Bác đến thăm trường. Khi tới cổng, Bác thấy trời nắng và oi bức, thế mà các cô dẫn các cháu tô son, má phấn, xúng xính trong bộ quần áo hoa còn mới nguyên, tay cầm cờ, hoa để chờ đón Bác. Mặt cháu nào cũng đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại. Thương các cháu, vì gặp được Bác mà vất vả nên khi vừa xuống xe, Bác bỏ qua hết thủ tục do trường tổ chức mà cho tất cả các cháu vào hội trường, bật quạt để các cháu mát. Khi Bác bước vào, các cháu không ai bảo ai đứng dậy đồng thanh:

- Chúng cháu chào Bác ạ! Bác cười, âu yếm nhìn các cháu và ra hiệu để mọi người trật tự. Người hỏi:

- Các cháu có ngoan không?

- Thưa Bác! Có ạ. Cả hội trường đồng thanh đáp.

- Các cháu có vâng lời cô giáo không? Tiếng ngây thơ của các cháu lại vang lên như những lần trước:

- Thưa Bác! Có ạ. Bác quay lại nhìn các cô giáo cười, còn các cô thì mặt đỏ ửng và lúng túng, các cháu ngơ ngác nhìn Bác rồi nhìn các cô giáo, như thấy điều gì đó, chúng làm chưa đúng.

Bác thoáng buồn và căn dặn các cô giáo:

- Hình thức là quan trọng nhưng ở đây các cô lại hình thức quá. Do đó Bác không thấy được thực tế nơi ăn ở học tập của các cháu, không thấy được các cấp lãnh đạo cơ sở quan tâm các cháu đến đâu? Các cháu bé là những tờ giấy trắng, các cô giáo là các họa sĩ phải biết pha màu để dựng nên những bức tranh đẹp có ý nghĩa, có ích cho xã hội. Không dạy để các cháu tiếp thu máy móc và học kiểu học vẹt. Các cô giáo ân hận vì đã có lỗi với Bác và chăm chú nghe Bác dạy, còn các cháu bé xúm lại nhận quà của Bác, không khí thật ấm áp.

(Theo Phạm Lê Ninh, nguyên Phó Cục trưởng Cục Cảnh vệ nay là Bộ Tư lệnh Cảnh vệ)

120. Ba lần xây dựng Đền thờ Bác Hồ

Bà con xã Nguyễn Huân, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau ba lần dựng đền thờ Bác Hồ, một việc làm có lẽ nhiều người không tưởng tượng được. Đây là một biểu hiện sâu lắng tấm lòng của nhân dân Cà Mau đối với Bác.

Tháng 2-1970, sau khi có chủ trương của Huyện ủy, được sự chỉ đạo của đồng chí Năm Lập, Bí thư Xã ủy và các đồng chí đảng viên cao tuổi Nguyễn Văn Ký, Năm Tần, trên hai chục gia đình xóm Kinh Rẫy, ấp Hồng Phước đã xây dựng đền thờ Bác Hồ bên bờ sông Đầm Chim, ngày đó là xã Tân Tiến - nay là xã Nguyễn Huân.

Đền thờ làm vuông vắn, mỗi cạnh 7 mét, cột kê táng bằng gỗ đước, có bốn chái bắt vần, lợp phibrôximăng. Chung quanh đền, đóng bằng ván gỗ mắm, phía trên đóng song khung gỗ đước. Hơn một trăm người làm dưới sự chỉ huy của ông thợ mộc Trương Văn Sa. Sau hơn một tháng thi công, ngôi đền đã hoàn thành. Ông Trần Minh Tân và ông Nguyễn Văn Thế, cán bộ thông tin, được giao nhiệm vụ trang trí. Đồng chí Mười Bài, cán bộ đơn vị 962, tặng cho bà con bức ảnh Bác mang về từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Bức ảnh được lồng vào khung gỗ sơn màu đỏ, thật trang trọng. Hai bên bàn thờ là hai câu liễn sơn đỏ chữ vàng: "Chí khí tráng sơn hà, cứu quốc anh hùng duy hữu nhất Minh tinh quang vũ trụ, Á - Âu hào kiệt thị vô song". Ông Nguyễn Văn Ký là người được giao trực tiếp trông coi đền thờ. Mỗi ngày ông đến đốt hương và vun quén bồn hoa quanh đền. Ngày khánh thành đền, làm lễ dâng hương cúng kiếng Người, đội văn nghệ của xã do anh Hai Tốt phụ trách đã tổ chức một chương trình văn nghệ hát về Bác Hồ và quê xứ yêu thương.

Kể từ đó, hằng ngày các em thiếu nhi đến đây vui ca, múa hát. Nhiều chị em phụ nữ, cả những người có chồng, có con cũng lo thu xếp việc nhà đến đây tập múa, tập hát dưới sự hướng dẫn của anh Bưởi và anh Thế. Những lần kỷ niệm ngày sinh nhật Bác, ngày Bác từ trần, bà con ấp Hồng Phước, bà con xóm Cá Rô - xóm Đùng Đình mang bánh trái, quà vật tới đền thờ. Lễ cúng kiếng rất tôn nghiêm, trang trọng.

Biết được hoạt động này, bọn địch điên cuồng lồng lộn. Chúng tổ chức càn quét, bắn giết, tính phá hủy cho kỳ được ngôi đền thờ Bác. Đội du kích ấp gồm hai chục tay súng, dưới sự chỉ huy của Ấp đội trưởng Lê Minh Châu, Ấp đội phó Nguyễn Văn Phát bố trí canh gác, đánh địch ngày đêm, quyết bảo vệ đền thờ an toàn. Có lần lực lượng du kích bắn bị thương tên đồn trưởng khi hắn chỉ huy càn quét nơi đây. Dùng bộ binh thất bại, bọn chúng cho tàu sắt nã trọng liên và cho máy bay bắn phá đền thờ. Nhưng tàu đến thì du kích bắn tàu, máy bay tới thì du kích bắn máy bay. Dù bọn địch dùng phương tiện và vũ khí chiến tranh hiện đại nhưng vẫn không hủy diệt được đền thờ Bác. Trái lại, ta còn treo băng cờ, khẩu hiệu quanh đền ngày đêm rực rỡ.

Khi địch mở chiến dịch bình định nông thôn, đánh phá vô cùng ác liệt, sau khi bàn bạc thống nhất, Đảng bộ và nhân dân nơi đây quyết định di dời đền thờ Bác Hồ vào rừng chống giặc. Nơi chuyển đền thờ Bác tới là Kinh Rẫy, một dòng kinh nhỏ rộng hơn 10 mét, dài chừng 500 mét giữa rừng đước. Ngôi đền có kích thước như cũ nhưng lợp lá, không dựng trên nền đất, mà dựng sàn bằng gỗ đước. Phía trên, bàc on dùng dây chì kéo chằng những ngọn cây đước, ngụy trang rất kín đáo, máy bay địch không thể phát hiện được. Con kinh này hiện nay mang tên "Kinh Đền thờ Bác Hồ".

Thời gian này, khắp nơi bị địch đánh phá rất dữ dội. Ở xã này, cùng một lúc chúng giết gia đình chị Nguyễn Thị Cúc 6 người. Nhưng bà con đều sẵn sàng sống bất hợp tác với địch. Hễ nghe tin chúng đi càn, bà con bỏ hết nhà cửa chạy vô rừng, chờ im tiếng súng, mọi người lần lượt bám về. Dù cuộc sống vô cùng vất vả, khó khăn, Đảng bộ và bà con vẫn thường xuyên tề tựu nơi đền thờ Bác. Ông Nguyễn Văn Ký vẫn hằng ngày đốt hương và chăm sóc ngôi đền. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, khi có chủ trương khôi phục rừng, xóm Kinh Rẫy, ấp Hồng Phúc được di dời về nơi mới là kinh Khạo Nhòng, ấp Văn Luyện, xã Nguyễn Huân.

Ngôi đền trong rừng năm xưa đã hư hỏng nhiều, bà con quyết định dựng ngôi đền mới tại khu vực được định cư. Bà con vào rừng đốn cây, góp tiền mua tôn và các loại vật liệu khác. Đền vẫn dựng theo kích thước cũ nhưng giờ đây khang trang hơn, uy nghi, sáng láng hơn. Ngôi đền dựng lần thứ ba này tọa lạc tại ngã ba Tân Thành, cách vàm Cây Gừa (sông Bàu Sen) khoảng 800 mét. Chăm sóc ngôi đền vẫn là ông Nguyễn Văn Ký. Ngày 04-9-1990 (âm lịch), ông Ký qua đời, vợ chồng ông Nguyễn Văn Đầy (Năm Ho) lãnh nhiệm vụ hương khói và chăm sóc giữ gìn đền thờ Bác. Khi ông Đầy mãn phần, bà Lê Thị Phú - vợ ông Đầy - tiếp tục nhiệm vụ của mình cho tới khi ngôi đền không còn chịu đựng được nắng mưa, giông bão. Bà Lê Thị Phú rước lư hương của Bác về nhà thờ phượng. Bà đã 87 tuổi, không có con cái, có lúc bà ở xã Nguyễn Huân, lúc về Tân Bằng, bên dòng sông Trẹm xã Biện Bạch, huyện Thới Bình; có khi trở lại ấp Cây Gừa bên dòng Bàu Sen. Một thân, một mình, một ghe, bà vẫn mang theo kỷ vật thiêng liêng là cái lư hương thờ Bác từ năm nào và ngày ngày vẫn đốt hương tưởng nhớ Người.

Tại nhà ông Ký, bức ảnh Bác lồng trong khung kính sơn đỏ làm từ năm 1970, con cháu ông vẫn treo thờ giữa nhà. Bao nhiêu năm tháng đã qua đi, nhất là những ngày chiến tranh ác liệt, nhân dân và Đảng bộ xã Nguyễn Huân đã dựng đền thờ Bác để theo Người chiến đấu vì độc lập, tự do.

Có một điều rất ý nghĩa đã nói ở trên vẫn cần nhắc lại ở đây. Ấy là việc sau khi hòa bình, đền thờ Bác Hồ ở Kinh Rẫy được di chuyển về xóm ấp mới thì dòng Kinh Rẫy được nhân dân gọi là: KINH ĐỀN THỜ BÁC HỒ. Trong rừng đước có một dòng kinh mang tên ý nghĩa vô cùng! Những kỷ niệm thiêng liêng về Bác luôn luôn sống giữa lòng dân.

(Theo Trường Sơn, trích trong "Miền Tây Nam bộ nhớ mãi Bác Hồ")

121. Kỷ niệm về những năm tháng phục vụ Bác Hồ

Ngày 11-10-1947, tôi được giao nhiệm vụ phục vụ Bác Hồ, hôm đó đúng vào ngày Bác di chuyển chỗ ở. Nghe tin báo địch sẽ nhảy dù xuống một số địa điểm, vì vậy nửa đêm chúng tôi đã phải lên đường. Ðoàn chúng tôi đi trước để chuẩn bị địa điểm. Ðến Tràng Xá, chúng tôi mượn nhà dân để đón Bác, sau đó mới làm lán để Bác ở.

Ở Tràng Xá, Tân Hồng, anh em vận động nhân dân ủng hộ đội võ trang tuyên truyền. Dân có gì ủng hộ nấy. Nhiều nhà có lợn, gà đã đem cúng cho người ốm khỏi bệnh, nên họ ủng hộ một con chó. Tôi về báo cáo Bác, Bác nói:

- Mình đang thiếu thốn, dân ủng hộ gì cũng quý cả, cần gì cứ phải gà với lợn. Nhưng các chú phải ghi lại để sau này có điều kiện hoàn trả lại cho dân, cho tương xứng với cái người ta đã ủng hộ mình.

Biết là nhân dân rất tình cảm, yêu quý những người cách mạng, đã ủng hộ một cách vô tư, nhưng nhớ lời Bác dặn, sau đó chúng tôi đã mua thuốc lào mang đến làm quà cho mỗi nhà một bánh.

Lán của Bác lúc đầu làm ở phía ngoài bìa rừng, sau có tin Pháp nhảy dù mới làm sâu vào bên trong. Thời gian này Bác phải di chuyển chỗ ở đến nhiều nơi.

Năm 1947 lên Bản Ca. Năm 1948 ở chân đèo De và ăn Tết ở đó. Ở Tràng Xá một thời gian Bác lại chuyển lên Khuôn Tát ở nhà anh Thảo. Ở Khuôn Tát cứ sáng dậy nấu ăn xong lại lên núi, được ba, bốn ngày thì không ở đó nữa mà lên Bản Ca (cuối năm 1947). Ðồng chí Lê Giản đưa Bác đi, Bác cũng đi bộ. Ở Bản Ca một thời gian, năm 1948 chuyển về chân đèo De, ở một cái lán bên cạnh "Trại nhi đồng".

Năm 1949 sang Tân Trào ở nhà anh Quyết, dưới chân núi Hồng. Thời gian này Bác di chuyển chỗ ở liên tục. Bác lên ở Bản Ca hai lần. Lần thứ nhất, giặc Pháp nhảy dù, đồng chí Lê Giản đưa Bác lên Bản Ca. Lần thứ hai vào năm 1951 Bác lại lên Bản Ca ở xã Thành Công.

Năm 1951 tôi đánh bóng bị đau tức ngực sau đó bị ốm, Bác cho tôi đi nghỉ cùng anh Tô (đồng chí Phạm Văn Ðồng), anh Ðẩu và anh Trần Quý Kiên. Tôi đi nghỉ trở về thì Bác đã chuyển lên đèo Cón, ở ngã ba, một đường đi Bắc Cạn, một đường đi Thành Công, một đường rẽ vào chỗ Bác ở.

Tôi và đồng chí Phúc được chọn vào phục vụ Bác cùng một đợt. Lần đầu tiên vào gặp Bác chúng tôi rất lúng túng. Chúng tôi chào Bác bằng Cụ, Bác cười và bảo đừng gọi thế, gọi Bác thôi.

Bác hỏi tên hai chúng tôi, khi biết chúng tôi tên là Nga và Phúc, Bác nói:

- Bác đặt tên mới cho hai chú là Kiên, Quyết. Các chú phải làm việc như thế nào cho xứng đáng với cái tên của mình.

Tôi còn nhớ mấy anh em phục vụ Bác lúc đó: Đồng chí Trung, đồng chí Dũng và tôi. Tôi được Bác đổi tên là Kiên, đồng chí Phúc đổi tên là Quyết, đồng chí Lộc nấu ăn đổi tên là Ðồng và bác sĩ Chánh đổi tên là Tâm. Cùng với những người bảo vệ được Bác đặt tên Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Ðịnh, Thắng, Lợi, những cái tên được Bác đặt mang nhiều ý nghĩa, thể hiện quyết tâm, đồng lòng kháng chiến. Dù được giao nhiệm vụ gì chúng tôi cũng cố gắng làm thật tốt.

Trong thời gian phục vụ Bác chúng tôi được Bác rất quan tâm. Nhưng Bác quan tâm một cách công bằng chứ không thiên vị ai.

Năm 1950, sau Chiến thắng Biên giới, Bác được nhân dân tặng một số quần áo may sẵn, Bác không dùng mà làm quà thưởng cho anh em chúng tôi. Nhưng trong số quần áo đó có nhiều loại khác nhau. Bác tặng chúng tôi, rồi đề nghị bắt số hay nhường nhau, chứ Bác không tự tay thưởng từng người một. Bác bảo làm thế cho công bằng.

Khi anh Lộc, người nấu cơm cho Bác bị ốm, rồi qua đời, Bác buồn lắm. Anh Bảy (đồng chí Phan Mỹ) nói tìm người thay anh Lộc nấu ăn cho Bác. Thấy thế Bác nói:

- Cũng không cần thiết lắm, Bác ăn uống cũng dễ. Trong nhà này cử một chú ra nấu ăn đỡ phải tìm người. Mà các chú cũng phải học mà nấu ăn, sau này về nhà khi có khách còn biết nấu các món ăn. Các chú đóng một quyển sổ nhỏ, gửi mấy cô phụ vận ở Văn phòng Trung ương nhờ các cô ấy ghi cách nấu nướng về mà thực tập.

Do đó năm ấy không lấy người ngoài vào nữa mà chuyển đồng chí Trung sang nấu ăn cho Bác.

Ðồng chí Trung chuyển sang nấu ăn cho Bác nhưng cứ băn khoăn, đi bộ đội mà chẳng được đánh trận nào, súng đeo rách cả vai áo. Ðồng chí Trung xin chuyển sang chỗ anh Ninh. Biết việc này, một buổi tối Bác cháu cùng ngồi sinh hoạt bên bếp lửa, Bác đem câu chuyện chiếc đồng hồ ra kể với ý nhắc chúng tôi hãy yên tâm với công việc được giao. Bác cũng cho gọi đồng chí Trung lên và nói:

- Công tác cách mạng do Ðảng phân công, mỗi người một việc, các chú làm nhiệm vụ bảo vệ, hãy làm tốt việc được phân công đã.

Tuy thế, đến cuối năm 1952 đồng chí Cẩn được cử về thay đồng chí Trung nấu ăn cho Bác. Ðồng chí Trung được chuyển sang quân đội.

Những năm kháng chiến, Bác ở trên chiến khu Việt Bắc, mà ở chiến khu cũng không được an toàn lắm, cứ phải di chuyển chỗ ở luôn. Thấy thế một số đồng chí  thì thầm với nhau:

- Về Thái Nguyên ở có tốt hơn không, làm gì cứ phải ở bí mật, di chuyển mãi thế này cho vất vả.

Bác nghe các đồng chí nói vậy thì giải thích:

- Có bí mật mới có công khai, cũng như có kháng chiến mới có thắng lợi.

(Theo cuốn “Chuyện kể của những người giúp việc Bác Hồ”).

Tâm Trang (tổng hợp)


 122. Bữa cơm trên tàu với Bác

Cuối tháng 3-1959, lần đầu Bác Hồ cùng đồng chí Nguyễn Lương Bằng và các đồng chí ở Trung ương về thăm quân chủng Hải quân đi thăm biển, các đảo thuộc vùng biển tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng. Nhiệm vụ đưa đón Bác và các đồng chí đại biểu, cấp trên tin tưởng giao cho cán bộ, chiến sĩ tàu 524. Lúc đó, không riêng gì tôi (Trần Bạch) mà tất cả cán bộ, chiến sĩ tàu 524 đều cảm thấy vinh dự và tự hào.

Hôm Bác đi thăm đảo Tuần Châu xong, Bác trở về tàu 524, đồng chí Tư Tường bàn với anh em trên tàu là sẽ mời Bác, đồng chí Nguyễn Lương Bằng và các đồng chí cùng đi ở lại ăn cơm với cán bộ, chiến sĩ trên tàu. Sau khi anh Tư Tường báo cáo nguyện vọng của anh em với Bác, Bác vui vẻ nhận lời và bảo: Để Bác xem các chú nấu ăn có giỏi không?

Hôm đó, tàu cử đồng chí Hiên là người khéo tay nhất làm bếp và trực tiếp nấu nướng. Tôi và các đồng chí cùng tham gia mỗi người một việc, từ vo gạo, nhặt rau… Ai nấy đều rất vui và chăm chú làm việc như muốn góp phần công sức của mình vào bữa ăn “chiêu đãi Bác”. Trong lúc anh em đang loay hoay nấu nướng thì Bác xuống bếp. Nhìn quanh một lượt, Bác khen bếp sạch, ngăn nắp. Bác đang xem ngăn để gia vị, hành tỏi, chợt quay lại bảo với Hiên:

- Chú nấu cơm khê rồi! Anh Tư Tường cũng quay lại. Hiên vội bớt lửa, rồi mở vung nồi ra kiểm tra. Khi đó anh em mới ngửi thấy mùi cơm khê. Anh Tư Tường và anh em trên tàu rất áy náy về việc nồi cơm bị khê. Tất cả không ai nói một lời và cảm thấy như mình có lỗi với Bác. Trong lúc mọi người chưa biết xử lý thế nào thì Bác bảo: Chắc các chú đói rồi, cơm hơi khê, không việc gì, ta ăn thôi.

Bác nói với giọng dịu dàng, khoan dung, làm xua tan đi nỗi băn khoăn, lo lắng của mọi người. Nghe theo lời Bác, mọi người vui vẻ cùng ngồi vào bàn ăn.

Lúc đó tôi không nghĩ mình được vinh dự ngồi ăn cơm với Bác. Khi nghe anh Tư Tường bảo: “Bạch lên cùng ăn cơm với Bác”, tôi xúc động không nói nên lời. Ngoài tôi ra còn có Trung sĩ Bùi Văn Đào là lính tín hiệu.

Hôm ấy danh nghĩa là tàu mời cơm Bác nhưng cũng chỉ có món thịt gà luộc, lòng gà xào miến và nước luộc gà nấu miến làm canh. Còn bàn ăn thì kê ngay ở mạn phải đuôi tàu. Bác ngồi ở phía ngoài, sát với cọc lan can. Nhìn Bác vui vẻ ăn, chúng tôi mới đỡ lo. Lúc đang ăn, Bác gọi xuống bếp: Thức ăn của ta đã nấu xong chưa hả chú? Đồng chí phục vụ trả lời: Thưa Bác xong rồi ạ! Mang lên đây góp cùng ăn với Hải quân. Đồng chí phục vụ Bác bê lên một đĩa bốn con cá rô phi rán. Nhìn đĩa cá, Bác bảo: Ở giữa biển, Bác mời các chú ăn cá.

Sau này chúng tôi được biết bốn con cá rô phi là của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh biếu Bác, Bác dành cho bữa ăn với anh em ở tàu. Suy ngẫm về câu nói của Bác mới hay, phải chăng Bác muốn nhắc nhở sống ở khu vực có biển phải biết giăng lưới, thả câu bắt cá để cải thiện bữa ăn cho bộ đội. Ấn tượng sâu sắc nhất đối với anh em trên tàu về bữa ăn hôm đó là khi sẻ thức ăn cho từng người, Bác bảo: Các chú ăn cơm với Bác hoặc ăn cơm phải ăn hết thức ăn, không được để thừa, thừa đổ đi thì lãng phí, để người khác ăn thừa của mình thì không được.

(Theo Trần Bạch, trích trong "Kể chuyện về Bác")

123. Người lãnh đạo cần nắm vấn đề như thế nào?

Tháng 8-1960, tôi về nước và được giao nhiệm vụ Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, đầu năm 1963 làm Phó Ban Đối ngoại Trung ương Đảng. Mỗi lần đại biểu các Đảng bạn sang trao đổi kinh nghiệm với Đảng ta thường được Bác mời vào gặp. Mỗi lần như thế, tôi có nhiệm vụ vào gặp Bác trước khi khách đến độ 30 phút để báo cáo tình hình Đảng nước đó, kết quả và cảm tưởng của vị đại biểu về những ngày gặp các vị lãnh đạo Đảng ta. Mỗi năm, thường có hàng chục đoàn sang trao đổi kinh nghiệm với Đảng ta. Do trách nhiệm được giao, suốt tám năm (1961-1969) tôi được vào báo cáo nhiều lần với Bác. Các đồng chí giúp việc Bác thường cho tôi vào trước 30 phút, chờ có thể gặp trước giờ quy định hoặc đúng giờ quy định. Nếu báo cáo xong, còn thì giờ thì Bác thường hỏi chuyện về công tác, về tình hình trong nước và dư luận nhân dân về một sự kiện gì đó mới xảy ra. Mỗi lần như vậy tôi học tập được rất nhiều. Trong câu chuyện nhỏ này, tôi chỉ viết một số vấn đề cảm thấy bổ ích cho bạn đọc. Trước hết, Bác dạy “người lãnh đạo cần phải nắm vấn đề như thế nào?”.

Đầu năm 1963, lần đầu tôi vào báo cáo, chuẩn bị để Bác gặp một vị đại biểu Đảng bạn đến chào. Bác nhìn tập tài liệu dày 30 trang tôi cầm trong tay. Bác hỏi: Chú định gặp Bác bao nhiêu phút? Thưa Bác, 15 phút. 15 phút, chú không đọc xong tập báo cáo thì Bác còn thì giờ đâu để trao đổi? Chú gấp tài liệu lại, báo cáo trong một phút Bác nghe. Cũng may, tôi tự tay viết báo cáo nên chỉ phát biểu không đến một phút. Bác gật đầu: Chú nói ngắn như thế là được, nhiều chú giao cho cán bộ viết hộ rồi vào đọc như “thầy đọc”.

(Theo Song Tùng, trích trong "Búp sen xanh")

124. Những lần gặp Bác

Đầu năm 1962, tôi được về dự Hội nghị tổng kết phong trào “Trai gái Đại Phong” toàn miền Bắc tại Hà Nội. Khi toàn hội trường đứng lên đón khách thì bất ngờ tôi nhận ra Bác. Thế là tôi lại được gặp Bác. Chưa phải đợi đến mười năm sau, ngày Bác hẹn về thăm lại quê tôi mà tôi đã được gặp Bác! Đến giờ nghỉ, Bác bảo: Các cô, các chú đoàn Thanh Hóa đến Bác gặp. Anh em chúng tôi sung sướng hết chỗ nói. Khi đoàn Thanh Hóa tới, Bác nhận ngay ra tôi, Bác hỏi: Hợp tác xã cháu bây giờ làm ăn có khá không? Tôi đáp:

- Thưa Bác! Khá ạ, Bác khen: Tốt!

Một niềm vui sướng bất ngờ đến nữa là, riêng đoàn Thanh Hóa được Bác mời vào nơi ở và làm việc của Người. Bác lấy kẹo chia cho mỗi chúng tôi, Bác hỏi thăm hoàn cảnh từng người. Nghe xong, Bác bảo tôi: Cháu phải cố gắng lao động tích cực để nuôi mẹ, nuôi em. Mẹ khoẻ sau này mà nhờ. Các em lớn lên, sau này nó nuôi lại.

Tự nhiên nước mắt tôi ứa ra. Lúc ấy, tôi thấy Bác như một người ông hiền lành, giàu tình thương đang nói với tôi, một đứa cháu bé bỏng. Rồi Bác dẫn chúng tôi ra vườn của Bác ngắm hoa. Chỉ vào những bông hoa tươi thắm trong vườn, Bác bảo với chúng tôi: Đây là hoa thật cả đấy các cháu ạ. Ở quê các cháu còn nhiều người thích dùng hoa giấy lắm. Các cháu cố gắng trồng lấy hoa thật mà dùng.

Không nói ra nhưng có lẽ tất cả chúng tôi đều hiểu được Bác muốn nói điều gì qua câu ấy. Tất cả chúng tôi đều thưa với Bác: Thưa Bác! Chúng cháu sẽ trồng hoa thật ạ. Bác cười. Và cũng trong khoảnh khắc ấy, tôi kịp nhận ra, nước da Bác hồng hào hơn ngày về quê tôi.

(Theo Hoàng Thị An, trích trong "Bác Hồ với phụ nữ")

125. Những điều tôi biết về Bác Hồ

Bác thương yêu cán bộ rất chân thực, mộc mạc và xuất phát từ đáy lòng. Trong tám đồng chí: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi thì đồng chí Lợi là người dân tộc Nùng ở Cao Bằng. Anh bảo vệ Bác mấy năm thì xin Bác về với gia đình. Bác tiếc nhưng thông cảm với hoàn cảnh, biết lưu lại không được nên phải cho đồng chí Lợi về. Bác luôn luôn nhớ đồng chí Lợi. Hồi đó tôi công tác tại Cao Bằng. Hai lần được sang báo cáo công tác với Bác, Bác đều dặn tôi lên nói với địa phương thăm nom đồng chí Lợi, giúp đỡ khi ốm đau, kể cả đối với gia đình đồng chí.

Những lúc báo cáo công việc cũng chính là lúc được Bác giáo dục. Bác giao cho tôi và các đồng chí Tỉnh ủy Cao Bằng và Ủy ban Ngoại giao phải khéo giữ yên ổn vùng biên giới để khỏi bị bọn thân Pháp và phản động ở biên giới quấy rối ta trong lúc ta đang phải tập trung chống Pháp.        

Nói chung chúng tôi đã thực hiện được lời Bác dặn. Riêng tôi vì có quan hệ buôn bán với bọn cầm đầu trong chính quyền và quân đội ở biên giới nên quan hệ đôi bên cũng yên ổn. Có lần tôi về báo cáo ngắn gọn. Sau khi nghe xong Bác vui vẻ nhận xét rồi dặn thêm mấy điều mà đến nay tôi còn nhớ mãi. Bác dặn:

Bọn đặc vụ thân Pháp đang hoạt động ở biên để tìm hiểu tình hình của ta và phá hoại ta. Khi sang giao thiệp cái gì đáng nói hãy nói, cái gì không đáng nói thì đừng nói. Ngay trong gia đình cũng có những việc không nên nói cho bên ngoài biết. Chú đừng thật thà quá. Đi với Phật phải mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Các chú giữ yên biên giới như thế là tốt, nhưng thành ngữ có câu: "Cư yên tư nguy, cư trị bất vong loạn". Chú có hiểu hai câu đó không?

- Thưa Bác có ạ.

Bác cười. Thế là tôi lại khoác balô từ giã Bác để đi Cao Bằng. Khi đi đường, tôi suy nghĩ thấy Bác thật là một bậc túc nho. Bác thuộc các thành ngữ Hán rất nhiều, sử dụng rất nhuần nhuyễn và mỗi khi dùng thành ngữ là một lần Bác giáo dục cán bộ, để cho cán bộ trưỏng thành mà không cần nói dài.

(Theo Nguyễn Đức Thụy, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

126. Suốt đời tôi không bao giờ quên

Năm 1946

Một hôm tôi được anh Nguyễn Đình Thi đến báo tin vui khá bất ngờ:

- Để chuẩn bị cho cuộc triển lãm sắp tới, Hội cử chị và hai anh Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung nặn tượng và vẽ chân dung Bác. Chúng tôi đã đề nghị và được Bác đồng ý rồi. Chị chuẩn bị nhé.

Nghe anh Thi nói, tôi bàng hoàng sung sướng. Mình được vinh dự lớn lao thế kia ư? Suốt từ lúc nghe tin, tôi cứ hồi hộp chờ được cho gặp Bác. Tôi luôn luôn tưởng tượng đến việc làm sắp tới của mình với sự náo nức và lo lắng. Chúng tôi chuẩn bị sẵn sàng mà tới hôm được gọi vào gặp Bác tôi vẫn cảm động đến lặng người đi trong giây phút. Anh Cung vẫn lúng túng với đôi dép đứt quai và phải mượn dây lưng để ăn mặc gọn gàng hơn. Chúng tôi được biết Bác rất giản dị nhưng vào gặp Bác, phải ăn mặc cho đàng hoàng, sạch sẽ. Lúc này hoàn cảnh đất nước đang đứng trước những khó khăn rất lớn. Thù trong giặc ngoài. Các đảng phái phản động chỉ rình thời cơ hòng bóp chết nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa tròn một tuổi.

