Chỉ mục bài viết

1. Bác dặn tôi giữ gìn sức khỏe

Tháng 7-1942, tôi có nhiệm vụ dẫn đồng chí Trần (Hoàng Sâm) cùng một số cán bộ đến các xã tổ chức tuyên truyền "tội ác phát xít Nhật". Bọn Pháp dò biết công việc của tôi. Chúng lùng bắt tôi, nhưng tôi trốn thoát. Chúng bắt vợ con tôi lên đồn, định lung lạc tinh thần để tôi ra đầu thú. Tôi rút vào hoạt động bí mật từ đó cùng với đồng chí Xích Thắng. Một lần, chúng tôi đang trao đổi tình hình thì có một đồng chí liên lạc người Mông đến trao thư của Ông Cụ hẹn gặp.

Đến một hang đá, chúng tôi gặp Ông Cụ cùng các đồng chí: Vũ Anh, Đặng Văn Cáp, Vân Trình, Lộc, Bình Dương đang quây quần bên chảo cháo gà sôi sùng sục trên bếp lửa. Đồng chí Xích Thắng giới thiệu tôi với Cụ. Ông Cụ chìa tay ra bắt và hỏi ngay chuyện vợ con tôi bị bắt. Cụ hỏi tôi có lo không. Tôi trả lời:

- Lo thì cũng lo nhưng làm thế nào được ạ. Chúng không bắt được mình thì chúng sẽ bắt vợ con hoặc bố mẹ, đánh vào tình cảm để hòng mình ra đầu thú. Chúng cũng không có cơm gạo đâu mà nuôi mình được. Đến một ngày nào đó, chúng sẽ phải trả giá. Tôi đã chuẩn bị tinh thần như vậy rồi.

Ông Cụ mỉm cười:

- Tất nhiên là như vậy. Nếu không hoạt động được công khai thì rút lui vào bí mật chứ sao. Rừng núi của ta rộng lớn như thế này, Tây lấy đâu ra quân lính để lùng bắt ta được. Chính vì ta thương vợ con mà ta đi làm cách mạng. Nếu bây giờ muốn gặp vợ con mà ra đầu thú thì sẽ bị chúng bắt bỏ tù. Rồi cả đời không được gặp vợ con nữa. Bây giờ chịu đựng thì một ngày gần đây sẽ được sum họp. Thôi, hãy ăn cháo đã.

Ông Cụ múc cháo cho từng người, đưa tận tay và giục ăn. Ăn xong, Ông Cụ giơ đồng hồ ra xem, hỏi chúng tôi đi hay ngủ lại. Chúng tôi đáp là muốn di ngay. Ông Cụ đồng ý và nói: Phải. Các đồng chí cũng nên về ngay để bám sát, ổn định tình hình. Nếu về thì phải dựa vào họ hàng, anh em thân thích để nắm tình hình của địch đã. Không được vào nhà mình ngay mà mắc bẫy của địch. Phải chọn cơ sở tốt. Không được bạ ai cũng bắt liên lạc. Bốn ngày sau, đồng chí quay lại báo cáo công việc.

Chúng tôi chào Ông Cụ và các đồng chí ra về. Đến lúc này, tôi mới biết Ông Cụ là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tôi mừng quá.

Đúng hẹn, tôi và đồng chí Xích Thắng quay về. Thấy mặt tôi đỏ gay, rên hư hử, Bác gọi đồng chí Cáp mang kim ra châm cứu cho tôi. Châm cứu cho tôi xong, Bác tập trung mọi người lại nghiên cứu tài liệu Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô. Bác giao cho một người đọc. Riêng tôi, Bác cho nằm nghe, nhưng không được ngủ. Sợ tôi không chú ý, bất thình lình Bác hỏi tôi: Tư bản chủ nghĩa là gì? Tôi trả lời: Thưa Cụ, tư là riêng, bản là vốn. Tư bản là vốn riêng ạ!

Bác không nói gì, lần lượt hỏi từng người. Mỗi người nói một cách, một ý khác nhau. Cuối cùng Bác hỏi đồng chí Vũ Anh. Đồng chí Vũ Anh trả lời đúng hơn cả. Bác kết luận:

- Định nghĩa như đồng chí Trinh (tên thật của đồng chí Vũ Anh) là đúng. Tư bản nếu hiểu theo nghĩa đen của chữ Trung Quốc là "vốn to". Song phải hiểu theo nghĩa bóng đó là những người có nhiều nhà máy, hầm mỏ, chuyên sống bằng bóc lột thợ thuyền…

Bốn ngày sau, khỏi sốt, tôi xin xuống làng công tác. Bác đưa tôi ra tận cửa hang. Thấy tôi còn xanh xao, Bác ân cần dặn dò giữ gìn sức khỏe để hoạt động lâu dài. Vừa bước được vài bước chân, đến mỏ đá hôm đầu tiên tôi biết Bác là lãnh tụ, bỗng tôi quay lại nhìn về phía hang, Bác vẫn đứng đó, vẫy tôi dặn với:

- Chú Hồng Mi, cố gắng công tác nhé. Nhưng phải giữ gìn sức khỏe đấy!

Sự quan tâm của Bác đối với cán bộ thật lớn lao ngay từ những câu nói rất đỗi giản dị ấy.

(Trịnh Nam Hiến (tức Lượng) kể, trích trong sách Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005)

2. Những lời dạy bảo ân tình

Năm 1948, tôi đang công tác ở Liên khu 5 thì được phép đi điều trị ở một bệnh viện Trung ương tại chiến khu Việt Bắc.

Tuy ở căn cứ của Trung ương Đảng và Chính phủ nhưng trong khi ngày ngày nghỉ chờ tiêm thuốc, khám bệnh, tôi không dám nghĩ mình sẽ có dịp được gặp Bác thật. Thật bất ngờ, niềm hạnh phúc ấy lại đến với tôi. Nghe tin có một số cán bộ miền Nam ra chữa bệnh, Bác đến thăm. Cùng đi với Bác có anh Nguyễn Trọng Vĩnh. Lần này tôi thực sự được gặp Bác và còn được Bác thăm hỏi, trò chuyện. Bác đội mũ cát, mặc bộ quần áo nâu giản dị, khăn mặt vắt vai, chân đi dép cao su. Bác hồng hào, khỏe mạnh hơn nhiều so với hôm chúng tôi được thấy Bác ở cuộc mít tinh Tuần lễ vàng năm 1945. Dáng điệu của Bác thật là thanh thản, thoải mái. Bác đến bên giường tôi nằm, Bác hỏi:

- Chú tên là gì? Quê ở đâu?

Tôi thưa:

- Thưa Bác, cháu là Huỳnh Đắc Hương. Quê cháu ở Hội An, tỉnh Quảng Nam.

Bác nói:

- Quảng Nam là đất cách mạng kiên cường. Các chú phải biết phát huy truyền thống đó. Chú còn trẻ, phải cố gắng chữa bệnh cho tốt để còn hoạt động lâu dài. Muốn chữa bệnh cũng phải có nghị lực như chiến đấu.

Bác còn hỏi một số tình hình và căn dặn các bác sỹ, y tá đi theo phải cố gắng chăm nom bệnh nhân cho thật tốt. Lần đầu tiên được ở cạnh Bác, được Bác hỏi han, tôi xúc động và lúng túng quá nên Bác hỏi gì tôi trả lời nấy và không nhớ là mình đã nói những gì. Cho đến khi Bác ra về, tôi vẫn còn ân hận là có nhiều điều muốn thưa với Bác mà cuối cùng không nói được lời nào. Tôi chỉ mới ngắm nhìn Bác.

Tôi biết Bác nghiện thuốc lá nặng, nhưng trong lúc thăm chúng tôi không thấy Bác hút. Bác tôn trọng nội quy của bệnh viện và không muốn làm ảnh hưởng đến chúng tôi. Tôi suy nghĩ mãi về hành động đó của Bác, thật giản dị mà cũng rất lớn lao. Bác để cho chúng tôi một bài học có giá trị giáo dục sâu sắc về ý thức tổ chức và kỷ luật.

Năm 1955, chúng tôi tập kết ra miền Bắc. Tôi công tác ở Cục Tổ chức thuộc Tổng cục Chính trị. Lúc ấy có chủ trương chuyển các đơn vị quân đội sang vừa sản xuất vừa luyện tập sẵn sàng chiến đấu. Sư đoàn 305 của Liên khu 5 được chuyển lên địa phận Phú Thọ, khu vực Thậm Thình. Bác muốn lên thăm anh em. Anh Nguyễn Chí Thanh cử tôi lên trước để chuẩn bị.

Thế là một lần nữa tôi vinh dự được ở bên Bác. Cuộc gặp gỡ diễn ra hết sức giản dị mà ấm cúng. Anh em quây quần bên Bác, chẳng khác nào như đàn con quấn quít bên cha. Bác trò chuyện, thăm hỏi anh em, Bác nói đến những thắng lợi to lớn của cách mạng và con đường phải đi tới. Bác căn dặn quân đội cách mạng phải chiến đấu giỏi nhưng cũng phải sản xuất giỏi. Cha ông ta ngày xưa đã có truyền thống khi có giặc thì toàn dân đánh giặc, khi đất nước hết giặc thì ra sức sản xuất. Sư đoàn 305 đã chiến đấu giỏi, luôn sẵn sàng chiến đấu để góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc và tiến tới thống nhất nước nhà. Bộ đội phải tôn trọng nhân dân, gắn bó với nhân dân, sống với nhân dân như cá với nước; phải kính trọng người già, phụ nữ, quý mến trẻ em; phải coi chỗ nào trên đất nước mình cũng là quê hương ruột thịt. Lời của Bác thật sự là những lời thân thiết của người cha dạy bảo các con, giản dị mà chân tình, dẽ hiểu mà sâu sắc, bao hàm một nội dung rộng lớn về tư tưởng cách mạng triệt để, về nhiệm vụ chiến lược của cả nước, vì mục tiêu chiến đấu và phẩm chất cách mạng của quân đội nhân dân.

Trước mắt, bước vào nhiệm vụ sản xuất, nhiều anh em còn băn khoăn lo lắng, nhưng sau khi nghe Bác nói thì ai cũng tin tưởng và thấy rõ trách nhiệm của mình.

Năm 1958, trong buổi lễ phong quân hàm của quân đội, tôi lại có dịp may mắn được gặp Bác. Được tham dự lễ có khoảng 20 cán bộ cả ba miền Bắc - Trung - Nam do Bộ Quốc phòng lựa chọn. Trong lễ tấn phong, Bác đã thân mật nói chuyện với anh em cán bộ cao cấp có mặt. Bác biểu dương quân đội đã hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ giao cho; đã có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. Bác chỉ ra nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn mới. Bác nói: Quân đội ta phải kiên quyết bảo vệ những thành quả của cách mạng, tích cực tham gia công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm chỗ dựa vững chắc cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Một lần nữa Bác lại nói đến sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đó là ý chí, tình cảm và quyết tâm của Bác. Ý chí của Bác cũng là ý của toàn dân, toàn quân ta. Bác nói tiếp: Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang ấy, quân đội ra phải là một quân đội nhân dân, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại. Mỗi đồng chí phải ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng, củng cố lập trường giai cấp công nhân, nâng cao trình độ chính trị và quân sự, phát huy truyền thống tốt đẹp của quân đội ta… Bác căn dặn chúng tôi nhiều điều về trách nhiệm, phẩm chất của người cán bộ quân đội cách mạng…

Năm 1965, sau những thắng lợi ở miền Nam, Trung ương điện các quân khu cử người ra báo cáo. Ở miền Nam là anh Trần Văn Trà, Liên khu 5 thì tôi được cử đi đại diện cho Quân khu.

