152. Cách ứng đáp mẫn tiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Năm 1946, một nhà văn là Ủy viên thường trực Ban Vận động Đời sống mới đến gặp Hồ Chủ tịch để xin ý kiến Người về nội dung cuộc vận động. Bác Hồ nói nên vận động nhân dân thực hiện mấy chữ: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
- Thưa cụ, mấy chữ ấy rất hay nhưng nghe có vẻ cổ. Cụ có thể thay thế bằng mấy chữ khác được không ạ?
- Thế cơm ông cha ta đã từng ăn hàng ngàn năm trước, hiện nay chú và tôi hằng ngày vẫn ăn, chú thấy có cổ không? Không khí ông cha ta đã từng hít thở, chú thấy có cổ không?
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mấy chục vạn quân Tưởng kéo vào tìm cách khiêu khích để lấy cớ tiêu diệt cách mạng Việt Nam. Bác Hồ triệu tập các vị lãnh đạo cao cấp để xử lý một vấn đề “hệ trọng”, Bác nói:
- Tướng T.V. của quân đội Trung Hoa dân quốc có gửi cho tôi một bức công văn, nội dung như sau:
“Kính thưa Cụ Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Yêu cầu Cụ cho mượn một cái nồi nấu cơm”.
Không cần phải nói, ai nấy đều có thể hình dung không khí tức giận bao trùm lên cuộc họp. Có những ý kiến đòi đánh.
Với phong thái bình tĩnh, ung dung, Bác Hồ nói: “Nền độc lập ta vừa giành được giống như một chiếc bình ngọc. Nay có những con kiến bò trên miệng bình, nếu ta dùng gậy đập kiến, chưa chắc kiến đã chết mà bình ngọc vỡ. Nếu ta lấy một cái que bắc cầu cho chúng xuống thì kiến sẽ đi hết, như vậy có hơn không? Còn trong sự việc vừa đem ra bàn, họ mượn cái nồi nấu cơm thì ta cho họ mượn, việc gì các chú phải nổi nóng như vậy?!"
Hay khoảng giữa năm 1949, một nhà báo Thái Lan trực tiếp phỏng vấn Hồ Chủ tịch để thăm dò xem Việt Nam đứng về phía nào trong cuộc chiến Quốc - Cộng ở Trung Quốc.
- Thưa Cụ Chủ tịch, nước Việt Nam của Cụ đứng về phía ông Tưởng hay ông Mao? Xin Cụ miễn cho câu trả lời “đứng trung lập”.
- Chúng tôi đứng trung lập. Cũng như Thái Lan của ông đang đứng trung lập giữa Anh và Mỹ!
- Nghe nói quân giải phóng nhân dân Trung Hoa đã gửi cho Cụ súng cối và súng liên thanh. Cụ đã nhận được chưa, nếu chưa thì Cụ có định nhận không?
- Chúng tôi chưa nhận được gì hết. Còn đúng như ông nói là họ có ý định gửi cho chúng tôi thì trong trường hợp này, ông khuyên chúng tôi nên làm như thế nào?
Ngày 05/10/1959, ông Si-ra I-si Bôn, cố vấn biên tập báo A-xa-hi-sin-bun Nhật Bản phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều vấn đề, trong đó có việc Chính phủ Nhật Bản dự định bồi thường chiến tranh, mà phía Nhật lại chọn Việt Nam lúc đó do Ngụy quyền Sài Gòn kiểm soát làm đối tác. Câu hỏi và trả lời như sau:
Hỏi: Việc đàm phán về vấn đề bồi thường chiến tranh đã được tiến hành giữa Chính phủ Nhật Bản và Việt Nam. Ngay ở Nhật Bản cũng có người chỉ trích việc đàm phán này và tin tức cho biết Ngài không hài lòng.
Theo ý Ngài, nhân dân Nhật Bản cần được hiểu vấn đề này như thế nào? Theo ý Ngài, vấn đề này cần được giải quyết như thế nào mới đúng?