Hàng ngày, Bác Hồ phải giải quyết biết bao công việc phức tạp bề bộn vậy mà vẫn dành cho chúng tôi thời gian làm việc ngay tại Bắc Bộ phủ. Khi ngồi đợi Bác ở phòng khách, mắt tôi vẫn chú ý nhìn ra cửa - cánh cửa phòng khách chỉ che một đoạn giữa nên trông thấy chân người đi ở ngoài. Thoáng thấy đôi giày vải lướt qua và ngay sau đó có người gọi chúng tôi sang phòng làm việc của Bác. Bác bắt tay và hỏi về cách làm việc. Chúng tôi trình bày ý định của mỗi người và xin phép Bác cho làm việc một thời gian. Bác hỏi:

- Một thời gian là bao nhiêu ngày? Chúng tôi dè dặt đáp:

- Thưa Bác, mười ngày ạ!

Bác đồng ý cho chúng tôi làm việc vào giờ Bác đọc báo hàng ngày - từ 6 giờ đến 8 giờ sáng. Bác cười vui vẻ hỏi chúng tôi:

- "Mẫu" phải ngồi như thế nào đây? Chúng tôi đề nghị Bác cứ ngồi đọc báo như thường vì chúng tôi muốn nặn tượng và vẽ Bác đang ngồi làm việc. Như vậy, Bác vẫn làm được việc và thoải mái tự nhiên hơn. Anh Cung, anh Vân thay nhau chạy quanh Bác để chọn các dáng ngồi. Còn  tôi, tôi đứng phía trước mặt Bác. Đồ dùng của tôi là giá nặn tượng, hòm gỗ thông đựng đất sét và dao, vừa nặng vừa lỉnh kỉnh. Thấy phòng làm việc của Bác quá sạch sẽ, tôi hơi lúng túng, Bác biết ý, cho người kiếm một chiếc chiếu "để cô Kim đặt giá và hòm đất", Bác bảo tôi:

- Lúc nào làm việc cũng phải mang đủ các thứ này à? Thế ra làm công tác văn nghệ cũng nặng nhọc vất vả nhỉ? Bác ung dung ngồi đọc báo. Trên chiếc bàn của Bác đặt hàng chồng báo đủ các loại, trong nước, nước ngoài. Tuy vậy, Bác cũng rất chú ý đến công việc của chúng tôi. Bàn làm việc của Bác kê thẳng để thích hợp với bố cục và ánh sáng, chúng tôi muốn kê chéo đi nhưng cứ ngần ngại. Bác hiểu ý, hỏi:

- Các chú và cô cần gì? Được Bác hỏi, chúng tôi mới dám nói. Bác bảo:

- Các chú và cô cần kê như thế nào để làm việc được tốt hơn thì cứ kê. Các anh Vân, Cung trong khi vẽ cần đo bằng thước và đứng xa mà ngắm. Công việc của tôi phải đo bằng com-pa mà phải đo trực tiếp vào khuôn mặt, mắt, mũi và râu của Bác và phải đo luôn. Không đo, nặn tượng không chính xác. Bác tinh ý bảo tôi:

- Cô cần đo cứ đo, đừng ngại. Không đo, làm không đúng thì hỏng việc.

Đứng trước Bác tôi vừa vui vừa sợ. Vui vì thấy Bác gần gũi, thân thiết quá. Sợ không biết mình có đủ sức để miêu tả được phần nào cái vĩ đại của Bác qua bức tượng sắp làm?

Một ngày được làm việc cạnh Bác hai giờ, tôi thấy thời gian trôi nhanh quá. Bấy giờ đã là đầu tháng 5 năm 1946. Bác sắp lên đường sang Pháp dự Hội nghị Phông-ten-nơ-blô với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp.

Trong những ngày làm việc, thỉnh thoảng Bác lại cho anh Cung, anh Vân mấy điếu thuốc lá thơm. Bác mỉm cười nhìn hai anh rồi đưa cho tôi mấy chiếc kẹo:

- Cô Kim không biết hút thuốc thì Bác cho ăn kẹo. Một hôm thấy anh Cung cứ nghẹn cổ, liếc mắt nhìn lên bàn, Bác cười bảo:

- Hôm nay hết thuốc rồi! Ngày nào cũng vậy, cứ đúng tám giờ là Bác xếp báo và chúng tôi cũng thu dọn đồ đạc. Một buổi đã hơn tám giờ mà Bác vẫn đọc báo. Chúng tôi nháy nhau làm "tranh thủ". Đến tám rưỡi, Bác nhìn đồng hồ rồi vui vẻ bảo chúng tôi:

- Hôm nay "mẫu" làm thêm giờ, phải có bồi dưỡng đấy nhé! Chúng tôi cười xin lỗi:

- Thưa Bác, tại chúng cháu thấy Bác vẫn làm việc. Trước khi chúng tôi ra về, ngày nào Bác cũng lại xem tượng, xem tranh, Bác bảo tôi:

- Này, hai tai của Bác không đều nhau đâu. Bộ râu này thế mà khó nặn đấy nhỉ? Rồi Bác lấy ngón tay vẽ một đường trên trán bức tượng, ý muốn bảo tôi: Trán Bác có một đường gân nổi lên. Tôi xin Bác cho ý kiến, Bác cười, lát sau Bác nói:

- Cô làm, giống hay không thì cô phải biết chứ?

Làm việc bên Bác chúng tôi thấy thật thoải mái. Tượng tôi nặn chưa xong đã đến lễ sinh nhật Bác. Tối hôm ấy chúng tôi cũng được đến chúc mừng Bác cùng với Đoàn đại biểu của Hội Văn hóa cứu quốc. Các cơ quan và đoàn thể khác cũng đến rất đông. Sáng hôm sau, vừa vào phòng làm việc, Bác đã nói:

- Hôm qua, Bác cũng trông thấy cô và hai chú đến chúc Bác. Đông quá, Bác không tiếp chuyện được. Bác để phần bánh cho cô và hai chú đây, ra ăn đi đã.

Thường ngày, chúng tôi làm việc từ sáu giờ nhưng thường đến trước mười hay mười lăm phút và ngồi chờ ở phòng khách. Khi nào thấy đôi giày vải lướt qua, biết là Bác, chúng tôi sang ngay phòng làm việc. Một hôm ngồi đến sáu giờ rưỡi vẫn không thấy đôi giày vải đi qua, chỉ thấy đôi dép cói đi đi lại lại. Chúng tôi băn khoăn hay là Bác mệt. Vừa lúc đó, một đồng chí vào gọi chúng tôi sang kẻo Bác ngồi đợi lâu rồi. Chúng tôi vội vàng sang phòng làm việc. Bác hỏi ngay:

- Sao hôm nay các chú và cô đến muộn thế?

Chúng tôi thưa với Bác vì không thấy đôi giày vải của Bác đi qua, Bác cười:

- Thế là không biện chứng tí nào. Bác có thể đi giày khác chứ. Rồi Bác bảo:

- Hôm nay đau chân nên Bác phải đi dép.

Và từ hôm ấy, hôm nào Bác cũng đi dép. Chúng tôi được làm việc với Bác quá cả hạn mười ngày, mãi tới ngày Bác đi dự Hội nghị Phông-ten-nơ-blô mới thôi.

Những ngày được làm việc bên Bác là những ngày làm việc lịch sử ghi lại những ấn tượng sâu sắc trong đời tôi. Trong chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, vợ chồng tôi và hai cháu gái phải đi hết nơi này đến nơi khác. Tôi sẵn sàng làm mọi việc từ trang trí sân khấu, hóa trang, nhắc vở cho đoàn kịch Giải phóng do chồng tôi - anh Phạm Văn Đôn - làm Trưởng đoàn.

Một lần, vào khoảng năm 1951, anh Hoài Thanh đi công tác vào Khu IV, rẽ đến chỗ tôi đang công tác. Anh cho tôi một ít giấy vẽ và bảo: "Bác vẫn nhắc đến chị đấy". Anh kể thêm: "Một hôm, tôi được gặp Bác, Bác hỏi: "Cô Kim dạo này có còn vẽ, còn nặn tượng không?". Được nghe Bác nhắc đến mình, tôi sung sướng đến chảy nước mắt. Và bỗng dưng những vướng mắc, băn khoăn trong bước đường công tác tan biến đi đâu mất, chỉ còn lại trong lòng một niềm hân hoan náo nức, muốn làm được nhiều việc cho cách mạng, cho kháng chiến. Bức tượng bán thân của Bác tôi sáng tác hồi 1946, hiện đang bày ở Viện Bảo tàng Cách mạng.

Trước khi rút khỏi Hà Nội, chúng tôi giấu bức tượng Bác vào bệ thờ ngôi nhà thờ tổ tiên. Sau ngày giải phóng Thủ đô, chúng tôi mới phá bệ thờ lấy ra. Đó là kỷ niệm thiêng liêng về Bác.

Năm 1952 ở chiến khu Thái Nguyên, tôi làm một bức tượng đắp nổi Bác Hồ. Năm 1970 và 1971 tôi sáng tác hai tượng bán thân của Bác, trong đó có một bức "Bác Hồ năm 1930". Một bức nhớ lại dáng Bác đang ngồi làm việc: Một tay cầm bút viết, một tay chặn lên tờ báo, trên hai ngón tay vẫn kẹp điếu thuốc hút dở. Năm 1972, tôi đã phác thảo lần thứ hai bức tượng toàn thân về Bác, cao hai mét. Mỗi lần đứng trước phác thảo, tôi bồi hồi nhớ lại những lần được gặp Bác. Bác hồi đầu cách mạng râu tóc còn đen, mắt sáng như hai ngôi sao.

Thời kỳ sau hòa bình 1954, mắt Bác vẫn sáng nhưng tóc đã nhiều sợi bạc. Trong cuộc triển lãm mỹ thuật toàn quốc 1957, tôi được vinh dự giới thiệu tranh với Bác. Vừa trông thấy tôi, Bác đã hỏi ngay:

- À, cô Kim. Thế nào, dạo này cô vẫn còn phải "đo đo" (Bác giơ tay phác một cử chỉ) đấy chứ?

Ôi chao, Bác bận trăm công nghìn việc mà vẫn còn nhớ được tôi. Sự quan tâm của Bác đối với văn nghệ sĩ thật là sâu sắc. Tôi chỉ còn biết tự nhắc nhủ mình phải phấn đấu, phải để hết tâm trí vào nghệ thuật, dùng nghệ thuật của mình phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.

Đến nay, nhiều người xem bức tượng Bác đều bảo Bác hơi gầy. Đúng, Bác hơi gầy. Tôi rất thích bức tượng ấy vì tôi nghĩ: Ngày ấy Bác mới ở chiến khu về, bao nhiêu năm chiến đấu không mệt mỏi, hết nhà tù này sang nhà lao khác. Cách mạng thành công rồi nhưng đất nước còn biết bao khó khăn. Bác làm gì có thì giờ nghỉ ngơi. Có lúc nào đầu óc Bác được thảnh thơi. Mấy chục năm đi theo cách mạng, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và hiện nay đang xây dựng, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, con người nghệ sĩ của tôi được rèn luyện, thử thách và lớn lên rất nhiều. Tuy nhiên cũng có lúc những khó khăn, vướng mắc đã day dứt tôi. Song mỗi lần như thế, cứ nghĩ đến sự quan tâm của Bác, cứ nghĩ đến câu nói: "Thế ra làm công tác văn nghệ cũng nặng nhọc, vất vả nhỉ" là tôi thấy như Bác thông cảm, động viên mình và phấn đấu vượt qua. Đến tận bây giờ câu nói của Bác vẫn luôn vang vọng. Suốt đời tôi không bao giờ quên.

(Theo Nguyễn Thị Kim kể, trích trong "Bác Hồ với phụ nữ Hà Nội")

Tâm Trang (tổng hợp)


 127. Bác thăm bộ đội ở Bắc Giang

Trong lúc cả đơn vị đã chuẩn bị đủ lễ bộ long trọng để đón tiếp Bác, nào kèn đồng, trống, cờ, khẩu hiệu, bộ đội nai nịt gọn gàng, hàng ngũ chỉnh tề chờ đợi, thì Bác và những người cùng đi đã vào bằng cổng sau, nơi ngổn ngang chưa dọn dẹp và xuất hiện một cách bất ngờ làm mọi người choáng váng. Mọi kế hoạch dự tính trước đều bị đảo lộn. Bác rất thân mật đến bắt tay mọi người đang hớt hải chạy đến, và thoáng một nét cười, Bác hóm hỉnh bảo:

- Chú chỉ huy ở đây phòng thủ thế nào mà quân địch vào giữa doanh trại mới biết?

Mọi người đều cười.

Chương trình đón tiếp lại tiếp tục bị thay đổi. Bác chủ động từ chối việc vào phòng khách có bày biện nước nôi, hoa quả, mà đề nghị được đi thăm nơi ăn chốn ở của bộ đội, trước hết là đi xem nhà vệ sinh.

Đoàn quân tiếp đón có trống kèn lích kích chạy đến, Bác xua tay, vui vẻ bảo anh em cứ trở về chỗ cũ, Bác sẽ đến sau.

Bác hài lòng thấy nhà bếp gọn gàng, ngăn nắp, sang nhà ăn, Bác khen là thoáng mát và sạch sẽ, nhưng Bác hơi buồn khi thấy bàn ghế thiếu thốn, phải lấy mấy cánh cửa hạ xuống kê vào thành các cửa sổ làm bàn ăn. Và trên cánh cửa, ngoài đĩa cá khô có một nửa tàu chuối đựng đầy rau muống luộc. Cá là do bộ đội giúp dân tát ao, nên được biếu cá.

Bác thoáng một nét vui. Bác nói:

- Lao động giúp dân thế là tốt, lại có cá ăn. Này, các chú có ngửi thấy mùi thơm của cá kho không? Các chú kho cá với gì thế này? Khế à? Tốt! Gì nữa đây? À chuối xanh! Chú nào kho cá mà khéo thế Bác vỗ vai khen các đồng chí kho cá ngon, lại hỏi:

- Này các chú. Các chú có bao giờ ăn cá kho với quả sung chưa? Cũng ngon lắm. Bữa nào Bác thử xem.

Rồi Bác lại hỏi:

- Này các chú luộc rau mà không dùng nước rau à?

Bác hỏi thêm, mỗi bữa ăn, mỗi người ăn được mấy bát? Bác lại hay pha trò cho vui câu chuyện, chẳng hạn như đối với đồng chí nuôi quân là Thùng Văn Rùa, có cái bụng lớn mà ăn nhiều nên anh em đùa đổi họ Nguyễn thành họ Thùng (ăn khoẻ thùng bất chi thình), sau thành quen, Bác vui vẻ gọi lại gần, xoa bụng anh và nói vui: - Chú Rùa này là tốt bụng với anh em lắm đây! Tướng Thùng Văn Rùa mà cầm quân chống giặc đói thì chắc là gay go quyết liệt lắm nhỉ?

Nói chuyện với toàn quân, Bác khen vệ sinh, bếp ăn, nhưng Bác nhắc có mấy đống rác to ở sân sau, cần đốt đi cho sạch sân, chống muỗi lại có tro bón cho các luống rau, gốc chuối. Bác lại ôn tồn nhắc mọi người phải đọc nhanh viết thạo, hàng ngày chăm đọc báo, thể thao, ca hát, tăng gia và tập quân sự. Sau đó, Bác đề nghị tỉnh cho đơn vị ít tiền mua đĩa đựng rau, chậu đựng nước rau và những cái môi để múc, chan.

Tiễn Bác ra về, mọi người hô vang: ''Hồ Chủ tịch muôn năm''. Bác lại hóm hỉnh: ''Các chú hô ''Hồ Chủ tịch muốn nằm'' à? Không đâu. Bác còn phải đi, đi nhiều thăm nhiều đồng bào và chiến sĩ và còn hàng núi công việc phải làm. Hồ Chủ tịch chưa muốn nằm đâu!''.

(Theo Thiếu tướng Văn Giang, trong hồi ký ''Bác của chúng ta là như thế”)

128. Những năm tháng phục vụ Bác Hồ

Ðầu năm 1950, tôi vinh dự được phục vụ Bác Hồ tại chiến khu Việt Bắc. Hồi này Bác đang ở Khấu Lấu. Khi tôi đến anh Nguyễn Văn Dụng ra đón, đưa vào giới thiệu với Bác. Bác bắt tay thân mật và hỏi:

- Quê chú ở đâu?

- Thưa Bác, quê cháu ở Nghi Lộc ạ.

Nghe tôi trả lời, Bác đùa lại:

- Có phải Nghi Lộc cà có cuống, cà có đuôi không? Rồi Bác cười hiền lành bảo tôi:

- Chú vào cất ba-lô, nghỉ ngơi mai Bác giao công việc.

Lần đầu tiên được gặp Bác tôi cũng run. Song cái bắt tay thân mật và sự ân cần của Bác đã giúp tôi trấn tĩnh lại. Sự thay đổi trong công việc đem đến hạnh phúc lớn trong đời tôi. Tôi được đi theo Bác và phục vụ Bác Hồ từ năm đó.

Ở chiến khu, để bảo đảm bí mật và do yêu cầu của công tác kháng chiến Bác phải thay đổi chỗ ở luôn. Do đó phải làm nhà liên tục, tôi vốn là thợ mộc nên thời gian đầu ở Việt Bắc tôi được giao nhiệm vụ làm nhà cho Bác mỗi khi di chuyển đến chỗ ở mới.

Tháng 3 năm 1950, tôi được giao nhiệm vụ đi làm nhà cho Bác. Thường thì anh Kháng, anh Dụng tìm địa điểm, còn tôi và hai anh nữa đi làm nhà. Trước đây khi chưa có người biết làm nhà, các đồng chí phục vụ Bác chỉ dựng tạm tre nứa như một túp lều để ở. Sau này chúng tôi làm nhà cho Bác theo kiểu nhà sàn ở miền núi, không to nhưng phù hợp và vệ sinh tiện lợi. Nhà làm đơn sơ có hai buồng, một buồng để Bác làm việc và tiếp khách, còn một buồng để Bác nghỉ ngơi.

Những năm tháng kháng chiến, số người phục vụ, giúp việc Bác không nhiều, do đó ngoài việc dựng lán, làm nhà cho Bác tôi cũng như các anh em khác kiêm nhiệm nhiều việc. Khi di chuyển chỗ ở thì lo tìm địa điểm, lo làm nhà, buổi tối thì đi gác cùng anh em bảo vệ.

Thời gian ở Việt Bắc tôi đã làm nhà cho Bác ở các nơi sau: Tháng 5, tháng 6 năm 1951 làm nhà ở bản Vèn. Ðầu năm 1952 làm nhà ở Ðầm Hồng, Chiêm Hóa, Bản Thí, Tuyên Quang. Giữa năm 1952 làm nhà ở Ðèo Dát. Ðầu năm 1953 về Hồng Thái, làm nhà ở Hang Bòng. Sau đó đi Khuôn Mã. Một thời gian ở Vai Cày, Thái Nguyên. Dù là lán hay nhà chúng tôi đều làm đẹp, cẩn thận, do đó Bác rất ưng ý. Chúng tôi rất vui vì đã góp một phần nhỏ bé vào việc giúp cho Bác tạm an cư để lo sự nghiệp lớn của đất nước.

Kháng chiến chín năm thắng lợi, Bác từ chiến khu cách mạng về Hà Nội. Tôi cũng được theo Bác trở về. Trên đường về, Bác dừng lại ở Sơn Tây (thôn Phù Xa, xã Viên Sơn, thị xã Sơn Tây), sau về nhà thương Ðồn Thủy, rồi mới về Phủ Chủ tịch.

Về thủ đô Hà Nội, không phải lo làm nhà cho Bác nữa, tôi được giao nhiệm vụ phục vụ Bác. Nhiệm vụ của tôi là chăm lo việc ăn ngủ, tắm giặt, sinh hoạt... của Bác. Tuy Bác ăn uống đơn giản, sống tiết kiệm, giản dị song tôi luôn cố gắng làm thật tốt nhiệm vụ của mình, không để xảy ra sơ suất gì. Tôi luôn tâm niệm một điều: Sức khỏe của Bác là tài sản của dân tộc. Gánh nặng của công việc kháng chiến, xây dựng và bảo vệ đất nước còn đè nặng lên vai Người. Bác có khỏe mới có sức làm việc, có đủ minh mẫn và sáng suốt để giải quyết công việc trong lúc vận nước có lúc như ngàn cân treo sợi tóc.

Một ngày Bác ăn ba bữa chính, ba bữa phụ rất đơn giản. Mỗi bữa phụ của Bác chỉ là một cốc sữa.

Bữa ăn chính của Bác cũng giản dị, mỗi bữa thường có mấy miếng thịt, hoặc khúc cá và một bát canh rau. Bữa nào có thịt bò thì anh Cẩn thường làm bít tết cho Bác ăn.

Anh Cẩn làm nhiệm vụ nấu ăn, còn tôi sắp xếp mời Bác lên ăn. Bác ăn rất tiết kiệm. Một khúc cá liệu ăn một bữa không hết, Bác lấy dao xắt đôi, để lại một nửa cho bữa sau. Bác ăn ít nhưng điều độ. Thường thì hằng ngày Bác đi bộ sang nhà ăn để ăn cơm. Những hôm mưa to đường ngập nước Bác cũng xắn quần lội từ nhà sàn sang nhà ăn... Khi đi công tác các nơi Bác bảo chúng tôi chuẩn bị sẵn thức ăn từ nhà mang đi hoặc mang nồi đi tự nấu lấy để tiết kiệm, tránh các nơi khi đón Bác thường tổ chức ăn uống linh đình. Bác đã có lần nói đùa:

- Bác không ăn, vì không khéo dân lại nói rằng ông Chủ tịch nước về thăm làm thịt mất một con bò.

Bác mặc rất giản dị, tiết kiệm. Quần áo Bác mặc chỉ có vài bộ, may cùng kiểu. Sau khi may xong mang đi xí nghiệp Tô Châu nhuộm gụ hết. Khi Bác mặc, bộ nào hơi cũ chúng tôi thay bộ mới vào. Vì áo quần may cùng một kiểu, vải giống nhau nên lúc đầu Bác không nhận ra. Sau thấy quần áo mặc nhiều mà vẫn mới Bác sinh nghi. Bác bèn đánh dấu và phát hiện ra quần áo đã bị đổi, Bác phê bình và không đồng ý cho thay. Thế nên có cái áo của Bác rách vá đi vá lại, thay cổ mà Bác vẫn không cho đổi. Khổ người của tôi cao giống Bác, tôi thường đo theo người tôi về là Bác mặc vừa. Các đồ dùng khác của Bác thường là tôi đi mua.

Về chuyện quần áo của Bác về sau chúng tôi được nghe kể lại là Bác nói với một đồng chí lãnh đạo cao cấp của Ðảng một cách chân tình: "Này chú! Chủ tịch Ðảng, Chủ tịch nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc của dân đấy. Ðừng bỏ cái phúc ấy đi".

Việc sinh hoạt hằng ngày của Bác cũng rất nền nếp. Buổi sáng Bác dậy sớm, tập thể dục, đi những bài quyền đẹp mắt. Sau đó ăn sáng rồi Bác làm việc luôn. Bác làm việc đúng giờ, nên chúng tôi phục vụ cũng phải rất đúng giờ.

Buổi tối, anh Chước vào đọc báo, bản tin cho Bác nghe, thường 11 giờ Bác mới đi ngủ.

Buổi chiều Bác thường đi bách bộ trong vườn. Bác rất ít uống thuốc và rất ghét uống thuốc. Những hôm mệt Bác cố gắng luyện tập để át bệnh đi.

Dịp sinh nhật Bác, ngày Tết, Bác thường đi thăm các nơi. Bác tránh những ngày này sợ các nơi đến chúc tụng.

Khi tôi phục vụ Bác, Bác giao cho tôi quản lý tất cả các đồ dùng của Bác và quà Bác được tặng. Số quà được tặng Bác thường dùng để tặng các cụ già, gia đình bộ đội, các anh hùng, chiến sĩ thi đua và cháu ngoan Bác Hồ.

Mỗi buổi chiều, khi thấy chúng tôi tăng gia ở vườn, Bác thường ra xem. Có lần Bác cùng cuốc đất, trồng cây với chúng tôi. Khu vườn quanh nhà Bác ở chúng tôi trồng rau. Bác nói:

- Các chú trồng rau thì phải chăm cho tốt, kẻo khách của Bác qua lại đây cười cho đấy.

Hằng ngày, sau giờ làm việc để thư giãn Bác ra cầu ao ngồi cho cá ăn. Suất bánh mì của Bác, Bác thường bớt lại mang cho cá ăn. Sau thấy thế chúng tôi chế biến một loại thức ăn cho cá để sẵn đó, mỗi buổi chiều Bác lấy một ít rắc xuống ao cho cá ăn. Ðã thành thói quen, cứ đúng giờ nghe tiếng vỗ tay gọi đàn cá lại ngoi lên đớp mồi, trông thật vui mắt.

Ðối với anh em phục vụ, Bác rất quan tâm. Mỗi lần chúng tôi về thăm nhà lên, Bác thường hỏi thăm tình hình gia đình, vợ con sống thế nào. Chúng tôi vào phục vụ Bác liên tục không mấy khi được nghỉ. Do đó, mỗi khi Bác đi công tác xa, ngoài số anh em phải đi theo, Bác gọi số anh em còn lại đến dặn:

- Các chú tranh thủ về thăm nhà, nhưng nhớ đúng hẹn lên đón Bác.

Ðối với chúng tôi Bác còn dạy phải luôn luôn giữ bí mật. Bí mật là một nguyên tắc trong hoạt động cách mạng. Chúng tôi đã làm theo đúng lời Bác dặn. Mỗi lần họp Bộ Chính trị, tôi có nhiệm vụ mang nước lên. Tôi nghe được các đồng chí trong Bộ Chính trị bàn công tác. Nhất là trong những ngày chuẩn bị cho các chiến dịch lớn ở Nam Bộ. Tôi thấy các đồng chí trải bản đồ ra, chỉ đánh ở đâu, ở đâu... tôi nghe, biết nhưng không bao giờ nói chuyện với ai.

Cuộc đời của Bác là tấm gương sáng về đạo đức cần, kiệm, liêm, chính. Bác luôn dạy chúng tôi sống giản dị, tiết kiệm. Giản dị, tiết kiệm ngay cả ăn, mặc và sinh hoạt. Thấm nhuần lời dạy của Bác, chúng tôi luôn có phương châm: Sống giản dị, tiết kiệm. Sau này khi có điều kiện may được chiếc áo trắng lúc mặc tôi cũng thấy ngường ngượng, khó quen.

Sau thời gian Bác mất, các anh bên điện ảnh có ý mời tôi đóng một vài phim về Bác. Song tôi nghĩ mình không thể hoàn thành được nhiệm vụ này nên từ chối. Khi còn sống tôi được phục vụ bên Bác. Bác coi tôi như con. Nay Người mất đi tôi rất buồn. Tôi không thể đóng vai Bác được, dù tôi biết đó chỉ là phim.

Trong thời gian phục vụ Bác, chúng tôi đã học tập được ở Bác rất nhiều, đặc biệt học được ở Bác đức tính cần, kiệm, liêm, chính. Cuộc đời của Bác trong suốt như pha-lê. Chúng tôi tự soi mình vào cuộc đời Bác và nguyện sống theo gương Người.

(Theo Lê Văn Cần, cán bộ phục vụ Bác Hồ từ năm 1950 đến 1969

129. Những lời Bác dạy đầu tiên

Mùa Thu năm 1946, tôi và ba đồng chí nữa được vinh dự theo Bác về nước trên chiếc tàu Đuymông Đuếvin. Tàu này là một chiếc tàu chiến đã cũ, chạy lừ đừ chậm chạp. Lúc bấy giờ, tình hình ở trong nước đang căng thẳng ai nấy đều sốt ruột mong về sớm, nhưng giờ đây nghĩ lại, đối với chúng tôi, đó là một dịp may hiếm có để được kéo dài những ngày chung sống với Bác.

Trên chuyến xe lửa từ Pari đi Macxây, Bác nói:

- Nước ta còn nghèo vì 80 năm bị đế quốc bóc lột, chiếm đóng. Đồng bào Nam bộ giờ đây còn đổ máu. Chúng ta còn gian khổ chiến đấu nhiều chứ chưa được sung sướng ngay đâu. Các chú về nước chính là để phục vụ Tổ quốc, phục vụ đồng bào…

Lên tàu rồi, một hôm Bác dặn:

- Ở nhà không có gì đâu. Nước ta thiếu máy móc, nguyên liệu, thiếu cả thợ lành nghề, tiền của ta lại ít. Song nước ta giàu về rừng núi, sông biển, đồng bào ta giàu về quyết tâm, dũng cảm và sáng tạo. Các chú về phải chịu thương, chịu khó làm ăn, đưa những cái đã học ở nước ngoài về áp dụng thiết thực vào trong nước, giúp đỡ và hướng dẫn anh em trong nước cùng làm.

Tôi còn nhớ lúc đi tàu, thỉnh thoảng có những hôm tên đại tá chỉ huy tàu tổ chức tập trận giữa biển cả mênh mông, tiếng súng đại bác, súng máy các loại thi nhau gầm thét, khói mịt mù, nước biển tung tóe ngoài khơi. Trong chúng tôi, thoạt tiên cũng có người hồi hộp, nhưng riêng Bác vẫn điềm nhiên, ung dung hút thuốc lá, đứng xem. Bác mỉm cười bảo chúng tôi:

- Đấy, người ta thử kiểm tra tinh thần của các chú. Các chú có sợ không?

Nhân đó, Bác chỉ cho chúng tôi thấy bọn đế quốc thường hay phô trương, khoe khoang về sức mạnh vật chất, còn nhân dân cách mạng tuy nghèo nhưng hàng triệu người đoàn kết thành một khối, có tinh thần dũng cảm và mưu trí, nhất định đánh bại được bọn chúng…

Tại Đại hội liên hoan Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, tôi được Bác khen…

Vinh dự đó thuộc về anh em ngành quân giới trong đó tôi nhờ sự chỉ bảo, dẫn dắt của Bác đã đóng góp một phần.

Những lời dạy của Bác như bức cẩm nang quyết định mọi thắng lợi trong công tác của tôi.

(Theo Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa)

130. Một lần được gặp Bác Hồ

Bữa cơm đêm hôm ấy, chúng tôi cùng ăn chung. Bác Hồ bảo không nên dùng nghi lễ, hãy để tất cả các đĩa thức ăn trên bàn không cần phải đưa từng đĩa một. Bác nói: “Cái gì tôi thích thì tôi lấy, cái gì anh thích thì anh lấy, như ở nhà mình”.

Bác Tukimin có nhiệm vụ xem xét, phục vụ lúc ăn uống cũng được Người kéo vào và bảo ngồi cùng ăn.

Ăn xong, đột nhiên Bác Hồ yêu cầu tôi đưa Người đi dạo phố mà không cần bảo vệ. Tôi được bỏ quân phục và tất cả phù hiệu.

Tất nhiên là tôi ngạc nhiên và tự hỏi: Tại sao Người lại tin cậy chúng tôi, những người mà Người chưa hề quen biết đến như thế?

Tôi nghĩ: Chắc là vì Người rất tin tưởng vào bản thân mình. Nhưng tôi cũng cảm thấy sung sướng khi được Bác Hồ tin cậy. Đúng là khi được nhận trách nhiệm và được tin cậy thì ai cũng rất sung sướng.