Trong thời gian công tác ở Trung ương, anh Trà và tôi được Bác cho gọi đến ăn với Bác bữa cơm thân mật. Anh Nguyễn Chí Thanh cùng dự với chúng tôi. Bác khen quân và dân Nam Bộ đánh trận Bàu Bàng, quân và dân Tây Nguyên đánh trận Plâyme như vậy là tốt. Nó chứng tỏ quân và dân ta không những đánh được Mỹ mà còn đủ sức đánh thắng Mỹ.

Bác hỏi vui tôi:

- Địch dùng trực thăng vận, các chú đã bị nó vồ trượt lần nào chưa?

Tôi thưa:

- Thưa Bác, ở trận Plâyme, trong lúc anh Chánh và cháu đang kiểm tra chiến trường thì không ngờ nó ập đến nhanh quá, nhưng nhờ có cây mắc cỡ mà chúng cháu không việc gì.

- Cây mắc cỡ nào cao thế à?

- Thưa Bác, vâng. Cây mắc cỡ trong đó mọc thành rừng, che kín đất mà màu cây cũng giống màu đất.

Bác còn hỏi anh Trà và tôi cũng nhiều chuyện nữa và dặn dò chúng tôi nhiều điều. Bác so sánh sự khác nhau giữa đánh pháp trước đây và đánh Mỹ ngày nay. Pháp tuy yếu hơn Mỹ nhưng điều kiện chiến đấu của chúng ta ngày ấy khó khăm hơn nhiều. Ngày ấy thực sự là châu chấu đá voi, nhưng cuối cùng ta đã làm cho voi lòi ruột. Đó là thế thắng tất yếu của cách mạng. Còn ngày nay là cuộc đọ sức của hai lực sỹ. Tuy Mỹ là lực sỹ khổng lồ, vũ trang đến tận răng nhưng không có chính nghĩa, không có địa lợi nhân hòa. Còn ta tuy là lực sỹ tí hon nhưng sức mạnh của cả đất nước, có nhân dân, có lối đánh riêng của mình và có sự ủng hộ của cách mạng và nhân dân thế giới. Sức mạnh của ta là sức mạnh của nhân dân và là xu thế đi lên của lịch sử. Còn sức mạnh của địch là sức mạnh của xu thế đi xuống nên nó sẽ dần dần bị tàn lụi và thất bại. Tất nhiên là phải biết đánh cho chúng thất bại.

Câu chuyện thân mật của Bác đã giúp cho chúng tôi một bài học vô cùng sâu sắc về đấu tranh cách mạng và tinh thần lạc quan cách mạng.

Có một chuyện vui. Biết chúng tôi ở chiến trường ăn uống kham khổ, hôm đó Bác bảo làm thêm thức ăn. Thấy chúng tôi ăn đã no mà thức ăn còn nhiều, biết tính Bác, anh Nguyễn Chí Thanh muốn đỡ cho chúng tôi. Anh thưa với Bác:

- Bác ngồi chơi đã lâu, mời Bác về nghỉ cho đỡ mệt.

Bác rất tinh ý, Bác cười:

- Để Bác ngồi tiếp với các chú miền Nam thêm lúc nữa.

Bác hỏi chúng tôi có muốn nghe chuyện ngoại giao không? Chúng tôi chưa hiểu ý Bác ra sao thì Bác đã kể chuyện có lần đồng chí Môlôtốp gặp Thủ tướng Anh Sớcsin. Vừa chuốc rượu, Thủ tướng Anh vừa nói đùa đồng chí Môlôtốp:

- Các ông phê phán tôi là phản bội giai cấp, nhưng chính các ông cũng không phải người thuộc giai cấp vô sản. Còn chính tôi mới xuất thân từ nghèo khổ.

Sớcsin nói thế có ý khoe mình là người của Công Đảng - Đảng của công nhân.

Môlôtốp cười xòa:

- Thế là chúng ta đều là người phản bội giai cấp.

Kể xong, Bác cười vui:

- Ngoại giao thì thế nhưng ăn uống thì phải thật thà, phải ăn thật hết, không được bỏ thừa.

Chúng tôi cùng cười nhưng hết sức xúc động trước tấm lòng của Bác.

Hồi ấy, tôi vẫn còn bị sốt rét luôn, người yếu, ăn uống kém, nhưng hôm đó tôi đã ăn rất ngon, gấp đôi ngày thường. Tôi cũng vui vì đã làm vui lòng Bác.

Sau thời gian công tác ở Tây Nguyên, tôi được chuyển sang công tác ở Bộ Tư lệnh Quân khu Tây Bắc.

Chúng tôi cũng được tin là thời gian này, Bác đang mệt. Lời dạy của Bác đã làm cho chúng tôi thêm bồi hồi xúc động. Tất cả chúng tôi, những chiến sỹ tình nguyện sang giúp bạn chiến đấu hoặc công tác ở Lào, không ai không thấm sâu, không thuộc lòng những lời Bác dạy: Phải biết yêu quý, tôn trọng núi sông, nhân dân, Tổ quốc mình. Giúp bạn cũng là tự bảo vệ mình. Lời dạy của Bác thể hiện tình nghĩa quốc tế cao cả, tình cảm quốc tế đẹp đẽ, đường lối quốc tế vô cùng trong sáng của Đảng ta.

Giữa lúc đó thì Quân ủy Trung ương triệu tập một hội nghị cán bộ cao cấp. Một số anh em ở Bộ Tư lệnh Quân khu Tây Bắc, trong đó có tôi, được về dự. Nghe tin Bác ốm, cả hội nghị đều rất băn khoăn và mong muốn được thăm Bác. Chiều ý chúng tôi, Bác để cho chúng tôi được gặp Bác ở nhà khách Chính phủ. Bác vẫn đi lại được nhưng sức khỏe của Bác đã giảm sút nhiều. Bác ân cần dặn dò chúng tôi nhiều điều. Riêng về vấn đề giúp bạn Lào, Bác nhắc lại và nhấn mạnh là phải bảo vệ thật tốt cánh đồng Chum. Biết Bác mệt, anh em chúng tôi không ai dám nói nhiều mà chỉ ngồi nghe như nuốt từng lời Bác, nước mắt cứ rưng rưng. Riêng tôi, tôi cầu mong cho sức khỏe cả Bác tốt lên để Bác dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của chúng ta đến ngày toàn thắng, và thầm hứa với Người: "Chúng cháu xin thực hiện bằng được lời dạy của Bác".

(Huỳnh Đắc Hương kể, trích trong cuốn Bác Hồ với đất Quảng, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000).

3. Kỷ niệm lần gặp Bác

Năm 1955, chừng 20 học sinh Việt Nam người dân tộc Khmer và 30 học sinh của các dân tộc Tây Nguyên tập kết ra Bắc có trình độ lớp 4 trở lên đi học ở Trường Trung sơ cấp Sư phạm miền núi Trung ương cùng các bạn học sinh dân tộc thiểu số ở miền Bắc. Chúng tôi được nghe nhiều tiếng nói, âm sắc khác nhau của mỗi dân tộc thể hiện lòng yêu mến Bác Hồ bằng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình: Book Hồ, A Cha Hồ, Ava Hồ, Giàng Hồ, Ké Hồ, Prak Hồ, Um Hồ… và lúc nào chúng tôi cũng mong được gặp Người. Năm học 1956, ước mơ được gặp Prak Hồ của chúng tôi thành sự thật. Người đi thăm lớp học, nơi ở, nhà bếp, sân chơi,… của chúng tôi. Người dặn dò:

- Các cháu là con em các dân tộc trong cả nước về đây học tập để sau này trở thành thầy cô giáo phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em một nhà. Cố gắng học thật tốt để đem hiểu biết đó xây dựng quê hương mình. Các cháu phải có trách nhiệm mang ánh sáng văn hóa của Đảng về thắp sáng bản mường, buôn rẫy, phum sóc của mình…

Rồi Prak Hồ hỏi:

- Các cháu có đồng ý vậy không?

- Thưa Bác, có ạ!

Tất cả chúng tôi đồng thanh trả lời.

Năm 1957, Đoàn đại biểu Chính phủ Inđônêxia sang thăm Hà Nội, giáo sinh các dân tộc ở trường chúng tôi mặc trang phục theo dân tộc mình, đón Đoàn tại lễ đường Trường Đại học Y khoa Hà Nội.

Bác Hồ giới thiệu chúng tôi với Tổng thống Xucácnô.

Rồi Người quay sang hỏi chuyện chúng tôi:

- Cháu là người dân tộc Khmer phải không?

- Dạ, phải!

Tôi vô cùng ngạc nhiên không hiểu tại sao Prak Hồ biết.

- Cháu học lớp mấy?

Người hỏi tiếp.

- Dạ, lớp 7 ạ!

- Nhớ ba má, quê hương miền Nam không?

- Dạ, nhớ lắm ạ!

Prak Hồ dặn:

- Cố gắng học thật giỏi để thể hiện tấm lòng nhớ thương ba má và quê hương…

Lần ấy là lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng chúng tôi gặp Bác. Từ đó, trong quá trình học tập cho đến khi tốt nghiệp, bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ ở Liên Xô (1970) và mãi mãi không bao giờ tôi quên lời dặn dò của Người.

(Trần Thanh Pôn kể, đăng trên Báo Sài Gòn ngày 19/5/1990)

Tâm Trang (tổng hợp)


 4. Hai lần gặp Bác

Trung thu năm 1966, Thành đoàn tổ chức cho Câu lạc bộ thiếu nhi biểu diễn tại Nhà hát thành phố, có báo cáo mời Bác Hồ đến vui với các cháu.

Sắp đến giờ mở màn. Mọi người nóng lòng mong Bác đến. Tôi đang khẩn trương chuẩn bị phía trong sân khấu. Thỉnh thoảng lại khẽ hé riđô nhìn ra các hàng ghế đầu xem Bác tới chưa. Nhưng chỗ Bác vẫn để trống mà phía sau đã ngồi đầy ắp ba tầng nhà hát.

Chợt có tiếng reo to: "Bác Hồ! Bác Hồ!". Tôi quay lại đã thấy Bác đứng đằng sau cánh gà trong bộ quần áo lụa giản dị, tay cầm chiếc quạt giấy nhẹ nhàng quạt cho mấy cháu đứng bên. Bác hỏi:

- Hôm nay các cháu biểu diễn gì?                                                                                                                                                     . .

- Dạ thưa Bác, hôm nay chúng cháu biểu diễn ca múa nhạc ạ!

Bác hỏi tiếp:

- Thế có tiết mục văn nghệ dân tộc không?

- Thưa Bác, có ạ!

Các cháu ríu rít quanh Bác, còn tôi, vì hồi hộp quá không biết nên thưa Bác điều gì. Bác đi thăm các đồng chí phục vụ nhà hát rồi xuống xem biểu diễn.

Tối biểu diễn hôm đó thành công tốt đẹp, vui, sôi nổi hơn bao giờ hết.

Một lần khác, tôi dẫn gần 100 cháu và cán bộ phụ trách vào biểu diễn phục vụ khách tại Phủ Chủ tịch.

Khi các cháu vừa hóa trang và chuẩn bị xong thì Bác và một số đồng chí từ Nhà sàn đi tới, trên con "đường xoài" mát rượi. Các cháu ùa ra đón Bác, còn tôi và mấy cán bộ đội chỉ đứng ngây ra nhìn Bác và đàn cháu nhỏ. Cháu nào cũng muốn chen vào để được gần Bác, để được Bác cầm tay, xoa đầu và hỏi han. Bác và các cháu đi dần về phía "sân khấu" nơi Bác sẽ tiếp khách.