Trả lời: Trong cuộc Đại chiến lần thứ hai, quân phiệt Nhật Bản đã xâm chiếm nước Việt Nam và đã gây ra nhiều tổn thất cho nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam. Toàn thể nhân dân Việt Nam có quyền đòi hỏi Chính phủ Nhật Bản tiến hành đàm phán và kí kết bồi thường chiến tranh với chính quyền miền Nam Việt Nam là không hợp pháp.
Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thấy rằng, việc đòi hỏi Nhật Bản bồi thường sẽ là một gánh nặng cho nhân dân Nhật Bản. Vấn đề cốt yếu trong quan hệ giữa hai nước không phải là việc đòi bồi thường, mà tình đoàn kết hợp tác giữa hai dân tộc Việt - Nhật đấu tranh chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình là quý hơn hết.
(Trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")
153. Châu Tự Do
Chúng tôi ngược bờ sông Đáy về phố huyện Sơn Dương. Hai bên đường dọc theo nông trường chè Tân Trào, những bụi cây trinh nữ ngại nắng khép kín lại. Những con suối lũ dềnh lên ào ào cuốn những cành cây gãy chảy ra sông. Từ đây còn 12 kilômét nữa là đến Tân Trào - Thủ đô lâm thời của cách mạng Việt Nam thời trước khởi nghĩa, chúng tôi dừng chân nghỉ ở huyện lỵ.
Sơn Dương những ngày tiền khởi nghĩa gọi là châu Tự Do, cái tên gọi ấy có từ rằm tháng ba nǎm 1945. Ôn lại những ngày lịch sử chói lọi và đầy kinh ngạc ấy, người dân Sơn Dương còn nhắc nhở một buổi bình minh sáng tươi, đội Cứu quốc quân 3 hạ đồn Đǎng Châu lần thứ hai, giết tri phủ Đèo Vǎn Phú, bắt tri châu Hoàng Thế Tâm, giải phóng cả vùng cánh cung rộng lớn của thượng huyện. Đồng chí Bí thư Huyện ủy, người đã từng theo trung tướng Song Hào, kể cho chúng tôi nghe về một buổi sáng tinh mơ hai mươi lǎm nǎm trước, Sơn Dương ngày ấy nổi dậy bằng giáo mác và súng khai hậu cướp châu đường, phá kho thóc, bắt các hào lý nộp ấn, sắc và triện đồng. Từ đấy Ủy ban nhân dân cách mạng châu Tự Do ra đời. Chính quyền cách mạng đầu tiên ở nước ta được thiết lập ngay tại một huyện nhỏ.
Lần từng bước đi trên con đường rải đá giữa huyện lỵ, dấu vết của những chiến công một phần tư thế kỷ trước và thành cũ Đǎng Châu, cỏ lan mặt đất vẫn còn đó, Đǎng Châu, cái thành đầy khủng khiếp của chế độ thực dân phong kiến miền núi, án ngữ trên ngã ba đường đi Tuyên Quang, Thái Nguyên, Vĩnh Yên đã kéo cờ trắng đầu hàng cách mạng sau những phút súng nổ quyết liệt của một phân đội Cứu quốc quân từ Khuổi Lịch (Tân Trào) kéo về.
Theo sách cũ Dư địa chí của Nguyễn Trãi trong ức trai di tập viết năm 1435 thì châu này thuộc phủ Đoan Hùng, ăn vào Tuyên Quang Thừa Tuyên. Tự thuở xưa, Sơn Dương là một hùng trấn. Nơi ấy núi non hiểm trở, của cải dồi dào, thắng tích chẳng ít, dân khí ngang tàng, bao nhiêu lần quân Minh thèm muốn không chinh phục được. Trên 600 nǎm trước, Sơn Dương gọi là Đễ Giang châu, tức là châu sông Đáy. Sông Phó Đáy chảy qua Sơn Dương hàng chục dặm, về gặp sông Lô rồi cùng sông Hồng hội ở ngã ba Hạc.