Chúng tôi đưa Bác Hồ đi xem những cái tốt đẹp của thành phố Giacácta, và chúng tôi cũng không thấy thẹn khi đưa Người đi xem những cái chưa tốt, vì tôi nghĩ phải chăng Người là một nhà cách mạng, một chiến sĩ, tất biết rõ việc xây dựng phải khó khăn biết bao nhiêu, tất biết rõ nhân dân và yêu cầu của nhân dân.

Lúc nhìn sông Gilirung, tôi xấu hổ khi thấy nhân dân tắm ở đấy, và giặt quần áo cũng ở đấy. Trong thâm tâm tôi chỉ muốn cho vị khách quý xem những cái tốt đẹp, nhưng lại gặp những sự thật đắng cay.

Hình như Người đoán được điều tôi đang suy nghĩ, Người liền nói: “Thay đổi tình hình và xây dựng quả không thực hiện được trong thời gian ngắn, không thể thay đổi tình hình trong một đêm như làm ảo thuật. Cần phải có tính nhẫn nại cách mạng. Miễn là chúng ta không quên rằng cách mạng không chỉ để giành độc lập chính trị mà còn phải nhằm mục đích và phải thu kết quả cho đời sống nhân dân. Nhân dân phải được ăn nhiều hơn, mặc đẹp hơn, sống hạnh phúc hơn. Nếu không, thì cách mạng không có ích gì”.

Đêm hôm ấy, một đêm đầy sao, tôi nói chuyện với vị lão thành ấy về chiến tranh du kích, về sự dã man của quân thù, quyết tâm và hy sinh của nhân dân, hoài bảo và lý tưởng chung của chúng tôi.

Đêm hôm ấy, ranh giới hai hàng rào ngăn cách đều bị xóa hết đối với tôi. Tôi không còn cảm thấy Người là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người Việt Nam nữa, mà chỉ như một chiến sĩ giản dị có thể xem như một người Cha, một người chỉ huy và một người bạn, không còn là một người nước ngoài nữa.

Quả là những lý tưởng có thể đạt tới một xã hội công bằng và phồn vinh có thể thắt chặt lòng người này với người khác. Chủng tộc hay dân tộc không quan trọng, điều quan trọng là những lý tưởng. Bây giờ, tôi mới hiểu tại sao trong những ngày sau đó, Bung Cácnô và Bác Hồ lại có mối quan hệ với nhau chặt chẽ, thoải mái và thân thiết đến thế.

Đêm chia tay ở Mê Đăng, tôi và bạn tôi được gọi lại, Người nói: “Tôi cảm ơn tất cả các bạn, vì nhờ tất cả các bạn mà cuộc đi thăm của tôi thành công. Tôi thực sự cảm thấy như giữa anh em trong nhà; mong rằng cuộc đấu tranh của các bạn thành công. Để làm kỷ niệm, tôi tặng các bạn những vật này: Một tấm hình và Huy hiệu chiến dịch Điện Biên Phủ, không phải mọi người đều được Huy hiệu này, mà chỉ những người thực sự tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ mới có”.

Tôi đáp lại với Người rằng bảo vệ và phục vụ Người đối với chúng tôi là một vinh dự, tôi đã học được nhiều. Tôi đã học được rằng: Người ta phải làm, phải nghĩ và phải sống như thế nào để được xứng đáng là người lãnh đạo. Những điều tôi thu nhập được là rất quý báu.

Tôi là vệ sĩ của Bác Hồ, nhưng ngược lại chắc rằng Bác Hồ là người che chở tôi, nếu như có xảy ra chuyện gì.

(Trung tá Xuhácgiơ, trích trong “120 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

Tâm Trang (tổng hợp)


 131. Tấm lòng của Bác và câu chuyện về chiếc tàu phá thủy lôi mang biệt hiệu T5

Năm 1965, ông (Phan Trọng Tuệ, nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải) làm Chính ủy kiêm Tư lệnh đường mòn Hồ Chí Minh. Một hôm đồng chí Vũ Kỳ gặp ông và nói xem có phim tư liệu gì mới về cuộc sống, chiến đấu và lao động của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân đem vào chiếu cho Bác xem.

Ông về lựa chọn và đưa cuốn phim về giao thông vận tải, quay từ Hà Nội vào đến Vinh cho Bác xem. Bộ phim ông mang vào chiếu cho Bác xem, có cảnh phá thủy lôi bằng kích thích. Cho ca nô chạy nhanh qua bãi thủy lôi. Thủy thủ lái ca nô mặc áo bảo vệ kèm phao bơi. Bác xem rất chăm chú sau đó Người hỏi: Mặc như thế kia thì cử động thế nào, ca nô chạy như thế liệu có đảm bảo an toàn cho chiến sĩ? Tiếp đó Bác nói luôn các chú lái ca nô thật dũng cảm, nhưng phải nghĩ xem có phương pháp nào điều khiển ca nô chạy tự động qua bãi thủy lôi, chứ làm như thế này nguy hiểm cho tính mạng của các chiến sĩ.

Ông đã suy nghĩ rất nhiều về lời gợi ý của Bác. Sau đó ông cho họp Hội đồng kỹ thuật, báo cáo lại ý kiến của Bác. Mọi người đều rất tán thành và đề nghị thiết kế tàu không người lái, điều khiển từ xa.

Sau đó một loại tàu mới có biệt hiệu là T5 ra đời, có người điều khiển từ xa để phá thủy lôi. Đó là do bao công sức đóng góp của các anh em làm công tác kỹ thuật sáng chế.

Khi chiếc tàu này mới được chế tạo, đã mang lên Hồ Tây chạy thử. Lần chạy thử đó có mời đồng chí Tố Hữu đến xem. Nhờ chiếc tàu đó mà ta đã phá được rất nhiều thủy lôi, đảm bảo giao thông đường thủy thông suốt, lại không nguy hiểm đến tính mạng cho các chiến sĩ.

Lời phát biểu của Bác đã tác động đến anh em kỹ thuật, giúp họ suy nghĩ, phát huy sáng kiến và chế tạo ra chiếc tàu mang biệt hiệu T5.

Chiếc tàu mang biệt hiệu T5 hiện nay đang được trưng bày tại Bảo tàng Hải quân Việt Nam. Đó không chỉ là hiện vật quý trong cuộc kháng chiến chống Mỹ oanh liệt của nhân dân ta, mà còn là minh chứng cho tấm lòng thương yêu cán bộ, chiến sĩ của Bác Hồ. Trước bất cứ một công việc gì, Bác đều suy nghĩ làm thế nào cho tốt nhất, không ảnh hưởng đến tính mạng, của cải, tài sản của nhân dân.

(Theo ông Phan Trọng Tuệ, nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, trích trong “Kể chuyện về Bác”)

132. Bác hát bài anh hùng xưa nay

... Một buổi chiều chụp ảnh. Trong ảnh rõ ràng hai thế hệ. Các cụ ngồi ngay ngắn. Đằng sau là các Bộ trưởng, mỗi người một vẻ.

Chụp xong Cụ Hồ nắm lấy cánh tay tôi:

- Tối hôm nay cụ tổ chức lửa trại nhé.

Mấy ông già với mấy ông trẻ đầy lo nghĩ, lửa trại vui được khó quá.

- Cứ vui đấy!

Bỗng một ý nghĩ thoáng qua, tôi thưa:

- Cụ lệnh tổ chức, tôi xin làm. Nhưng thưa Cụ, ở lửa trại thì người giữ lửa có quyền to lắm, ai cũng phải nghe đấy.

- Nhất định thế!

Bọn chúng tôi vẫn có cái thói cứ hay “chọc” Cụ một cách kính mến, không dám làm Cụ bí, vì Cụ có bí bao giờ đâu, nhưng để xem Cụ đối phó thế nào, rồi ngồi cười cùng nhau, lý thú về cách trả lời của Cụ, Cụ cũng hiểu thế và mỉm cười.

Mọi người đã ngồi quanh đống lửa. Tôi châm lửa và tuyên bố:

- Thi hành quyền lực của trùm trại, tôi đề nghị Cụ Chủ tịch hát mở đầu cuộc vui.

Mọi người nhìn cả về phía Cụ. Cụ nhẹ nhàng đứng dậy, vừa đi quanh vừa hát bài hát hướng đạo về Đinh Bộ Lĩnh:

Anh hùng xưa nhớ hồi là hồi niên thiếu

Dấy binh lấy lau làm cờ.

Quên mình là mình giúp nước...

Già trẻ ai nấy con mắt long lanh, nhìn âu yếm Cụ Chủ tịch của mình, mà như thế là cuộc lửa trại vui lên.

(Trích trong “117 câu chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

133. Đồng chí Lê Văn Cần và những kỷ niệm với Bác Hồ

Đầu năm 1950, tôi vinh dự được phục vụ Bác Hồ tại Chiến khu Việt Bắc. Lúc đó, Bác đang ở Khấu Lấu. Khi tôi đến, anh Nguyễn Văn Dụng ra đón, đưa vào giới thiệu với Bác. Bác bắt tay thân mật và hỏi:

- Quê chú ở đâu?

- Thưa Bác, quê cháu ở Nghi Lộc ạ.

Nghe tôi trả lời, Bác đùa lại:

- Có phải Nghi Lộc cà có cuống, cà có đuôi không? Rồi Bác cười hiền lành bảo tôi:

- Chú vào cất ba lô, nghỉ ngơi mai Bác giao công việc.

Lần đầu tiên được gặp Bác tôi cũng run. Song cái bắt tay thân mật và sự ân cần của Bác đã giúp tôi trấn tĩnh lại. Sự thay đổi trong công việc đem đến hạnh phúc lớn trong đời tôi. Tôi được đi theo Bác và phục vụ Bác Hồ từ năm đó.

Ở chiến khu, để đảm bảo bí mật và do yêu cầu của công tác kháng chiến Bác phải thay đổi chỗ ở luôn. Do đó phải làm nhà liên tục, tôi vốn là thợ mộc nên thời gian đầu ở Việt Bắc tôi được giao nhiệm vụ làm nhà cho Bác mỗi khi di chuyển đến chỗ ở mới.

Tháng 3-1950, tôi được giao nhiệm vụ đi làm nhà cho Bác. Thường thì anh Kháng, anh Dụng tìm địa điểm, còn tôi và hai anh nữa đi làm nhà. Trước đây khi chưa có người biết làm nhà, các đồng chí phục vụ Bác chỉ dựng tạm che nứa như một túp lều để ở. Sau này, chúng tôi làm nhà cho Bác theo kiểu nhà sàn ở miền núi, không to nhưng phù hợp và vệ sinh tiện lợi. Nhà làm đơn sơ có hai buồng, một buồng để Bác làm việc và tiếp khách, còn một buồng để Bác nghỉ ngơi.

Những năm tháng kháng chiến, số người phục vụ, giúp việc Bác không nhiều, do đó ngoài việc dựng lán, làm nhà cho Bác, tôi cũng như các anh em khác kiêm nhiệm nhiều việc. Khi di chuyển chỗ ở thì lo tìm địa điểm, lo làm nhà, buổi tối thì đi gác cùng anh em bảo vệ.

Thời gian ở Việt Bắc, tôi đã làm nhà cho Bác ở các nơi sau: Tháng 5, tháng 6-1951 làm nhà ở bản Vèn. Đầu năm 1952 làm nhà ở Đầm Hồng, Chiêm Hóa, Bản Thí, Tuyên Quang. Giữa năm 1952 làm nhà ở Đèo Dát. Đầu năm 1953 về Hồng Thái, làm nhà ở Hang Bòng. Sau đó đi Khuôn Mã. Một thời gian ở Vai Cày, Thái Nguyên. Dù là lán hay nhà chúng tôi đều làm đẹp, cẩn thận, do đó Bác rất ưng ý.

 Chúng tôi rất vui vì đã góp một phần nhỏ bé vào việc giúp cho Bác tạm an cư để lo sự nghiệp lớn của đất nước.

Kháng chiến chín năm thắng lợi, Bác từ chiến khu cách mạng về Hà Nội. Tôi cũng theo Bác trở về. Trên đường về, Bác dừng lại ở Sơn Tây (thôn Phù Xa, xã Viên Sơn, thị xã Sơn Tây), sau về Nhà thương Đồn Thủy, rồi mới về Phủ Chủ tịch.

Về Thủ đô Hà Nội, không phải lo làm nhà cho Bác nữa, tôi được giao nhiệm vụ phục vụ Bác. Nhiệm vụ của tôi là chăm lo việc ăn ngủ, tắm giặt, sinh hoạt… của Bác. Tuy Bác ăn uống đơn giản, sống tiết kiệm, giản dị song tôi luôn cố gắng làm thật tốt nhiệm vụ của mình, không để xảy ra sơ suất gì. Tôi luôn tâm niệm một điều: Sức khẻo của Bác là tài sản của dân tộc. Gánh nặng của công việc kháng chiến, xây dựng và bảo vệ đất nước còn đè nặng lên vai Người. Bác có khỏe mới có sức làm việc, có đủ minh mẫn và sáng suốt để giải quyết công việc trong lúc vận nước có lúc như ngàn cân treo sợi tóc.

Một ngày Bác ăn ba bữa chính, ba bữa phụ rất đơn giản. Mỗi bữa phụ của Bác chỉ là một cốc sữa.

Bữa ăn chính của Bác cũng giản dị, mỗi bữa thường có mấy miếng thịt, hoặc khúc cá và một bát canh rau. Bữa nào có thịt bò thì anh Cẩn thường làm bít tết cho Bác ăn.

Anh Cẩn làm nhiệm vụ nấu ăn, còn tôi sắp xếp mời Bác lên ăn. Bác ăn rất tiết kiệm. Một khúc cá liệu ăn một bữa không hết, Bác lấy dao xắt đôi, để lại một nửa cho bữa sau. Bác ăn ít như điều độ. Thường thì hàng ngày Bác đi bộ sang nhà ăn để ăn cơm. Những hôm mưa to đường ngập nước Bác cũng xắn quần lội từ nhà sàn sang nhà ăn… Khi đi công tác các nơi Bác bảo chúng tôi chuẩn bị sẵn thức ăn từ nhà mang đi hoặc mang nồi đi tự nấu lấy để tiết kiệm, tránh các nơi khi đón Bác thường tổ chức ăn uống linh đình. Bác đã có lần nói đùa:

- Bác không ăn, vì không khéo dân lại nói rằng ông Chủ tịch nước về thăm làm thịt mất một con bò.

Bác mặc rất giản dị, tiết kiệm. Quần áo Bác mặc chỉ có vài bộ, may cùng kiểu. Sau khi may xong mang đi xí nghiệp Tô Châu nhuộm gụ hết. Khi Bác mặc, bộ nào hơi cũ chúng tôi thay bộ mới vào. Vì quần áo may cùng một kiểu, vải giống nhau nên lúc đầu Bác không nhận ra. Sau thấy quần áo mặc nhiều mà vẫn mới Bác sinh nghi. Bác bèn đánh dấu và phát hiện quần áo đã bị đổi, Bác phê bình và không đồng ý cho thay. Thế nên có cái áo của Bác rách vá đi vá lại, thay cổ mà Bác vẫn không cho đổi. Khổ người của tôi cao giống Bác, tôi thường đo theo người tôi về là Bác mặc vừa. Các đồ dùng khác của Bác thường là tôi đi mua.

Về chuyện quần áo của Bác, về sau chúng tôi được nghe kể lại là Bác nói với một đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng một cách chân tình: “Này chú! Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”.

Việc sinh hoạt hàng ngày của Bác cũng rất nền nếp. Buổi sáng, Bác dậy sớm, tập thể dục, đi những bài quyền đẹp mắt. Sau đó, Bác ăn sáng rồi làm việc luôn. Bác làm việc đúng giờ, nên chúng tôi phục vụ cũng phải rất đúng giờ.

Buổi chiều Bác thường đi bách bộ trong vườn. Bác rất ít uống thuốc và rất ghét uống thuốc. Những hôm mệt Bác cố gắng luyện tập để át bệnh đi.

Buổi tối, anh Chước vào đọc báo, bản tin cho Bác nghe, thường 11 giờ Bác mới đi ngủ.

Dịp sinh nhật Bác, ngày Tết, Bác thường đi thăm các nơi. Bác tránh những ngày này sợ các nơi đến chúc tụng.

Khi tôi phục vụ Bác, Bác giao cho tôi quản lý tất cả các đồ dùng của Bác và quà Bác được tặng. Số quà được tặng Bác thường dùng để tặng các cụ già, gia đình bộ đội, các anh hùng, chiến sĩ thi đua và cháu ngoan Bác Hồ.

Mỗi buổi chiều, khi thấy chúng tôi tăng gia ở vườn, Bác thường ra xem. Có lần Bác cùng cuốc đất, trồng cây với chúng tôi. Khu vườn quanh nhà Bác ở chúng tôi trồng rau. Bác nói:

- Các chú trồng rau thì phải chăm cho tốt, kẻo khách của Bác qua lại đây cười cho đấy.

Hằng ngày, sau giờ làm việc, để thư giãn Bác ra cầu ao ngồi cho cá ăn. Suất bánh mì của Bác, Bác thường bớt lại mang cho cá ăn. Sau thấy thế chúng tôi chế biến một loại thức ăn cho cá để sẵn đó, mỗi buổi chiều Bác lấy một ít rắc xuống ao cho cá ăn. Đã thành thói quen, cứ đúng giờ nghe tiếng vỗ tay gọi đàn cá lại ngoi lên đớp mồi, trông thật vui mắt.

Đối với anh em phục vụ, Bác rất quan tâm. Mỗi lần chúng tôi về thăm nhà lên, Bác thường hỏi thăm tình hình gia đình, vợ con sống thế nào. Chúng tôi vào phục vụ Bác liên tục không mấy khi được nghỉ. Do đó, mỗi khi Bác đi công tác xa, ngoài số anh em phải đi theo, Bác gọi số anh em còn lại đến dặn:

- Các chú tranh thủ về thăm nhà, nhưng nhớ đúng hẹn lên đón Bác.

Đối với chúng tôi Bác còn dạy phải luôn luôn giữ bí mật. Bí mật là một nguyên tắc trong hoạt động cách mạng. Chúng tôi đã làm theo đúng lời Bác dặn. Mỗi lần đi họp Bộ Chính trị, tôi có nhiệm vụ mang nước lên. Tôi nghe được các đồng chí trong Bộ Chính trị bàn công tác. Nhất là trong những ngày chuẩn bị cho các chiến dịch lớn ở Nam Bộ. Tôi thấy các đồng chí trải bản đồ ra, chỉ đánh ở đâu, ở đâu… tôi nghe, biết nhưng không bao giờ nói chuyện với ai.

Cuộc đời của Bác là tấm gương sáng về đạo đức cần, kiệm, liêm, chính. Bác luôn dạy chúng tôi sống giản dị, tiết kiệm. Giản dị, tiết kiệm ngay cả ăn, mặc và sinh hoạt. Thấm nhuần lời dạy của Bác, chúng tôi luôn có phương châm: Sống giản dị, tiết kiệm. Sau này khi có điều kiện may được chiếc áo trắng lúc mặc tôi cũng thấy ngường ngượng, khó quen.

Sau thời gian Bác mất, các anh em bên điện ảnh có ý mời tôi đóng một vài bộ phim về Bác. Song tôi nghĩ mình không thể hoàn thành được nhiệm vụ này nên từ chối. Khi còn sống tôi được phục vụ bên Bác. Bác coi tôi như con. Nay Người  mất đi tôi rất buồn. Tôi không thể đóng vai Bác được, dù tôi biết đó chỉ là phim.

Trong thời gian phục vụ Bác, chúng tôi đã học tập được ở Bác rất nhiều, đặc biệt học được ở Bác đức tính cần, kiệm, liêm, chính. Cuộc đời của Bác trong suốt như phalê. Chúng tôi tự soi mình vào cuộc đời Bác và nguyện sống theo gương Người.

(Lê Văn Cần, trích trong “Người cận vệ Bác Hồ”)

134. Bác Hồ giáo dục tướng lĩnh quân đội

Năm 1960, Đoàn đại biểu Đảng bộ quân đội chúng tôi vinh dự được đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng. Đoàn được chia làm nhiều tổ. Cùng tổ với tôi có anh Trần Độ, anh Tiệp, anh Nam Thắng, anh Quang Trung và tôi. Một buổi tối nhân Đại hội nghỉ, anh Đàm Quang Trung nói chuyện với chúng tôi về Bác Hồ căn dặn anh trước lúc lên đường đi chiến đấu.

Đó là vào tháng 8-1945, trước khi anh đi nhận nhiệm vụ chiến đấuở Nam Trung Bộ. Anh Quang Trung kể: "Tôi được thông báo đến gặp Bác ở số nhà 48, phố Hàng Ngang - Hà Nội. Khi tôi bước vào nhà nhìn thấy Bác, đột nhiên tôi vô cùng xúc động. Bác nói: "Chú đấy à!". Tôi: "Dạ!". Bác mời: "Chú vào đây!". Rồi Bác nói: "Khi chú về Hà Nội thì kèn trống đón rước inh ỏi, đi đến đâu cũng nói đến chi đội Quang Trung!". "Còn Bác thì đến lúc này vẫn chưa ai biết Bác là ai, tuy ở giữa thành phố Hà Nội đông vui! Khi còn ở Việt Bắc, nhân dân thường gọi Bác là cụ Ké. Còn về đây, Bác là cụ Già!".

Trước tiên Bác hỏi thăm gia đình tôi, rồi Bác hỏi: "Chú có gì khó khăn không?".

Tôi thật cảm động trước tấm lòng của Bác, tôi thưa với Bác: "Thưa Bác. Cháu đã chuẩn bị rồi ạ!". Trong phòng lúc ấy chỉ có hai Bác cháu, tôi với Bác. Tôi càng thấy bồi hồi, xúc động vì đã hơn một năm được sống bên Bác, tôi đã học được nhiều điều Bác dạy từ việc nhỏ đến việc lớn, từ cách sống và suy nghĩ, phân tích xem xét vấn đề và lối ứng xử, đặc biệt là phong cách của cán bộ cách mạng và người chỉ huy quân sự của quân đội cách mạng. Giờ đây trước lúc lên đường đi chiến đấu trên chiến trường Nam Trung Bộ, Bác lại nói với tôi về nhân cách người làm tướng chỉ huy. Bác bảo có nhiều loại tướng. Bác lấy ví dụ: Mãnh tướng như Trương Phi. Dũng tướng như Quan Vân Trường. Hổ tướng như Triệu Tử Long. Bác nói: Các loại tướng như thế đều tốt, đều cần vì nhân dân ta sắp phải bước vào cuộc chiến đấu với kẻ thù xâm lược Pháp. Chúng ta cần có nhiều tướng, nhưng phải có nhiều "Nhân tướng", bởi vì cuộc chiến đấu của chúng ta là cuộc chiến tranh nhân dân, vì nhân dân, vì con người, vì giải phóng dân tộc. Rồi Bác còn căn dặn thêm: Nhân tướng là người tướng hiểu sâu sắc con người và biết yêu quý con người, biết dùng người và được mọi người yêu quý, mến phục. Chỉ có những người tướng như thế mới trăm trận, trăm thắng.

Bác lại nói tiếp: Mỗi cán bộ chỉ huy quân sự của quân đội ta cần thấm nhuần đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Cán bộ phải ra sức rèn luyện, để có thể bồi đắp cho mình có đủ nhân cách làm người chỉ huy. Sau buổi nghe anh Đàm Quang Trung kể, chúng tôi vô cùng xúc động và đều ghi vào trong lòng mình. Rồi đến Đại hội chính thức, tôi nhìn lên thấy Bác Hồ ngồi giữa hàng ghế đầu của Đoàn Chủ tịch.

Trước đó, khi Người vào, cả hội trường đều đứng lên hô vang: Hồ Chủ tịch muôn năm! Bác ra hiệu các đại biểu ngồi xuống. Tiếp đến các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, các vị khách nướcngoài như Liên Xô, Trung Quốc, Lào, v.v.. Rồiđến các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp bước vào. Bác đọc lời khai mạc Đại hội. Khi Bác đứng lên, cả hội trường vang dậy tiếng hô: Hồ Chủ tịch muôn năm! Đến giờ nghỉ 15 phút, Đoàn đại biểu Đảng bộ Quân đội được Bác Hồ tới thăm và được chụp ảnh cùng Bác. Trong đoàn mấy chục đồng chí đại biểu cho Đảng bộ toàn quân, có các đồng chí Văn Tiến Dũng, Lê Thiết Hùng, Tạ Xuân Thu, Hoàng Văn Thái, Bằng Giang và tôi cùng vinh dự được đứng nghe Bác nói về Đại hội bàn nhiều vấn đề, nhưng có hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là: - Xây dựng miền Bắc, khôi phục, phát triển kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa. - Đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà, giải phóng miền Nam... Trong hai nhiệm vụ chiến lược ấy "Quân đội có nhiệm vụ nặng nề và rất vẻ vang".

Sau Đại hội trở về, trải qua cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và ác liệt, bảo vệ miền Bắc, chi viện và đấu tranh giải phóng miền Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Bác Hồ. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã thắng lợi hoàn toàn, non sông thu về một mối, đất nước đã thống nhất. Trong những năm tháng lâu dài, gian khổ, tôi còn nhiều lần gặp gỡ anh Đàm Quang Trung: Lần Đại hội toàn quân chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, rồi Đại hội toàn quốc lần thứ V, tôi gặp lại anh Quang Trung. Anh lại kể về Bác đã dặn dò anh về "Nhân tướng".

Chúng tôi đều nhớ lại và càng xúc động về lời Bác đã căn dặn. Khi Sài Gòn giải phóng, tôi gặp lại anh Quang Trung cùng vợ anh vào thăm Sài Gòn. Anh chị có đến cơ quan chỉ huy tiền phương của Quân chủng Phòng không - Không quân, vui mừng gặp lại nhau giữa Sài Gòn giải phóng. Lúc đó có anh Đào Đình Luyện cùng tôi chỉ huy ở Bộ Tư lệnh tiền phương. Vui mừng gặp lại nhau và ôn lại những câu chuyện mà anh kể về Bác Hồ căn dặn trước khi lên đường đi chiến đấu ở Nam Trung Bộ năm 1945, chúng tôi càng thêm xúc động nhớ tới Bác Hồ. Dù Bác đã đi xa, nhưng những lời Bác dặn còn ghi tạc mãi mãi trong tâm trí chúng tôi./.

(Thượng tướng Đàm Quang Trung kể, trích trong “Bác Hồ với bộ đội Phòng không - Không quân”)

Tâm Trang (tổng hợp)


 134. "Phải kiên quyết bắn rơi máy bay Mỹ, nếu chúng liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc nước ta"

Ngày mồng 1 Tết Giáp Thìn (13-02-1964), Bác Hồ đến thăm và chúc Tết Đại đội 130 pháo cao xạ, Trung đoàn 260 ở gần Dốc Vân, ngay bên kia cầu Đuống, Hà Nội. Sở dĩ Bác chọn đến chúc Tết Đại đội 130 vì ngày 11-8-1963, lần đầu tiên Mỹ cho hai chiếc máy bay trinh sát phản lực xâm phạm vùng trời Đông Bắc Hà Nội. Hôm đó là ngày Chủ nhật, nhưng với tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, các đơn vị pháo cao xạ bảo vệ Hà Nội đã nổ súng kịp thời, trong đó có Đại đội 130 nổ súng đầu tiên. Máy bay địch phải cơ động rút chạy. Trận đánh tuy không bắn rơi máy bay Mỹ, nhưng đã phản ánh tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu của bộ đội pháo cao xạ trong thời bình. Bác đến thăm và chúc Tết Đại đội 130, cũng là đến với Quân chủng Phòng không - Không quân, động viên các chiến sĩ phải nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao hơn nữa.

Hôm đó, anh Phùng Thế Tài, Tư lệnh Quân chủng và tôi, cùng một số cán bộ cơ quan quân chủng, đều có mặt rất sớm tại Đại đội 130 để đón Bác. Khi trời vừa hửng nắng, đã thấy hai chiếc xe đang chạy trên đường quốc lộ số 3, bỗng rẽ vào cổng đơn vị. Đi trước là xe của đồng chí Lê Thanh Nghị - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ và một cán bộ Trung ương nữa. Bao cặp mắt còn đang chăm chú nhìn các vị khách thì từ chiếc xe sau, một cụ già đầu đội mũ công nhân, bước xuống. Toàn đơn vị đều xúc động đứng lặng cả người và bỗng bật lên tiếng hô vang: Bác Hồ! Bác Hồ! Hồ Chủ tịch muôn năm!

Lúc đó, chúng tôi cùng hô với anh em, sau đó tôi nhắc đồng chí Đại đội trưởng chú ý giữ trật tự. Các chiến sĩ cùng cán bộ chạy ùa tới đứng vây quanh Bác Hồ, tỏ lòng rất vinh dự được đón Bác, nhất là các chiến sĩ mới nhập ngũ vào bộ đội phòng không, đã có dịp may được đón Bác. Bác hồng hào khỏe mạnh, giản dị trong bộ ka ki bạc màu Bác thường mặc và đôi giầy vải xanh đã cũ. Bác tươi cười trìu mến nhìn các cán bộ, chiến sĩ. Bác vào nhà nghỉ Trung đội 3, thấy chăn, ba lô xếp gọn gàng, Bác tỏ lời khen ngợi. Rồi Bác xuống nhà Câu lạc bộ đại đội, Bác nhìn các tờ báo viết về mừng Xuân sẵn sàng chiến đấu. Bác dừng lại chỗ treo lá cờ "Học tập khá nhất", giải thưởng luân lưu của Bác, đôi mắt Bác ánh lên niềm vui. Bác xuống nhà bếp thấy vệ sinh sạch sẽ, gọn gàng và thấy có nhiều quang sọt bằng tre xếp ngay ngắn và các bó đòn gánh, Bác hỏi:

- Đơn vị các chú đang làm gì? Đồng chí Chính trị viên đại đội thưa với Bác: - Thưa Bác, chúng cháu đang làm đường để di chuyển trận địa khi xảy ra chiến đấu và củng cố thêm, kết hợp đào ao thả cá vừa tăng gia cải thiện bữa ăn, vừa lấy nước tắm rửa cho bộ đội... Bác chăm chú xem chỗ nấu cơm và nấu thức ăn. Bác hỏi một chiến sĩ nuôi quân:

- Các chú có luôn luôn giữ sạch sẽ thế này không?

- Thưa Bác, đại đội chúng cháu luôn luôn được biểu dương về thành tích vệ sinh và phòng bệnh ạ!

Anh Phùng Thế Tài và tôi cùng đi theo Bác. Tôi đề nghị anh Tài - Tư lệnh quân chủng nhắc cán bộ đại đội cho đơn vị tập hợp thành 6 hàng giữa sân, để nghe Bác nói chuyện. Cán bộ, chiến sĩ ai cũng muốn đứng gần để nhìn rõ Bác, nên tập hợp hơi chậm. Thông cảm với nguyện vọng của các chiến sĩ, Bác ra hiệu cho mọi người tiến lại gần Bác, bên rặng phi lao nghe Bác nói chuyện.

Bác hỏi: Các chú ở bộ đội có vui không?

- Thưa Bác, vui lắm ạ!