Chợt Bác hỏi:

- Hôm nay các cháu làm gì mà đánh phấn, má hồng thế này?

- Thế không đánh phấn thì có biểu diễn được không? - Bác hỏi tiếp.

Các em đồng thanh trả lời:

- Thưa Bác có ạ!

Cán bộ phụ trách chúng tôi lúc ấy đều hiểu ý Bác: Không nên quá câu nệ hình thức son phấn đối với tuổi thơ trong những buổi sinh hoạt thế này.

Cuối buổi biểu diễn, Bác cùng khách gọi các cháu đến để chia kẹo và chụp ảnh cùng Bác.

(Theo Lê Bul, đăng trên báo Hà Nội mới ngày 15-5-1985)

5. Những kỷ niệm ngoại giao sâu sắc với Bác Hồ

Sau chiến thắng Việt Bắc, Bác và anh Trường Chinh gặp tôi, giao nhiệm vụ tổ chức một đoàn đại biểu ngoại giao nước ngoài nhằm tuyên truyền về cuộc kháng chiến của ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Nhận nhiệm vụ được giao, tôi về tổ chức ngay đoàn đi.

Trong khi anh em đang chuẩn bị tài liệu để lên đường, Bác gọi tôi đến hỏi về công việc chuẩn bị và sức khỏe của đoàn, Bác bảo tôi: "Chú xem ai có khó khăn gì về gia đình không? Trước khi đi, cần kiểm tra lại sức khỏe của anh em, vì tôi biết chuyến này đi vất vả". Rồi Bác trao cho tôi bức thư do Bác tự đánh máy nhờ tôi trao lại cho anh em trong đoàn. Bác nói: "Cố gắng động viên tinh thần anh em cho tốt". Trong thư Bác viết:

"Gửi các đồng chí lên đường!

Một, chúc các đồng chí đi đường, chân cứng, đá mềm, thuận buồm xuôi gió.

Hai, các đồng chí đi đường sẽ cực khổ, công tác sẽ khó khăn.

Các đồng chí phải đem toàn tinh thần và nghị lực của thanh niên yêu nước mà chịu đựng, phấn đấu, khắc phục mọi sự gian nan, để tranh lấy thắng lợi.

Ba, từ lời nói đến việc làm, bất kỳ to nhỏ, các đồng chí phải luôn luôn nhớ rằng: Mình là đại biểu cho thanh niên yêu nước, ra ngoài để giúp anh em công tác, để đem tình thân ái của Tổ quốc cho kiều bào và để giúp đỡ họ, để tuyên truyền cho thanh niên và cho cả dân tộc Việt Nam.

Bốn, các đồng chí phải: Ở trong nội bộ thì thương yêu giúp đỡ nhau, phê bình và học tập nhau. Trong công tác, thì cố gắng làm cho đầy đủ nhiệm vụ, làm cho xứng đáng lòng tin cậy của anh em thanh niên, của đoàn thể và của đồng bào.

Mong rằng các đồng chí sẽ nhớ những lời thành thật đó, và sẽ làm tròn sứ mệnh vẻ vang đó.

Chúc các đồng chí mạnh khỏe.

Chào thân ái và quyết thắng.

Tháng 2 năm 1948

Hồ CHÍ MINH"

Bác ký bằng mực tím và đóng dấu vuông, nhỏ, màu đỏ rất đẹp.

Tôi mang thư của Bác đọc cho anh em trong đoàn nghe. Ai nấy xúc động lắm. Anh Nguyễn Chương nhờ tôi báo cáo lên Bác là dù khó khăn, gian khổ thế nào, anh em cũng cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Tôi đem ý kiến của anh em trong đoàn báo cáo lên Bác. Bác khen như vậy là tốt. Bác còn dặn phải hết sức quan tâm đến anh em, phát thêm cho mỗi đồng chí một bộ áo quần phòng khi đi đường…

Sau này, tôi nghe anh Nguyễn Minh kể lại, chuyến đi dù rất gian khổ nhưng ta vẫn cố gắng tuyên truyền ra quốc tế về cuộc kháng chiến của ta, nhận được sự giúp đỡ to lớn của nhân dân thế giới đối với nhân dân Việt Nam. Chuyến đi dài ngày của đoàn mang lại kết quả tốt đẹp, Bác rất vui mừng vì kết quả đó.

Nhân đà thắng lợi sau chiến thắng biên giới, Bác và Trung ương mở rộng mối quan hệ với các nước anh em. Một hôm, Bác gọi tôi đến và nói Bác muốn cử một đoàn đại biểu của ta sang thăm Trung Quốc và Triều Tiên nhằm góp phần cổ vũ nhân dân Trung Quốc anh em trong công cuộc xây dựng lại đất nước và nhân dân Triều Tiên anh em chiến đấu giải phóng Tổ quốc của họ. Cuộc đi thăm của ta còn nhằm mục tiêu chung là thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân ba nước Việt - Trung - Triều, cùng nhau trao đổi, cùng nhau học tập kinh nghiệm, góp phần đẩy mạnh cao trào chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược Châu Á. Bác còn nói đại ý: Chúng ta hãy coi trọng công tác quốc tế như công tác trong nước. Bác giao cho tôi làm Trưởng đoàn, còn các thành viên trong đoàn do tôi lựa chọn. Nhưng Bác căn dặn: Đây là đoàn đại biểu có tính chất mặt trận - nhân dân, nên thành phần cần có công nhân, nông dân, quân đội, trí thức, phụ nữ, thiếu niên… Tôi vâng lời Bác dặn, bắt tay ngay vào soạn thảo kế hoạch và chọn người cho chuyến đi.

Ngày 03-7-1951, phái đoàn lên đường. Khi xe sắp chuyển bánh thì Bác đến. Bác bắt tay từng người rất chặt, kiểm tra hành lý của chúng tôi xem đủ chưa và ân cần dạy bảo những điều cần thiết khi ra nước ngoài. Vấn đề mà Bác chốt lại là cố gắng giữ mối quan hệ thật tốt đẹp với nhân dân các nước, coi đó là phẩm chất người cán bộ làm nhiệm vụ quốc tế.

Sau hơn sáu tháng hành trình, thăm nhiều nơi ở Trung Quốc và Triều Tiên, ngày 13/12/1951, phái đoàn rời khỏi cột mốc biên giới Trung - Việt để về nước. Nghỉ ngơi ít ngày lấy lại sức khỏe, tôi xin phép gặp Bác và các anh trong Bộ Chính trị để báo cáo kết quả chuyến đi. Chuyến thăm này đã mang mối tình của nhân dân Việt Nam và của Bác đến với nhân dân Trung Quốc và Triều Tiên. Qua cuộc đi thăm này, chúng tôi thấy rõ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Bác Hồ có uy tín lớn trên trường quốc tế. Bác đánh giá cao chuyến đi. Bác nói: "Đây là chuyến đi của tình hữu nghị anh em Việt - Trung - Triều chiến đấu và chiến thắng".

(Hoàng Quốc Việt kể, trích trong cuốn Bác Hồ trong trái tim các nhà ngoại giao, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1990)

6. Đóa sen hồng

Bác Hồ - người anh hùng giải phóng dân tộc, một nhà văn hóa lớn, một người ông, một người cha vô cùng kính yêu của những người làm nghệ thuật như tôi. Là nghệ sỹ chèo, tôi đã vinh dự được gặp Bác bốn lần. Lần thứ tư tôi được gặp Bác là vào ngày 17/7/1969, sau khi tôi đi biểu diễn ở nước ngoài về. Tôi được Bác cho phép vào ăn cơm với Bác tại phòng riêng, có cả anh Vũ Kỳ, Thư ký riêng của Bác cùng ăn. Bác hỏi tôi:

- Kim Liên đi Tây về chắc thèm canh cua lắm nhỉ?

Tôi thưa với Bác:

- Cháu thèm lắm, Bác ạ!

Bác lại bảo:

- Ừ, hôm nay Bác cho cháu ăn cơm với canh cua.

Thế là ba bác cháu ngồi vào mâm cùng ăn rất vui. Trong mâm cơm của Bác hôm đó có canh cua, có cà, một đĩa phèo lợn, một đĩa rau xào, một đĩa thịt nạc xào và một bát dấm ớt. Tôi ngồi ăn nhưng vẫn không ngừng quan sát Bác xem Bác ăn có ngon miệng không. Còn Bác thì không quên gắp thức ăn cho tôi. Thấy Bác ăn ít quá, tôi cố mời Bác ăn. Bác nói:

- Khi Bác ăn được thì không có cái gì để ăn. Khi có cái ăn thì ăn không được.

Tôi xúc động đến nghẹn ngào vì thương Bác!

Bác hỏi tôi:

- Chồng cháu có hay viết thư về không? Bích và Hồng có khỏe không?

Tôi sửng sốt và xúc động đến nghẹn ngào, không ngờ một vị Chủ tịch nước bận trăm công nghìn việc mà vẫn còn nhớ đến chồng, đến con của một người như tôi. Tôi ấp úng trả lời:

- Dạ thưa Bác, đã sáu năm rồi cháu chưa được gặp chồng cháu. Còn hai cháu Bích, Hồng vẫn khỏe ạ.

Bác lại hỏi tôi:

- Chú Xuân Thủy tặng cho cháu bài thơ thế nào, cháu đọc đi cho Bác nghe.

Tôi buông đũa xuống mâm và đọc bài thơ Đóa sen hồng:

Kim Liên quê ở Nam Hà…

Bác ngắt ngay ở đó và bảo:

- Kim Liên vốn ở Nam Đàn chứ.

Nói xong, Bác bảo tôi đọc tiếp. Tôi đọc một mạch trong giọng ngâm xúc động. Bác chăm chú nghe tôi đọc thơ. Còn tôi thì chăm chú nhìn Bác suýt nữa quên cả lời thơ. Tôi đọc xong, Bác gật đầu khen hay. Tôi vô cùng sung sướng và nói:

- Cháu thấy Bác đẹp như ông tiên vậy.

Bác liền quay sang nói với anh Vũ Kỳ giọng rất vui:

- Nó lại nịnh Bác để Bác thưởng kẹo cho nó đấy.

Ôi! Câu nói sao mà giống hệt như những người ông nói với cháu mà tôi vẫn được nghe ở gia đình hoặc ở đâu đó trong làng quê Việt Nam.

Ăn cơm xong Bác dặn anh Vũ Kỳ:

- Chú nhớ gửi kẹo cho hai cháu Bích, Hồng nhé.

Sau đó, Bác cho phép tôi được lên thăm Nhà sàn của Bác. Tôi theo chân Bác hồi hộp bước lên cầu thang. Bước vào phòng riêng của Bác, tôi đưa mắt quan sát khắp gian phòng đơn sơ mà lòng trào dâng một niềm thương cảm. Tôi không ngờ Bác Hồ, vị Chủ tịch nước kính yêu và vĩ đại của dân tộc lại ở trong một gian phòng nghỉ, tiện nghi quá giản đơn, của cải chẳng có gì! Như hiểu được ý nghĩ của tôi, Bác nói giọng trầm buồn:

- Bác chẳng có gì cho cháu cả! Bác chỉ có cái thước mà lúc còn trẻ bôn ba qua các nước, Bác có nhặt được mảnh gỗ, tự tay đẽo thành một cái thước kẻ để dùng, nay Bác cho cháu để làm kỷ niệm.

Tôi cầm cái thước mà rơm rớm nước mắt vì không ngờ Bác lại nghèo đến thế. Tôi phát hiện trên cái thước có ghi ba chữ cái: S - N - K (Suy nghĩ kỹ). Một lần nữa tôi lại hiểu thêm cuộc đời và nhân cách vô cùng trong sáng của Bác. Đến uyên thâm và vĩ đại như Bác mà khi viết và nói gì cũng phải: "Suy nghĩ kỹ". Cho đến nay, tôi vẫn giữ cái thước của Bác Hồ như giữ một vật thiêng liêng nhất.