Trung tuần tháng 5 nǎm 1945, Bác từ Sơn Dương về Tân Trào. Các anh Song Hào cùng một số đồng chí đến đình Hồng Thái đón Bác. Hồng Thái có một mái đình nǎm gian dựng trên một khoảnh đất khá rộng. Một cây đa xum xuê với tám cành lớn ngả bóng mát che rợp mái đình. Hai mươi bốn cây cột lim và hai vế câu đối khắc song song trên đôi cột chính giữa đình:
Đễ Giang tả bão linh nguyên hội
Ngọc tĩnh hữu triều thụy khí chung
Đôi câu đối ngợi ca cảnh kỳ vĩ nơi đây: Bên trái sông Đáy bao quanh, nguồn linh thiêng tụ về. Giếng Ngọc chầu bên phải, khí đẹp chung đúc. Sau đình Hồng Thái có bản làng và một cái giếng trong xanh như ngọc ở ngay đầu thôn, nhân dân thường gọi là giếng Ngọc. Hồng Thái là cửa ngõ của Tân Trào, xã Tân Trào mỗi bề dài ngót 8 kilômét, trên 50 kilômét vuông diện tích thì rừng già và núi đã chiếm đến quá ba phần tư. Cǎn cứ địa Tân Trào lấy sông làm hào, lấy núi làm lũy chở che vị trí chiến lược quan trọng này. Muốn về thủ đô khu giải phóng phải qua dòng sông Đáy và bốn con suối sâu. Hôm ấy vào giữa trưa hè, nắng chói, đồng chí Võ Nguyên Giáp đưa Bác về. Bác dừng lại trước đình ngắm cảnh vật. Những ngọn núi Nản Đen, Kẹm Him, Khao Nhì... vách dựng cao hàng trǎm mét, dây leo um tùm. Những dãy rừng lim, rừng phách hoa nở tím viền lấy xã Tân Trào. Xa xa, đỉnh núi Thia và dãy núi Hồng - cơ sở của các đồng chí Cứu quốc quân III từ nǎm 1943 - quay lưng về Bắc Thái làm địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Tuyên Thái. Bác ngắm nhìn dãy lịch - nơi có phong trào chống thuế của nhân dân thôn Khe Thuyền từ tháng 10-1943. Bác ngắm dòng sông khe nước. Những dòng khe xinh đẹp, uyển chuyển: Đây khe Bòng, suối Thia, kia ngòi Sung, khe Cả chằng chịt dọc ngang vây quanh các bản đồng bào Tày, đồng bào Trại rồi chảy ra ngòi Thung nhập vào sông Đáy. Những ruộng lúa phì nhiêu, những vườn cây ǎn quả, bãi chuối xanh rậm bên những bờ sông, ven suối. Bác có vẻ hài lòng với cảnh núi non và dân cư ở vị trí xung yếu này. Bác cho nơi này là đất dụng binh được "tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ". Ở đây có đường qua đèo De, đường đi Thanh La, đường về Minh Khai, và từ các nơi ấy ta có thể đi Bắc Thái, Cao Bằng, qua Vĩnh Yên, Phú Thọ, hoặc về tận Hà Giang, Yên Bái...
Hôm về Tân Lập (Tân Trào) Bác mặc áo chàm ngắn đã sờn, xẻ hông kiểu áo Nùng, vai vắt chiếc khăn mặt bông, chân đi giày rơm đã rách có dây quai buộc. Bác đội mũ đen, tay cầm gậy nhỏ. Năm ấy râu Bác chưa bạc, nước da sương nắng sạm đen. Bác gầy, hai gò má nổi cao, nhưng đôi mắt vẫn sáng. Đồng bào kết bè đưa Bác sang sông (Lúc bấy giờ chưa có cầu treo trên sông Đáy). Bác về đến bản vừa lúc đồng bào nhen lửa thổi cơm chiều. Lão đồng chí Tiến Sự chỉ cho chúng tôi theo lối Bác bước lên nhà sàn. Hồi ấy, nhà cũ của đồng chí Tiến Sự có cầu thang xoay về phía Đông. Bác bước vào nhà, chào hỏi mọi người thân thiết như người cha đi lâu ngày, nay trở về thăm con cháu.