Cả đơn vị đều đồng thanh đáp lại...

- Tết có bánh chưng, có thịt mỡ, có dưa hành không?

- Thưa Bác, có ạ!

- Các chú đã sẵn sàng chiến đấu chưa?

- Thưa Bác, chúng cháu đã sẵn sàng ạ!

Bác nói:

- Hôm nay, Bác và các đồng chí Trung ương tới thăm đơn vị các chú, Bác thấy chú nào cũng khỏe và vui, Bác mừng, nhất là khi thấy đơn vị các chú được tặng cờ thưởng luân lưu "Học tập khá nhất" và doanh trại vệ sinh, trật tự, như vậy là tốt. Bác chúc các chú năm mới mạnh khỏe, thắng lợi và nhờ các chú chuyển lời chúc Tết của Bác và các đồng chí Trung ương tới gia đình các chú.

Bác Hồ hỏi tiếp: - Các chú thấy đồng bào miền Nam ta chiến đấu có giỏi không?

- Thưa Bác, có ạ!

Vậy ta phải học tập quân và dân miền Nam anh hùng. Đế quốc Mỹ có nhiều âm mưu thâm độc, các chú phải luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, phải bắn rơi máy bay địch nếu chúng liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc nước ta. Bác trìu mến nhìn suốt hàng quân, rồi Bác căn dặn tiếp:

- Muốn được như vậy, năm nay các chú phải ra sức rèn luyện kỹ thuật và chiến thuật cho giỏi, cán bộ, chiến sĩ phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em một nhà... Kết thúc buổi nói chuyện, Bác nhắc lại nhiệm vụ: - Các chú phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch, nếu chúng liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc nước ta. Các chú lập được công, Tết sang năm Bác lại xuống thăm... Bác vừa dứt lời, cả đại đội đều dồn dập hô vang: "Quyết tâm làm theo lời Bác dạy! Kính chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu trăm tuổi! Hồ Chủ tịch muôn năm!".

Trước lúc lên xe, Bác quay lại vẫy tay, nói vui: "Tết các chú quên không mời Bác ăn bánh chưng, mà chỉ hô khẩu hiệu!". Cán bộ, chiến sĩ chạy cả ra cổng doanh trại, lưu luyến nhìn theo xe Bác... Tiễn Bác xong, tôi và anh Phùng Thế Tài còn ở lại làm việc với các đồng chí trong Ban Chỉ huy Đại đội về một số vấn đề trước mắt đơn vị phải làm, để thực hiện chỉ thị của Bác.

Trở về Bộ Tư lệnh quân chủng, xe chúng tôi bon nhanh lên hướng cầu Đuống. Ngày mồng 1 Tết năm ấy trời thật đẹp, nắng Xuân tỏa trên những xóm làng chạy dài hai bên bờ sông, rực rỡ, mượt mà. Từng đoàn người đi chơi Xuân quần áo mới đủ màu sắc, nét mặt hớn hở. Các em thiếu nhi cổ quàng khăn đỏ, chạy tung tăng như những bầy chim non. Đã là mùa Xuân thứ 10 sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Đối với nhân dân miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đang hoàn thành thắng lợi. Đời sống nhân dân đang được nâng lên. Bữa cơm hằng ngày tuy còn phải độn thêm ngô, sắn, nhưng nhìn chung nhà nào cũng no đủ. Trong điều kiện cuộc sống lúc bấy giờ, đời sống từng bước đang đi lên. Thế mà chiến tranh lại sắp xảy ra ư? "Các chú phải luôn luôn nêu cao cảnh giác và lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu. Phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch, nếu chúng liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc nước ta!". Những lời căn dặn ấy của Bác Hồ, sâu sắc làm sao!

Xe chúng tôi vòng lên cầu Long Biên. Sông Hồng rộng lớn và hiền hòa. Nhất định máy bay địch sẽ bị bắn rơi, nếu chúng dám dẫn xác tới đây! Nhưng muốn bảo vệ an toàn những mục tiêu lớn như cầu Long Biên, cần phải giải quyết nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp lắm, vì ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Mải suy nghĩ, xe chạy vào trung tâm thành phố lúc nào tôi không biết. Hà Nội đang tưng bừng đón Xuân mới có biết chăng sáng nay giữa ngày mồng 1 Tết, từ một trận địa pháo cao xạ bảo vệ Thủ đô, Bác Hồ đã đến thăm và ra lệnh cho Quân chủng Phòng không - Không quân chuẩn bị sẵn sàng đánh trả bọn cướp Mỹ, nếu chúng liều lĩnh cho máy bay xâm phạm vùng trời miền Bắc, trong đó có Thủ đô Hà Nội, trái tim thân yêu của cả nước...

(Nhà báo Xuân Mai, trích trong "Bác Hồ với Bộ đội Phòng không - Không quân")

135. Tết ấy, Huỳnh Cung đón Bác

Vào dịp Tết Nguyên đán năm Quý Mão (1963), ông Trần Duy Dương - Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội vinh dự được lên báo cáo với Bác Hồ về tình hình sản xuất của địa phương và được đón Người về thăm và chúc Tết nhân dân Hợp tác xã Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì.

Tính đến nay đã tròn nửa thế kỷ, nhưng kỷ niệm đó vẫn in sâu trong trí nhớ của ông Dương. Chiều hôm ấy 24-01-1963, tức ngày 30 Tết năm Quý Mão, Văn phòng Chính phủ gọi điện đến Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội đề nghị cho người lên báo cáo với Bác Hồ về tình hình sản xuất nông nghiệp và làm nghĩa vụ đối với Nhà nước năm 1962. Ông Trần Duy Dương - Ủy viên Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội được giao nhiệm vụ lên báo cáo với Bác.

Về kỷ niệm này, ông Trần Duy Dương kể lại: Là người vinh dự đã được báo cáo công việc với Bác khi còn là Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên, nên tôi biết tác phong làm việc của Người. Tôi báo cáo với Bác công việc thật ngắn gọn, cụ thể. Sau khi nghe báo cáo tình hình các địa phương của Hà Nội, trong đó nổi lên có huyện Đông Anh và Hợp tác xã Huỳnh Cung của huyện Thanh Trì có phong trào sản xuất và làm nghĩa vụ khá hơn so với các huyện và hợp tác xã khác của thành phố, Bác hỏi tôi: - Sao Hợp tác xã Huỳnh Cung làm được như vậy?

- Dạ thưa Bác! Hợp tác xã Huỳnh Cung có đồng chí Phạm Văn Đính - Bí thư Đảng ủy rất nhiệt tình công tác; cán bộ, đảng viên ở đây rất hăng hái công tác; Đoàn Thanh niên và Hội Phụ nữ hoạt động đều nhiệt tình; nhân dân tin tưởng vào Đảng, đoàn kết gắn bó với nhau và có phong trào thi đua sản xuất giỏi; các cháu học sinh có phong trào học tập khá nhất huyện; trật tự an ninh tốt...

Nghe xong Bác gật đầu hài lòng, Người hỏi tiếp: - Chú nói rõ kết quả của Huỳnh Cung đã đạt được cho Bác nghe xem nào?

- Thưa Bác! Năm qua Huỳnh Cung đã giao nộp 30 tấn thóc, vượt gấp đôi chỉ tiêu trên giao. Ngoài ra, nhân dân bán hỗ trợ thêm 12 tấn thóc nữa. Về thực phẩm, năm nào cũng hoàn thành nghĩa vụ, có năm bán được trên 100 tấn thịt lợn. Với những thành tích trên, Hợp tác xã Huỳnh Cung đã được đón nhận lá cờ đầu luân lưu về sản xuất nông nghiệp của cấp trên. Nghe đến đây, Bác nhìn tôi vui vẻ cười: - Ngày mai, Bác xuống Huỳnh Cung ăn Tết với đồng bào. Sau khi nhận chỉ thị của Bác, trên đường về nhà, tôi rẽ vào nhà anh Nguyễn Lam - Bí thư Thành ủy Hà Nội, báo cáo với anh về việc ngày mai Bác Hồ xuống Hợp tác xã Huỳnh Cung chúc Tết đồng bào.

 Anh Nguyễn Lam và tôi vội điện cho các đồng chí cán bộ huyện Thanh Trì cùng xuống xã Tam Hiệp để bàn kế hoạch đón đoàn cán bộ cao cấp của Trung ương về chúc Tết đồng bào vào ngày Tết cổ truyền. Khi làm việc, để bảo đảm bí mật, chúng tôi chưa cho địa phương biết Bác Hồ xuống chúc Tết. Công tác chuẩn bị đón đoàn được chúng tôi và các đồng chí cán bộ chủ chốt của xã Tam Hiệp triển khai chặt chẽ và chu đáo, đến quá nửa đêm thì hoàn tất. Đến 8 giờ sáng ngày hôm sau, ngày mùng 1 Tết năm Quý Mão, tôi cùng các đồng chí cán bộ huyện và xã đang đứng chờ ở cổng xóm Tiền thì nhìn thấy từ đằng xa đoàn xe đi tới. Mọi người phấn khởi chạy ra đón khách. Đoàn xe vừa dừng thì ai đó ở đằng kia reo lên:

- Bác Hồ! Bác Hồ đến các đồng chí ơi! Mọi người vừa reo hò vừa chạy ùa ra đón Bác. Hôm đó Bác mặc chiếc áo bông, chân đi đôi dép cao su giản dị, đi bên cạnh là đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác, các đồng chí cảnh vệ bảo vệ Bác và một số cán bộ khác. Đến gần Bác, không ai bảo ai mọi người đồng thanh:

- Chúng cháu chào Bác ạ! Bác Hồ muôn năm! Bác vui vẻ vẫy chào mọi người, chẳng mấy chốc bà con nhân dân và các cháu thiếu nhi đã quây quần quanh Bác rất đông. Thấy vậy, Bác chỉ về phía trước và nói:

- Các cháu đứng xếp hàng lại đây, Bác chia kẹo cho. Bác đưa túi kẹo cho đồng chí Đặng - Hội trưởng Phụ nữ xã chia quà cho các cháu. Như đàn cháu nhỏ lâu ngày mới được gặp ông, đám trẻ ríu rít phấn khởi nhận quà của Bác, không khí thật vui vẻ. Các đồng chí cán bộ xã đưa Bác vào chúc Tết một số gia đình xã viên. Nhà đầu tiên là gia đình chị Nguyễn Thị Tăng, là vợ liệt sĩ. Vừa đi đến sân, các đồng chí lãnh đạo xã báo cáo với Bác:

- Thưa Bác! Đây là nhà của địa chủ, cải cách ruộng đất tịch thu chia cho gia đình liệt sĩ ạ! Mọi người trong gia đình chị Tăng lễ phép chào Bác. Bác quay sang hỏi chị Tăng:

- Nhà cô có mấy nhân khẩu?

Chị Tăng đứng cạnh Bác, hồi hộp thưa:

- Dạ thưa Bác! Nhà cháu có năm nhân khẩu ạ.

- Tết này nhà cô ăn Tết có vui không? Gói bao nhiêu bánh chưng?

- Thưa Bác! Tết này nhà cháu vui lắm ạ! Gói 15 cái bánh chưng ạ!

Bác vui vẻ cười và kéo một cháu nhỏ vào lòng, Người ân cần:

- Bác về thăm hợp tác xã, vào thăm gia đình cô, sang năm mới cố gắng sản xuất tốt, các cháu học giỏi. Cả gia đình chị Tăng xúc động chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu. Sợ mất thời gian của Bác, các đồng chí cán bộ xã đưa Người đi chúc Tết một số gia đình khác. Đến gần ngã ba cổng Tiền, nhìn về phía giếng Thơi, Bác nói:

- Kìa bà con đang chờ, để Bác đến nói chuyện với bà con, không để các cụ mất thời gian. Đến gần, Bác bắt tay chúc Tết hỏi thăm các cụ phụ lão và bà con xã viên. Người đứng chào tất cả mọi người một lượt rồi nói:

- Mấy năm qua Hợp tác xã Huỳnh Cung có phong trào thi đua sản xuất giỏi, cấy hết diện tích, năng suất cao và làm nghĩa vụ vượt mức cao về lương thực, thực phẩm, như thế là chấp hành tốt chính sách của Đảng và Nhà nước. Bác xin biểu dương những thành tích Huỳnh Cung đã đạt được. Nhân dịp Tết Nguyên đán Quý Mão, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác và một số cán bộ Trung ương, thành phố Hà Nội về thăm, chúc Tết cán bộ, xã viên Hợp tác xã Huỳnh Cung. Chúc Tết xong, Bác nêu ra một số việc mà Huỳnh Cung cần phải làm như: Giữ vệ sinh, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân... Tất cả mọi người im phăng phắc nghe như nuốt từng lời. Bác vừa dứt lời, tiếng vỗ tay vang dội mãi không ngớt. Lát sau, Bác giơ hai tay ra hiệu rồi hỏi:

- Bà con ta có làm được không? Đáp lời Bác, tất cả đồng thanh:

- Thưa Bác! Làm được ạ. Bác phấn khởi bắt tay mọi người và mong Huỳnh Cung tiến bộ nhiều mặt hơn nữa, làm ăn tốt Bác sẽ lại về thăm. Người chào mọi người và ra về. Bà con nhân dân lưu luyến nhìn theo Bác tới khi đoàn xe khuất dần sau hàng cây. Có một số cụ phụ lão cảm động rơi nước mắt vì sung sướng được gặp Bác Hồ. Nhiều người thôn Yên Ngưu và thôn Tựu Liệt khi nghe tin chạy đến thì Bác đã đi rồi, cứ tiếc mãi. Mọi người ngồi lại vui vẻ kể cho nhau nghe về Bác mãi mới ra về. Sau lần Bác về thăm, Hợp tác xã Huỳnh Cung quyết tâm làm theo lời Bác, phấn đấu đạt thành tích cao trong lao động sản xuất, tích cực tham gia các phong trào của huyệncũng như của thành phố, thực hiện tốt nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới. Huỳnh Cung thật xứng đáng là một điểm sáng của Thủ đô Hà Nội anh hùng.

(Theo lời kể của ông Trần Duy Dương, nguyên Ủy viên Thường vụ Thành ủy - Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố)

136. Ngôi Đền thờ Bác Hồ đầu tiên trên đất mũi Cà Mau

Tôi tìm tới nhà chú Nguyễn Tài Bá (tức Ba Long), ở ấp Cái Bát, xã Tân Hưng Tây, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

Sau khi nghe tôi trình bày yêu cầu sưu tầm về việc xây dựng đền thờ Bác Hồ. Chú Ba Long rất vui vẻ và sẵn sàng kể lại những kỷ niệm thiêng liêng ngày ấy. Trước khi về Tân Hưng Tây làm Bí thư Xã ủy, chú Nguyễn Tài Bá là Trưởng trại giam thuộc Tỉnh đội Cà Mau.

Ngày đó, trại đặt ở xã Đất Mới, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Hơn ba mươi năm đã qua, chú còn nhớ như in mọi việc, cứ như vừa mới diễn ra vậy.

Chú Ba kể: Sáng ngày 04-9-1969, ông Hai Khá là Tổ trưởng Tổ Đảng ấp Biện Trượng, xã Đất Mới, huyện Ngọc Hiển, cùng người con trai chống xuồng tới cơ quan, gặp chú

Ba Long, ông hỏi liền:

- Chú Ba và anh em ở đây có hay tin gì không?

Chú Ba Long hỏi:

- Nghe tin gì?

- Bác Hồ mất rồi! Ông Hai trả lời giọng run run, nước mắt tuôn trào.

Tôi kêu lên:

- Bác mất hồi nào?

- Bác mất hồi 9 giờ hôm qua! Tôi nghe đài Hà Nội báo tin lúc 5 giờ sáng nay. Ông Hai Khá nói rồi khóc ròng.

Anh em trong trại được tin xúm lại. Lúc đó một số cán bộ ở Tỉnh đội xuống, nhiều cán bộ và đồng bào địa phương tới; có chừng năm, sáu chục người. Tất cả đều khóc nghẹn ngào, một lát ông Hai Khá lau nước mắt nói với tôi:

- Bây giờ, có cách nào chú Ba xin cho tôi một tấm ảnh Bác Hồ để tôi đem về nhà tôi thờ.

Tôi nói với ông:

- Anh đem ảnh Bác về nhà để thờ cũng được, nhưng nếu anh em mình cùng thờ chung với nhau có được không? Có thể làm Đền thờ Bác ở ngã ba gần nhà anh.

Ông Hai nói:

- Được vậy hay quá rồi.

Chúng tôi liền quây quần lại bàn việc dựng đền thờ Bác. Lúc đó có đồng chí Nguyễn Văn Tiến (Bảy Một), là Bí thư Xã ủy và bốn đảng viên nữa, có đồng chí Bảy Lễ là Trại phó và rất đông thanh niên. Anh em khóc thương Bác quá trời nên không tính toán gì được, mọi người bắt tay ngay vào công việc. Trung đội trưởng Sang của trại chúng tôi có cha mẹ bị bọn Bình Hưng1 giết hại, thương nhớ Bác Hồ tràn dâng, Sang xung phong dẫn đầu anh em vào rừng lấy cây lập đền thờ.

Chúng tôi huy động trên hàng chục người. Dụng cụ gồm những cưa, búa, bào, đục có sẵn nên công việc lấy cây đước tiến hành rất nhanh chóng.

Tôi hỏi chú Ba Long:

- Thưa chú, chú còn nhớ việc dựng đền và kích thước ngôi đền lúc đó?

Chú Ba Long trả lời:

- Khi đó còn giặc, nên chúng tôi làm ngôi đền thật gọn, mỗi chiều chỉ hơn 4 mét, kê táng lên cao. Ván lót sàn bằng gỗ đước. Hai đầu song dùng lá, còn phía sau, đóng vách bằng ván gỗ mắm.

Anh em ra làm bất kể ngày đêm. Mọi người làm đền trong niềm thương nhớ Bác khôn nguôi. Tôi nhớ, ông Hai Khá lúc dựng đền, cứ khóc hoài. Chúng tôi động viên nhau: "Công ơn của Bác có lấy gì sánh được, Bác mất ai mà không đau thương, nhưng mình ráng vượt qua, tỉnh táo để anh em tập trung làm đền thật tốt mới được".

- Xin chú cho biết lúc đó các chú làm bàn thờ Bác bằng loại gỗ gì và bàn thờ được làm thế nào?

Chú Ba Long:

- Mình ở rừng Cà Mau, cây đước bạt ngàn; gỗ đước cưa xẻ ra, đục cho bén, bào cho láng lên, đóng cho thật chắc, cái bàn thờ đặt giữa ngôi đền. Hình Bác đóng khung trang trọng được đặt cao trên đó. Có chuyện này thật không sao quên được, ông Hai Khá về nhà chở nguyên bộ tranh thờ ông bà vào đền và mua cái lọ bằng sành để làm lư hương. Vợ chồng ông Hai Khá còn đem theo một bộ bình trà và ly để trên bàn thờ lo cho bà con thờ cúng Bác như thờ cúng ông bà mình vậy.

Ngày 04-9-1969, chúng tôi bàn tính việc xây dựng đền thờ, thì chỉ 7-8 ngày sau đã dựng xong đền.

Đền thờ Bác được dựng trong những ngày quốc tang Bác!

Ngày khánh thành, trưng ảnh thờ Bác, đốt nhang cúng kiếng Người, là ngày chúng tôi làm lễ tang Người. Vợ chồng ông Hai Khá lo mâm cỗ cúng, có bánh tét, có con gà luộc, đĩa xôi nếp.

Tất cả anh em trong cơ quan và bà con trong xóm ấp tới thọ tang Bác. Nghe đọc tiểu sử về cuộc đời hoạt động và Di chúc của Bác Hồ, mọi người khóc nức nở.

Từ đó đồng bào, cán bộ, chiến sĩ cứ mỗi lần đi ngang đền đều ghé vào đốt nhang viếng Bác.

Vợ chồng ông Ba Thu, nhà ở gần đền thờ Bác được cử giữ đền, hằng ngày lo đèn nhang. Kể từ đó, mỗi lần kỷ niệm ngày sinh của Bác 19-5, ngày Bác mất 02-9, chúng tôi lo cúng kiếng, mọi người tụ họp đốt hương, kể chuyện về cuộc đời và nhắc nhở công ơn của Người đối với non sông, dân tộc rồi ngồi khóc. Mọi người khóc, nhớ Bác cả năm trời.

- Dạ, sau cả năm vẫn còn khóc?

Chú Ba Long gật đầu:

- Còn chứ! Đừng nói một năm. Mới hôm rồi đây này, khi nghe đài truyền hình đưa tin về bà lão ở Hiệp Tùng vẫn giữ ảnh Bác cho tới bây giờ, chúng tôi không cầm được nước mắt! Công lao của Bác lấy gì đền đáp được. Bác mất rồi cứ thương nhớ mãi. Mình làm đền thờ để nguôi ngoai chút nhớ thương, chớ làm sao quên Bác cho được!

- Thưa chú, nghe nói các ngôi đền thờ Bác dựng ngày trước, đều phải lo đánh giặc để bảo vệ?

Chú Ba Long trầm giọng nói:

- Dựng đền thờ Người trong chiến tranh, khi đất nước còn giặc, cũng đồng thời với việc đánh giặc giữ đền. Với ngôi đền này, chúng tôi phải đối đầu với lũ giặc ở đồn Ông Trang2.

Giặc càn quét khủng bố, tính phá đền. Các tay súng bộ đội, du kích phối hợp giữ đền. Sau bao lần phục kích chống càn, anh chị em chúng tôi đã bắt được tên đại úy đồn trưởng tên là Chà, dập tắt âm mưu phá hoại của địch, bảo vệ ngôi đền thiêng liêng này.

Ngôi đền thờ Bác ở Hậu Nà Chim, gần ngã ba Kinh Đào, thuộc ấp Biện Trượng, xã Đất Mới là đền thờ Bác Hồ được nhân dân bắt tay xây dựng đầu tiên, xây dựng ngay từ ngày 04-9-1969 và 7-8 ngày sau đã hoàn thành.

Một ngôi đền thờ Bác Hồ thiêng liêng trong lòng dân Đất Mũi.

Bác ra đi ngày đất nước còn bị chia cắt. Đồng bào Đất Mũi, đồng bào Cà Mau cũng như đồng bào miền Nam không thực hiện được ước mơ đón Bác ngày toàn thắng, hòa bình thống nhất, độc lập, tự do, nhưng toàn dân có niềm an ủi dựng đền thờ Người, rước anh linh của Người về Đất Mũi ngay từ ngày Bác đi xa.

Chú Ba Long nói dự kiến của chú và một số người cho chúng tôi nghe: Chú có bàn với xã, các chú sẽ vận động anh em nghỉ hưu và bà con sẽ xây cất lại đền thờ Bác. Mỗi người một ít, góp gió thành bão, nhất định sẽ làm được.

Tôi nhìn chú Ba Long, một cán bộ trung kiên, một con người từng trải, dường như trong chú còn tiềm ẩn những điều sâu sắc về cuộc sống chiến đấu giải phóng quê hương, thống nhất đất nước. Người chiến sĩ ấy tới nay vẫn sống thanh đạm ở bán đảo Cà Mau thân thương. Chú Ba Long, ông Hai Khá và bao nhiêu đồng bào, chiến sĩ có tấm lòng như viên ngọc sáng ngời! Trong những ngày quốc tang Bác, lo ngay việc dựng đền thờ Bác ở Hậu Nà Chim, thuộc ấp Biện Trượng, xã Đất Mới, huyện Ngọc Hiển.

Đây là ngôi đền thờ Bác được xây dựng đầu tiên, tỏ lòng trung thành và tình yêu kính Bác Hồ như trời cao biển rộng của đàn con tận Mũi Cà Mau.

(Theo Trường Sơn, trích trong "Miền Tây Nam bộ nhớ mãi Bác Hồ")

Tâm Trang (tổng hợp)


136. 40 cán bộ, chiến sỹ lái máy bay có thành tích chiến đấu được gặp Bác Hồ

Trời Hà Nội hôm đó nhiều mây và hơi lạnh. Gió mùa Đông Bắc đã tràn về. Cầu Long Biên mới bị địch đánh, ta đã sửa chữa xong. Chiếc xe chở các chiến sĩ lái máy bay vừa vượt dốc lên cầu Long Biên, Đồng Văn Đe ngồi ở phía sau, đã lên tiếng:

- Cầu Long Biên đây rồi! - Tạm biệt Hà Nội! Phạm Ngọc Lan ngoái nhìn ra ngoài, thốt lên một câu như vậy, khiến cả xe xôn xao, mỗi người nói một câu chẳng đâu vào đâu cả...

- Nếu tình hình không gấp, tối nay mình được về Trường Y một tý thì thú biết mấy!

- Lại định về khoe với cô em: "Anh được lên gặp Bác Hồ chứ gì?".

- Này, các cậu nhớ những quả chuối hôm nay Bác cho chúng mình ăn là do tay Bác trồng đấy!

- Cậu hỏi ai mà biết nhanh vậy? Cả xe cười vang lên vui vẻ, chiếc xe chồm lên cầu, lắc lư như xay lúa. Đồng Văn Đe nhìn ra khoảng tối mênh mông của dòng sông Hồng. Anh hiểu tâm trạng của các bạn trong lúc này, họ cũng như anh vừa trải qua những phút xao động khác thường. Chắc ai cũng ghi nhớ suốt cuộc đời về buổi tối mùa đông giữa ngày chiến tranh này, các anh được lên Phủ Chủ tịch gặp Bác Hồ kính yêu...

Một buổi gặp trong một buổi tối ngắn ngủi, nhưng thật đầm ấm. Thời gian, khung cảnh và những lời Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của Đảng, của cả dân tộc nói với các anh; tình cảm của các anh đối với Bác, giống hệt một buổi họp mặt của người cha với đàn con, có những người chiến sĩ đã về thăm cha mẹ và lại ra đi như các anh...

Hà Nội đang chiến đấu. Mấy ngày nay, lúc nào các anh cũng nghĩ, cũng nói toàn chuyện chiến đấu với địch. Bỗng tối nay các anh được gặp Bác. Đồng chí Chính ủy Đặng Tính, nói: "Không quân gần đây có nhiều tiến bộ, được Bác khen và muốn gặp một số chiến sĩ có thành tích. Các đồng chí đại diện cho binh chủng Không quân lên gặp Bác ở Phủ Chủ tịch là một vinh dự lớn cho cả Quân chủng Phòng không - Không quân".

Nhớ lại lúc từ sân bay về Hà Nội, Đồng Văn Đe cố mường tượng ra quang cảnh sắp đến, ở Phủ Chủ tịch, anh sẽ nói gì với Bác? Nghe tiếng nói của anh, chắc Người sẽ nhận ra là con em miền Nam Thành đồng. Sự tưởng tượng phong phú đến đâu cũng hết sức hạn chế. Nay trở lại sân bay, Đe cũng tự cười mình. Bác Hồ, lãnh tụ vĩ đại của cả nước, của toàn Đảng, của cả Đồng Văn Đe, mà trong mấy chục năm nay anh vẫn tưởng như được sống bên Bác. Vậy mà khi bước vào Phủ Chủ tịch, Đe lại có cảm giác lần đầu tiên mới được nhìn thấy Bác. Lúc ấy, cả Đe cùng 40 anh em đều muốn chạy ùa lại vây quanh Bác. Nhưng lúc đó, đồng chí Tư lệnh Quân chủng Phùng Thế Tài đã cất tiếng hô nghiêm và bước lên, báo cáo với Bác:

- Báo cáo Bác, quân số 42, có mặt đủ ạ! Bác cười! "Chú hô nghiêm, sao không báo cáo theo kiểu quân sự?". Bác vừa nói vừa giơ tay ngang lông mày, chào theo kiểu đi nghiêm. Thế là không khí bỗng sôi nổi hẳn lên, đầm ấm hẳn lên. Bác và mọi người cùng cười vui vẻ, ngay từ phút đầu. Đe cảm thấy như mình vẫn từng ngày, từng giờ được sống bên Bác. Bác bảo mọi người ngồi xuống, rồi Bác tươi cười hỏi?

- Thế chú nào bắn rơi 4 tàu bay Mỹ trở lên? Đồng chí Chính ủy Đặng Tính đứng dậy, báo cáo:

- Thưa Bác, đồng chí Bảy, đồng chí Mẫn, đồng chí Trung ạ!

- Chú Bảy, chú Mẫn, chú Trung đâu, giơ tay lên Bác xem? Ba anh cùng đứng dậy, sung sướng hướng lên phía Bác. Bác âu yếm nhìn ba chiến sĩ. Khi ấy vì chăm chú ngắm nhìn Bác và quá xúc động trước đôi mắt hiền từ, âu yếm của Bác, nên khi Bác hỏi "chú nào bắn rơi 2 máy bay?" (có người giật áo Đe), mãi anh mới giơ tay lên cùng với số đông anh em trong đoàn. Anh mải tập trung sự chú ý để thuộc ngay những lời Bác nói: "Các chú đánh khá nhưng đừng thấy Bác khen mà mũi to ra". Mọi người đều cười vui. Tiếng cười làm cho không khí càng ấm cúng, thoải mái hơn.

Khi nói, Bác là người cha hiền từ, ai chưa được một lần ở bên Bác, làm sao hiểu điều đó! Từ bé, Đồng Văn Đe đã được học tập cách nói, cách viết, dáng đi của Người. Giờ đây khi nghe Bác nói, từng lời của Bác càng làm cho Đe sửng sốt: "Đánh giỏi nhưng chớ chủ quan, tự mãn như người ăn quá no rồi khó mà ăn thêm được nữa!"... Bác cho toàn thể anh em chụp ảnh kỷ niệm. Bác, cháu ngồi ngay trên nền nhà rải thảm. Bác cho các cháu của Người ăn trái cây, ăn kẹo, ăn chuối, nghe đồng chí Tư lệnh Phùng Thế Tài báo cáo. Trong số phi công được cử lên gặp Bác, còn vắng mặt đồng chí Nguyễn Văn Cốc! Đe ngồi bên cạnh anh Trần Hanh, nghe anh nói nhỏ: "Lần này gặp anh em ta, Bác vui hơn trước nhiều". Anh Hanh so sánh thế rồi lý giải luôn: "Lần trước cách đây 8 tháng, các chiến sĩ Không quân được lên gặp Bác, kể cả đồng chí Phó Chính ủy Nguyễn Xuân Mậu mới có bảy người. Lần này đông lên gấp bảy lần và số đông bắn rơi từ hai đến ba máy bay Mỹ trở lên cũng nhiều hơn, nên Bác vui hơn...".

Qua cầu Gia Lâm, chiếc xe chở các phi công của Đoàn Không quân Yên Thế 923 vượt lên bóp còi như chào tạm biệt Hà Nội. Sân bay Gia Lâm đây rồi. Tạm biệt, ngày mai ta lại gặp nhau trên bầu trời Hà Nội. Một đoàn xe xích bật đèn sáng trưng kéo pháo chạy ầm ầm. Có tiếng hỏi to sau lưng Đe.

- Hôm mồng 4 nó đánh chỗ này đấy hả?