(Kim Liên kể, trích trong cuốn Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005)

7. Mắc đèn trong vườn Bác

Ngày ấy, có vị tổng thống đến thăm nước ta. Cũng như mọi lần, chúng tôi vui sướng chuẩn bị vào Phủ Chủ tịch mắc đèn trang trí trong vườn Bác.

Chúng tôi đến nơi làm việc thật sớm, phần để cho công việc chóng xong, phần để ngắm Bác kính yêu khi Bác đi những đường quyền trông khỏe mạnh, nhanh nhẹn và đẹp mắt, hoặc Bác chăm cây vú sữa, tưới luống rau cải, tỉa cành hoa hồng buổi sớm...

Ăn cơm chiều xong, chúng tôi vội vã kiểm tra lại phần việc của mình, cố không sai sót để Bác vui lòng. Đúng 19 giờ 30 phút Bác ra vườn với chúng tôi. Cũng như mọi lần, chúng tôi sung sướng chào Bác. Bác tươi cười chào lại và nói:

- Các chú công nhân bật đèn lên cho Bác xem đi!

Tôi chạy vội lại phía trạm điện đóng cầu dao. Ánh sáng điện tỏa trên các ngọn cây, dưới vòm lá, lấp lánh, chiếu sáng đẹp khuôn mặt hiền từ và chòm râu bạc của Bác. Tôi sung sướng mời Bác đi quanh khu vườn rộng. Bác chú ý xem từng ngọn đèn và luôn luôn gật đầu tỏ ý hài lòng. Tôi đang phấn khởi thì Bác dừng lại, chăm chú nhìn một ngọn đèn pha dưới gốc cây rồi thân mật bảo tôi:

- Ngọn đèn này phải để khuất dưới lùm cây. Như thế đẹp hơn. Đồng bào qua đường nhìn vào đỡ chói mắt. Miệng nói, Bác nhanh nhẹn bước lại ngọn đèn. Tôi lo lắng quá vì lúc đó Bác lại đi đôi guốc mộc trên đường rải sỏi, dễ trượt ngã. Tôi chạy theo thưa với Bác:

- Bác để chúng cháu làm ạ!

Nhưng Bác đã cúi xuống, hai bàn tay cầm lấy thân đèn. Không còn cách nào khác, tôi cùng Bác khiêng pha đèn nặng vào lùm cây đinh hương. Giây phút ấy tôi vừa ân hận vừa sung sướng. Ân hận vì mình chưa làm cho Bác vừa ý, sung sướng vì được làm việc bên Bác dầu chỉ có mươi phút.

Ngọn đèn được Bác thay chỗ, đặt dưới vòm cây đinh hương lá nhỏ, khiến ánh sáng của nó đẹp hẳn lên. Bây giờ người đi đường nhìn vào sẽ không trông thấy đèn, chỉ thấy một vùng ánh sáng chiếu qua kẽ lá hắt lên thành một màu xanh dịu.

Một lần khác, chúng tôi lại vào chăng đèn ở Phủ Chủ tịch, để Bác đón khách quý. Nhớ lời Bác dặn: "Phải luôn luôn phát huy sáng kiến. Nhiệm vụ của chúng tôi là trang trí bóng đèn ở khu vực nhà tiếp khách phải khác hẳn mọi lần. Chẳng hạn, những lần trước, trên mỗi cây, chúng tôi thường mắc bóng đèn các màu xanh, đỏ, tím, vàng lẫn lộn. Lần này chúng tôi không làm thế. Như hai cây dừa nước ở bên nhà Bác ở, tôi đặt dãy đèn một màu từ dưới gốc lên ngọn. Sau đó thì tỏa ra các cây. Mỗi lá một dây đèn pha ánh sáng chiếu hắt lên. Cố nhiên là đèn chúng tôi để khuất hẳn trong lùm cây như lần trước Bác đã chỉ bảo. Khu vườn cây của Bác lộng lẫy hẳn lên. Chúng tôi sung sướng quá khi được Bác khen:

- "Lần này các chú mắc đèn đẹp đây. Khách của chúng ta cũng khen ngợi".

Sau khi khách về, chúng tôi được Bác cho xem phim. Tôi dắt cháu Vinh mới lên bốn tuổi cùng đi. Bác xoa đầu, bẹo má phình của nó rồi nói:

- Con chú kháu quá nhỉ!

Trước khi chiếu phim, Bác lại hỏi:

- Các chú thợ điện đã đủ mặt chưa?

Đồng chí tổ chức buổi chiếu phim thưa với Bác đã có đủ Bác mới cho chiếu. Lần này Bác cho chúng tôi xem cuốn phim "Người con gái của Đảng". Phim mới nên chưa có lời dịch thuyết minh, cầm bản nội dung phim, Bác dịch lại cho chúng tôi nắm được đầu đuôi câu chuyện. Bác xem rất chăm chú. Đến hết phim, Bác đứng dậy xúc động nói với chúng tôi:

- Các cô, các chú nhớ lấy! Người cộng sản là phải như thế!

Hôm tôi được kết nạp Đảng, trước cờ Đảng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, lời dặn dò của Bác lại văng vẳng bên tai tôi.

(Theo Dương Văn Hậu, trích trong cuốn Chúng ta có Bác Hồ, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1970)

Tâm Trang (tổng hợp)


12. Làm quân báo phải hết sức cảnh giác

Trung tuần tháng 7 - 1950, cơ quan của Bộ Chỉ huy chiến dịch đã có mặt tại địa điểm gần huyện lỵ Quảng Uyên (Cao Bằng). Một hôm, anh Văn gọi tôi cùng đến thăm các đồng chí cố vấn Trung Quốc ở cách chỉ huy sở Tà Lạng không xa. Trên đường về anh Văn nói với tôi: "Chúng ta ghé vào thăm Bác, nghỉ một lúc".

Sau khi anh Văn lên báo cáo với Bác trở về, bảo tôi: "Bác cho phép đồng chí lên gặp Bác đấy". Sắp được gặp Bác, tôi vừa mừng, vừa lo vì lần đầu tiên được trực tiếp báo cáo công việc với Bác, hoang mang không biết nói chuyện gì, bắt đầu câu chuyện ra sao thì chúng tôi đã đến nơi Bác nghỉ. Bác ngồi dậy nhìn tôi và có lẽ Bác thấy tôi đang lúng túng, Bác hỏi tôi về tình hình địch. Rồi Bác chỉ cho tôi ngồi gần và nói:

- Trong trận này ta đánh lớn, nhất định thắng nhưng địch không chịu thua một cách dễ dàng. Tình hình sẽ diễn biến phức tạp và khẩn trương. Chú làm quân báo phải hết sức cảnh giác, phải theo dõi chặt chẽ hành động của địch. Phải biết dựa vào dân khéo tổ chức và hướng dẫn cụ thể thì dân sẽ cung cấp tin tức tốt cho bộ đội. Chú rõ chưa?

- Vâng ạ.

- Thế nào bộ đội ta cũng bắt được nhiều tù binh địch, các chú phải giải thích chính sách tù hàng binh của ta cho họ rõ, để họ yên tâm. Làm công tác này chú có biết tiếng Pháp đấy chứ?

- Dạ có!

Bác suy nghĩ một lúc rồi nói tiếp:

- Chú báo lại với Ban Chính trị chú ý tờ báo của mặt trận. Phải tuyên truyền kịp các chiến thắng của ta, những gương chiến đấu dũng cảm của bộ đội, những người tốt, việc tốt tận tụy phục vụ chiến đấu của đồng bào các dân tộc - chú ý viết ngắn gọn, dễ hiểu để kịp thời động viên bộ đội và nhân dân. Bác nói tiếp:

Ta đánh lớn và đánh dài ngày, cần nhiều lương thực và đạn dược. Bạn có giúp cho ta nhưng ta phải huy động trong dân nữa. Đồng bào dân tộc Cao - Bắc - Lạng rất hăng hái đóng góp tuy còn thiếu thốn. Phải hết sức tiết kiệm.

Trước khi tôi ra về, Bác còn dạy tôi cách rang thịt heo "kiểu Việt Minh" và dặn tôi nhớ phổ biến cho anh em.

Gần một tiếng đồng hồ bên cạnh Bác, được Bác căn dặn những điều rất thiết thực cho công tác, tôi rất phấn khởi và vô cùng vinh dự khi được gặp và hầu chuyện với Bác được toại nguyện. Đến nay hồi tưởng lại, tôi không bao giờ quên lần gặp Bác ngày hôm đó. Nhớ Bác với bộ đồ nâu, khăn mặt vắt trên vai, ngồi tấm ván kê trên những tảng đá như lão nông dân. Nhớ mãi thái độ niềm nở, những lời chỉ bảo ân cần truyền cảm với những tiếng cười đôn hậu thắm tình cha con của Bác.

Một hôm, Bác đến Sở Chỉ huy gọi tôi và bảo đưa Bác đi gặp tù binh. Tôi lúng túng không biết làm thế nào để giữ bí mật, sợ tù binh nhận ra Bác thì Bác đã chỉ thị cho bác sĩ đem thuốc đỏ và bông băng râu Bác lại y như một chiến sỹ bị thương. Thật là tuyệt diệu. Tôi cho người chạy ra báo cho đồng chí Nghiêm Xuân Hiếu, cán bộ quân báo đang hỏi cung ở trại chuẩn bị gấp cho cán bộ trên gặp tù binh.

Tôi đưa Bác đến trạm, ba sĩ quan tù binh, một Đại úy Đồn trưởng Đông Khê và hai Trung úy đứng dậy khi thấy Bác vào. Lần đầu tiên tôi được nghe Bác nói tiếng Pháp hay quá, rất chuẩn. Ba tên tù binh mắt mở to rất ngạc nhiên.

Trên đường về, Bác cho biết hôm trước Bác đã gặp một toán tù binh được giải về trại, thấy có một tù binh bị thương, áo rách, Bác đã cho cái áo… Đi được một đoạn, Bác hỏi tôi:

- Sao chú lột giày của tù binh rồi treo lên cổ họ? Đối với người Châu Âu, không có giày thì họ rất khó khăn, nếu chú sợ tù binh chạy thì chí ít chú phải cho họ đi tất chứ.

Rồi Bác cười và tôi cũng cười theo.

Chiến dịch kết thúc, Bộ Chỉ huy triệu tập Hội nghị sơ kết tại Lam Sơn - Cao Bằng. Có đông đủ cán bộ của ta và bạn đến dự. Hội nghị kết thúc, tôi ra về, tình cờ được gặp Bác, Bác nói: Chú quân báo! Trong chiến dịch công tác nắm địch có ưu và khuyết điểm, cần phải được tổng kết, nhưng chú ý giữ bí mật, rồi Bác cho tôi một điếu thuốc lá thơm.

Tôi vô cùng cảm động.

Chiến dịch biên giới kết thúc, kỷ niệm về những lần gặp Bác ở mặt trận đó mãi mãi còn in sâu đậm trong lòng tôi.

(Cao Pha kể, trích trong cuốn Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005)

13. "Sen vàng" tỏa hương

Hôm đó là sáng Chủ nhật, vào giữa mùa Thu năm 1963. Theo thường lệ, tôi sang nhà ăn rất sớm, vì từ nhà riêng sang nhà ăn khoảng cách chỉ mươi bước đường. Thật không ngờ Bác đã đến sớm hơn tôi...

Đã gần ba chục năm, nhưng mỗi lần gợi nhớ lại, chị Lan vẫn xúc động như buổi ban đầu đột ngột gặp Bác ngày nào.