Cu Khoát thấy ông cụ hiền lành, phúc hậu, vui vẻ sà vào lòng, Bác xoa đầu âu yếm:
- Cháu đã đi học chưa?
- Thưa cụ chưa ạ? Đồng chí Tiến Sự trả lời thay.
- Cháu đã lớn, đi học được rồi đấy!
- Thưa, chưa mua được giấy, chưa xin được trường.
Bác nhìn quanh xóm, tỏ vẻ ái ngại về sự thiếu cơm, đói chữ của con em đồng bào các dân tộc. Bác chỉ một đồng chí vô tuyến diện đi theo Bác.
- Ngày mai theo chú này, chú cho sách và dạy cho.
Thế rồi cu Khoát chạy theo các chú bộ đội xuống sàn xem các chú mắc dây trời của đài vô tuyến điện để bắt liên lạc với các nơi.
Hồi ấy dân bản gọi Bác là "đồng chí già" hoặc "đồng chí cụ cũng có khi gọi là "đồng chí thượng cấp". Bà con trong bản thấy ông cụ đã cao tuổi, không biết từ bản nào về mà chăm chỉ lạ thường. Đêm đêm cụ ít ngủ, làm việc đến khuya. Việc gì cụ cũng làm, ai ai cụ cũng thương yêu, chăm sóc. Lúc gà rừng vừa vỗ cánh gáy chào rạng đông, cụ đã dậy, vác ống bương đi lấy nước dưới suối. Ông cụ quét nhà, ông cụ tưới rau, hoặc có khi đắp lại mương nước ở bờ ruộng. Làm xong những việc lặt vặt ấy, cụ mới ngồi vào chiếu, bên bàn máy chữ đặt trên khúc gỗ để làm việc. Bác thường nghe đồng chí Hoàng Quốc Việt báo cáo tình hình công tác, hoặc đồng chí Văn đến xin ý kiến. Tiếng máy chữ tí tách đều đều và có lúc rất khẩn trương. Cũng từ đây những lời hiệu triệu, những bản chỉ thị kêu gọi đồng bào đánh Tây, đánh Nhật, cướp chính quyền giành tự do. Những bức thư ký tên Nguyễn Ái Quốc tung khắp núi rừng, về trung du, xuống tận đồng bằng, truyền đi khắp nước.
Ban ngày bận việc, tối tối, Bác dành ít thì giờ gặp gỡ dân bản. Tiếng lành đồn xa, các gia đình quanh xóm đến thăm "đồng chí già", nghe đồng chí kể chuyện đánh Tây, Nhật nhất là những lời khuyên bảo của đồng chí về việc tǎng gia, tiết kiệm, về học tập, về tình hình thời sự... Cách giáo dục của Bác bao giờ cũng nhẹ nhàng, nhưng rất sâu sắc. Buổi đầu tiếp xúc có một câu chuyện nhỏ mà dân bản vẫn nhớ mãi đến giờ.
Hôm đó là một đêm hè, Bác cùng các mế (mẹ) các cụ, các chị quây quần trò chuyện bên bếp. Chuyện vui Bác hỏi:
- Bà con ta có biết trên đời này cái gì quý nhất?
Mọi người thấy ông cụ nhanh nhẹn, vui tươi và hiền từ nên rất có cảm tình. Nhiều chị tranh nhau trở lời. Người thì nói "cái nhà quý nhất", kẻ thì cho "chiếc cày quý nhất", "con trâu quý nhất", có chị nói to:
- Thưa đồng chí thượng cấp, đồng bạc trắng quý nhất.