- Không, nó ném bom Yên Viên cơ! Rồi chỗ này cũng sẽ bị nó đánh! Những tốp máy bay địch bị ta chặn kích hôm mồng 5, có 18 chiếc nó định ném bom vào đây cũng nên? Xe qua cầu Đuống, rẽ trái, ngoặt sang đường số 3. Đe có cảm giác sân bay đã ở trước mặt. Ngày mai anh chưa đến phiên trực Đoàn trưởng Đoàn Yên Thế đã nhắc Đe có kỷ luật bay tốt, nhưng đánh chưa giỏi. Sắp tới, anh cần áp dụng giữa học và hành tốt hơn nữa. Gió Bắc thổi ào ào trên mui xe. Chợt Đồng Văn Đe nhớ đến lá thư trong túi ngực, mải vui đã quên mất. Đe suy nghĩ giờ này ba anh đang ở đâu? Mỗi lần nghĩ đến người cha, một cán bộ cao cấp của Quân giải phóng miền Nam, nghĩ tới những người thân yêu và quê hương, Đe lại muốn được về ngay trong ấy để giáp mặt với những tên lính Mỹ bằng súng AK và lựu đạn. Hoặc đánh Mỹ bằng chiếc MIC-21 của mình như Chính ủy quân chủng đã khuyên nhủ anh như vậy...

(Theo đồng chí Đại tá Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân, trích trong "Bác Hồ với bộ đội Phòng không - Không quân")

137. Tình thương của Bác với các chiến sỹ

Mùa hè năm 1967, khi giặc Mỹ leo thang đánh phá Hà Nội, Bộ Chính trị đề nghị Bác Hồ tạm thời rời thành phố Hà Nội, nhưng Người không đồng ý. Bác nói: "Tôi ở lại Thủ đô cùng với đồng bào và chiến sĩ!"...

Tháng 5-1967, địch đánh phá vào nhiều mục tiêu ngay trong nội thành Hà Nội. Quân và dân Hà Nội trải qua những ngày chiến đấu ác liệt và căng thẳng. Vậy mà Bác vẫn sống và làm việc ở ngôi nhà sàn của Người. Tất nhiên vào thời điểm đó, cơ quan chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để bảo đảm an toàn cho Bác. Hàng ngày, để nắm vững tình hình chiến đấu phòng không, Bác thường xuyên gọi điện đến Cục Tác chiến và Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân.

Ngoài bản đồ theo dõi tác chiến ở chiến trường miền Nam, Bác còn cho làm thêm bản đồ theo dõi hoạt động của máy bay Mỹ trên miền Bắc. Lúc đó, Hà Nội báo động phòng không rất nhiều, cả ngày lẫn đêm. Việc đó đã gây phiền cho Bác. Vì thận trọng, chúng tôi đã nhiều lần mời Bác xuống hầm quá sớm. Bác có ý không hài lòng. Bác Hồ vẫn nán lại làm việc cho xong một việc gì đó, vì Bác rất quý thời gian. Bác không chịu xuống hầm khi máy bay của địch còn ở xa. Bác gợi ý nên làm một cái kẻng báo động phòng không, cho cả cơ quan và Bác. Bác chấp hành theo kẻng báo động rất nghiêm. Từ ngày có chiếc kẻng, chúng tôi phải nắm tình hình địch chính xác hơn, kẻng là lệnh, không thể thiếu chính xác được!

Những trận chiến đấu xuất sắc của quân và dân Thủ đô những ngày cuối tháng 4 và đầu tháng 5-1967 là những chiến công mừng thọ Bác 77 tuổi. Mỗi khi nghe tôi báo cáo và Bác xem báo, nghe đài biết được những chiến công đó, Bác Hồ đã gửi tặng lẵng hoa cho bộ đội phòng không - không quân và gửi thư khen quân và dân Hà Nội. Bác theo dõi rất chặt chẽ những bước leo thang của Không quân Mỹ. Bác thường hỏi tôi cặn kẽ về tình hình Hà Nội, Hải Phòng: "Các cụ già, em nhỏ đã sơ tán ra sao? Bộ đội ăn ở thế nào? Sinh hoạt trong điều kiện chiến đấu liên tục, ác liệt hiện nay ra sao? Có đủ nước uống không? Ngày đêm trên mâm pháo, trên ca bin tên lửa thì tắm vào lúc nào? Một đêm ngủ được mấy giờ?"...

Mỗi lúc nhắc đến người dân, đến bộ đội đang phải sản xuất và chiến đấu dưới bom đạn giặc, giọng nói và ánh mắt của Bác thường biểu lộ sự quan tâm sâu sắc. Những câu hỏi của Bác hướng cho chúng tôi nhiều mặt của cuộc chiến đấu đang diễn ra hằng ngày. Chúng tôi phải đi nhiều địa phương, đơn vị để nắm tình hình, hỏi đi hỏi lại để có số liệu chính xác báo cáo với Bác, một câu hỏi mà bao giờ cũng phải trả lời nghiêm túc, chính xác. Mùa hè năm ấy trời rất nóng. Bác không quen dùng quạt điện. Dù trời nóng thế nào, Bác chỉ dùng quạt giấy hoặc chiếc quạt bằng tàu lá cọ, tự quạt cho mình. Nhiều lần tôi nhìn thấy lưng áo Bác ướt đẫm mồ hôi. Bác mải mê làm việc hoặc đang suy nghĩ điều gì, nhiều lúc quên cả quạt. Tôi đề nghị Bác dùng quạt điện và máy điều hòa, nhưng Bác gạt đi ngay. Tôi chưa hề thấy Bác phàn nàn về sự oi ả của mùa hè mà chúng tôi và Bác đang phải chịu đựng. Nếu có nhắc đến trời nắng, trời nóng, Bác lại nhắc đến chiến sĩ ở ngoài trận địa.

Một ngày đầu tháng 7, Bác gọi tôi đến và nói:

- Trời nắng quá, Bác định lên thăm các chú bộ đội trực chiến ở trên sân thượng Hội trường Ba Đình. Nhưng Bác già rồi, sợ leo không nổi, chú còn khỏe, chú lên thăm xem các chú ấy có đủ nước uống không? Nắng thế này làm sao đảm bảo sức khỏe để đánh giặc?

Sau này tôi mới biết, nhiều buổi trưa trời nắng, Bác không nghỉ, cứ đi đi lại lại mãi và nhìn lên sân thượng Hội trường Ba Đình. Sau nhiều lần lượng sức mình không thể leo lên sân thượng thăm các chiến sĩ, Bác mới gọi tôi nói như vậy. Tôi lên sân thượng Hội trường Ba Đình ngay trưa hôm ấy. Mặt bê tông nóng hầm hập. Ngoài tấm bạt che mưa, che nắng, các chiến sĩ Khẩu đội súng máy phòng không 14,5mm không có cách gì làm giảm bớt cái nắng như thiêu, như đốt. Thoáng nhìn những gương mặt trẻ trung da sạm nắng, tôi hiểu tất cả. Tuy nhiên, tôi vẫn hỏi thăm anh em bằng tất cả những câu hỏi mà Bác đặt ra cho tôi. Tôi đi một vòng quanh công sự nhỏ đắp bằng những bao cát sơ sài, tấm bạt che mưa bị gió, mưa làm rách. Anh em nói nước uống ở đây không thiếu, nhưng mọi người vẫn uống dè xẻn vì ở trên cao ngại đi lấy, vả lại càng uống nhiều, càng đổ mồ hôi...

Trước khi ra về, tôi mới nói với các chiến sĩ biết tôi là ai, từ đâu đến thăm: Bác Hồ cử tôi lên đây các đồng chí ạ! Bây giờ Cụ đang đứng ở dưới kia trông lên đấy! Tôi nói mấy lời đơn giản ấy với bao xôn xang. Bác đã để tâm đến ụ súng máy này từ bao giờ? Còn bao người nhìn thấy nó mà không hề bận tâm vì nó chút nào.

- Bác, Bác hỏi đến chúng tôi ư?

Các chiến sĩ họ hỏi tôi.

- Bác Hồ có khỏe không? Tại sao Bác không đi sơ tán? Nhìn những gương mặt chiến sĩ bừng sáng say sưa kể chuyện, tôi tìm cách rút lui:

- Bác đang đợi mang tin về. Chào các đồng chí nhé! Vừa thấy tôi trở về, Bác nhắc ngay: Chú phải nói đúng những điều mà chú thấy! Tôi báo cáo với Bác những điều tai nghe mắt thấy ở Khẩu đội súng máy Phòng không trên sân thượng Hội trường Ba Đình. Bác yên lặng ngồi nghe tôi nói, Bác lại hỏi:

- Các chú ấy uống nước đun sôi à?

Tôi thưa: - Đúng là như vậy. Đôi khi anh em còn rang gạo hoặc lấy cơm cháy để nấu nước vừa có mùi thơm, vừa dễ uống. Ngồi im lặng một lúc, Bác nói:

- Chú xem lại sổ tiết kiệm của tôi, còn bao nhiêu, chú rút ra chuyển số tiền ấy sang Bộ Quốc phòng nói rằng Bác tặng số tiền đó cho các chú bộ đội phòng không Hà Nội để có thêm nước giải khát trong những ngày nắng nóng! Đồng thời, Bác gọi điện thoại sang Bộ Tổng tham mưu cho đồng chí Tổng tham mưu trưởng, sao các chú để công sự của đơn vị pháo ở trên nóc Hội trường Ba Đình sơ sài, cần cho sửa ngay.

Ngày 11-7-1967, đồng chí Lê Hữu Lập, cán bộ hành chính trong bộ phận giúp việc của Bác đã ra Ngân hàng Hoàn Kiếm, rút toàn bộ số tiền tiết kiệm của Bác, được 25.000 đồng (tương đương với 25 lạng vàng lúc đó). Số tiền được chuyển sang Bộ Quốc phòng để Tổng cục Hậu cần mua nước giải khát cho bộ đội phòng không Hà Nội, như Bác đã chỉ thị. Ít lâu sau, chúng tôi nhận được thư của Đại tá Đặng Tính, Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân chủng Phòng không - Không quân gửi lên Bác Hồ. Thay mặt cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân chủng, anh Tính đã cảm ơn Bác. Trong thư, anh báo cáo: Quân chủng đã lập được chiến công mới, bắn rơi 6 chiếc máy bay Mỹ để mừng thọ Bác!

Vào những ngày hè nóng bỏng cùng tháng ấy, tôi thường hồi hộp theo dõi từng trận đánh trả máy bay Mỹ của quân và dân ta, báo cáo kịp thời những thành tích, chiến công mới của chúng ta vừa giành được. Tôi luôn luôn nhớ đến câu nói của Bác: "Các chú cứ bắn rơi nhiều máy bay Mỹ là Bác khỏe, Bác vui!".

(Theo đồng chí Vũ Kỳ, Thư ký riêng của Bác Hồ, trích trong "Bác Hồ với bộ đội Phòng không - Không quân")

138. Người mẹ bên bàn thờ Bác Hồ

Sau ngày Bác Hồ qua đời, tháng 12/1969, cán bộ nhân dân Rạch Dược, ấp 7B, xã Hiệp Tùng, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, người góp công, người góp vật liệu xây dựng phủ thờ Bác Hồ để tưởng nhớ và tỏ lòng tôn kính đối với Người. Phủ thờ Bác Hồ được xây dựng giữa một làng rừng, bằng cây gỗ của địa phương.

Hàng ngày, cán bộ và nhân dân trong vùng căn cứ cách mạng này tới lui thăm viếng, chăm nom và nhang khói cho phủ thờ. Chiến tranh ác liệt, bà con nhân dân Rạch Dược vẫn quyết tâm bảo vệ phủ thờ. Nhưng rồi năm tháng trôi qua, đứng giữa mưa nắng, đạn bom của chiến tranh, phủ thờ Bác Hồ cũng dần dần xuống cấp, hư hao. Từ năm 1976, mẹ Trần Thị Bái, lúc đó đang là cán bộ của Hội Phụ nữ xã Hiệp Tùng (tên cũ là xã Quách Văn Phẩm B, huyện Duyên Hải, tỉnh Cà Mau), đã lãnh trách nhiệm nhận tấm ảnh Bác và bộ lư hương ở phủ thờ về nhà thờ cúng Bác cho tới ngày hôm nay. Mẹ Trần Thị Bái nhớ lại:

- Lúc ấy nhà rất nghèo, đến nỗi không sắm nổi cái tủ thờ, buộc lòng mẹ phải cắm bốn cái cây trong nhà và để tấm ván lên làm bàn thờ Bác Hồ. Gần ba mươi năm, ngày nào mẹ Trần Thị Bái cũng cúng cơm nước, hương khói cho vong linh Bác Hồ một cách đều đặn. Những ngày sinh nhật Bác 19-5, ngày Bác từ trần 02-9, mẹ làm mâm cơm cúng trang trọng, tôn nghiêm như ngày giỗ ông bà ruột thịt của mình. Mẹ thường nói với mọi người:

- Trong lòng tôi chỉ có Bác Hồ là hơn hết. Bác đã đưa gia đình tôi và cả dân tộc Việt Nam ra khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, lầm than. Vì vậy, lúc nào tôi cũng tôn thờ Người, cầu nguyện cho anh linh của Người. Làm được điều đó, lòng tôi thanh thản vô cùng. Mẹ Trần Thị Bái sinh ra từ một gia đình nông dân ở tỉnh Hà Nam. Năm cô bé Bái được 8 tuổi, gia đình nghèo khó quá, cha mẹ phải dứt ruột cho bé đi làm con nuôi ở thành phố Sài Gòn, một phương trời xa lạ. Cuộc đời của mẹ đã lớn lên trong cảnh khổ đau và đầy nước mắt.

Năm 16 tuổi, Trần Thị Bái xin cha nuôi cho mình tham gia hoạt động cách mạng, khi đó tham gia tổ chức Liên hiệp Công đoàn Nam Bộ ở Khu 7, Khu 8, Khu 9… Từ Sài Gòn, đường hoạt động của mẹ chuyển dịch vô Đồng bằng sông Cửu Long rồi gắn bó trọn đời mình với vùng đất của cực Nam Tổ quốc. Đến cuối đời, mẹ Trần Thị Bái mong muốn chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng cho phép xây dựng một phủ thờ ở địa phương để bà con nhân dân trong vùng đến thăm viếng, chăm nom bàn thờ Bác. Trần Thị Bái, một người có cuộc sống thật đẹp. Kể về mẹ, chúng tôi muốn ghi lại rằng rừng xanh U Minh có một hình bóng chiến sĩ cách mạng, một công dân thương yêu, kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh thật cảm động. Người ta trong phong tục dân gian lo hậu sự cha mẹ ông bà, cúng cơm hàng ngày một năm, còn mẹ Trần Thị Bái vượt qua thông lệ đó, cúng cơm, hương khói cho vong linh Bác Hồ hàng ngày mấy chục năm trời. Một tấm lòng yêu thương Bác vô vàn.

(Theo Đình Đằng - Trung Thực, trích trong "Miền Tây Nam bộ nhớ mãi Bác Hồ")

Tâm Trang (tổng hợp)

 


 139. "Các chú phải thấy rõ trách nhiệm trước tính mạng và tài sản của nhân dân"

Năm 1967, cuộc chiến đấu của Quân chủng Phòng không - Không quân với không quân Mỹ trên bầu trời miền Bắc nói chung, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng nói riêng, diễn ra ngày càng ác liệt.

Trong cuộc chiến đấu quyết liệt ấy, có mấy lần bộ đội tên lửa của ta, do địch gây nhiễu điện tử rất nặng nên đạn tên lửa đã chệch ra ngoài cánh sóng điều khiển, rơi xuống đất, làm hư hại mấy nhà của dân, thuộc tỉnh Hà Tây. Chính quyền địa phương báo cáo sự việc đó lên Ban Bí thư Trung ương Đảng và Bộ Chính trị. Tin đó đã đến Bác Hồ. Tin đạn rơi gây thiệt hại cho dân, chúng tôi đã chủ động báo cáo lên Tổng cục Chính trị và Bộ Tổng tham mưu. Theo nếp thường xuyên, Quân chủng Phòng không - Không quân khi thắng lợi, cũng như lúc có khó khăn vấp váp, đều kịp thời báo cáo với trên, đó là kỷ luật quân đội, kể từ việc nhỏ đến việc lớn, kể cả sự việc trong quan hệ quân - dân.

Tôi được phân công lên báo cáo trực tiếp với đồng chí Phạm Ngọc Mậu, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Câu đầu tiên đồng chí hỏi tôi:

- Tại sao lại để đạn tên lửa rơi xuống đất? Tôi trả lời:

- Gần đây, do bị thiệt hại nặng, không quân Mỹ đã rút kinh nghiệm. Chúng có nền công nghiệp quân sự cao, đã cải tiến kỹ thuật gây nhiễu phức tạp hơn trước, làm cho đạn tên lửa của ta vượt ra ngoài sự điều khiển, nên đạn rơi xuống đất. Những trường hợp đạn rơi ra cánh đồng thì không sao, chỉ hỏng hoa màu. Lần này đạn rơi vào mấy nhà dân, nên địa phương báo cáo lên Trung ương. Quân chủng đã bàn kế hoạch khắc phục, nhưng chưa kịp sửa chữa...

Anh Phạm Ngọc Mậu cho biết, anh sẽ trình bày việc này với Thường vụ Quân ủy và anh nhắc tôi:

- Các đồng chí về bàn kế hoạch lãnh đạo, động viên bộ đội bình tĩnh, tìm biện pháp khắc phục, tránh để gây thiệt hại cho dân. Khi xảy ra, phải giải quyết tốt và chu đáo với nhân dân; đã xảy ra, phải đảm bảo quyền lợi cho dân, tìm hết biện pháp phát động anh em, phát huy trí tuệ của cán bộ, chiến sĩ, nhất là thông số kỹ thuật và trao đổi học hỏi thêm ở bạn...

Anh Phạm Ngọc Mậu còn nói với tôi:

- Có thể đồng chí còn phải sang gặp Bộ Chính trị và cả Bác Hồ đấy! Tôi chào thủ trưởng, về báo cáo lại với các đồng chí trong Bộ Tư lệnh quân chủng. Các đồng chí đều suy nghĩ, tìm cách khắc phục. Hôm sau, có điện ở trên gọi quân chủng lên báo cáo. Tôi được phân công lên báo cáo cơ quan Trung ương ở nhà số 4, phố Nguyễn Cảnh Chân. Tại đó, tôi được gặp đồng chí Lê Văn Lương, trong Ban Bí thư. Đồng chí hỏi thăm sức khỏe và nói: "Chắc các đồng chí ở dưới quân chủng vất vả và căng thẳng lắm?". Tôi thưa với đồng chí Lương: "Toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong quân chủng đều quyết tâm thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và Quân ủy Trung ương, không ngại gian khổ, quyết tâm bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bắt sống giặc lái"...

Đồng chí Lê Văn Lương nói: "Gần đây Tỉnh ủy và chính quyền tỉnh Hà Tây có báo cáo lên Ban Bí thư và Bộ Chính trị, đạn tên lửa của ta rơi có gây thiệt hại mấy nhà của dân. Các đồng chí trong Bộ Chính trị muốn biết lý do tại sao?". Sau khi hỏi thêm một số điều cụ thể, đồng chí Lê Văn Lương dẫn tôi sang gặp các đồng chí trong Bộ Chính trị. Các đồng chí chỉ tôi ngồi xuống ghế trong phòng họp. Tôi thấy đã có các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... Tôi xin phép báo cáo. Các đồng chí hỏi cặn kẽ về tình hình chiến đấu của bộ đội tên lửa và tỏ ra hết sức quan tâm, thông cảm trước những khó khăn của cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là bộ đội tên lửa. Các đồng chí nói: "Đây là cuộc đấu trí giữa ta và địch. Mỹ có nhiều tiềm lực to lớn, có kỹ thuật hiện đại, ta gặp khó khăn là điều khó tránh khỏi. Nhưng ta có sự lãnh đạo của Đảng, có ý chí quyết tâm cao. Bộ đội ta dũng cảm, mưu trí sáng tạo, cố vươn lên làm chủ kỹ thuật thì dù thế nào ta cũng đánh thắng không quân Mỹ. Cần phát huy hết vai trò làm chủ tập thể của bộ đội, thường xuyên học tập kỹ thuật và cả nghệ thuật chỉ huy. Phải tạo nên sức mạnh tổng hợp, và công tác Đảng, công tác chính trị tư tưởng rất quan trọng".

Tôi nhớ đồng chí Lê Duẩn dặn đi dặn lại: "Phải tổ chức công tác huấn luyện kỹ thuật cho giỏi, thì mới thắng được tuyệt đối, không được xem nhẹ vấn đề kỹ thuật!". Tôi xin phép ra về và báo cáo lại với các đồng chí ở nhà ý kiến của các đồng chí trong Bộ Chính trị. Lãnh đạo quân chủng nhất trí mở cuộc vận động học tập kỹ thuật: "Luyện hay, đánh giỏi, vạch nhiễu tìm thù...". Tiếp hai ngày sau, tôi được gọi lên gặp Bác Hồ, vẫn là vấn đề đạn tên lửa rơi xuống đất. Tôi vừa lo lắng, vừa hồi hộp. Bác ngồi trên chiếc ghế mây và cho phép tôi ngồi bên cạnh. Tôi đang loay hoay lấy sổ ở trong cặp ra để báo cáo, thì Bác bảo:

- Thôi mọi chuyện Bác biết cả rồi. Bây giờ chú nói cho Bác biết: Các chú có cách gì để hạn chế việc đã xảy ra?

- Thưa Bác, chúng cháu đã bàn và động viên bộ đội học tập kỹ thuật cho giỏi và nghiên cứu cách chống nhiễu để khắc phục cho đạn khỏi rơi ạ! Bác Hồ nói: "Điều cần nhất các chú phải thấy rõ trách nhiệm của mình trước tính mạng và tài sản của nhân dân. Phải giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ cùng thấy rõ trách nhiệm đó". Ngừng một lát, Bác nói tiếp: "Nhân dân ta tốt lắm, nhưng các chú đừng thấy nhân dân tốt, dân không nói mà các chú cứ để tình trạng này xảy ra thì không được? Chú về nói lại với các chú trong Bộ Tư lệnh là Bác nhắc như vậy". Rồi Bác hỏi tiếp: "Năm cái nhà dân bị hư hỏng ở Hà Tây, các chú đã làm lại cho dân cái nào chưa?"

Tôi thưa với Bác, tất cả đã được đền bù! Nhưng Bác lại hỏi: "Bác muốn biết nhà của dân bị đạn các chú làm hỏng, bây giờ dân đã có nhà ở chưa?". Tôi lúng túng:

- Thưa Bác, đơn vị dưới báo cáo đã đền bù cả rồi ạ! Còn dân đã có nhà ở chưa thì cháu chưa nắm chắc. Xin phép Bác, cháu về kiểm tra lại, xin báo cáo với Bác sau có được không ạ? Tôi thấy vô cùng ân hận và tự trách mình đã không đi kiểm tra trực tiếp để khi Bác hỏi, không báo cáo được đầy đủ. Bác căn dặn thêm:

- Từ nay về sau, nếu xảy ra những chuyện như thế này, chú phải đích thân đến nơi giải quyết. Không chỉ bồi thường cho dân thỏa đáng, vấn đề không chỉ là tiền mà còn thăm hỏi nhân dân và nhận thiếu sót trước dân. Đừng lấy lẽ mình đánh giặc, muốn làm thế nào cũng được! Bác chỉ bảo mọi việc đã xong, tôi xin phép Bác ra về. Tôi muốn về càng nhanh càng tốt để được báo cáo lại với các đồng chí trong Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh quân chủng về những lời chỉ bảo ân cần của Bác. Tôi cũng dự định xuống ngay mấy nơi xảy ra đạn rơi gây thiệt hại mấy nhà dân, xem đã được sửa chữa chưa và dân có nhà ở chưa?

Rời khỏi nhà sàn, nơi Bác Hồ ở và làm việc, lòng tôi nặng trĩu. Anh Vũ Kỳ nói nhỏ với tôi: "Anh báo cáo lại với các đồng chí ở nhà, làm thế nào, chứ Bác suy nghĩ nhiều về vấn đề này đấy!". Tôi thưa lại với anh Vũ Kỳ: "Chúng tôi cũng cùng bộ đội mất ăn, mất ngủ về việc đạn rơi này!". Tôi bắt tay anh Vũ Kỳ rồi lên xe về quân chủng. Câu nói của Bác Hồ: "Các chú phải thấy rõ trách nhiệm của mình trước tính mạng và tài sản của nhân dân" vẫn như văng vẳng bên tai, xoáy mãi vào tâm trí tôi...

(Theo đồng chí Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân kể).

140. Không có núi sông thì dựa vào người

Lớp học chính trị tại hang Kéo Quảng (Nguyễn Bình) do Bác Hồ trực tiếp phụ trách.

Hồi bấy giờ, Hítle đang ồ ạt tiến công Liên Xô. Quân đội phát xít Đức đã chiếm gần hết Ucraina và chỉ còn cách Thủ đô Mátxcơva khoảng ba mươi kilômét. Nhiều người lo lắng hỏi:

- Phát xít Đức mạnh đến như thế, liệu Liên Xô có thể bị mất không ạ?

Bác nói:

- Việc gì mà phải lo. Liên Xô đã chuẩn bị từ lâu. Đất nước này rộng lắm. Các nhà máy ở thủ đô đều đã rời vào dãy núi Uran cách xa hàng nghìn cây số. Nếu quân đội của Hítle chiếm đóng những vùng gần thủ đô thì Liên Xô sẽ rút về phía Uran và tiếp tục kháng chiến. Đánh giặc phải có căn cứ địa chứ.

Nghe nói đến căn cứ địa, có người hỏi:

- Thưa lão đồng chí, ở miền núi thì lấy núi lấy sông làm căn cứ địa, thế còn ở đồng bằng không có địa thế hiểm trở thì làm thế nào ạ?

Bác cười bảo:

- Có núi thì dựa vào núi, có sông thì dựa vào sông, không có núi, có sông thì dựa vào người dân ở đó.

Rồi Bác kể lại chuyện ông cha ta bao đời đánh giặc, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Nguyên, kẻ địch mạnh đến nỗi hầu hết các nước đều phải chịu thua. Nhưng khi chúng kéo quân vào nước ta, thì cả ba lần đều bị thất bại. Đó là vì triều Trần đã biết lấy dân làm sông, làm núi. Rồi Bác nói tiếp:

- Các chú có biết chữ Hán có chữ “nhân sơn, nhân hải” có nghĩa là “núi người, biển người” không? Ở đâu có dân là ở đó có núi, có sông, có biển. Dân có sức mạnh hơn cả sông núi. Nếu ta biết dựa vào dân thì sẽ thành công.

(Theo Hồi ký của Bằng Giang)

141. Chiếc ô tô cũ "Thắng lợi"

Là vị Chủ tịch nước, nhưng Bác Hồ vẫn chỉ sử dụng đến suốt đời chiếc xe cũ POBEDA (Thắng lợi), màu cà phê sữa, do Chính phủ Liên Xô (trước đây) tặng Bác. Hai đồng chí Ngọc và Nguyên thường lái, chăm chút bảo quản nên vẫn phục vụ Bác được. Xe sử dụng lâu năm cũng xuống cấp nhiều, nên cán bộ giúp việc có ý muốn thay chiếc xe mới. Bác biết tin, Bác hỏi đồng chí Ngọc lái xe:

- Xe hiện nay đã hỏng chưa?

- Thưa Bác xe chưa hỏng nhưng đổi xe mới chạy êm hơn, nhanh hơn…

Nghe vậy, Bác nói ngay:

- Nếu thế thì chưa nên đổi. Ai muốn xe chạy nhanh hơn, ngồi êm hơn thì đổi. Bác vẫn dùng chiếc xe này được rồi, vì nó chưa hỏng. Bác còn nói thêm: Xe tốt thì nên ưu tiên cho các đồng chí làm ngoại giao khi cần tiếp khách quốc tế trước…

Cán bộ giúp việc chưa từ bỏ ý định, mới bàn riêng với lái xe, nhân một lần đi công tác, cố tạo ra sự cố hỏng xe để lấy cớ: Xe quá cũ, máy nóng… không khởi động được, nhưng Bác vẫn không đổi ý, còn dặn:

- Lần sau, trước khi đi công tác, nên kiểm tra cẩn thận, chuẩn bị tốt thì sẽ không bị lỡ công việc.

Cứ như vậy, Bác thủy chung với chiếc xe “Thắng lợi” cho tới ngày Bác đi xa.

Chung quanh chuyện sinh hoạt đời thường của Bác rất nhiều chuyện xúc động, như chiếc xe “Thắng lợi” hiện vẫn ở Bảo tàng Cách mạng là hiện vật lịch sử, nhưng điều ai cũng thấy, cũng nhận ra là bao giờ Bác Hồ cũng rất tiết kiệm, đơn sơ mà gần gũi, bình dân… là bài học giáo dục lớn một cách sinh động nhất.

(Vũ Kỳ kể, Nguyễn Đình ghi, trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

142. Đi làm ruộng với nông dân

Bác sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà Nho, nhưng là nhà Nho có nguồn gốc nông dân. Thời gian dài từ tấm bé đến tuổi học trò Bác sống ở quê giữa những người nghèo khổ, một nắng hai sương ngoài đồng nên Người thấm thía nỗi khổ, nỗi vất vả của người nông dân. Những việc của nghề nông đối với Bác cũng không có gì xa lạ. Thời kỳ hoạt động cách mạng ở nước ngoài, khi Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân, có người thắc mắc hoài nghi vì Bác khai trong lý lịch là xuất thân nhà Nho, trí thức, nghề nghiệp chính lại là thủy thủ, họ e rằng Bác sẽ không có điều kiện để am hiểu các vấn đề về nông dân.

Sau khi bế mạc Đại hội Nông dân, các đại biểu đi thăm một nông trang, thấy nông dân đang lao động, Bác cũng xắn quần xuống giúp một nông dân đang làm ruộng, việc nhà nông đối với Bác không gì khó khăn, trong khi các đại biểu nhiều người đang lúng túng, thì Bác làm nhanh nhẹn như một nông dân thực thụ, trước con mắt thán phục của mọi người. Có ai biết một thời Bác ra đồng cùng người dân quê làng Sen làm lụng, hay những lúc đi trồng nho cùng những người nồng dân nghèo khổ ở Bruklin nước Mỹ.

Trên mặt trận báo chí công luận, Bác là người viết nhiều về nông dân, tố cáo, vạch mặt sự bóc lột sức lao động người nông dân của địa chủ cường hào phong kiến, đẩy nông dân vào con đường bần cùng bằng sưu cao thuế nặng. Bác đã tìm ra và chính Người đã thực hiện cương lĩnh giải phóng người nông dân bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử. Người đã để lại một di sản có một không hai trong lịch sử loài người chân dung một lãnh tụ bên người nông dân...