 ... Tới nhà ăn, chị Lan định trao đổi công việc với tổ bếp thì một mậu dịch viên từ trên gác chạy xuống báo tin:

- Bác, Bác Hồ đến thăm nhà ăn.

- Thật à? Đâu Bác đâu?

- Bác đang trên gác.

  Vừa bàng hoàng, vừa xúc động, hai chân chị cứ díu vào nhau. Chị bỏ dép, chân không cứ thế chạy vội lên gác. Đúng là Bác Hồ rồi. Bác mặc quần áo kaki, chân đi dép cao su. Bác đang ở trong phòng chia cơm và thức ăn. Dường như Người đang trầm ngâm trước những suất cơm và thức ăn ít ỏi... Một đồng chí giới thiệu chị là người phụ trách nhà ăn tập thể Kim Liên này. Bác chỉ tay lên chiếc bóng đèn và một góc trần nhà nhắc nhở:

- Nơi chia thức ăn, sao để bẩn thế này?

Đến bây giờ chị mới nhìn thấy, bao lâu nay chị đâu có để ý. Hơi luống cuống, chị chưa tìm được lời. Nhưng nhìn vẻ mặt hiền từ và nụ cười độ lượng của Bác, chị trấn tĩnh lại:

- Thưa Bác chúng cháu xin sửa chữa ạ.

 Bác đi xuống nhà bếp, Người ôn tồn hỏi đồng chí Khai khi ấy là bếp trưởng:

- Chú làm công việc này có vui, có phấn khởi, có yên tâm không?

- Dạ, thưa Bác, cháu rất yên tâm. Vì đây là nghề của cháu. Trước đây cháu đi bán phở rong ạ!

Bác lại hỏi:

- Chú nấu thức ăn có được người ăn khen bao giờ không?

- Dạ, thưa Bác cũng có khi được khen, nhưng đôi lần cũng bị chê ạ!

Bác cười bảo:

- Nếu thế thì phải làm sao để ngày càng có nhiều lời khen và ít tiếng chê chứ!

Rồi Bác đề nghị đưa đi xem công trình phụ: Nhà tắm - nhà vệ sinh.

Trước khi ra về Bác gặp nhóm mậu dịch viên làm ca sáng, Người nói:

- Các cháu làm công việc gì?

- Thưa Bác, chúng cháu phục vụ bàn ạ!

- Công việc của cháu có gì vui, nói Bác nghe!

- Thưa Bác, khi nào được khách ăn khen, chúng cháu rất vui ạ.

Bác lại hỏi:

- Kim Liên là gì, các cháu có biết không?

- Thưa Bác không ạ!

Bác giảng giải:

- Kim là vàng, Liên là sen. Kim Liên và sen vàng. Đã là hoa sen vàng các cháu phải phấn đấu sao cho hương thơm tỏa mỗi ngày một xa. Bây giờ còn ít người ăn, sau này nhà ăn phát triển, các cháu còn phải phục vụ nhiều. Các cháu phải cố gắng góp phần bảo đảm sức khỏe của công nhân, cán bộ.

Bác còn dặn thêm:

- Các cháu phải làm thật tốt. Bao giờ có kết quả tốt, các cháu báo cho Bác biết, Bác sẽ trở lại thăm.

(Theo Trần Thành, báo Hà Nội mới, 1980).

14. Có cũ mới có mới

Cuối tháng 02 năm 1957, Bác Hồ đến thăm Đại hội văn nghệ lần thứ hai. Tôi là nhà văn cao tuổi nhất được cử ra tiếp Bác cùng với ông Hội trưởng. Gặp chúng tôi, Bác hỏi ngay:

- Việc khai thác vốn cũ dân tộc, các cụ đã làm đến đâu rồi?

- Thưa Bác, chúng tôi đang cố gắng.

Bác nói:

- Nên làm nhanh. Có trước mới có sau. Có cũ mới có mới, nhưng chúng ta không nên nệ cổ. Bây giờ là thời đại cách mạng, phải nhanh, phải cải cách.

Bác ngồi viết mấy câu để ra nói ở Đại hội. Bác đưa chúng tôi xem để góp ý kiến. Tôi thưa:

- Bác cũng là nhà đại văn nghệ rồi!

Bác bảo:

- Không đâu! - Ra Đại hội, Bác vừa cười vừa nói: - Cụ Hoàng vừa nói tôi là nhà văn nghệ. Không đâu, tôi chỉ là người thích văn nghệ thôi, chưa phải là nhà văn nghệ.

Cả hội trường vỗ tay, kính phục đức độ khiêm tốn của Bác. Câu nói của Bác làm tôi suy nghĩ rất nhiều. "Phải có trước mới có sau, có cũ mới có mới, nhưng ta không nên nệ cổ". Trong sáng tác, tôn trọng tính dân tộc, nhưng vẫn nâng cao vốn cũ lên để kết hợp với những đặc điểm của thời đại ngày nay. Thái độ của Đảng, của Bác đối với vốn cổ văn học nghệ thuật của cha ông ta là rất đúng.

Còn tuy Bác không nhận là một nhà văn nghệ, chỉ là người yêu văn nghệ thôi, nhưng theo tôi, chính Bác là một nhà thơ vĩ đại.

(Theo nhà văn Hoàng Ngọc Phách, trích trong cuốn Bác Hồ với văn nghệ sĩ)

15. Muôn vàn tình thân yêu dành cho các cháu gái

Một điều Bác dạy bảo mà suốt đời tôi không bao giờ quên là: “Báo chí là đại biểu cho dư luận, phải giúp Chính phủ đạt được thành công trong các chính sách đối nội đối ngoại. Sau này những lúc tình hình cách mạng có chuyển biến mới, người làm báo phải suy nghĩ nhiều. Câu nói của Bác giúp tôi nhớ tới vị trí và tính chất của báo chí ta. Một lần, Bác hỏi chị Thanh Thủy và tôi: “Các cô đã có con chưa? Các cô đã biết bế con, nuôi con chưa? Làm báo Phụ nữ không phải chỉ nói chính trị suông, giải phóng phụ nữ chung chung mà còn phải hướng dẫn cho chị em cách nuôi con, dạy con chăm lo việc gia đình. “Chị em trong cơ quan hỏi Bác nhiều điều. Bác trả lời cả những câu hỏi nhỏ nhặt nhất: “Tại sao trong họa báo Liên Xô lại thấy ảnh nhiều chị em để tóc dài? Có phải là sau khi vận động phụ nữ cắt tóc ngắn rồi lại phải vận động phụ nữ để tóc dài hay sao?”. Bác trả lời đại ý: Sau Cách mạng Tháng Mười, Liên Xô có rất nhiều khó khăn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng cuộc sống mới. Phụ nữ phải đem hết sức mình ra chiến đấu và sản xuất, cho nên chị em ăn mặc giản dị, tóc cũng cắt ngắn để đi lại cho gọn. Bây giờ, chiến tranh thứ hai kết thúc đã nhiều năm, nền kinh tế đã được khôi phục và phát triển, đời sống được nâng cao, phụ nữ đã có thể trang điểm cho thêm đẹp, ai cho rằng để tóc dài đẹp và không vướng víu gì trong sản xuất thì cứ để…

Năm 1952 có Đại hội liên hoan các anh hùng, chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất và Hội nghị bàn về chiến tranh du kích. Sau hai cuộc họp lớn đó, mọi người náo nức khen ngợi hai bản báo cáo của anh hùng Nguyễn Thị Chiên và của chị Phạm Thị Nhật, Bí thư chi bộ. Một hôm, Bác đến thăm cơ quan, chị em chúng tôi đều nói đến hai bản báo cáo ấy. Bác hỏi: “Các cô có biết vì sao mà báo cáo của các cô ấy hay không?”. Chị Đinh Thị Cẩn thưa: “Đó là do chị Chiên, chị Nhật đều lăn lộn, xông pha nhiều trong thực tiễn chiến đấu cho nên mới nói lên sự thật rất sinh động. Bác vừa cười vừa nói: “Đúng là như thế, nhưng không phải chỉ có thế. Các bản báo cáo ấy hay còn là do không có sự sửa chữa, thêm thắt của nhiều người khác…”. Tôi suy nghĩ rất nhiều. Câu nói ý nhị của Bác nhắc nhở tôi mỗi khi sử dụng hoặc biên tập lại bài của thông tin viên, bạn đọc trong đông đảo nhân dân, phải luôn luôn cố gắng ghi lại đúng đắn, trung thực những lời nói, những ý nghĩ mộc mạc, giản dị của những con người trong thực tiễn sản xuất và chiến đấu… không thể tùy tiện sửa đổi thêm bớt theo ý nghĩ chủ quan của mình./.

(Trích trong cuốn Những kỷ niệm sâu sắc của phụ nữ Việt Nam với Bác Hồ,  Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 2005)

Tâm Trang (tổng hợp)


 16. Bác dạy phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ

Tôi lên đường ra thăm miền Bắc vào đúng mùa mưa lũ. Cái vui lớn nhất của tôi là thấy nhân dân miền Bắc xây dựng cuộc đời mới và sẽ được gặp Bác Hồ.

Tôi đến Hà Nội vào tháng Tám.

Tôi nghỉ được một ngày, thì tối hôm đó anh Lê Quảng Ba cho biết là Bác Hồ mời vào thăm. Tin này làm tôi hết sức vui mừng, những mệt mỏi của chặng đường xa như đã hết. Nhưng tôi cũng rất lo. Tôi nghĩ Bác mời vào nhà là Bác muốn biết về đồng bào Tây Nguyên chiến đấu và xây dựng đời sống ra sao; không biết nên báo cáo cái gì trước, cái gì sau?

Sáng hôm đó, xe đưa anh Lê Quảng Ba và tôi vào Phủ Chủ tịch. Anh Ba và tôi vào phòng đợi. Tôi chưa kịp ngồi xuống ghế, Bác đã từ trên thang gác nhanh nhẹn bước xuống và hiện ra trước mắt tôi hiền từ, đẹp như một ông Tiên.

Anh Lê Quảng Ba giới thiệu tôi với Bác, Bác thân mật bắt tay và hỏi thăm sức khỏe của tôi. Những lời thăm hỏi đầy tình nghĩa của Bác làm tôi không nén nổi xúc động.

Bác mời chúng tôi ăn chuối và cam, những trái cây tự tay Bác trồng trong vườn, cũng là những thứ tôi thích nhất. Bác lo bao việc lớn lao mà còn biết cả cá tính của tôi. Chắc Bác đã thấu hiểu tấm lòng của dân tộc Tây Nguyên hết rồi. Tôi càng bồi hồi xúc động, vì lần đầu tiên được gặp Bác và được hưởng cái vinh dự to lớn này.

Bác ân cần hỏi thăm tình hình chiến đấu, đời sống và sức khỏe của nhân dân các dân tộc.

Tôi thưa với Bác:

- Nhân dân các dân tộc ở Tây Nguyên, cũng như ở miền Tây, các tỉnh miền Nam thiếu thốn đủ mọi thứ. Muối chưa đủ mặn, cơm chưa đủ no, áo chưa đủ mặc... Nhưng truyền thống đoàn kết chiến đấu bất khuất bảo vệ Tổ quốc thì không nghèo. Nhân dân Tây Nguyên chiến đấu không sợ gian khổ, hy sinh mà chỉ sợ mình mất cái đất làm ăn của ông, cha để lại đó thôi.

Trong cuộc gặp gỡ này, tuy thời gian không được lâu lắm, nhưng tôi thấy rằng Bác hiểu thấu tấm lòng của nhân dân Tây Nguyên. Bác biết rất cụ thể và nói:

- Nhân dân các dân tộc Tây Nguyên nhất định sẽ giành được thắng lợi.