Tất cả đều đồng ý:
- Đồng bạc trắng là quý nhất!
Bác cười có vẻ đồng tình, nhưng Bác hỏi thêm:
- Đồng bạc quý nhất thì cất giấu ở đâu cho kín?
- Thưa "đồng chí già" giắt ở mái nhà ạ!
Một vài ý kiến khác:
- Chôn dưới đất ạ?
- Cài trên đầu cũng kín ạ?
Nhiều câu trả lời làm cuộc trò chuyện thêm sôi nổi. Bác thong thả phe phẩy chiếc quạt, và giải thích:
- Đồng bạc là quý thật, muốn giữ kín, chôn giấu chỗ nào cũng được, mất có thể tìm, và làm ra được. Nhưng cán bộ, bộ đội Cứu quốc quân về đây hoạt động, họ còn quý hơn tiền bạc. Có họ thì có tất cả. Họ là người cùng ta đánh Tây, đánh Nhật, là tôi tớ của dân. Nước độc lập tự do thì nhà cửa, trâu bò, cày bừa, tiền bạc đều có. Vậy ta phải giữ kín họ.
Một bà mẹ thắc mắc:
- Làm thế nào giữ kín được, thưa cụ?
Bác im lặng một lúc, xem mọi người còn ai hỏi thêm điều gì không, cuối cùng Bác bảo:
- Muốn giữ kín họ phải thực hiện "ba không". Có người lạ mặt thì nói "không nghe", "không thấy" hoặc "không biết". Có như vậy mới bảo vệ được cán bộ, bảo vệ được khu cǎn cứ. Tất cả mọi người đều cười vui rung cả sàn nhà, và cứ thế một vài đêm sau cả bản họp lại để nghe "đồng chí già" trò chuyện một vấn đề khác....
Các cụ Hương, cụ Vượng ở Khuổi Lịch - nơi đội Cứu quốc quân 3 ra đời tháng 12-1944 - cũng đến nghe Bác nói chuyện. Các cụ rất ái mộ Bác: "Dân mình phúc bằng trời mới có được ông cụ nhiều tuổi, tốt bụng và anh minh như vậy, ông cụ dắt dẫn ta đánh Tây, đánh Nhật nhất định là phải thắng. Việt Nam mình nhất định độc lập!".
Và cũng từ đấy, cán bộ, cơ quan Trung ương, rồi Đại hội, nhà in, máy móc di chuyển đi về nườm nượp suốt đêm nhưng bí mật vẫn được giữ kín tuyệt đối. Lòng dân ở đây đối với Bác, với cách mạng, với A.T.K (an toàn khu) thật vô bến bờ. Đó là tường lũy vững chãi nhất cho thủ đô lâm thời.
Vào một ngày cuối tháng 5 nǎm 1945, giặc Nhật cho 500 quân cùng lừa ngựa chở súng đạn bất ngờ tiến đánh Tân Trào, hòng tiêu diệt đầu não và lực lượng cách mạng non trẻ của ta. Tân Trào lúc bấy giờ như một chiếc gai lưỡi hùm trước mắt chúng. Mặc dầu hôm đó ta chưa kịp bố trí, nhưng nhân dân đã hết lòng chở che, báo cho đồng chí Môn, đồng chí Thâm và đồng chí Long Giang đưa quân ra chặn đánh ở các ngả và ở đèo Chắn. Nhân dân hết lòng ủng hộ bộ đội chiến đấu. Giặc Nhật đành phải bỏ lại dưới chân đèo nhiều xác chết, rồi hoảng sợ rút lui. Và từ đó, chúng không dám bén mảng đến đất Thánh của cách mạng nữa.
Ở bản được vài tuần lễ, một hôm Bác gọi đồng chí Tiến Sự đến,.
Bác rỉ tai nói nhỏ:
- Chủ nhiệm ngày mai có bận gì không? Chủ nhiệm nhớ mượn cho vài cái rìu, vài con dao nhé!