Ngay sau khi giành được chính quyền, tuy bận trăm công nghìn việc, Bác vẫn dành nhiều thời gian, không chỉ nhắc nhở các địa phương đắp đê chống bão lụt, mà còn trực tiếp xuống tận các xã để đôn đốc, kiểm tra công việc. Biết tin đê sông Hồng ở khu vực Hưng Yên, Thái Bình bị vỡ, Bác đích thân xuống kiểm tra việc khắc phục hậu quả để có biện pháp kịp thời cùng chính quyền địa phương vận động giúp đỡ nhân dân vượt qua khó khăn. Bác hỏi cặn kẽ số người bị nạn, trước hết phải lo cái ăn để họ khỏi đói bữa, sau đến nơi ở và ổn định sinh hoạt cho mọi người, tập trung nhân tài vật lực để đắp lại chỗ đê bị vỡ. Bác hứa khi nào đắp xong Bác sẽ xuống thăm. Thế rồi giữ đúng lời hứa, bốn tháng sau Bác xuống cắt băng khánh thành chỗ đê vừa mới đắp. Bác đi kiểm tra một lượt, nhìn chỗ giáp ranh đê mới đê cũ, Người nhắc nhở phải tăng cường gia cố mới an toàn. Bác vừa đi vừa nhún thử độ lún, khen đắp nhanh nhưng chưa lèn chặt, cần tăng cường thêm lực lượng để đầm thật kỹ mới bảo đảm lâu dài.

Thay mặt "Ban đời sống mới", nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đến báo cáo với Bác là hoạt động của Ban dựa trên ba nguyên tắc: Dân tộc, dân chủ và khoa học. Nghe xong, Bác bèn nói: "Trong đồng bào ta chưa mấy người hiểu những từ chú nói mà hiện nay họ cần là cần cái này'', vừa nói Bác vừa chỉ tay vào bụng, "phải có cái ăn đã nếu không có ăn không làm gì được. Hoạt động của "Ban đời sống mới" cũng phải tập trung cái đó đã, vận động bà con "lá lành đùm lá rách", "tăng gia sản xuất, cứu đói".

Hậu quả nạn đói năm 1945 như một bóng ma ghê rợn phủ lên cuộc sống đói rách của người nông dân, càng làm không khí ảm đạm khó khăn thêm. Trên cương vị Chủ tịch nước, Bác đi xuống các địa phương như Ninh Bình, Thái Bình... để đôn đốc việc cứu đói, tổ chức tăng gia sản xuất, đắp đê phòng chống thiên tai... Một lần trong cuộc họp, bàn chống đói, Bác nói: ''Các chú biết không, người xưa nói: Dân vĩ thực vi thiên''. Có đồng chí tưởng Bác nói nhầm bèn chữa lại: Thưa Bác "Dân dĩ thực vi tiên chứ ạ". Bác cười và giải thích: "Bác nói "Dân dĩ thực vi thiên" là người xưa dạy ''Dân lấy cái ăn làm trời", Đảng, Chính phủ phải lo cái ăn cho dân không được để dân đói". Đó là Bác lấy lời của Lục Sinh nói với Hán Cao Tổ: "Nhà vua lấy dân làm trời, dân lấy cái ăn làm trời". Bác dạy thật chí lý.

Năm 1955, nghe tin lũ lụt lớn ở Kiến An gây thiệt hại lớn về người và của cho nhân dân, Bác cho gọi đồng chí có trách nhiệm lên hỏi cụ thể. Bác hỏi: Xã Hòa Nghĩa mấy người chết, nhà cửa, trường học, bệnh xá bị đổ bao nhiêu?. Khi nghe báo cáo con số thiệt hại cụ thể, Bác rất lo lắng và rơm rớm nước mắt, nhất là biết có nhiều gia đình chết người và trôi nhà cửa. Bác căn dặn phải có phương án tỷ mỉ khắc phục hậu quả thiệt hại. Người chỉ thị Tỉnh ủy phải trực tiếp chỉ đạo và dặn đi dặn lại: "Trước hết phải lo để không một người bị đói". Cứ đến mùa nước lũ, hay kỳ hạn hán Bác thường trực tiếp xuống địa phương tham gia "chống trời" cùng nhân dân. Nhớ lần về công trường Đại thủy nông Bắc - Hưng - Hải, Bác xuống cùng trường tham gia lao động như một người dân. Trên đường đi, thấy một chị đang đẩy xe cút kít nặng nề lên dốc, Bác vội chạy đến đẩy giúp chị...

Lần Bác về Hải Hưng tham gia chống hạn với nông dân, nghe tin Bác về các đồng chí cán bộ tỉnh tổ chức đón Bác long trọng. Bác không hài lòng, phê bình ngay: "Bác về là đi chống hạn chứ có phải đi chơi đâu mà đón tiếp". Bác ăn mặc quần áo như một lão nông thực sự. Người đi rất nhanh đến chỗ nhân dân đang đào mương, xắn quần, xắn tay áo xuống cùng đào đất với bà con, để lại phía sau các "quan cách mạng" trong những bộ quần áo bảnh bao đang lúng túng hổ thẹn trước dân chúng. Cuối cùng tất cả cùng ào xuống đào đất với bà con theo gương Bác. Bác không nói, không hô hào, nhưng Người đã làm cuộc "cách mạng" cho "các quan" trước muôn dân. Bác ăn cơm chung với mọi người tại nơi đang đào mương. Thấy người xới cơm xới bát nào cũng vơi, Bác nói vui: "Chú xới cơm thế này thì công việc làm sao cho đầy được". Bữa ăn có Bác vui hẳn lên. Bác hỏi chuyện:

- "Các chú có biết nấu nướng không?"

Mỗi người kể theo cách hiểu của mình. Bác thừa hiểu chẳng có ai ở nhà thực sự giúp vợ nấu ăn cả nên nghe nói nấu nướng sao thì kể vậy. Rồi Bác kể chuyện hồi xưa Bác làm phụ bếp thế nào nên biết nấu nướng, Bác nói nghề nấu ăn ai biết nấu kể là biết ngay, còn ai chỉ nghe hoặc nhìn thì không thể bịp được người khác, vì kỹ thuật nấu ăn quan trọng là chỗ này. Bác chỉ vào mũi, chứ không phải chỗ này - Bác chỉ vào mắt và tai. Bác nói tiếp, vì sao mọi người phải biết nấu ăn là vì vừa giúp được “cô ấy” có thời gian học tập và nuôi dạy con cái vừa rèn luyện mình, chữa cái bệnh hão, bệnh sĩ, bệnh gia trưởng thâm căn cố đế, cho việc bếp núc là của đàn bà. Hơn nữa khi tự mình nấu thì mình ăn ngon hơn, thích ăn món nào thì làm món ấy. Chuyện vui, nhưng Bác giáo dục đạo đức con người, đạo đức cộng sản trong cán bộ. Bác lo lắng quan tâm đến sự tiến bộ của cán bộ từ những việc làm bình thường nhất nhưng chính đó là những xuất phát điểm của đạo đức chân chính, mà mọi người cán bộ muốn dân tin thì soi vào để tự xem xét rèn luyện hoàn thiện mình.

Bác về Hà Đông chống hạn, khi đến một con mương chắn ngang đường, đồng chí Chủ tịch tỉnh mời Bác đi vòng đến chỗ dễ qua hơn. Nhìn xuống thấy đồng chí Chủ tịch tỉnh đi đôi giày bóng lộn. Bác bảo: "Chú cứ đi đường ấy". Nói rồi, Bác cởi dép lội tắt qua cho nhanh để đến với nông dân đang tát nước chống hạn. Sang bờ bên kia, Bác bảo mọi mười cùng tát nước giúp dân.

Bác chỉ một thanh niên ăn mặc bảnh bao cùng tát nước với Bác, nhưng đồng chí này không biết tát nước, đồng chí Bí thư tỉnh đỡ lời: "Thưa Bác, đồng chí này là nhà báo ạ". Bác cười và nói: "Nhà báo của nông dân thì phải biết lao động như nông dân thì viết mới đúng được".

Mỗi người dân chúng ta ai cũng được xem hình ảnh Bác đang đạp nước trên guồng chống úng, ghi nhận trong ta hình ảnh Bác hòa mình với nỗi vất vả một nắng hai sương của người nông dân. Khắc sâu trong ta tâm niệm Chủ tịch nước cũng là một công dân một người lao động trong triệu triệu người không có gì cách biệt. Đó là hình ảnh được ghi lại vào năm 1960 khi Bác về chống úng tại xã Hiệp Lực. Vừa đạp guồng nước, Bác vừa nhắc nên lắp ổ bi vào trục để người đạp đỡ vất vả, mà năng suất cao hơn. Bác hỏi các cô thanh niên có biết hát đối không, rồi Bác lẩy Kiều: "Trăm năm trong cõi người ta, chống úng thắng lợi mới là người ngoan". Bác bảo các cô lẩy tiếp, các cô vì mãi nhìn Bác nên không chuẩn bị không lẩy tiếp được chỉ biết vỗ tay, và xin mắc nợ với Bác. Bác nói: ''Muốn lao động đỡ mệt và có sức mạnh thanh niên nên tổ chức văn nghệ".

Năm 1958, Bác về Nam Định dự Hội nghị "Bàn về sản xuất nông nghiệp". Bác chăm chú lắng nghe các bản báo cáo thành tích của các đơn vị. Bác chú ý bản báo cáo nói về cách làm các loại phân bón. Bác đứng lên nhìn khắp hội trường và hỏi to: "Chú nào gánh bùn đổ cho hai sào lúa có đây không?". Không có ai đứng dậy. Một đồng chí cán bộ tỉnh ủy báo cáo là người nông dân đó không thuộc diện tham dự hội nghị này. Bác phê hình và yêu cầu cho người đó đến dự hội nghị ngay. Bác hỏi, chị em phụ nữ ở đây có đội phân nữa không? Các đồng chí cán bộ tỉnh chưa dám báo cáo với Bác ngay, may có chị đại biểu nữ đỡ lời: "Thưa Bác, chị em ở đây không quen gánh nên cái gì cũng đội ạ". Bác dặn: "Nên tìm cách cải tiến vận chuyển bằng xe để đỡ cho chị em về lâu dài".

Năm 1968, Bác về chống hạn ở Nghiêm Xuân (huyện Thường Tín); hôm đó Bác đến sớm, đồng bào còn vắng, tiện đường Bác xuống khu dân cư, hỏi thăm bà con. Bác vào một nhà dân hỏi Tết vừa qua gia đình đón Tết có vui không? Có cụ già 60 tuổi thưa với Bác là ăn Tết không vui. Bác hỏi vì sao, cụ kể lại gia đình từ xưa có ngôi nhà gần đường, vừa qua huyện có lệnh đuổi bà đi để mở đường, không bồi thường, cũng không chỉ cho gia đình chuyển đi đâu, vì thế gia đình ăn Tết không vui, người ra lệnh ấy là ông chủ tịch huyện. Bác lắng nghe mà vẻ mặt không vui, Bác bảo, làm người cán bộ như vậy là không xứng đáng, không khác gì cường hào xưa. Sau đó Bác chỉ thị phải điều tra làm rõ ngay. Vị Chủ tịch kia bị kỷ luật. Lòng dân rất phấn khởi và nhắc mãi chuyện đó như làm gương cho cán bộ đối với dân phải làm gì. Hôm đó Bác tham gia chống hạn với dân, trời nắng to có đồng chí cầm ô che cho Bác, Bác bảo: "Dân chịu được thì Bác cũng chịu được, chú làm như Bác là ông quan thời xưa". Trên đường đi chống hạn giúp dân, thấy phía trước có xe công an còi inh ỏi dẹp đường, Bác cho dừng xe và lệnh cho xe công an dừng lại, Bác mới đi tiếp. Bác phê bình: "Bác xuống với dân để chống hạn mà các chú làm cho dân họ sợ thì xuống làm gì?"...

Những năm tháng cuối đời, tuy sức khỏe yếu nhưng Người đã dành nhiều thời gian làm việc với các đồng chí phụ trách nông nghiệp. Họp Bộ Chính trị hay trong các buổi làm việc về nông nghiệp Bác thường nhắc đến Điều lệ Hợp tác xã. Bác bảo công nhân có ngày kỷ niệm, nên lấy ngày ban hành Điều lệ Hợp tác xã làm ngày kỷ niệm cho nông dân. Bác dặn viết bản Điều lệ sao cho nông dân ít học cũng hiểu được. Sau khi đọc bản dự thảo, Bác nói đây là bản dùng cho cán bộ, còn đối với xã viên thì viết phải tóm tắt hơn, dễ hiểu hơn. Bác đọc và sửa chữa rất kỹ, có chỗ nào chữ nghĩa cầu kỳ khó hiểu Bác đều sửa lại. Số thứ tự các chương đánh số La Mã, Bác sửa lại "chương Một... Hai..." Sau đó Bác yêu cầu chuyển nội dung bản Điều lệ sang diễn ca phát trên Đài Phát thanh cho dân dễ thuộc, dễ nhớ, để làm theo.

(Theo Bá Ngọc, trích trong “Hồ Chí Minh - chân dung đời thường”)

Tâm Trang (tổng hợp)


 145. Bác Hồ với các nhà sư

Năm 1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Thủ đô Hà Nội bắt đầu thành lập chính quyền ở các khu phố. Hôm Bác đến chùa Quán Sứ, các nhà sư mời Bác ăn cơm chay. Ăn xong, Bác cười, nói với các nhà sư:

- Trên chiến khu, tôi và anh em cán bộ bộ đội ăn chay quanh năm, tức là chỉ có cơm với rau và muối vừng.

Nhưng Bác nói thêm:

- Nhân dân ta nghèo quá nên bữa cơm thường là "chay" cả. Chúng ta phải đấu tranh để bữa ăn của nhân dân ta thêm thịt, cá. Các nhà sư có bằng lòng không ạ?

- Thưa Bác, có ạ!

Các nhà sư đều nghe Bác chăm chú. Cứ thế, từ chuyện ăn chay Bác nói đến vấn đề đoàn kết trong Phật giáo và các tôn giáo với nhau. Khi Bác về rồi, các nhà sư bàn tán:

- Không hiểu sao ông Cụ hiểu rõ chúng ta như vậy. Cụ nói nghe thấm thía quá.

Một lần khác, Bác Hồ đến thăm chùa Bà Đá. Tôi đã chọn một đội nhi đồng, các em đều mặc áo trắng quần xanh, đội mũ ca lô trắng, xếp hàng đón Bác từ cổng chùa vào đến Tam Đảo. Vừa đến cổng chùa, Bác liền cúi xuống bế ngay một em bé lên. Thế là các cháu xúm lại không còn hàng lối gì nữa. Khoảng cách giữa lãnh tụ với thiếu nhi không còn, chỉ còn lại mối tình ông cháu đằm thắm.  Vào chùa, Bác nói chuyện ngay với các nhà sư như bạn cũ gặp nhau:

- Bây giờ toàn dân đều làm cách mạng đánh đuổi giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt. Tôi mong là các nhà sư sẽ không đứng ngoài. Mà muốn thế, trước hết các nhà sư phải đoàn kết thành một khối thống nhất, không có sự chia rẽ nữa. Sau những lần được Bác Hồ đến thăm và nói chuyện, theo ý Bác các nhà sư đứng đầu các "sơn môn" được mời đến Hội Khai trí Tiến Đức để bàn về vấn đề đoàn kết Phật giáo. Các sư đều nói:

- Đây là lần đầu tiên chúng ta được gặp nhau để bàn về hướng đi của Phật tử. Cụ Hồ đã dạy là phải đoàn kết, phải đánh Pháp đuổi Nhật. Tất cả chúng ta đều theo lời Cụ. Từ đó, các phe phái trong Phật giáo đã đoàn kết lại, nhiều nhà sư trở thành cán bộ cách mạng, nhiều chùa là nơi che giấu cán bộ kháng chiến.

(Bác sĩ Nguyễn Hữu Thuyết kể, trích trong "Nơi đây Bác viết Tuyên ngôn Độc lập")

146. Bác Hồ tuyên dương công trạng các đơn vị phòng không và hải quân sau chiến thắng trận đầu ngày 02 và 05-8-1964

Ngày 07-8-1964, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức trọng thể lễ tuyên dương công trạng các đơn vị Phòng không và Hải quân đã lập chiến công trừng trị bọn khiêu khích và gây chiến Mỹ đối với miền Bắc nước ta những ngày 02 và 05-8-1964.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Tổng Tư lệnh tối cao của dân tộc, đến chủ tọa buổi lễ trọng thể này. Bác đến rất sớm. Bác rất vui. Bác ân cần thăm hỏi các đại biểu về tham dự buổi lễ trọng thể:

- Các chú có khỏe cả chứ? - Tiếp đó, Bác nói thêm một câu đầy ý nghĩa:

- Nóng quá có phải không?

Sau đó, Bác hỏi ngay đến đại biểu bộ đội phòng không. Đồng chí Phùng Thế Tài, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, vội đứng dậy.

- Chú Hữu Tài đấy à? Lên đây, lên đây! - Bác vừa gọi, vừa vẫy tay.

Đồng chí Phùng Thế Tài nghe Bác gọi mình bằng tên cũ, không sao nén nổi xúc động. Hồi đó năm 1944, vào một mùa Thu, anh thanh niên Hữu Tài được đồng chí Vũ Anh, thay mặt Tổng bộ Việt Minh, gọi lên giao nhiệm vụ quan trọng, là bảo vệ đồng chí Hoàng, một đồng chí cách mạng lão thành. Anh chưa biết đồng chí Hoàng là ai, nhưng Đảng đã giao nhiệm vụ, thì "Hữu Tài xin nguyện, nếu cần sẽ hy sinh cả tính mạng để bảo vệ đồng chí!". Ngày hôm sau, anh được gặp đồng chí Hoàng, một cụ già người nhỏ nhắn, mặc một chiếc áo bông sờn, tay chống gậy, chân đi dép rơm. Cụ không được khỏe nhưng đôi mắt sáng, chòm râu đen nhánh, vừa trông thấy anh, đồng chí Hoàng đã vui vẻ, nói:

- Chú Hữu Tài đấy à! Bác cháu ta đi công tác!

Đồng chí Hoàng, chính là Bác Hồ vô cùng kính yêu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Lễ tuyên dương tổ chức trang trọng nhưng ấm cúng, phấn khởi. Đoàn Chủ tịch buổi lễ trọng thể còn có các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Trần Sâm.

Tới dự buổi lễ còn có nhiều cán bộ cao cấp trong quân đội, đại biểu các binh chủng, quân chủng, lực lượng Công an nhân dân vũ trang, đại biểu Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, đại biểu Đảng bộ và chính quyền một số địa phương vừa chiến thắng. Hồ Chủ tịch đọc huấn thị. Tất cả đại biểu dự lễ lắng nghe từng lời của Người. Hồ Chủ tịch nói:

- Bác rất vui mừng thay mặt Đảng và Chính phủ, đến khen ngợi các chú đã lập được thành tích lớn trong các cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ vừa qua. Các chú đã chiến đấu rất dũng cảm, đã bắn rơi 8 chiếc máy bay Mỹ và bắn hỏng 3 chiếc, vừa rồi nghe tin thêm 4 chiếc máy bay nữa. Các chú đã bắt sống phi công Mỹ, đánh đuổi tàu chiến Mỹ ra khỏi vùng biển nước ta. Như vậy là rất tốt.

Nhân dịp này, Bác gửi lời thân ái thăm hỏi các đơn vị Phòng không, Hải quân và các đơn vị bộ đội, Công an nhân dân vũ trang, dân quân tự vệ và đồng bào ta ở các vùng bị giặc khiêu khích, đã nêu cao truyền thống quyết chiến, quyết thắng và đã trừng phạt đích đáng kẻ địch.

Bác căn dặn:

- Chúng ta phải biết rằng đế quốc Mỹ và tay sai "chết thì chết nết không chừa".

Chúng còn nhiều âm mưu hung ác. Trong trận này, chúng ta đã cho đế quốc Mỹ một bài học đích đáng. Đồng thời chúng ta thấy rõ hơn những ưu điểm và nhược điểm của ta. Các đơn vị bộ đội, Công an nhân dân vũ trang, dân quân tự vệ và các địa phương, cần rút kinh nghiệm để sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Các chú phải tiếp tục đẩy mạnh mọi mặt công tác và luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Nhân dân ta rất yêu chuộng hòa bình. Nhưng nếu đế quốc Mỹ và tay sai xâm phạm đến miền Bắc nước ta, thì toàn dân ta nhất định sẽ đánh bại chúng. Hồ Chủ tịch vừa dứt lời, mọi người đều đứng dậy vỗ tay hồi lâu, tưởng như không dứt.

Tiếp sau đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, phát biểu ý kiến:

- Chiến công vẻ vang của các chiến sĩ bộ đội Phòng không, Hải quân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta có ý nghĩa rất to lớn. Đó là ý chí sắt đá của toàn quân và toàn dân ta kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh Tổ quốc, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân miền Bắc nước ta. Đó là sự trừng phạt đích đáng dạy cho bọn kẻ cướp xâm lược Mỹ biết rằng: Liều lĩnh xâm phạm đến an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhất định chúng sẽ chuốc lấy thất bại nhục nhã. Các đồng chí đã làm tốt nhiệm vụ vinh quang bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Các đồng chí đã xứng đáng với đồng bào và quân giải phóng miền Nam anh hùng hiện đang chiến đấu và chiến thắng trên tuyến đầu Tổ quốc. Nhắc đến hành động xâm lược của đế quốc Mỹ, Đại tướng nghiêm khắc cảnh cáo:

- Đế quốc Mỹ hãy coi chừng! Mọi hành động khiêu khích, xâm lược đối với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhất định sức mạnh của toàn thể nhân dân Việt Nam sẽ đánh bại. Tiếp theo đó Thiếu tướng Trần Sâm, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đọc Lệnh khen thưởng của Hồ Chủ tịch.

Đồng chí Trường Chinh - Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội trao tặng đơn vị Phòng không và đơn vị Hải quân Huân chương Quân công hạng Nhì và ôm hôn thắm thiết đại biểu các đơn vị với cử chỉ thân mật. Đồng chí Trường Chinh căn dặn: "Thắng lợi có ý nghĩa chính trị rất lớn, nhưng mới chỉ là bước đầu. Phải chú ý rút kinh nghiệm để trận sau thắng to hơn".

Thay mặt toàn thể cán bộ, chiến sĩ bộ đội phòng không - không quân, đồng chí Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân tỏ lòng vô cùng phấn khởi được vinh dự nhận Huân chương cao quý của Quốc hội và Chính phủ trao tặng. Đồng chí chân thành cảm ơn sự quan tâm, chăm sóc của Quốc hội và Chính phủ đối với Quân chủng Phòng không - Không quân.

Đồng chí nói tiếp:

- Chúng tôi hiểu rằng những thắng lợi mà chúng tôi vừa giành được mới chỉ là bước đầu đạt được. Những chiến thắng vẻ vang đó trước hết là do sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, của Bác Hồ, của Quân ủy Trung ương; nhờ có sự phối hợp chặt chẽ của các quân, binh chủng bạn và sự giúp đỡ tận tình của nhân dân.

Cuối cùng, đồng chí hứa:

- Nhận rõ vinh dự được nhận phần thưởng cao quý hôm nay, Quân chủng Phòng không - Không quân càng xác định rõ trách nhiệm nặng nề của mình trước Đảng và nhân dân, nguyện luôn luôn xứng đáng là lực lượng vũ trang cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với dân, luôn luôn cảnh giác cách mạng, kiên quyết chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, thống nhất Tổ quốc.

Trước khi buổi lễ kết thúc, Bác Hồ còn căn dặn thêm:

- Vừa rồi, các cô, các chú làm được như vậy là rất tốt, nhưng không được chủ quan khinh địch. Phải đoàn kết, cảnh giác, giặc đến là đánh, đã đánh là phải thắng. Bác vui vẻ giơ từng ngón tay lên nói tiếp:

- Thi đua mỗi người làm việc bằng hai. Vừa qua ta bắn rơi 8 chiếc phản lực, lần sau hai tám mười sáu, rồi ba tám hai bốn...

Trong không khí tràn đầy phấn khởi, tin tưởng, cả hội trường dấy lên tiếng hoan hô vang dội, tỏ lòng kiên quyết thực hiện lời Bác dạy. Tiếng quân nhạc hùng tráng kết thúc buổi lễ mừng chiến thắng như giục giã mọi người đạp lên đầu thù mà xốc tới và ngợi ca những tay súng tuyệt vời, với hào khí ngút trời đã làm nên chiến công vang lừng một ngày đầu thu Tháng Tám.

(Đồng chí Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân kể, trích trong "Bác Hồ với Phòng không - Không quân").

147. Bác Hồ gặp cán bộ cao cấp toàn quân

Chiều ngày 11-5-1969, sau khi các cán bộ về dự họp có mặt đông đủ, các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đến báo cáo với Bác và mời Bác ra chỗ họp cán bộ cao cấp toàn quân. Đúng 16 giờ 15 phút, mọi người đang chăm chú chờ đón Bác, thì xe Bác đã đến từ cổng sau, đỗ cách nhà sàn. Bác bước lên thềm phía sau và bước vào ghế ngồi. Khi nhìn thấy Bác, các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng đều đứng lên chuẩn bị ra đón Bác, Bác liền giơ tay ra hiệu ngồi xuống.

Bác thân mật cất tiếng hỏi: "Các chú có khỏe cả chứ?". Mọi người đều vui vẻ trả lời:

- "Thưa Bác, chúng cháu khỏe ạ!". "Có vui không".

"Thưa Bác, vui lắm ạ!". "Thế thì tốt. Vậy các chú vỗ tay đi!". Cả hội trường đều vui mừng vỗ tay kéo dài...

Anh Vương Thừa Vũ thay mặt anh em mang bó hoa tươi thắm lên chúc thọ Bác. Vì xúc động quá, nên giọng anh run run: "Thưa Bác, nhân dịp mừng thọ Bác 79 tuổi, chúng cháu thay mặt cán bộ, chiến sĩ toàn quân kính chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu. Toàn bộ lực lượng vũ trang nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo, biết ơn sự chăm sóc, giáo dục và thương yêu của Đảng và Bác".

Anh Vũ vừa dứt lời, Bác liền rút một bông hoa tặng lại anh Vũ. Một cử chỉ thật âu yếm và thân tình. Tiếp đó, Bác nói chuyện: "Hôm nay gặp mặt các chú đại biểu cho toàn quân, Bác rất vui. Bác chúc các chú mạnh khỏe, chúc bộ đội ta nhiều sức khỏe, nhiều tiến bộ và giành nhiều thắng lợi mới".

Tiếng vỗ tay vang lên trong niềm vui dạt dào từ trong lòng mỗi cán bộ cao cấp. Bác ra hiệu mọi người im lặng, rồi thân mật nói tiếp: "Mấy hôm nay nghe tin đồng bào và chiến sĩ miền Nam đánh mạnh và thắng to, Bác càng thấy khỏe trong người". Mọi người đều phấn khởi trước lời khen của Bác. Những tiếng vỗ tay kéo dài không ngớt. Bác lại ra hiệu im lặng và nói: "Từ Tết Mậu Thân đến nay, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã bước vào giai đoạn mới. Đồng bào và chiến sĩ ta ở miền Nam đã đánh rất giỏi, thắng rất to; ở miền Bắc cũng đánh rất giỏi, thắng rất to. Quân và dân cả nước ta đã giành được những thắng lợi vẻ vang". Bác nói tiếp:

- "Thế giặc Mỹ thua đã rõ ràng, nhất định chúng sẽ hoàn toàn thất bại". Bác giải thích cho cán bộ rõ thêm về thế và lực, rồi Bác nhắc: Thế nhưng không được chủ quan, thỏa mãn. Đế quốc Mỹ "còn rất ngoan cố, chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Quân và dân cả nước ta còn phải vượt qua nhiều hy sinh, gian khổ để đi tới thắng lợi cuối cùng!".

Bác ngừng lại, hỏi: Các chú có sợ hy sinh, gian khổ không? Tất cả hội trường đều đồng thanh đáp: Thưa Bác, không ạ! Bác gật đầu, vui vẻ: Thế là tốt, vì độc lập, tự do, bộ đội ta, nhân dân ta không sợ hy sinh, gian khổ. "Chỉ khi nào quét sạch hết giặc Mỹ ra khỏi đất nước, đánh đổ bọn Việt gian bán nước, miền Nam được hoàn toàn giải phóng thì nhân dân ta mới có hòa bình và tự do thật sự, Bắc - Nam mới sum họp một nhà.

Để mau tiến tới ngày vui lớn ấy, các chú phải ra sức phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao phó". Bác nói: "Phải xây dựng lực lượng thật tốt, chất lượng thật cao". Bác còn nói: "Chú ý tiết kiệm sức người và sức của, giữ gìn thật tốt vũ khí, trang bị".

Cuối cùng, Bác ân cần căn dặn: "Phải cố gắng học tập và luôn luôn gương mẫu về đạo đức cách mạng".

Cuộc gặp gỡ rất mỹ mãn, Bác rất vui, như khỏe ra. Tất cả các đồng chí cán bộ cao cấp toàn quân hôm ấy đều tin Bác Hồ mạnh khỏe thật sự, rất hồng hào, nhanh nhẹn, rất minh mẫn. Những lời dạy bảo của Bác thật chí tình, thiết tha và sâu sắc biết bao!

(Đồng chí Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân kể, trích trong "Bác Hồ với Phòng không - Không quân").

148. Bác rất thương các cháu miền Nam

Nắng tháng Sáu rực rỡ. Những ngày tháng Sáu năm 1969, Hà Nội từng bừng đón tin vui: Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập. Phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chúng tôi được nâng lên thành Đoàn đại diện đặc biệt của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trụ sở của Đoàn những ngày này tấp nập đại biểu trong nước và nước ngoài đến chúc mừng.

Sáng 12-6, chúng tôi vô cùng xúc động và phấn khởi được đón Bác Hồ đến chúc mừng bước trưởng thành của cách mạng Việt Nam.

Chúng tôi quây quần bên Bác, người Cha già yêu thương vô hạn. Bác ân cần hỏi thăm sức khoẻ anh chị em trong Đoàn chúng tôi, hỏi han hoàn cảnh công tác, gia đình mỗi cán bộ, nhân viên, không thiếu một ai.

Bác nhờ Đoàn chuyển lời thăm hỏi thân ái của Người đến các vị trong Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và trong Hội đồng cố vấn Chính phủ. Bác cũng nhờ Đoàn chúng tôi chuyển lời khen ngợi đồng bào và bộ đội, các cụ phụ lão, chị em phụ nữ, các cháu thanh niên và nhi đồng miền Nam đã luôn luôn đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu anh dũng, thắng lợi vẻ vang.

Bác lại đem kẹo chia cho các cháu và tất cả chúng tôi như lần đầu tiên Bác đến thăm phái đoàn.

Một kỷ niệm thiêng liêng, sâu sắc nữa lại đến với tôi. Ngày 14-6, anh Nguyễn Phú Soại và tôi nhận được tin Bác cho biết muốn gặp chúng tôi. Tôi vừa mừng, vừa lo.

Đúng bảy giờ, chúng tôi vào nhà Bác. Bác tiếp chúng tôi ngay tại nhà như những người thân trong gia đình. Tôi ngồi cạnh Bác và quạt cho Bác như con gái về thăm ba.

Bác thân mật nói: Hôm nay, Bác muốn gặp cô và chú để hỏi về tình hình các cháu học sinh miền Nam, Bác được báo cáo có một số cháu tiến bộ chậm.