Tôi mạnh dạn thưa Bác:

- Đồng bào Tây Nguyên còn nghèo lắm, nghèo cả cán bộ nữa. Muốn xin Bác Hồ có nhiều cán bộ giỏi ạ.

Bác cười và nhẹ nhàng hỏi lại tôi:

- Đồng bào ta có nuôi gà không?

- Thưa Bác, đồng bào nuôi nhiều gà lắm.

- Đồng bào nuôi nhiều gà như thế là tốt. Lần này gà đẻ năm trứng, lần sau sáu trứng, mười trứng, rồi nở thành con. Chính những con gà đẻ và nở trong vùng ấy mới thích hợp với hoàn cảnh ở đó.

Lúc đầu tôi tưởng Bác nói chuyện con gà thật. Nghe nói vậy, anh Lê Quảng Ba nhìn tôi cười. Lát sau tôi mới hiểu câu chuyện nuôi gà của Bác là phải đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ tại chỗ. Cứ mỗi năm có một, hai cán bộ đi làm việc, nhiều năm sẽ có nhiều cán bộ gương mẫu, hiểu tâm tư nguyện vọng của dân tộc mình.

Chuyện nuôi gà của Bác Hồ thiết thực quá. Lâu nay chúng tôi có nghĩ đến nhưng chưa được sâu sắc. Qua câu chuyện, Bác nhắn lại với chúng tôi nội dung chính sách dân tộc của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam là kiên nhẫn, thận trọng, chắc chắn, phải vừa chiến đấu vừa xây dựng đội ngũ chiến đấu. Lấy phương châm tự lực cánh sinh là chính.

(Đồng chí Y-bi A-lêu, người thành lập Phong trào dân tộc tự trị Tây Nguyên; nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam kể, trích trong cuốn Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005).

17. Bác Hồ chăm sóc cán bộ

Tháng 02 năm 1941, Bác Hồ về Pác Bó, để trực tiếp chỉ đạo phong trào và bồi dưỡng cán bộ, Bác cho một số cán bộ huyện Hà Quảng (Cao Bằng) đang hoạt động bí mật ở cùng với Bác. Ngoài các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Đặng Văn Cáp v.v.. đi theo Bác, lúc này trong hang có thêm các đồng chí Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm, Thụy Hùng, Đức Thanh và tôi (tức đồng chí Hoàng Tô).

Hồi ấy, đồng chí Lê Quảng Ba và đồng chí Hoàng Sâm phụ trách bảo vệ cơ quan Bác và tổng Lục Khu. Còn tôi thì được phân công trực tiếp phụ trách tổng Hà Quảng (gồm các xã Sóc Hà, Nà Sắc và vùng mỏ Sắt bấy giờ), kiêm nhiệm vụ kiểm tra tổng Thông Nông.

Trước khi chúng tôi đi xuống cơ sở công tác, bao giờ Bác cũng bảo báo cáo chương trình, kế hoạch cụ thể cho Bác nghe. Bác bổ sung thêm rồi bảo chúng tôi nhắc lại thật đúng rồi mới cho đi. Do đó, bọn tôi rất vững dạ, như người đi rừng có địa bàn trong tay.

Cứ mỗi lần có đồng chí rời hang đi công tác là Bác lại lo lắng: Lo sao anh em được bình yên trở về, thoát khỏi mọi sự bất trắc dọc đường. Khi thấy anh em về, Bác vui hẳn lên. Câu đầu tiên Bác nói là hỏi han sức khoẻ, sau đó tuyên bố cho anh em nghỉ ngơi, tắm giặt, rồi mới làm việc. Lúc ấy, phong trào đang lên, công việc rất nhiều, nên anh em chúng tôi không ai muốn nghỉ, đợi được báo cáo tình hình, xong là đi ngay, nhưng Bác bắt phải nghĩ ngơi để đảm bảo sức khỏe.

Thỉnh thoảng đi công tác về, chúng tôi lại được Bác cho quà, quà chỉ là những cái kẹo bé tý nhưng đầy ắp sự ân cần, yêu thương. Hỏi đồng chí Cáp mới biết đó là quà của nhân dân Pác Bó đi chợ mua về biếu Bác. Bác chỉ ăn một, hai cái. Còn bao nhiêu gói lại, cất vào ống tre, Bác bảo:

- Để dành cho các chú đi công tác về ăn.

Quà Bác tuy nhỏ, nhưng cử chỉ của Bác là cả một tình thương, có sức động viên chúng tôi rất lớn. Mỗi lần đi công tác lâu ngày mới về, bao giờ Bác cũng dặn đồng chí cấp dưỡng cố gắng tìm mua thức ăn về “thết tiệc” cho anh em. Gọi là tiệc, nhưng chỉ thêm vài miếng thịt lợn luộc chấm muối.

Ở hang, nhưng hàng ngày Bác vẫn giữ đúng giờ giấc. Đến giờ, nếu ai ngủ chưa dậy thì Bác khẽ đánh thức. Song, đối với anh em chúng tôi mới đi công tác về, Bác bảo anh em khác phải im lặng, giữ ý từng bước chân, để chúng tôi được ngủ thêm một lúc.

Tôi còn nhớ một lần, đồng chí Đức Thanh đi công tác về bị ốm, nằm liệt giường. Bác buồn lắm. Bác bảo đồng chí Cáp vào rừng lấy lá thuốc về cho đồng chí Thanh uống và xông. Chốc chốc Bác lại đến sờ trán đồng chí Đức Thanh.

Ngồi làm việc ở một góc hang, tôi im lặng theo dõi từng cử chỉ của Bác. Nhìn nét mặt lo âu của Bác, tôi lại nhớ đến lúc còn bé, bị ốm chốc chốc mẹ lại sờ trán tôi, nét mặt vui buồn đều gắn vào độ nóng, lạnh trong người tôi truyền qua bàn tay răn reo của mẹ. Cử chỉ của Bác trong lúc này chẳng khác dáng dấp của mẹ tôi khi xưa.

Những tình cảm sâu sắc của Bác đối với chúng tôi hơn ruột thịt, đã động viên chúng tôi vượt qua mọi khó khăn gian khổ những năm tháng sống trong hang giữa rừng Pắc Bó.

(Hoàng Tô, nguyên Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Khu tự trị Việt Bắc kể lại trong tập sách Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005).

18. Cái vòng bạc

 Dạo đó, do điều kiện công tác, sau hơn 2 năm, Bác Hồ mới có dịp trở lại một vùng cơ sở trước đây Người đã từng sống và làm việc. Thấy Bác về, bà con già, trẻ, gái, trai khắp bản, người đang vác ống nước dưới suối lên cũng tạm dựng ống bương bên đường, ùa ra đón Bác.

Trong số những người đứng vây quanh Bác lớp trong lớp ngoài hôm ấy có một em bé 2 năm trước đã từng quấn quýt bên Bác khi Người ra suối câu cá, hoặc lên nương cuốc đất trồng rau sau những giờ làm việc. Ngày Bác lên đường đi công tác xa, em bé đó theo ra đến đầu bản tiễn Bác. Trước lúc chia tay, Bác cúi xuống hôn má em và Người chưa kịp hỏi gì thì đã nghe em bé nói một câu rất tự nhiên:

- Đến đâu thấy vòng bạc, Bác nhớ mua cho cháu một cái.

Đối với em bé dân tộc miền núi Cao Bằng, được cái vòng bạc đeo cổ tay là điều rất thích thú. Bây giờ em bé đó đã qua tuổi nhi đồng, chững chạc, được học, đã biết đọc, biết viết, không còn vòi vĩnh, nũng nịu như ngày được bên Bác (Em bé cũng không còn nhớ là mình đã dặn Bác Hồ mua cho cái vòng bạc).

Bà con dân bản tiễn Bác lên đường đi công tác cách đây 2 năm cũng đã quên chuyện “Cái vòng bạc” ấy. Sau những lời chúc mừng thăm hỏi sức khoẻ dân bản, nhận ra em bé ngày trước đứng trong đám đông, Bác bước đến, từ từ mở nắp túi áo trước ngực, lấy ra chiếc vòng bạc mới tinh và trao cho em bé.

Ngỡ ngàng giây lát, rồi nhớ ra lời dặn Bác 2 năm trước, em bé sung sướng quá, không giấu nổi xúc động, hai mắt cứ chớp mãi, líu cả lưỡi mới nói được:

- Cháu... cảm... cảm ơn Bác!

Một số bà con không có mặt hôm tiễn Bác lên đường đi công tác ngày trước, nay thấy vậy lấy làm ngạc nhiên và hỏi đồng chí giúp việc của Bác. Đồng chí này kể lại cho mọi người nghe là trên đường về Bác đã ghé vào một cửa hàng mua chiếc vòng bạc. Đồng chí giúp việc hỏi, Bác giải thích như sau:

- Các cháu khi đã nhờ mua cái gì tức là chúng nó thích cái đó lắm. Thấy có hại thì tìm cách giải thích cho các cháu hiểu; nếu không có hại thì không nên từ chối. Các cháu như tờ giấy trắng nhuộm đỏ thì đỏ, nhuộm xanh thì xanh, đừng để giảm lòng tin của các cháu. Đã hứa là mình phải làm cho kỳ được, không làm được thì đừng có hứa. Đây là chữ Tín, cần giữ trọn lòng tin của mọi người.

(Hoàng Giai kể, trích theo cuốn Ai yêu các nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1999)

18. Không ai thương mình như Bác

Bác sống như thế nào với những người ở gần Bác, những anh em phục vụ, thổi cơm, lái xe, bảo vệ Bác? Khi Bác mất rồi, anh em họp lại, bao nhiêu người chỉ có một ý, một lời về Bác: Không có ai thương yêu mình như Bác. Không có ai đối xử với mình rộng lượng, bao dung và đầy tình nghĩa như Bác. Không có ai dạy bảo ân cần, chính xác, theo dõi sát sự sửa chữa các thiếu sót của mình như Bác. Không ai tôn trọng nhân cách con người mình như Bác.

Có lần Tỉnh ủy Quảng Ninh biếu Bác một cành san hô to, đẹp lắm, màu sắc trắng hồng như ngọc. Bác thích lắm dùng làm quà biếu người lãnh đạo một Đảng anh em. Cành san hô để ở nhà khách Phủ Chủ tịch, chờ Bác ra xem lần chót rồi bỏ vào hòm, ô tô đợi sẵn, chở ra sân bay, gửi đi. Lúc để ở nhà khách, anh em xúm lại xem. Anh này sờ, anh kia sờ xô đẩy thế nào đó, một anh lỡ tay đánh rơi, vỡ làm đôi. Mọi người sợ quá. Không còn cách gì để chữa lại được nữa. Bác ra đến nơi rồi. Có thì giờ cũng chẳng kiếm được cành san hô thứ hai như thế. Nhất định lần này Bác mắng và Bác thi hành kỷ luật cũng là đúng. Sợ đến mức không dám đứng đấy mà nhận lỗi của mình nữa. Bác ra, Bác cũng bị bất ngờ. Bị bất ngờ như thế nhưng một nét nhíu lông mày Bác cũng không có, một lời nói nặng càng không có nữa. Bác làm vui trước cho anh em. Cũng như trong mọi trường hợp. Bác chủ động làm vui trước chứ không chờ người ta làm vui cho mình. Bác biết là anh em sợ lắm, làm thế nào trấn tĩnh được tinh thần anh em. "Thôi, phận san hô nó mỏng manh, con san hô về đất rồi. Anh em đi đâu, gọi các chú ấy ra đây. Bây giờ Bác, cháu ta tính thế nào nhỉ, lại đây cùng nhau bàn xem gỡ cái chuyện này thế nào". Cuối cùng phải lấy một bức ảnh to của Bác, Bác đề tặng và ký vào gửi biếu. Người lỡ tay đánh vỡ con san hô thấy Bác độ lượng như vậy, cảm động, giàn giụa nước mắt.