Thế rồi sáng hôm sau, lúc đồng chí Tiến Sự còn ngái ngủ, Bác đã giục:
- Chủ nhiệm ơi, dậy đi thôi! Ta vào rừng làm lán.
Sau vài ngày, Bác cùng đồng chí Tiến Sự, đồng chí Cát tìm địa thế, chặt cây, cắt tranh làm nhà ở. Rồi một sớm, Bác dời về nhà mới...
Vì sự cảnh giác của Bác "lai vô ảnh, khứ vô hình" nên khi về Hà Nội, Bác cho đốt cả lán cỏ bên suối. Giờ đây trong khu rừng Nà Lừa chỉ còn lại tảng đá, nơi xưa kia Bác dùng làm bàn ǎn. Và ở đây, ngày nay một hồ nước chứa hàng chục vạn khối, cùng một công trình thủy điện mọc lên. Nhân dân Tân Trào đời đời ghi nhớ công lao của Bác. Đồng chí Kim Sơn ở bảo tàng Tuyên Quang có nhờ đồng chí Tiến Sự nhớ kỹ lại cǎn nhà Bác ở lúc đó để phục chế lại. Hiện nay nhà chưa làm xong, nhưng ở bảo tàng Hồng Thái đã có mô hình cǎn nhà lá, nửa sàn, có bảy nấc thang tre với hai gian đơn sơ, trống trải... đây là "Phủ Chủ tịch lâm thời" - "dinh" của vị Chủ tịch nước. Và chừng ấy cũng đủ nói lên cuộc sống thanh đạm giản dị của Bác, trong những ngày Bác ở Tân Trào.
Chúng tôi men theo ngòi Khuôn Pén, qua Khao Nhì, về ghé thǎm đình Tân Trào.
Đình Tân Trào là một ngôi đình nhỏ không lợp ngói mà lợp bằng cọ. Nhưng chính nơi đây đã xảy ra một sự kiện vô cùng trọng đại trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta. 14 giờ 30 phút ngày 16-8-1945 Đại hội đại biểu Quốc dân nhóm họp ở đây. Trên 60 đại biểu khắp các tỉnh ở ba miền Trung, Nam, Bắc, Việt kiều ở Xiêm, Lào kéo về chật cả ngôi đình bé nhỏ, mở hội non sông. Đồng chí Trường Chinh báo cáo trước Quốc dân Đại hội về vấn đề chuẩn bị Tổng khởi nghĩa và thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc. Đại hội cử Bác làm Chủ tịch Ủy ban. Đó là Chính phủ lâm thời và là Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên của ta. Tại nơi đây, cụ Hồ Chí Minh lần đầu ra mắt đại biểu quốc dân. Các chiến sĩ Giải phóng quân bắn ba loạt súng chào mừng, và ngay chiều hôm đó, dưới gốc đa Tân Trào, nắng xiên qua vòm lá, đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng trên mô đất cao đọc bản Quân lệnh số 1 của ủy ban khởi nghĩa. Tân Trào từ đấy thật sự trở thành Thủ đô lâm thời và là đại bản doanh của quân cách mạng. Trước cơ hội ngàn nǎm có một, Việt Nam giải phóng quân tiến về chiếm Thái Nguyên. Các đơn vị giải phóng quân từ các chiến khu kéo về các tỉnh cùng nhân dân nhất tề nổi lên giành lấy chính quyền, mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa truyền đi từ Tân Trào ngày 18-5-1945, thì Hà Nội khởi nghĩa ngày 19-8, Huế ngày 23-8 và Sài Gòn ngày 25-8. Chỉ trong vòng một tuần lễ, nhân dân ta đã đứng lên giải phóng toàn bộ đất nước. Sức lay trời chuyển đất của Đại hội Tân Trào là thế. "Dù đốt cháy dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập" lời Bác như chim bằng giang rộng cánh, đó là lời của tổ tiên 4000 năm giục ta lên đường xông trận.