Chúng tôi báo cáo với Bác về những cố gắng của Bộ Giáo dục, của thầy giáo, cô giáo các trường nhận dạy con em miền Nam và những cố gắng của Phái đoàn của chúng tôi về công tác này.

Không những Bác biết rõ tình hình ăn học của các cháu mà còn nêu cho chúng tôi tên những cháu ngoan và một số cháu chưa ngoan.

Bác dặn chúng tôi, đại ý: Nếu để tình hình này kéo dài thì ba má và gia đình các cháu đang chiến đấu ở miền Nam sẽ kém yên tâm. Bác nhắc nhở chúng tôi là những người thay mặt cho cha mẹ các cháu phải đặc biệt quan tâm chăm sóc, giáo dục các cháu ngày càng tiến bộ. Bác động viên chúng tôi phải cố gắng và quyết tâm. Bác nêu rõ trách nhiệm phải nuôi dạy cho các cháu tiến bộ nhiều vì bản chất các cháu rất tốt, các cháu đều là mầm non của đất nước. Việc dạy dỗ, nuôi dưỡng đòi hỏi phải có lòng thật sự thương yêu các cháu…

Được ngồi bên Bác, nghe những lời chỉ bảo của Bác, tôi càng nhớ đồng bào miền Nam da diết.

Khi ra về, qua vườn nhà Bác, tôi nhìn thấy cây vú sữa đồng bào miền Nam gửi tặng Bác và Bác ngày ngày tự tay vun xới đã lớn lên, cao quá mái nhà đơn sơ của Bác. Tôi nhìn cây vú sữa mà nghĩ đến người Ông trồng cây cho con cháu ăn quả đời đời. Bác đã kêu gọi nhân dân miền Bắc trồng cây cho đất nước xanh tươi và Bác cũng không quên nhắc mọi người: “Chúng ta phải trồng cây cho đồng bào miền Nam nữa”. Bác nhắc: “Trồng cây nào tốt cây ấy”. Có những loại cây, Bác tự tay trồng và chăm bón cho đến khi ra hoa kết quả, rồi Bác lấy giống gửi tặng các địa phương để “nhân lên”. Bác dặn các cụ già và các tỉnh chú ý “nhân giống cho miền Nam, trồng nhiều cây miền Nam trong vườn kết nghĩa”. Bác luôn nghĩ đến việc ươm hạt giống cách mạng cho miền Nam. Miền Nam trân trọng những hạt mầm của Bác.

Tình cảm của Bác đối với đồng bào miền Nam sâu rộng hơn Biển Đông. Tình yêu thương của Người đối với thanh niên, thiếu niên, nhi đồng Thành đồng mênh mông bát ngát. Giữa tháng 7-1969, trong buổi gặp mặt thân mật với chị phóng viên Cuba, Mácta Rôhát, Bác đã nói: “Ở miền Nam, những thanh niên dưới 25 tuổi không biết được thế nào là hai chữ “tự do”. Có thể nói rằng ở miền Nam, mỗi người, mỗi gia đình có một nỗi đau khổ riêng, và nếu mỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình gộp lại thì đó là nỗi đau khổ của tôi”.

(Theo Nguyễn Khánh Phương, trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

Tâm Trang (tổng hợp)


 149. Bác Hồ động viên bộ đội Phòng không - Không quân trước giờ ra trận

Sau thất bại nặng trên vùng trời Hàm Rồng, Thanh Hóa hai ngày 3 và 04-4-1965, không quân Mỹ hoàn toàn bị bất ngờ trước sự xuất hiện của không quân ta. Chúng vội thay đổi thủ đoạn, không đánh tập trung ồ ạt nữa, mà chỉ dùng tốp nhỏ, bay ở độ cao trên trung bình. Chúng cho rằng, ta chỉ có máy bay MIG-17, tốc độ chậm và hỏa lực mặt đất chỉ có pháo cao xạ là đáng kể. Nếu thường xuyên bay ở độ cao trên trung bình, coi như loại trừ được phần lớn hệ thống hỏa lực đó. Vì thế, từ cuối tháng 5-1965, không quân Mỹ tiếp tục mở đợt "leo thang" mới, đánh rộng ra khắp miền Bắc, chỉ trừ Hà Nội và Hải Phòng. Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh quân chủng chúng tôi họp và nhận định tình hình, thấy phải nhanh chóng đưa bộ đội tên lửa ra quân, "vít đầu máy bay địch" xuống mà đánh. Lúc này ta mới có hai trung đoàn tên lửa SAM-2 vừa thành lập.

Trung đoàn 236 - Trung đoàn tên lửa đầu tiên mới bước vào huấn luyện từ tháng 5. Nhưng trước tình hình mới, Trung đoàn 236 phải rút bớt thời gian huấn luyện, khẩn trương ra quân đánh tan thủ đoạn mới của không quân Mỹ. Chúng tôi nhận định trước mắt, địch chưa thể đánh Hà Nội. Cần phải đặt trận địa tên lửa ra ngoài Hà Nội, nơi không quân Mỹ thường hoạt động, sẽ giành được yếu tố bất ngờ. Một mặt báo cáo lên trên xin ý kiến chỉ đạo, một mặt chúng tôi cử cơ quan Tham mưu của quân chủng đi nghiên cứu, xác định rõ nơi cần bố trí trận địa tên lửa, thời gian ra quân và cách đánh sao cho đảm bảo chắc thắng!

Qua kiểm tra, thấy mới có hai tiểu đoàn hỏa lực tên lửa gồm 12 bệ phóng có thể ra quân chiến đấu. Nhưng với quyết tâm đánh thắng thủ đoạn mới của không quân Mỹ, kế hoạch tác chiến đã nhanh chóng hoàn thiện: Ta sẽ tổ chức một cụm phục kích lớn bắn máy bay Mỹ, gồm: 2 tiểu đoàn tên lửa với 12 bệ phóng; 2 trung đoàn và 2 tiểu đoàn pháo cao xạ có gần 30 đại đội pháo từ cỡ 37mm đến 100mm; 1 tiểu đoàn súng máy cao xạ tự hành trên xe bọc thép và 10 trận địa súng máy phòng không tầm thấp của dân quân, tự vệ. Lực lượng này được bố trí trên khu vực rộng gần hồ Suối Hai, bên sông Đà thuộc huyện Bất Bạt, tỉnh Hà Tây. Một đại đội rađa cảnh giới được điều đến trực tiếp phục vụ cụm phục kích. Một Sở chỉ huy tiền phương của quân chủng được thành lập, trực tiếp chỉ huy tác chiến toàn bộ lực lượng trên. Sau khi được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu thông qua kế hoạch và chỉ đạo thêm, Thường vụ Đảng ủy quân chủng chúng tôi lập tức họp bàn tổ chức thực hiện: Đêm 20-7- 1965, các đơn vị bắt đầu hành quân đi chiến đấu, chiếm lĩnh trận địa theo kế hoạch.

Đêm 21-7-1965, hai tiểu đoàn tên lửa 63, 64 phải chiếm lĩnh xong trận địa. Các trận địa dự bị của tên lửa, pháo cao xạ cũng phải chuẩn bị xong trước ngày 22-7. Trận phục kích đánh máy bay Mỹ bắt đầu từ ngày 22-7, kéo dài đến hết tháng. Riêng hai tiểu đoàn tên lửa, sau khi đánh trận đầu phải cơ động ngay trong đêm đến trận địa mới. Hai trận địa tên lửa giả được dựng lên trên trận địa cũ bằng tre và cót ép, sơn như thật để nhử địch đến tập kích, cho các đơn vị pháo cao xạ tiếp tục chiến đấu, lập công... Nhưng tối 18-7-1965, chúng tôi bỗng nhận được thông báo đặc biệt: Bác Hồ nghe báo cáo bộ đội tên lửa chuẩn bị ra quân chiến đấu, đã yêu cầu quân chủng bố trí để Bác đến động viên các chiến sĩ trước giờ ra trận!... Nhận được thông báo, chúng tôi vừa mừng, vừa lo. Mừng vì trước khi quân chủng thực hiện một nhiệm vụ chiến đấu mới, đã được Bác Hồ quan tâm đến động viên, giáo dục bộ đội. Lo vì các đơn vị sắp đi chiến đấu, đang gấp rút chuẩn bị hành quân lại ở xa Hà Nội, liệu đón Bác ở đâu sao cho đảm bảo bí mật, an toàn. Sau cùng chúng tôi quyết định điều Đại đội 1, pháo cao xạ Trung đoàn 234 và Tiểu đoàn 241, súng máy cao xạ tự hành trên xe bọc thép, hành quân gấp ngay trong đêm đến chiếm lĩnh trận địa pháo cao xạ đã có sẵn trên sân bay Bạch Mai, sẽ là nơi đón Bác.

Sau khi báo cáo Văn phòng Phủ Chủ tịch và Tổng cục Chính trị về thời gian, địa điểm đón Bác Hồ, chúng tôi phân công anh Phùng Thế Tài, Tư lệnh và anh Đặng Tính, Chính ủy quân chủng thay mặt Bộ Tư lệnh quân chủng đón Bác tại sân bay Bạch Mai vào sáng sớm ngày 19-7. Tôi và các anh Phó Tư lệnh quân chủng vừa lo trực chiến trong Sở chỉ huy, vừa lo kiểm tra, đôn đốc các đơn vị hành quân theo kế hoạch. Tôi giao nhiệm vụ cho Cục Chính trị cử cán bộ sang đón sẵn tại sân bay Bạch Mai, phổ biến cho cán bộ hai đơn vị vừa hành quân đến, tổ chức giáo dục bộ đội giữ bí mật và chuẩn bị thật tốt trước khi đón Bác Hồ đến thăm. Đồng thời nhắc cơ quan cử phóng viên đến chụp ảnh, ghi âm bài nói của Bác Hồ với bộ đội, viết bài tuyên truyền kịp thời trong quân chủng.

Sáng sớm ngày 19-7-1965, Đại đội 1 Trung đoàn 234 và Tiểu đoàn 241 đã chiếm lĩnh xong trận địa trên sân bay Bạch Mai. Tiếng máy nổ chạy đều và những khẩu pháo cao xạ đã nằm trong công sự, rung rinh lá ngụy trang xanh. Những chiếc xe bọc thép, trên mỗi xe là khẩu súng phòng không hai nòng vươn cao, đỗ thành hàng sát mép đường băng sân bay. Khi khẩu lệnh "chuẩn bị chiến đấu xong" vang lên trên trận địa, cũng là lúc đoàn xe chở Bác Hồ vừa đến. Cùng đi với Bác còn có đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng quân đội và đồng chí Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Bác bước nhanh đến với các chiến sĩ như một người cha hiền từ, rất gần gũi khiến ai nấy đều bồi hồi, xúc động. Đồng chí Phùng Thế Tài, Tư lệnh báo cáo với Bác về hai đơn vị được thay mặt toàn quân chủng đón Bác đến thăm. Đó là Tiểu đoàn 241, đơn vị súng máy cao xạ tự hành, mới thành lập được hơn hai tháng, đã "vừa đi, vừa đánh", cơ động hàng nghìn kilômét, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ từ Ninh Bình, Hà Bắc tới Quảng Ninh. Đại đội 1 Trung đoàn 234 đã cơ động chiến đấu trên nhiều chiến trường, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, trở thành "Đại đội quyết thắng" trong Trung đoàn...

Bác Hồ giơ tay vẫy chào các chiến sĩ trên những chiếc xe bọc thép đỗ bên đường băng sân bay. Bác bước vào trận địa Đại đội 1, Trung đoàn 234. Bác leo lên một ụ đất giữa trận địa, chăm chú quan sát các chiến sĩ đang quay nòng pháo, thực hành một bài tập đánh "địch". Được biết Đại đội 1 đã góp phần tích cực cùng quân và dân Thanh Hóa bắn rơi hàng chục máy bay Mỹ trong hai ngày 3 và 04-4-1965 bên cầu Hàm Rồng, Bác khen tất cả đồng bào và bộ đội đã lập chiến công. Nhưng Bác cũng nhắc cán bộ Đại đội 1, khi Bác thấy quần áo của bộ đội đều bạc trắng, cần phải tổ chức nhuộm lại cho anh em, phải ngụy trang thật tốt, không được để lộ trận địa. Bác xuống hẳn hầm pháo Khẩu đội 6. Bác giơ tay đếm từng người, rồi Bác hỏi tuổi đời, tuổi quân và tinh thần quyết tâm chiến đấu, kết quả tham gia chiến đấu vừa qua của các chiến sĩ.

Đồng chí Khẩu đội trưởng Lương Phúc Thoại báo cáo với Bác về khẩu đội của mình. Bác cầm chiếc mũ sắt của Khẩu đội trưởng Lương Phúc Thoại xem một lúc, rồi Bác thử đội chiếc mũ sắt lên đầu Bác. Bác hỏi các chiến sĩ đội mũ sắt cả ngày có thấy nặng không, chiến đấu dưới trời nắng trên trận địa có nóng và vất vả không? Bác căn dặn các chiến sĩ phải chịu khó rèn luyện học tập, không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật và chiến thuật để đánh giỏi, bắn trúng hơn nữa... Bác đi khắp trận địa. Bác rẽ vào một chiếc lều bạt của bộ đội xem đời sống của chiến sĩ trên trận địa lúc mưa gió hay trong những đêm hè nóng bức có vất vả, gian khổ lắm không? Bác hỏi các chiến sĩ sống với nhau có vui vẻ không, có đoàn kết không?... Bác đi thẳng xuống khu vực nấu ăn, nhà ăn của đơn vị. Bác mở lồng bàn xem những chậu cơm, canh và thức ăn, xem mức sống của các chiến sĩ trên trận địa ra sao. Bác căn dặn các chiến sĩ nuôi quân không được để lãng phí, phải chú ý giữ vệ sinh để bảo đảm phục vụ bộ đội ăn no, đánh thắng... Bác quay ra trận địa, bộ đội đã tập hợp thành hàng ngay ngắn, đợi Bác ra để nghe Bác nói chuyện. Bác bảo các chiến sĩ ngồi xuống bãi cỏ và quây quần quanh Bác, để nghe Bác nói. Mở đầu, Bác nói rất vui:

- Hôm nay Bác đến thăm các chú, thấy chú nào cũng hăng hái, mạnh khỏe, phấn khởi, Bác rất vui lòng. Sau đây Bác dặn các chú vài lời tóm tắt: 1- Giặc Mỹ đang "leo thang" ở miền Bắc, còn ở miền Nam chúng đang tăng thêm quân, thêm súng... Nhưng ta quyết không sợ. Nó đưa thêm chừng nào, ta diệt thêm chừng đó. Các chú bộ đội Phòng không - Không quân đã cùng với quân và dân ta bắn rơi gần 400 máy bay Mỹ, lập công như vậy là tốt. Các chú có vất vả gian khổ, nhưng so với quân và dân miền Nam thì chưa thấm vào đâu. Phải noi gương quân và dân miền Nam đánh giỏi, đánh mạnh, đánh trúng hơn nữa. Chúng ta đã hạ gần 400 máy bay Mỹ, nhưng còn phải bắn rơi nhiều hơn nữa. Đừng thấy thắng mà chủ quan, đã gọi là quân sự thì phải cảnh giác cao, sẵn sàng chiến đấu tốt.

2- Phải nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Có quyết tâm đánh, phải có quyết tâm đánh thắng và phải chuẩn bị tinh thần đánh liên tục, đánh đến khi nào giặc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam mới thôi. Vừa qua ta chưa đánh tiêu diệt được địch. Ví dụ nó vào 10 chiếc, ta chỉ bắn rơi có 2. Vì sao? Vấn đề ở chỗ tinh thần của con người phải truyền qua súng, tức là phải có kỹ thuật giỏi. Phải luyện tập công phu mới bắn trúng, bắn rơi máy bay địch ngay từ loạt đạn đầu tiên. Có bắn trúng, bắn rơi ngay từ loạt đạn đầu mới bắn rơi được tại chỗ, mới tiết kiệm được đạn. Ta thường nói: "Một viên đạn, một quân thù", ở đây với loại pháo này, Bác cho các chú hai mươi viên một quân thù. Các chú cố học, cố rút kinh nghiệm, sẽ làm được.

3- Bộ đội Phòng không - Không quân có nhiều binh chủng, lúc đánh phải hiệp đồng cho tốt, ai đánh tầng thấp, ai đánh tầng giữa, ai đánh trên cao phải phân công nhau, phối hợp chặt chẽ. Phải có tinh thần lập công tập thể, không được tranh công hoặc đổ lỗi cho nhau...

4- Các chú phải hết sức chú ý về vấn đề dân chủ và kỷ luật. Kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật. Muốn dân chủ, kỷ luật cao, cán bộ phải gương mẫu tự phê bình. Mục đích tự phê bình và phê bình là để học cái hay, tránh cái dở, chứ không phải để nói xấu nhau. Lúc nào cũng phải đoàn kết chặt chẽ giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa bộ đội với nhau, giữa nhân dân với bộ đội... Một ngón tay thì yếu, nhưng năm ngón tay nắm lại thành quả đấm thì rất mạnh... Cán bộ, chiến sĩ chăm chú lắng nghe như nuốt từng lời dạy bảo ân cần của Bác. Khi Bác nói đến tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, Bác hỏi: "Tất cả các chú đã sẵn sàng chưa?". Trận địa lại vang lên hai tiếng "Sẵn sàng!" đáp lời Bác. Nói về quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Bác lại hỏi: "Các chú có quyết tâm không?". Tất cả hàng quân lại hô lớn: "Quyết tâm! Quyết tâm!"... Bác gật đầu hài lòng, rồi Bác căn dặn thêm: "Chúng ta phải tin tưởng vững chắc là ta nhất định thắng, Mỹ nhất định thua.

Lúc này còn phân vân tàu địch to, tàu ta nhỏ, tàu bay địch nhiều, súng ta ít liệu có đánh được không là biểu hiện của quyết tâm chưa cao. Tuy không dám nhận là sợ địch nhưng chính đã sợ địch. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lúc đầu ta yếu, địch mạnh nhưng Đảng đã chỉ ra: Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi và ta đã thắng lợi. Ta thắng lợi vì ta quyết tâm, ta đoàn kết. Vì tin tưởng thắng lợi ta mới dám dùng giáo mác đánh với xe tăng địch, cướp súng địch, diệt địch. Ta không có máy bay mà đã đánh tan xác hàng trăm máy bay địch... Nhân dân ta ở miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và bọn tay sai, lúc đầu chỉ có hai bàn tay trắng, nhưng càng đánh, càng thắng, càng mạnh. Nhân dân ta đều biết đánh giặc Mỹ xâm lược có gian khổ, có hy sinh, nhưng vì phải bảo vệ Tổ quốc, giữ lấy quê hương xóm làng nên nhân dân ta kiên quyết đánh và tin tưởng thắng lợi cuối cùng nhất định về ta...

Giờ đây Mỹ đã đưa máy bay B.52 đến ném bom giết hại đồng bào ta ở miền Nam. Ta phải khẳng định rằng: "Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có B.57, B.52 hay "bê" gì đi chăng nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng"(10). Bác vừa dứt lời, cả trận địa đều vang lên tiếng vỗ tay của bộ đội và những tiếng hô không ngớt: "Kiên quyết thực hiện lời dạy của Bác!", "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!", "Hồ Chủ tịch muôn năm!". Các chiến sĩ đều lưu luyến nhìn theo Bác ra về, lòng đầy tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ. Hôm sau giao ban Bộ Tư lệnh, tôi kể lại thật tỉ mỉ câu chuyện đón Bác Hồ trên trận địa và chúng tôi được nghe lại cuốn băng ghi âm bài nói của Bác Hồ với các chiến sĩ, do cơ quan Tuyên huấn đưa sang báo cáo. Chúng tôi quyết định phải thông báo ngay cho toàn quân chủng biết sự kiện Bác Hồ đến thăm và động viên các chiến sĩ trước giờ ra trận. Đồng thời phát động phong trào thi đua "luyện hay, đánh giỏi, bắn trúng loạt đạn đầu, bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay Mỹ và bắn tiết kiệm đạn", để thực hiện lời Bác Hồ dạy... Cuốn băng ghi lời dạy bảo của Bác Hồ được in ngay thành những "tờ bướm" phát kịp thời xuống các trận địa, trước hết là cụm phục kích chiến đấu tên lửa ra quân thuộc khu vực Suối Hai, tỉnh Hà Tây.

(Trích trong "Bác Hồ với bộ đội Phòng không - Không quân")

150. Cháu tập đàn một tay có khó lắm không?

Tiếng đàn ghi ta cất lên, âm thanh thánh thót lan tỏa khắp câu lạc bộ quân đội. Phía dưới sân khấu, khán giả ngồi chật các hàng ghế. Đây là buổi biểu diễn để chào mừng Đoàn văn công quân đội Liên Xô sang thăm Việt Nam.

Người chơi đàn là một thương binh bị mất cánh tay phải trong một trận chống càn ở Bến Tre. Anh là Đội trưởng Đội xung kích của Đại đội 891 thuộc Trung đoàn của ông Bảy Cống. Bị mất cánh tay nhưng tôi gắng luyện tập bằng tay trái để có thể trở lại với nghề. Chơi đàn bằng một tay rất khó. Mà lại là tay trái, nên đã đổ nhiều mồ hôi trong luyện tập, trong biểu diễn.

Tôi chơi bài “Nam ai”. Điệu nhạc chậm và thoáng buồn. Tiếng đàn gợi lại một vùng quê đã từng sống, ở đấy có con kênh xanh xanh và bóng dừa, có mái và cô gái trẻ… rồi chuyển sang điệu “Nam xuân”, đến khúc vui, tôi ghé sát đàn vào mi-crô nên tiếng đàn vang lên, vừa réo rắt, vừa tình tứ, tiếng đàn như gợi mở lòng người.

Nốt nhạc cuối cùng vừa chấm dứt thì tiếng vỗ tay từng đợt vang lên, nghe tiếng vỗ tay thật to ở các hàng ghế của Đoàn văn công quân đội Liên Xô. Tiếng vỗ tay ấy là yêu cầu tôi phải đánh lại lần thứ hai. Tôi lại ngồi xuống ghế, chơi lần thứ hai. Lần này tiếng vỗ tay vang to hơn, dồn dập hơn, náo nức hơn, vậy anh phải đàn lần thứ ba. Nhưng chưa hết theo yêu cầu của người nghe, tôi lại chơi đàn lần thứ tư để đáp lại sự nhiệt tình của mọi người.

Tôi đứng dậy cúi chào mà cảm thấy người lâng lâng cứ như muốn bay lên. Đấy là cảm giác của hạnh phúc, của sự khổ luyện được đền đáp của một nghệ sĩ đã nguyện sống chết với nghề.

Sáng hôm sau, tôi được Bác gọi vào để hỏi chuyện. Cả đoàn mừng cho tôi, vì đây là một hạnh phúc lớn, nhất là đối với anh em miền Nam tập kết. Tôi ngồi trên chiếc com-măng-ca, xe chạy giữa phố đông người. Xuống xe, đi bộ qua cổng gác, đồng chí bảo vệ chỉ cho tôi:

- Bác đang chờ đấy, đồng chí vào đi.

Anh bước vào, thấy Bác đang sửa một chậu hoa đặt bên cửa sổ. Nhìn thấy tôi, Bác cười:

- Chú đã đến đấy à?

- Báo cáo Bác, cháu được Bác gọi, cháu đã đến…

Bác dắt tay tôi ngồi xuống một chiếc ghế gần Bác. Bác hỏi về tình hình anh chị em tập kết, sức khỏe ba má tôi. Rồi Bác nói:

- Hôm qua cháu đàn được các đồng chí Liên Xô hoan nghênh lắm, nên hôm nay Bác gọi cháu đến hỏi chuyện. Cháu đến thăm Bác như cháu về với gia đình, không phải bỡ ngỡ gì cả.

Bác nắm tay còn lại của anh và hỏi:

- Cháu bị thương từ bao giờ? Cháu tập đàn bằng một tay có khó lắm không?

Tôi kể với Bác quá trình tập luyện và tuổi thơ đã tập đàn để kiếm sống. Tôi được gánh hát Chấn Hưng nhận vào làm một chân đàn phụ. Cách mạng Tháng Tám thành công, tôi được nhận nhiệm vụ phụ trách đoàn văn công. Tôi tập lại đàn. Tôi lấy dây chun buộc chặt chiếc que có móc vào cánh tay cụt. Rồi tôi bấm nốt, tiếng đàn bật ra cột lốc, nặng nề. Thế là không được. Lần khác, tôi lấy ngón út khẽ gợi lên khoảng dây đàn, một âm thanh yếu ớt nhưng chính xác phát ra. Vậy là tôi dùng ngón út để thay cả năm ngón bên bàn tay đã mất.

Bác chăm chú nghe rồi hỏi:

- Bây giờ cháu đàn còn gặp nhiều khó khăn không?

- Thưa Bác, do cháu phải gảy đàn trên cần nên tiếng không vang được. Cháu mong đoàn sắm cho cái máy tăng âm…

- Chiều nay, cháu vào đàn cho Bác nghe. Cháu đàn các bài đã biểu diễn cho các đồng chí Liên Xô nghe hôm trước.

Chiều ấy, tôi lại được vào chỗ Bác. Đi với tôi còn có anh Phan Nhưng chơi đàn cò và em Thiện - một em bé miền Nam có giọng hát hay. Tôi đến đã thấy Bác cho để trong phòng một cây đàn mới có cắm điện. Tôi ngồi vào ghế để đàn cho Bác nghe. Tiếng đàn vang khắp căn phòng, tôi cảm thấy lòng mình rung động đến tột bậc.

Sau buổi đàn cho Bác nghe, Bác khen tôi và thưởng cho tôi cây đàn và chiếc máy tăng âm. Tôi xúc động nhận món quà của Bác và thầm hứa: Suốt đời tôi sẽ cố gắng để xứng đáng với cây đàn mà Bác đã thưởng.

Những ngày sau đó, khi biểu diễn bằng cây đàn Bác cho, tôi thầm nghĩ: “Tiếng đàn như được chấp thêm đôi cánh. Tôi đàn rất say sưa hào hứng với lòng tự hào về nhân dân ta, về quân đội ta. Tiếng đàn nói lên quyết tâm sắt thép vì sự nghiệp giải phóng miên Nam, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và tiến tới thống nhất nước nhà. Có đồng chí bảo tôi: “Chỉ thêm có bộ phận tăng âm mà tiếng đàn của cậu xuất sắc, vang vọng hẳn lên”. Tôi hiểu: “Không phải tiếng đàn của tôi chỉ được tăng âm lượng mà chính là những lời dạy bảo và tình cảm của Bác đã làm tăng thêm trong tôi ý thức và tình cảm của người biểu diễn. Tôi nguyện sẽ đem cả cuộc đời làm nghệ thuật của tôi để thực hiện những ước mơ cao đẹp mà Bác đã dẫn dắt tôi đi…”.

(Theo Vân Hoàng, trích trong "Bác Hồ với Cựu chiến binh Việt Nam")

151. Chiếc đồng hồ

Giữa mùa thu năm 1954, Bác đến thăm Hội nghị rút kinh nghiệm cải cách ruộng đất ở Hà Bắc. Tại hội nghị, được biết có lệnh của Trung ương rút bớt một số cán bộ đi học lớp tiếp quản thủ đô. Ai nấy cũng đều háo hức muốn đi, nhất là những người quê ở Hà Nội. Bao năm xa nhà, nhớ Thủ đô, nay được dịp về công tác, ai ai cũng có nguyện vọng được đề nghị cấp trên chiếu cố. Tư tưởng cán bộ dự hội nghị có nhiều phân tán. Ban lãnh đạo ít nhiều thấy khó xử. Lúc đó, Bác lên diễn đàn, giữa mùa thu nhưng trời vẫn còn nóng, mồ hôi ướt đẫm hai bên vai áo nâu của Bác, Bác hiền từ nhìn khắp hội trường và nói chuyện về tình hình thời sự. Khi nói đến nhiệm vụ của toàn Đảng trong lúc này, Bác bỗng rút trong túi áo giơ ra một chiếc đồng hồ quả quýt và hỏi các đồng chí cán bộ trong hội trường từng câu hỏi về chức năng của từng bộ phận trong chiếc đồng hồ. Ai cũng đồng thanh trả lời đúng hết các câu hỏi của Bác. Đến câu hỏi:

- Trong cái đồng hồ, bộ phận nào là quan trọng? Khi mọi người còn đang suy nghĩ thì Bác lại hỏi:

- Trong cái đồng hồ, bỏ một bộ phận đi có được không?

- Thưa không được ạ. Nghe mọi người trả lời, Bác bèn giơ cao chiếc đồng hồ lên và kết luận:

- Các chú ạ, các bộ phận của một chiếc đồng hồ cũng ví như các cơ quan của một Nhà nước, như các nhiệm vụ của cách mạng. Đã là nhiệm vụ của cách mạng thì đều là quan trọng, điều cần phải làm. Các chú thử nghĩ xem: Trong một chiếc đồng hồ mà anh kim đòi làm anh chữ số, anh máy lại đòi ra ngoài làm cái mặt đồng hồ… cứ tranh nhau chỗ đứng như thế thì còn là cái đồng hồ được không?

Chỉ trong ít phút ngắn ngủi, câu chuyện chiếc đồng hồ của Bác đã khiến cho ai nấy đều thấm thía, tự đánh tan được những suy nghĩ riêng tư của mình.

Cũng chiếc đồng hồ ấy, một dịp vào cuối năm 1954 Bác đến thăm một đơn vị pháo binh đóng ở Bạch Mai đang luyện tập để chuẩn bị cho cuộc duyệt binh đón mừng chiến thắng Điện Biên Phủ. Sau khi đi thăm nơi ăn, chốn ở của bộ đội, Bác đã dành một thời gian dài để nói chuyện với anh em. Bác lấy ở túi ra một chiếc đồng hồ quả quýt, âu yếm nhìn mọi người rồi chỉ vào từng chiếc kim, từng chữ số và hỏi anh em về tác dụng của từng bộ phận. Mọi người đều trả lời đúng cả. Song chưa ai hiểu tại sao Bác lại nói như vậy?

Bác vui vẻ nói tiếp: “Đã bao nhiêu năm nay, chiếc kim đồng hồ vẫn chạy để chỉ cho ta biết giờ giấc, chữ số trên mặt vẫn đứng yên một chỗ, bộ máy vẫn hoạt động đều đặn bên trong. Tất cả đều nhịp nhàng làm việc theo sự phân công ấy”, nếu hoán đổi vị trí từng bộ phận cho nhau thì có còn là chiếc đồng hồ nữa không!

Sau câu chuyện của Bác, anh chị em đều hiểu ý Bác dạy: Việc gì cách mạng phân công phải yên tâm hoàn thành. Và Bác đã mượn hình ảnh chiếc đồng hồ quả quýt làm ví dụ để giáo dục, động viên những kỹ sư trẻ trường Đại học Nông Lâm Hà Nội vào dịp đến thăm trường ngày 24-5-1959, khi Bác đang khuyên sinh viên phải yên tâm cố gắng học tập, Bác cũng lấy trong túi ra một chiếc đồng hồ quả quýt và hỏi mọi người từng bộ phận của đồng hồ, từ cái kim giờ, kim phút, kim giây đến các bộ phận máy và bánh xe bên trong đồng hồ.