Nhưng mà câu chuyện chưa hết. Đến buổi tối hôm đó, làm việc với đồng chí phụ trách văn phòng xong, Bác bảo: "Hôm nay còn thừa thì giờ, bây giờ chú kể cho Bác nghe cành san hô ấy bị vỡ thế nào?". Đồng chí này kể lại từ đầu. Bác phát hiện chi tiết này: Người đánh vỡ là đồng chí lái xe. Bác bảo: "Thế này nguyên nhân không phải là lỡ tay… Nguyên nhân ở trong tổ chức và nếp làm việc, không phải ở chỗ lỡ tay. Nói lỡ tay là nói qua loa cho xong. Nếu chú thấy đúng như thế, lần nào họp, anh em bàn lại chuyện này rút kinh nghiệm, sửa đổi đi. Bảo là lỡ tay, đến lần sau, có cái tặng phẩm đẹp lại xúm vào xem, lại xô, lại đẩy, lại rơi vỡ lần nữa, lại lỡ tay lần nữa". Bác là như thế. Một sai sót nhỏ cũng không bỏ qua, rút kinh nghiệm để sửa chữa. Nhưng vẫn không nói nặng một lời nào.

Khi Bác tiếp khách, khách nước ngoài cũng thế, khách trong nước cũng thế, để tự anh em, thì khi rót nước xong bưng ngay chén nước đầu tiên đặt trước Bác rồi mới đưa cho người khách. Bác cứ điềm nhiên như không. Lúc nào đó, Bác, cháu ở nhà, Bác mới bảo: "Này các chú ạ, Bác, cháu ta làm ở trong nhà, ta là chủ. Các bạn nước ngoài đến, hay các cô, các chú đến làm việc, là khách. Ta đãi khách. Lần sau các chú rót xong nước thì đưa cho tất cả khách trước và đưa Bác sau, không phải đưa Bác trước đâu".

Đối với anh em, Bác chú ý từ cái nhỏ. Anh em nói: "Không cứ cuộc sống của mình. Một của cải nhỏ mình làm ra, Bác cũng chăm lo". Anh em có trồng được mấy cây chuối, có một buồng đã khá to. Bác nghe trên đài ngày mai có gió cấp năm. Thế là Bác xuống sàn gỗ bảo:

- Bác vừa nghe đài báo ngày mai có gió to. Buổi sáng Bác đi, Bác thấy buồng chuối phía đằng sau của các chú đã nặng. Anh em tìm cách mang gậy ra chống kẻo khi gặp gió to nó gẫy mất.

Đối với anh em có gia đình ở nông thôn, Bác bảo:

- Bây giờ các chú làm được đồng lương đừng nghĩ rằng tiền mình làm ra là mình ăn hết đâu. Phải nghĩ đến nông thôn. Đời sống nông thôn bây giờ gay lắm. Phải dành tiền tiết kiệm gửi về cho các cô, các cháu. Các chú ăn ở đây theo khẩu phần lương thực thế này, mùa hè có thể không hết. Phải biết khéo tổ chức, định từng bữa thổi từng nào cơm. Thừa được phiếu nào, tháng ba, ngày tám đứt bữa, gửi gạo về giúp gia đình.

Các đồng chí gác ở nhà sàn gỗ của Bác kể: Một lần khoảng độ gần 12 giờ trưa, Bác có việc gì xuống khỏi nhà sàn gỗ hoặc Bác đi đâu về, nhìn thấy người công an trẻ đứng gác gần đấy. Bác biết giờ gác của anh em từ 10 giờ đến 12 giờ. Trước khi gác chưa ăn cơm. Gần 12 giờ rồi. Anh em thường là trẻ khỏe, làm nhiều việc, rồi lại còn gác đêm. Bác đến hỏi:

- Cháu có đói không?

Thường Bác gọi là "chú". Khi nào Bác gọi "cháu" là thương lắm.

- Để Bác biếu cái này.

Thế là Bác lên nhà sàn gỗ, lấy một quả chuối ăn tráng miệng của Bác bữa vừa rồi, Bác giữ lại, xuống đưa:

- Bác biếu, cháu ăn đi.

(Việt Phương, nguyên Thư ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng kể, đăng trên Báo Nhân Dân, ngày 15 - 17/5/1995)

Tâm Trang (tổng hợp)


 20. Bài học dựa vào dân

Đầu năm 1950, Đoàn đại biểu Đảng - Công đoàn Nam Bộ được đến chào Bác cùng các vị trong Ban Thường trực Quốc hội và Chính phủ. Chúng tôi được chụp ảnh chung với Bác. Khi từ Sài Gòn ra, tôi đang là Trưởng ban cán sự nội thành Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên tôi được gặp Bác Hồ.

Trong thời gian còn ở Việt Bắc, có lần tôi được đi theo các anh Phạm Hùng và Võ Nguyên Giáp đến Nhà sàn của Bác ở An toàn khu Sơn Dương. Trong buổi nói chuyện, tôi thấy Bác đặc biệt chú ý tới tình hình miền Nam. Khi tôi có ý định xin tiền của Trung ương, Bác cười và bảo:

- Trung ương không có tiền, mà chỉ cấp tiền để cho các chú đi và về thôi. Các chú phải dựa vào dân. Nếu chú có một que diêm nhưng biết cách thì cũng có thể đốt cả một cánh đồng. Còn nếu có cả mồi lửa to nhưng không biết cách thì cũng không châm lên được.

Bác muốn nhắc nhở: Phải tuyệt đối tin ở dân, dựa vào dân để kháng chiến.

Do yêu cầu cấp bách của tình hình Nam Bộ nên tháng 3-1950, Trung ương cử đồng chí Phạm Hùng cùng một số đồng chí khác trong đó có tôi trở về miền Nam. Năm 1954, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, tôi được trở ra Bắc nhận công tác mới. Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, tôi được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng. Từ đó về sau, trong các cuộc họp của Trung ương, tôi thường được gặp Bác hoặc được Bác hỏi chuyện một cách thân mật, ân cần.

Đầu tháng 02 năm 1965, nhân dịp Tết Nguyên đán, Bác về thăm và chúc Tết đồng bào, bộ đội, cán bộ và công nhân tỉnh Quảng Ninh. Lúc đó, tôi đang làm Bí thư Khu ủy Quảng Ninh. Khi xe đến phà Bãi Cháy, chờ mãi không thấy phà sang, Bác nói:

- Thôi, ta đi đò qua Bãi Cháy.

Trên đò, nhìn thấy một em bé cõng bạn bị liệt đi học, tôi liền thưa với Bác, Bác gật đầu, nhìn em bé nhưng không nói gì. Lên đò, trên đường đi bộ về khách sạn Du Lịch, Bác nói với tôi:

- Vừa rồi, chú khen cháu bé trước mặt Bác như vậy sẽ làm cho cháu chủ quan.

Bác nói từ tốn, nhưng qua câu nói đó, tôi cũng rút ra được bài học cho mình là nên khen ngợi một cách vừa phải, kín đáo và tế nhị, tránh để cho người được khen dễ sinh ra tự mãn, kiêu căng.

Ngày 30 Tết Nguyên đán năm Ất Tỵ, tôi cùng Bác đi ca nô trên Vịnh Hạ Long để chúc Tết đồng bào. Đến Đông Triều, Bác cùng chúng tôi vào một trường học ăn trưa. Lúc đi có cả vợ con tôi. Trong bữa ăn, Bác gắp thức ăn cho vợ tôi. Lần sau gặp tôi, Bác nói:

- Chú làm ngoại giao, khi ăn có phụ nữ thì phải tiếp thức ăn cho họ.

Qua đó tôi thấy được sự quý trọng và xử sự rất văn minh của Bác đối với phụ nữ.

Tôi còn nhớ hồi còn ở Thành ủy Hà Nội, tôi được cùng tham gia buổi Bác duyệt bản quy hoạch thành phố Hà Nội. Hiện nay, bức ảnh chụp Bác đang xem bản quy hoạch tôi vẫn còn giữ trong cuốn sổ album của tôi. Sự kiện này làm tôi nhớ mãi, vì lú đó có một đồng chí trong Trung ương đề nghị Bác là nên xây dựng Văn phòng Trung ương Đảng ở nơi khác, đẹp hơn chỗ hiện nay, là trường học của Anbexarô. Nghe thấy thế, Bác trả lời:

- Văn phòng Trung ương như thế là được rồi.

Sau khi im lặng một lúc, Bác hỏi:

- Thế các chú có biết Văn phòng Trung ương xây dựng ở chỗ nào thì tốt không?

Mọi người nhìn nhau, Bác chỉ tay vào ngực mình và nói tiếp:

- Xây ở trong này, trong lòng nhân dân là tốt nhất.

Bác muốn dạy cho chúng ta hiểu rằng, Đảng và nhân dân là một. Đảng phải luôn được nhân dân yêu mến và bảo vệ.

Trên đây là một số mẩu chuyện và sự kiện mà tôi còn nhớ. Những câu chuyện mà tôi có vinh dự được gần Bác, gặp Bác và được Bác ân cần chỉ bảo những điều bổ ích. Giờ đây, trên cương vị là Trưởng ban Ban Thi đua của Trung ương Đảng, tôi luôn luôn cố gắng học tập đức tính của Bác là quan tâm đặc biệt tới phong trào thi đua của quần chúng nhân dân.

Những lời dạy của Bác đã và sẽ mãi mãi là kim chỉ nam cho mọi hành động trong công tác của tôi.

(Nguyễn Thọ Chân kể, trích trong cuốn Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005)

21. Những lời Bác dạy đầu tiên

Mùa Thu năm 1946, tôi và ba đồng chí nữa được vinh dự theo Bác về nước trên chiếc tàu Đuymông Đuếvin. Tàu này là một chiếc tàu chiến đã cũ, chạy lừ đừ chậm chạp. Lúc bấy giờ, tình hình ở trong nước đang căng thẳng ai nấy đều sốt ruột mong về sớm, nhưng giờ đây nghĩ lại, đối với chúng tôi, đó là một dịp may hiếm có để được kéo dài những ngày chung sống với Bác.

Trên chuyến xe lửa từ Pari đi Macxây, Bác nói:

- Nước ta còn nghèo vì 80 năm bị đế quốc bóc lột, chiếm đóng. Đồng bào Nam bộ giờ đây còn đổ máu. Chúng ta còn gian khổ chiến đấu nhiều chứ chưa được sung sướng ngay đâu. Các chú về nước chính là để phục vụ Tổ quốc, phục vụ đồng bào…

Lên tàu rồi, một hôm Bác dặn:

- Ở nhà không có gì đâu. Nước ta thiếu máy móc, nguyên liệu, thiếu cả thợ lành nghề, tiền của ta lại ít. Song nước ta giàu về rừng núi, sông biển, đồng bào ta giàu về quyết tâm, dũng cảm và sáng tạo. Các chú về phải chịu thương, chịu khó làm ăn, đưa những cái đã học ở nước ngoài về áp dụng thiết thực vào trong nước, giúp đỡ và hướng dẫn anh em trong nước cùng làm.

Tôi còn nhớ lúc đi tàu, thỉnh thoảng có những hôm tên đại tá chỉ huy tàu tổ chức tập trận giữa biển cả mênh mông, tiếng súng đại bác, súng máy các loại thi nhau gầm thét, khói mịt mù, nước biển tung tóe ngoài khơi. Trong chúng tôi, thoạt tiên cũng có người hồi hộp, nhưng riêng Bác vẫn điềm nhiên, ung dung hút thuốc lá, đứng xem. Bác mỉm cười bảo chúng tôi:

- Đấy, người ta thử kiểm tra tinh thần của các chú. Các chú có sợ không?