Chiều hôm đến Tân Trào, đứng trên chiếc xe bánh xích ủi đất mở đường, chúng tôi ngắm mãi ngôi đình làng cũ, mái lá vừa được lợp lại, nắng thu nhuộm vàng vẳng nghe như từ trong nhang án giữa đình vọng lên lời hiệu triệu của Bác bao năm trước.
Cây đa Tân Trào giờ đây vẫn xanh tốt. Chỗ mảnh đất dưới gốc đa Tân Trào, nơi Bác thường nói chuyện với cán bộ học sinh trường quân chính giờ đây nhân dân địa phương dựng lên một nhà trẻ rộng thoáng, còn thơm mùi gỗ mới.
Ngày trước nơi đây Bác luyện quân, chỉnh cán, thì giờ đây thực hiện Di chúc Bác, Đảng bộ Tân Trào đang vun trồng cho thế hệ mai sau. Tân Trào đã có trường cấp hai, có bệnh xá, nhà hộ sinh, có loa truyền thanh... Có độc lập tự do, thì có tất cả những điều Bác giải thích cho đồng bào Tân Trào ngày xưa, nay thành sự thực.
Để ghi nhớ công ơn sâu nặng của người Cha, nhân dân Tân Trào đang xây nhà lưu niệm về Bác. Bê tông nền nhà vừa đổ xong, những giàn giáo dựng dưới những cành đa để xây tường, dựng cột. Đồng chí Trung Nguyên, Chủ nhiệm Hợp tác xã Tân Trào cho chúng tôi hay còn bốn vạn hai nghìn viên gạch nữa là xây xong khu nhà lưu niệm về Bác. Nhà lưu niệm rộng 270 mét vuông, ở đây sẽ trưng bày trên 400 hiện vật về Bác, về Nhà nước dân chủ đầu tiên, về đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, v.v.. Trong đó có khẩu súng kíp, trước khi về Hà Nội, Bác trao cho đồng chí Tiến Sự và căn dặn đồng chí Sự dùng súng đó để bắn quân thù, bảo vệ chính quyền cách mạng.
(Trích trong "Bác Hồ với Tân Trào")
154. Có thể cho người nghèo những thứ ấy
Khoảng năm 1914, Bác Hồ - lúc bấy giờ gọi là Nguyễn Tất Thành - đã đến Luân Đôn - Thủ đô của nước Anh. Ở đây có thời gian Bác phải làm phụ bếp cho khách sạn Cáctơn.
Ở khách sạn Cáctơn, hằng ngày có người phục vụ dưới bếp. Những người này, sau khi khách ăn xong, có nhiệm vụ phải thu dọn bát đĩa... và đổ tất cả thức ăn thừa vào một cái thùng to rồi sau đó đem đổ đi. Có khi những thức ăn thừa là một phần tư con gà, hay cả đĩa bánh mỳ và những miếng bít tết to tướng...
Đến lượt anh Thành làm phụ bếp, những thức ăn thừa của khách, anh đem để riêng và đậy lại cẩn thận sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng rồi đưa cho nhà bếp.
Thấy vậy ông đầu bếp Étcốtphie hỏi lại anh:
- Tại sao anh không đem những thức ăn này đổ vào thùng như những người khác?
Anh Thành điềm tĩnh trả lời:
- Không nên đem vứt những thứ này đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy.
Câu nói của anh Thành làm cho ông đầu bếp rất ngạc nhiên, vì ông thấy từ trước tới nay, chưa có ai ở khách sạn này nghĩ và nói như anh Thành.
Ông chủ bếp và mọi người nhìn anh biểu hiện một sự quý mến và khâm phục trước tấm lòng yêu thương của anh đối với những người nghèo.
(Trích trong "Vũ Kỳ - Thư ký Bác Hồ kể chuyện")
Tâm Trang (tổng hợp)