Sau đó, Bác kết luận rằng mỗi một bộ phận có chức năng làm việc riêng, có thể người ngoài không thấy được nhưng đều có nhiệm vụ làm cho đồng hồ chạy và chỉ đúng giờ. Ngoài xã hội cũng vậy sau khi học xong ra phục vụ các ngành nghề đều ngang như nhau, không ai cao sang hơn ai, cho nên các cháu phải cố gắng yên tâm học tập, học tập cho thật giỏi đề trở thành kỹ sư nông nghiệp giỏi phục vụ nền nông nghiệp nước nhà.

Chiếc đồng hồ quả quýt còn là một hiện vật vô giá thể hiện tình cảm Quốc tế đối với Bác, đó là chiếc đồng hồ do Tổ chức Quốc tế “Cứu Tế đỏ” tặng, Bác luôn giữ nó trong mình, trong những năm tháng bị cầm tù gian khổ cho đến ngày  Việt Nam giành được độc lập.

(Theo Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Hoan, Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Hà Nội kể)

Tâm Trang (Tổng hợp)


 

152. Cách ứng đáp mẫn tiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Năm 1946, một nhà văn là Ủy viên thường trực Ban Vận động Đời sống mới đến gặp Hồ Chủ tịch để xin ý kiến Người về nội dung cuộc vận động. Bác Hồ nói nên vận động nhân dân thực hiện mấy chữ: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

 - Thưa cụ, mấy chữ ấy rất hay nhưng nghe có vẻ cổ. Cụ có thể thay thế bằng mấy chữ khác được không ạ?

 - Thế cơm ông cha ta đã từng ăn hàng ngàn năm trước, hiện nay chú và tôi hằng ngày vẫn ăn, chú thấy có cổ không? Không khí ông cha ta đã từng hít thở, chú thấy có cổ không?

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mấy chục vạn quân Tưởng kéo vào tìm cách khiêu khích để lấy cớ tiêu diệt cách mạng Việt Nam. Bác Hồ triệu tập các vị lãnh đạo cao cấp để xử lý một vấn đề “hệ trọng”, Bác nói:

- Tướng T.V. của quân đội Trung Hoa dân quốc có gửi cho tôi một bức công văn, nội dung như sau:

“Kính thưa Cụ Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,

Yêu cầu Cụ cho mượn một cái nồi nấu cơm”.

Không cần phải nói, ai nấy đều có thể hình dung không khí tức giận bao trùm lên cuộc họp. Có những ý kiến đòi đánh.

Với phong thái bình tĩnh, ung dung, Bác Hồ nói: “Nền độc lập ta vừa giành được giống như một chiếc bình ngọc. Nay có những con kiến bò trên miệng bình, nếu ta dùng gậy đập kiến, chưa chắc kiến đã chết mà bình ngọc vỡ. Nếu ta lấy một cái que bắc cầu cho chúng xuống thì kiến sẽ đi hết, như vậy có hơn không? Còn trong sự việc vừa đem ra bàn, họ mượn cái nồi nấu cơm thì ta cho họ mượn, việc gì các chú phải nổi nóng như vậy?!"

Hay khoảng giữa năm 1949, một nhà báo Thái Lan trực tiếp phỏng vấn Hồ Chủ tịch để thăm dò xem Việt Nam đứng về phía nào trong cuộc chiến Quốc - Cộng ở Trung Quốc.

- Thưa Cụ Chủ tịch, nước Việt Nam của Cụ đứng về phía ông Tưởng hay ông Mao? Xin Cụ miễn cho câu trả lời “đứng trung lập”.

- Chúng tôi đứng trung lập. Cũng như Thái Lan của ông đang đứng trung lập giữa Anh và Mỹ!

- Nghe nói quân giải phóng nhân dân Trung Hoa đã gửi cho Cụ súng cối và súng liên thanh. Cụ đã nhận được chưa, nếu chưa thì Cụ có định nhận không?

- Chúng tôi chưa nhận được gì hết. Còn đúng như ông nói là họ có ý định gửi cho chúng tôi thì trong trường hợp này, ông khuyên chúng tôi nên làm như thế nào?

Ngày 05/10/1959, ông Si-ra I-si Bôn, cố vấn biên tập báo A-xa-hi-sin-bun Nhật Bản phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều vấn đề, trong đó có việc Chính phủ Nhật Bản dự định bồi thường chiến tranh, mà phía Nhật lại chọn Việt Nam lúc đó do Ngụy quyền Sài Gòn kiểm soát làm đối tác. Câu hỏi và trả lời như sau:

Hỏi: Việc đàm phán về vấn đề bồi thường chiến tranh đã được tiến hành giữa Chính phủ Nhật Bản và Việt Nam. Ngay ở Nhật Bản cũng có người chỉ trích việc đàm phán này và tin tức cho biết Ngài không hài lòng.

Theo ý Ngài, nhân dân Nhật Bản cần được hiểu vấn đề này như thế nào? Theo ý Ngài, vấn đề này cần được giải quyết như thế nào mới đúng?

Trả lời: Trong cuộc Đại chiến lần thứ hai, quân phiệt Nhật Bản đã xâm chiếm nước Việt Nam và đã gây ra nhiều tổn thất cho nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam. Toàn thể nhân dân Việt Nam có quyền đòi hỏi Chính phủ Nhật Bản tiến hành đàm phán và kí kết bồi thường chiến tranh với chính quyền miền Nam Việt Nam là không hợp pháp.

Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thấy rằng, việc đòi hỏi Nhật Bản bồi thường sẽ là một gánh nặng cho nhân dân Nhật Bản. Vấn đề cốt yếu trong quan hệ giữa hai nước không phải là việc đòi bồi thường, mà tình đoàn kết hợp tác giữa hai dân tộc Việt - Nhật đấu tranh chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình là quý hơn hết.

(Trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

153. Châu Tự Do

Chúng tôi ngược bờ sông Đáy về phố huyện Sơn Dương. Hai bên đường dọc theo nông trường chè Tân Trào, những bụi cây trinh nữ ngại nắng khép kín lại. Những con suối lũ dềnh lên ào ào cuốn những cành cây gãy chảy ra sông. Từ đây còn 12 kilômét nữa là đến Tân Trào - Thủ đô lâm thời của cách mạng Việt Nam thời trước khởi nghĩa, chúng tôi dừng chân nghỉ ở huyện lỵ.

Sơn Dương những ngày tiền khởi nghĩa gọi là châu Tự Do, cái tên gọi ấy có từ rằm tháng ba nǎm 1945. Ôn lại những ngày lịch sử chói lọi và đầy kinh ngạc ấy, người dân Sơn Dương còn nhắc nhở một buổi bình minh sáng tươi, đội Cứu quốc quân 3 hạ đồn Đǎng Châu lần thứ hai, giết tri phủ Đèo Vǎn Phú, bắt tri châu Hoàng Thế Tâm, giải phóng cả vùng cánh cung rộng lớn của thượng huyện. Đồng chí Bí thư Huyện ủy, người đã từng theo trung tướng Song Hào, kể cho chúng tôi nghe về một buổi sáng tinh mơ hai mươi lǎm nǎm trước, Sơn Dương ngày ấy nổi dậy bằng giáo mác và súng khai hậu cướp châu đường, phá kho thóc, bắt các hào lý nộp ấn, sắc và triện đồng. Từ đấy Ủy ban nhân dân cách mạng châu Tự Do ra đời. Chính quyền cách mạng đầu tiên ở nước ta được thiết lập ngay tại một huyện nhỏ.

Lần từng bước đi trên con đường rải đá giữa huyện lỵ, dấu vết của những chiến công một phần tư thế kỷ trước và thành cũ Đǎng Châu, cỏ lan mặt đất vẫn còn đó, Đǎng Châu, cái thành đầy khủng khiếp của chế độ thực dân phong kiến miền núi, án ngữ trên ngã ba đường đi Tuyên Quang, Thái Nguyên, Vĩnh Yên đã kéo cờ trắng đầu hàng cách mạng sau những phút súng nổ quyết liệt của một phân đội Cứu quốc quân từ Khuổi Lịch (Tân Trào) kéo về.

Theo sách cũ Dư địa chí của Nguyễn Trãi trong ức trai di tập viết năm 1435 thì châu này thuộc phủ Đoan Hùng, ăn vào Tuyên Quang Thừa Tuyên. Tự thuở xưa, Sơn Dương là một hùng trấn. Nơi ấy núi non hiểm trở, của cải dồi dào, thắng tích chẳng ít, dân khí ngang tàng, bao nhiêu lần quân Minh thèm muốn không chinh phục được. Trên 600 nǎm trước, Sơn Dương gọi là Đễ Giang châu, tức là châu sông Đáy. Sông Phó Đáy chảy qua Sơn Dương hàng chục dặm, về gặp sông Lô rồi cùng sông Hồng hội ở ngã ba Hạc.

Trung tuần tháng 5 nǎm 1945, Bác từ Sơn Dương về Tân Trào. Các anh Song Hào cùng một số đồng chí đến đình Hồng Thái đón Bác. Hồng Thái có một mái đình nǎm gian dựng trên một khoảnh đất khá rộng. Một cây đa xum xuê với tám cành lớn ngả bóng mát che rợp mái đình. Hai mươi bốn cây cột lim và hai vế câu đối khắc song song trên đôi cột chính giữa đình:

Đễ Giang tả bão linh nguyên hội

Ngọc tĩnh hữu triều thụy khí chung

Đôi câu đối ngợi ca cảnh kỳ vĩ nơi đây: Bên trái sông Đáy bao quanh, nguồn linh thiêng tụ về. Giếng Ngọc chầu bên phải, khí đẹp chung đúc. Sau đình Hồng Thái có bản làng và một cái giếng trong xanh như ngọc ở ngay đầu thôn, nhân dân thường gọi là giếng Ngọc. Hồng Thái là cửa ngõ của Tân Trào, xã Tân Trào mỗi bề dài ngót 8 kilômét, trên 50 kilômét vuông diện tích thì rừng già và núi đã chiếm đến quá ba phần tư. Cǎn cứ địa Tân Trào lấy sông làm hào, lấy núi làm lũy chở che vị trí chiến lược quan trọng này. Muốn về thủ đô khu giải phóng phải qua dòng sông Đáy và bốn con suối sâu. Hôm ấy vào giữa trưa hè, nắng chói, đồng chí Võ Nguyên Giáp đưa Bác về. Bác dừng lại trước đình ngắm cảnh vật. Những ngọn núi Nản Đen, Kẹm Him, Khao Nhì... vách dựng cao hàng trǎm mét, dây leo um tùm. Những dãy rừng lim, rừng phách hoa nở tím viền lấy xã Tân Trào. Xa xa, đỉnh núi Thia và dãy núi Hồng - cơ sở của các đồng chí Cứu quốc quân III từ nǎm 1943 - quay lưng về Bắc Thái làm địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Tuyên Thái. Bác ngắm nhìn dãy lịch - nơi có phong trào chống thuế của nhân dân thôn Khe Thuyền từ tháng 10-1943. Bác ngắm dòng sông khe nước. Những dòng khe xinh đẹp, uyển chuyển: Đây khe Bòng, suối Thia, kia ngòi Sung, khe Cả chằng chịt dọc ngang vây quanh các bản đồng bào Tày, đồng bào Trại rồi chảy ra ngòi Thung nhập vào sông Đáy. Những ruộng lúa phì nhiêu, những vườn cây ǎn quả, bãi chuối xanh rậm bên những bờ sông, ven suối. Bác có vẻ hài lòng với cảnh núi non và dân cư ở vị trí xung yếu này. Bác cho nơi này là đất dụng binh được "tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ". Ở đây có đường qua đèo De, đường đi Thanh La, đường về Minh Khai, và từ các nơi ấy ta có thể đi Bắc Thái, Cao Bằng, qua Vĩnh Yên, Phú Thọ, hoặc về tận Hà Giang, Yên Bái...

Hôm về Tân Lập (Tân Trào) Bác mặc áo chàm ngắn đã sờn, xẻ hông kiểu áo Nùng, vai vắt chiếc khăn mặt bông, chân đi giày rơm đã rách có dây quai buộc. Bác đội mũ đen, tay cầm gậy nhỏ. Năm ấy râu Bác chưa bạc, nước da sương nắng sạm đen. Bác gầy, hai gò má nổi cao, nhưng đôi mắt vẫn sáng. Đồng bào kết bè đưa Bác sang sông (Lúc bấy giờ chưa có cầu treo trên sông Đáy). Bác về đến bản vừa lúc đồng bào nhen lửa thổi cơm chiều. Lão đồng chí Tiến Sự chỉ cho chúng tôi theo lối Bác bước lên nhà sàn. Hồi ấy, nhà cũ của đồng chí Tiến Sự có cầu thang xoay về phía Đông. Bác bước vào nhà, chào hỏi mọi người thân thiết như người cha đi lâu ngày, nay trở về thăm con cháu.

Cu Khoát thấy ông cụ hiền lành, phúc hậu, vui vẻ sà vào lòng, Bác xoa đầu âu yếm:

- Cháu đã đi học chưa?

- Thưa cụ chưa ạ? Đồng chí Tiến Sự trả lời thay.

- Cháu đã lớn, đi học được rồi đấy!

- Thưa, chưa mua được giấy, chưa xin được trường.

Bác nhìn quanh xóm, tỏ vẻ ái ngại về sự thiếu cơm, đói chữ của con em đồng bào các dân tộc. Bác chỉ một đồng chí vô tuyến diện đi theo Bác.

- Ngày mai theo chú này, chú cho sách và dạy cho.

Thế rồi cu Khoát chạy theo các chú bộ đội xuống sàn xem các chú mắc dây trời của đài vô tuyến điện để bắt liên lạc với các nơi.

Hồi ấy dân bản gọi Bác là "đồng chí già" hoặc "đồng chí cụ cũng có khi gọi là "đồng chí thượng cấp". Bà con trong bản thấy ông cụ đã cao tuổi, không biết từ bản nào về mà chăm chỉ lạ thường. Đêm đêm cụ ít ngủ, làm việc đến khuya. Việc gì cụ cũng làm, ai ai cụ cũng thương yêu, chăm sóc. Lúc gà rừng vừa vỗ cánh gáy chào rạng đông, cụ đã dậy, vác ống bương đi lấy nước dưới suối. Ông cụ quét nhà, ông cụ tưới rau, hoặc có khi đắp lại mương nước ở bờ ruộng. Làm xong những việc lặt vặt ấy, cụ mới ngồi vào chiếu, bên bàn máy chữ đặt trên khúc gỗ để làm việc. Bác thường nghe đồng chí Hoàng Quốc Việt báo cáo tình hình công tác, hoặc đồng chí Văn đến xin ý kiến. Tiếng máy chữ tí tách đều đều và có lúc rất khẩn trương. Cũng từ đây những lời hiệu triệu, những bản chỉ thị kêu gọi đồng bào đánh Tây, đánh Nhật, cướp chính quyền giành tự do. Những bức thư ký tên Nguyễn Ái Quốc tung khắp núi rừng, về trung du, xuống tận đồng bằng, truyền đi khắp nước.

Ban ngày bận việc, tối tối, Bác dành ít thì giờ gặp gỡ dân bản. Tiếng lành đồn xa, các gia đình quanh xóm đến thăm "đồng chí già", nghe đồng chí kể chuyện đánh Tây, Nhật nhất là những lời khuyên bảo của đồng chí về việc tǎng gia, tiết kiệm, về học tập, về tình hình thời sự... Cách giáo dục của Bác bao giờ cũng nhẹ nhàng, nhưng rất sâu sắc. Buổi đầu tiếp xúc có một câu chuyện nhỏ mà dân bản vẫn nhớ mãi đến giờ.

Hôm đó là một đêm hè, Bác cùng các mế (mẹ) các cụ, các chị quây quần trò chuyện bên bếp. Chuyện vui Bác hỏi:

- Bà con ta có biết trên đời này cái gì quý nhất?

Mọi người thấy ông cụ nhanh nhẹn, vui tươi và hiền từ nên rất có cảm tình. Nhiều chị tranh nhau trở lời. Người thì nói "cái nhà quý nhất", kẻ thì cho "chiếc cày quý nhất", "con trâu quý nhất", có chị nói to:

- Thưa đồng chí thượng cấp, đồng bạc trắng quý nhất.

Tất cả đều đồng ý:

- Đồng bạc trắng là quý nhất!

Bác cười có vẻ đồng tình, nhưng Bác hỏi thêm:

- Đồng bạc quý nhất thì cất giấu ở đâu cho kín?

- Thưa "đồng chí già" giắt ở mái nhà ạ!

Một vài ý kiến khác:

- Chôn dưới đất ạ?

- Cài trên đầu cũng kín ạ?

Nhiều câu trả lời làm cuộc trò chuyện thêm sôi nổi. Bác thong thả phe phẩy chiếc quạt, và giải thích:

- Đồng bạc là quý thật, muốn giữ kín, chôn giấu chỗ nào cũng được, mất có thể tìm, và làm ra được. Nhưng cán bộ, bộ đội Cứu quốc quân về đây hoạt động, họ còn quý hơn tiền bạc. Có họ thì có tất cả. Họ là người cùng ta đánh Tây, đánh Nhật, là tôi tớ của dân. Nước độc lập tự do thì nhà cửa, trâu bò, cày bừa, tiền bạc đều có. Vậy ta phải giữ kín họ.

Một bà mẹ thắc mắc:

- Làm thế nào giữ kín được, thưa cụ?

Bác im lặng một lúc, xem mọi người còn ai hỏi thêm điều gì không, cuối cùng Bác bảo:

- Muốn giữ kín họ phải thực hiện "ba không". Có người lạ mặt thì nói "không nghe", "không thấy" hoặc "không biết". Có như vậy mới bảo vệ được cán bộ, bảo vệ được khu cǎn cứ. Tất cả mọi người đều cười vui rung cả sàn nhà, và cứ thế một vài đêm sau cả bản họp lại để nghe "đồng chí già" trò chuyện một vấn đề khác....

Các cụ Hương, cụ Vượng ở Khuổi Lịch - nơi đội Cứu quốc quân 3 ra đời tháng 12-1944 - cũng đến nghe Bác nói chuyện. Các cụ rất ái mộ Bác: "Dân mình phúc bằng trời mới có được ông cụ nhiều tuổi, tốt bụng và anh minh như vậy, ông cụ dắt dẫn ta đánh Tây, đánh Nhật nhất định là phải thắng. Việt Nam mình nhất định độc lập!".

Và cũng từ đấy, cán bộ, cơ quan Trung ương, rồi Đại hội, nhà in, máy móc di chuyển đi về nườm nượp suốt đêm nhưng bí mật vẫn được giữ kín tuyệt đối. Lòng dân ở đây đối với Bác, với cách mạng, với A.T.K (an toàn khu) thật vô bến bờ. Đó là tường lũy vững chãi nhất cho thủ đô lâm thời.

Vào một ngày cuối tháng 5 nǎm 1945, giặc Nhật cho 500 quân cùng lừa ngựa chở súng đạn bất ngờ tiến đánh Tân Trào, hòng tiêu diệt đầu não và lực lượng cách mạng non trẻ của ta. Tân Trào lúc bấy giờ như một chiếc gai lưỡi hùm trước mắt chúng. Mặc dầu hôm đó ta chưa kịp bố trí, nhưng nhân dân đã hết lòng chở che, báo cho đồng chí Môn, đồng chí Thâm và đồng chí Long Giang đưa quân ra chặn đánh ở các ngả và ở đèo Chắn. Nhân dân hết lòng ủng hộ bộ đội chiến đấu. Giặc Nhật đành phải bỏ lại dưới chân đèo nhiều xác chết, rồi hoảng sợ rút lui. Và từ đó, chúng không dám bén mảng đến đất Thánh của cách mạng nữa.

Ở bản được vài tuần lễ, một hôm Bác gọi đồng chí Tiến Sự đến,.

 Bác rỉ tai nói nhỏ:

- Chủ nhiệm ngày mai có bận gì không? Chủ nhiệm nhớ mượn cho vài cái rìu, vài con dao nhé!

Thế rồi sáng hôm sau, lúc đồng chí Tiến Sự còn ngái ngủ, Bác đã giục:

- Chủ nhiệm ơi, dậy đi thôi! Ta vào rừng làm lán.

Sau vài ngày, Bác cùng đồng chí Tiến Sự, đồng chí Cát tìm địa thế, chặt cây, cắt tranh làm nhà ở. Rồi một sớm, Bác dời về nhà mới...

Vì sự cảnh giác của Bác "lai vô ảnh, khứ vô hình" nên khi về Hà Nội, Bác cho đốt cả lán cỏ bên suối. Giờ đây trong khu rừng Nà Lừa chỉ còn lại tảng đá, nơi xưa kia Bác dùng làm bàn ǎn. Và ở đây, ngày nay một hồ nước chứa hàng chục vạn khối, cùng một công trình thủy điện mọc lên. Nhân dân Tân Trào đời đời ghi nhớ công lao của Bác. Đồng chí Kim Sơn ở bảo tàng Tuyên Quang có nhờ đồng chí Tiến Sự nhớ kỹ lại cǎn nhà Bác ở lúc đó để phục chế lại. Hiện nay nhà chưa làm xong, nhưng ở bảo tàng Hồng Thái đã có mô hình cǎn nhà lá, nửa sàn, có bảy nấc thang tre với hai gian đơn sơ, trống trải... đây là "Phủ Chủ tịch lâm thời" - "dinh" của vị Chủ tịch nước. Và chừng ấy cũng đủ nói lên cuộc sống thanh đạm giản dị của Bác, trong những ngày Bác ở Tân Trào.

Chúng tôi men theo ngòi Khuôn Pén, qua Khao Nhì, về ghé thǎm đình Tân Trào.

Đình Tân Trào là một ngôi đình nhỏ không lợp ngói mà lợp bằng cọ. Nhưng chính nơi đây đã xảy ra một sự kiện vô cùng trọng đại trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta. 14 giờ 30 phút ngày 16-8-1945 Đại hội đại biểu Quốc dân nhóm họp ở đây. Trên 60 đại biểu khắp các tỉnh ở ba miền Trung, Nam, Bắc, Việt kiều ở Xiêm, Lào kéo về chật cả ngôi đình bé nhỏ, mở hội non sông. Đồng chí Trường Chinh báo cáo trước Quốc dân Đại hội về vấn đề chuẩn bị Tổng khởi nghĩa và thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc. Đại hội cử Bác làm Chủ tịch Ủy ban. Đó là Chính phủ lâm thời và là Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên của ta. Tại nơi đây, cụ Hồ Chí Minh lần đầu ra mắt đại biểu quốc dân. Các chiến sĩ Giải phóng quân bắn ba loạt súng chào mừng, và ngay chiều hôm đó, dưới gốc đa Tân Trào, nắng xiên qua vòm lá, đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng trên mô đất cao đọc bản Quân lệnh số 1 của ủy ban khởi nghĩa. Tân Trào từ đấy thật sự trở thành Thủ đô lâm thời và là đại bản doanh của quân cách mạng. Trước cơ hội ngàn nǎm có một, Việt Nam giải phóng quân tiến về chiếm Thái Nguyên. Các đơn vị giải phóng quân từ các chiến khu kéo về các tỉnh cùng nhân dân nhất tề nổi lên giành lấy chính quyền, mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa truyền đi từ Tân Trào ngày 18-5-1945, thì Hà Nội khởi nghĩa ngày 19-8, Huế ngày 23-8 và Sài Gòn ngày 25-8. Chỉ trong vòng một tuần lễ, nhân dân ta đã đứng lên giải phóng toàn bộ đất nước. Sức lay trời chuyển đất của Đại hội Tân Trào là thế. "Dù đốt cháy dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập" lời Bác như chim bằng giang rộng cánh, đó là lời của tổ tiên 4000 năm giục ta lên đường xông trận.

Chiều hôm đến Tân Trào, đứng trên chiếc xe bánh xích ủi đất mở đường, chúng tôi ngắm mãi ngôi đình làng cũ, mái lá vừa được lợp lại, nắng thu nhuộm vàng vẳng nghe như từ trong nhang án giữa đình vọng lên lời hiệu triệu của Bác bao năm trước.

Cây đa Tân Trào giờ đây vẫn xanh tốt. Chỗ mảnh đất dưới gốc đa Tân Trào, nơi Bác thường nói chuyện với cán bộ học sinh trường quân chính giờ đây nhân dân địa phương dựng lên một nhà trẻ rộng thoáng, còn thơm mùi gỗ mới.

Ngày trước nơi đây Bác luyện quân, chỉnh cán, thì giờ đây thực hiện Di chúc Bác, Đảng bộ Tân Trào đang vun trồng cho thế hệ mai sau. Tân Trào đã có trường cấp hai, có bệnh xá, nhà hộ sinh, có loa truyền thanh... Có độc lập tự do, thì có tất cả những điều Bác giải thích cho đồng bào Tân Trào ngày xưa, nay thành sự thực.

Để ghi nhớ công ơn sâu nặng của người Cha, nhân dân Tân Trào đang xây nhà lưu niệm về Bác. Bê tông nền nhà vừa đổ xong, những giàn giáo dựng dưới những cành đa để xây tường, dựng cột. Đồng chí Trung Nguyên, Chủ nhiệm Hợp tác xã Tân Trào cho chúng tôi hay còn bốn vạn hai nghìn viên gạch nữa là xây xong khu nhà lưu niệm về Bác. Nhà lưu niệm rộng 270 mét vuông, ở đây sẽ trưng bày trên 400 hiện vật về Bác, về Nhà nước dân chủ đầu tiên, về đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, v.v.. Trong đó có khẩu súng kíp, trước khi về Hà Nội, Bác trao cho đồng chí Tiến Sự và căn dặn đồng chí Sự dùng súng đó để bắn quân thù, bảo vệ chính quyền cách mạng.

(Trích trong "Bác Hồ với Tân Trào")

154. Có thể cho người nghèo những thứ ấy

Khoảng năm 1914, Bác Hồ - lúc bấy giờ gọi là Nguyễn Tất Thành - đã đến Luân Đôn - Thủ đô của nước Anh. Ở đây có thời gian Bác phải làm phụ bếp cho khách sạn Cáctơn.

Ở khách sạn Cáctơn, hằng ngày có người phục vụ dưới bếp. Những người này, sau khi khách ăn xong, có nhiệm vụ phải thu dọn bát đĩa... và đổ tất cả thức ăn thừa vào một cái thùng to rồi sau đó đem đổ đi. Có khi những thức ăn thừa là một phần tư con gà, hay cả đĩa bánh mỳ và những miếng bít tết to tướng...

Đến lượt anh Thành làm phụ bếp, những thức ăn thừa của khách, anh đem để riêng và đậy lại cẩn thận sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng rồi đưa cho nhà bếp.

Thấy vậy ông đầu bếp Étcốtphie hỏi lại anh:

- Tại sao anh không đem những thức ăn này đổ vào thùng như những người khác?

Anh Thành điềm tĩnh trả lời:

- Không nên đem vứt những thứ này đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy.

Câu nói của anh Thành làm cho ông đầu bếp rất ngạc nhiên, vì ông thấy từ trước tới nay, chưa có ai ở khách sạn này nghĩ và nói như anh Thành.

Ông chủ bếp và mọi người nhìn anh biểu hiện một sự quý mến và khâm phục trước tấm lòng yêu thương của anh đối với những người nghèo.

(Trích trong "Vũ Kỳ - Thư ký Bác Hồ kể chuyện")

Tâm Trang (tổng hợp)


 

Bài viết khác:

https://lapak77s.pro/

https://lapak77slot.com/

https://lapak77slot.org/

https://allwpzone.com/

https://www.dirwell.com/

https://www.fmcpconservancy.org/

score8

score8

score8

score8

score8

score8

score8

score8

score8

score8

https://www.filmhead.com/

https://www.askives.com/

https://coconutjerky.net/

https://www.progettopo.net/

https://www.score8.co.com/

https://score8slot.org/

https://score8sport.id/

https://subwaycrush.net/

https://colombianbrides.net/

https://hazladetos.org/

https://ketobhbpills.org/

https://loicwacquant.net/

https://meetupislamabad.com/

https://flawedfromthestart.org/

https://ketomegamart.com/

over138

over138

https://www.frozencortex.com/

https://www.horseandcountrysingles.com/

https://www.over138.com/

https://teenageteardrops.com/

https://urbanyogissg.com/

https://myannabellelane.com/

https://northlandsclinic.com/

https://over138.info/

https://over138.net/

https://over138.org/

https://over138.xyz/

https://findonlineessaywriters.com/

https://unlimiteddetailtechnology.com/

https://www.under138.com/

https://www.under138.info/

https://bsimotors.com/

https://bukuberita.com/

https://momandpopphoto.com/

https://stellardawncentral.com/

https://weissministry.com/

https://www.jamvybez.com/

               
    |\__/,|   (`\
    |o o  |__ _) brands
  _.( T   )  `  / 
 ((_ `^--' /_<  \
 `` `-'(((/  (((/  

https://poltekpelsulut.ac.id/wp-content/lp77/

https://green.umk.ac.id/templates/system/Olymp/

https://green.umk.ac.id/templates/system/Lapak77/

https://green.umk.ac.id/images/2017/04/06/scr8/

http://crm.giftalove.com/barcodes/love/

http://crm.giftalove.com/images/

http://admin.thepackersmovers.com/CompanyDocument/packing/

http://admin.thepackersmovers.com/images/black/

https://res.giftalove.com/images/News/berita/

https://inkhaspress.inkhas.ac.id/artikel/

https://simtak.itpb.ac.id/codes/

https://simtak.itpb.ac.id/config/system/

https://mpd.langsakota.go.id/wp-content/sm/

https://stieprasetiyamandiri.ac.id/lapak77-slot-gacor-thailand-2025/

https://stieprasetiyamandiri.ac.id/lapak77-slot-gacor-thailand-2025/lapak77-slot-gacor-thailand-2025.html

https://stieprasetiyamandiri.ac.id/sdana/

https://stiesabang.ac.id/lapak77-slot-gacor-thailand-2025/

https://stiesabang.ac.id/under138-slot-gates-of-olympus-gacor-terbaru/

https://siakad.itpa.ac.id/system/lapak77pro/

https://giahungpro.vn/slot-pgsoft-terbaru-bet400-bisa-maxwin/

https://lms.akabi.ac.id/situs-gacor-gampang-menang-terbaru-2025/

https://surat-fipk.iakntarutung.ac.id/link-gacor-terbaru-gampang-menang-2025/

https://surat-fipk.iakntarutung.ac.id/situs-deposit-dana-5000-sudah-maxwin-tanpa-batas/

https://surat-fipk.iakntarutung.ac.id/daftar-situs-slot-maxwin-gacor-tanpa-batas-tiap-hari/

https://surat-fipk.iakntarutung.ac.id/raja-situs-gacor-2025-gampang-menang/

https://surat-fipk.iakntarutung.ac.id/link-daftar-slot-online-gacor-2025-sever-thailand/

https://surat-fipk.iakntarutung.ac.id/slot-online-2025-gacor-hari-ini/