Nhân đó, Bác chỉ cho chúng tôi thấy bọn đế quốc thường hay phô trương, khoe khoang về sức mạnh vật chất, còn nhân dân cách mạng tuy nghèo nhưng hàng triệu người đoàn kết thành một khối, có tinh thần dũng cảm và mưu trí, nhất định đánh bại được bọn chúng…

Tại Đại hội liên hoan Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, tôi được Bác khen…

Vinh dự đó thuộc về anh em ngành quân giới trong đó tôi nhờ sự chỉ bảo, dẫn dắt của Bác đã đóng góp một phần.

Những lời dạy của Bác như bức cẩm nang quyết định mọi thắng lợi trong công tác của tôi.

(Theo Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa, đăng trên báo Hậu Giang, số 395 ngày 30/3/2007)

22. Một lần được gặp Bác Hồ

Bữa cơm đêm hôm ấy, chúng tôi cùng ăn chung. Bác Hồ bảo không nên dùng nghi lễ, hãy để tất cả các đĩa thức ăn trên bàn không cần phải đưa từng đĩa một. Bác nói: “Cái gì tôi thích thì tôi lấy, cái gì anh thích thì anh lấy, như ở nhà mình”.

Bác Tukimin có nhiệm vụ xem xét, phục vụ lúc ăn uống cũng được Người kéo vào và bảo ngồi cùng ăn.

Ăn xong, đột nhiên Bác Hồ yêu cầu tôi đưa Người đi dạo phố mà không cần bảo vệ. Tôi được bỏ quân phục và tất cả phù hiệu.

Tất nhiên là tôi ngạc nhiên và tự hỏi: Tại sao Người lại tin cậy chúng tôi, những người mà Người chưa hề quen biết đến như thế?

Tôi nghĩ: Chắc là vì Người rất tin tưởng vào bản thân mình. Nhưng tôi cũng cảm thấy sung sướng khi được Bác Hồ tin cậy. Đúng là khi được nhận trách nhiệm và được tin cậy thì ai cũng rất sung sướng.

Chúng tôi đưa Bác Hồ đi xem những cái tốt đẹp của thành phố Giacácta, và chúng tôi cũng không thấy thẹn khi đưa Người đi xem những cái chưa tốt, vì tôi nghĩ phải chăng Người là một nhà cách mạng, một chiến sĩ, tất biết rõ việc xây dựng phải khó khăn biết bao nhiêu, tất biết rõ nhân dân và yêu cầu của nhân dân.

Lúc nhìn sông Gilirung, tôi xấu hổ khi thấy nhân dân tắm ở đấy, và giặt quần áo cũng ở đấy. Trong thâm tâm tôi chỉ muốn cho vị khách quý xem những cái tốt đẹp, nhưng lại gặp những sự thật đắng cay.

Hình như Người đoán được điều tôi đang suy nghĩ, Người liền nói: “Thay đổi tình hình và xây dựng quả không thực hiện được trong thời gian ngắn, không thể thay đổi tình hình trong một đêm như làm ảo thuật. Cần phải có tính nhẫn nại cách mạng. Miễn là chúng ta không quên rằng cách mạng không chỉ để giành độc lập chính trị mà còn phải nhằm mục đích và phải thu kết quả cho đời sống nhân dân. Nhân dân phải được ăn nhiều hơn, mặc đẹp hơn, sống hạnh phúc hơn. Nếu không, thì cách mạng không có ích gì”.

Đêm hôm ấy, một đêm đầy sao, tôi nói chuyện với vị lão thành ấy về chiến tranh du kích, về sự dã man của quân thù, quyết tâm và hy sinh của nhân dân, hoài bảo và lý tưởng chung của chúng tôi.

Đêm hôm ấy, ranh giới hai hàng rào ngăn cách đều bị xóa hết đối với tôi. Tôi không còn cảm thấy Người là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người Việt Nam nữa, mà chỉ như một chiến sĩ giản dị có thể xem như một người Cha, một người chỉ huy và một người bạn, không còn là một người nước ngoài nữa.

Quả là những lý tưởng có thể đạt tới một xã hội công bằng và phồn vinh có thể thắt chặt lòng người này với người khác. Chủng tộc hay dân tộc không quan trọng, điều quan trọng là những lý tưởng. Bây giờ, tôi mới hiểu tại sao trong những ngày sau đó, Bung Cácnô và Bác Hồ lại có mối quan hệ với nhau chặt chẽ, thoải mái và thân thiết đến thế.

Đêm chia tay ở Mê Đăng, tôi và bạn tôi được gọi lại, Người nói: “Tôi cảm ơn tất cả các bạn, vì nhờ tất cả các bạn mà cuộc đi thăm của tôi thành công. Tôi thực sự cảm thấy như giữa anh em trong nhà; mong rằng cuộc đấu tranh của các bạn thành công. Để làm kỷ niệm, tôi tặng các bạn những vật này: Một tấm hình và Huy hiệu chiến dịch Điện Biên Phủ, không phải mọi người đều được Huy hiệu này, mà chỉ những người thực sự tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ mới có”.

Tôi đáp lại với Người rằng bảo vệ và phục vụ Người đối với chúng tôi là một vinh dự, tôi đã học được nhiều. Tôi đã học được rằng: Người ta phải làm, phải nghĩ và phải sống như thế nào để được xứng đáng là người lãnh đạo. Những điều tôi thu nhập được là rất quý báu.

Tôi là vệ sĩ của Bác Hồ, nhưng ngược lại chắc rằng Bác Hồ là người che chở tôi, nếu như có xảy ra chuyện gì.

(Trích trong “120 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

23. Bác soi sáng cho tôi con đường đi lên phía trước

Một niềm xúc động và tự hào lớn đã đến với tôi vào giữa năm 1946. Đó là lúc tôi thấy Bác Hồ lần đầu tiên ở sân bay Buốc-giê, khi Bác đến Pari để đàm phán về hòa bình ở Việt Nam. Bác ung dung tươi cười trong bộ ka-ki giản dị, giữa đám đông quan chức cao cấp và tướng tá thay mặt Chính phủ Pháp mặc lễ phục lỗng lẫy đến đón Bác. Bác đã lên xe đi xa rồi, tôi còn đứng lại để ngắm lá Quốc kỳ rộng lớn màu đỏ sao vàng tung bay trước gió, trên đỉnh cao chót vót của đài chỉ huy sân bay. Điều này làm tôi phấn khởi và suy nghĩ nhiều. Hồ Chủ tịch đã tạo ra một quá trình lịch sử mới, đưa nước ta từ chỗ tối tăm đến chỗ quang vinh. Là một Việt kiều lâu năm ở Pháp, tôi cảm thấy mình đã tìm ra lẽ sống và niềm tin tưởng, tự hào về Tổ quốc mình. Công lao của Hồ Chủ tịch thật như trời biển.

Tôi được gặp Bác lần cuối ở Pháp, trong một bữa cơm thân mật tại nhà một đồng chí công nhân già. Lúc này hội Phông-ten-nơ-blô đang bế tắc. Nhưng Bác cởi mở, lạc quan và chủ động biết bao Bác hướng chúng tôi nghĩ về tương lai và dặn: “Các chú cố gắng để nhanh chóng có một nghề vững vàng, khi có điều kiện là về giúp nước!”. Mặc dù có những khó khăn trước mắt, Bác vẫn nhìn thấy vầng ánh sáng rực rỡ của ngày mai… Cuối tháng 7 năm 1950, tôi trở về nước và may mắn lại được gặp Bác ngay. Bác đang trên đường đi công tác và chỉ dừng lại vài phút để cho tôi gặp. Bác căn dặn: “Chú là cán bộ kỹ thuật, cán bộ sản xuất. Làm việc gì cũng phải cân nhắc xem chủ trương có thiết thực không, có phục vụ bộ đội đánh giặc không? Phải dựa vào công nhân, cùng nhau khắc phục khó khăn để tiến lên, phải tập trung cố gắng vào một số mục tiêu nhất định mới có kết quả tốt…” Bác đi rồi, mắt tôi vẫn nhìn theo Bác, trong bộ quần áo nâu giản dị, trên mình con ngựa nâu khuất dần sau rặng cây rậm rạp… Bác đi đâu? Hơn một tháng sau, tin chiến thắng oanh liệt của quân ta ở vùng biên giới Cao - Bắc - Lạng đã trả lời tôi điều đó. Lúc này, Bộ Công Thương cử tôi phụ trách Nha Công nghiệp. Nhà máy Trần Hưng Đạo tập trung lực lượng làm hàng vạn dao rựa và hàng nghìn chiếc cân treo phục vụ việc làm nương của đồng bào rẻo cao theo chỉ thị của Bác Hồ. Chúng tôi rất lo vì khó khăn có nhiều. Nhưng hình ảnh Bác trên lưng ngựa đi công tác khắp nơi lại hiện ra trước mắt tôi. Bác đi đến đâu là ở đấy có thêm thắng lợi. Chúng tôi càng tin tưởng và quyết tâm đạt bằng được kế hoạch sản xuất.

Bác hiểu rất rõ tâm tư, tình cảm ý nghĩ của cán bộ kỹ thuật và thường chỉ bảo, động viên rất tận tình. Đầu năm 1955, tôi xuống xã Chí Chủ theo bà con nông dân đi làm đất để chuẩn bị vụ khoai. Mới nửa giờ lao động, bàn tay tôi đã sưng lên, cái vồ gỗ chẳng đập vỡ được những hòn đất rắn như đá. Trời lâu không mưa, đồng ruộng nứt nẻ, dòng nước sông Thao cứ chảy xiết về xuôi mà không làm mát được đất đai và lòng người Chí Chủ. Lúc này tôi mới thấm thía ý nghĩa thủy lợi là biện pháp hàng đầu và sự cần thiết phải có máy bơm nước. Năm 1961, Đảng giao cho tôi và một nhóm cán bộ công nhân nhà máy Trần Hưng Đạo nghiên cứu chế tạo máy nổ đi-ê-den để phục vụ bơm nước, tôi đã đem hết sức mình cùng anh em hoàn thành sớm máy nổ 20 ngựa đầu tiên. Máy này được triển lãm ở Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương Đảng. Bác gọi tôi lên hỏi:

- Còn những bộ phận nào các chú chưa làm được?

- Thưa Bác, còn bơm cao áp và vòng bi.

- Cần tiếp tục cố gắng hơn nữa. Rồi Bác vừa nói vừa cười: Chú có bảo đảm là máy này không phải chủ là “Máy triển lãm” không?

- Chúng cháu xin bảo đảm bảo với Bác rằng chúng cháu sẽ sản xuất hàng loạt để phục vụ nông nghiệp trong năm nay.

- Vậy Bác chờ bà con nông dân có ý kiến đã, rồi Bác sẽ có ý kiến vào cuối năm.

Tôi về truyền đạt lại với nhà máy ý kiến của Bác. Anh em rất phấn khởi, bàn nhau chuẩn bị thật khẩn trương để sản xuất hàng loại một trăm máy với chất lượng tốt. Cuối năm, chúng tôi sản xuất được hơn 150 máy. Bà con nông dân rất hoan nghênh, Bác thưởng nhà máy Huân chương Lao động hạng Nhất. Trong Hội nghị chính trị đặc biệt cuối tháng 3 năm 1966, tôi lại được vinh dự gặp Bác.

Qua hơn 20 năm phục vụ cách mạng, tôi may mắn gặp Bác Hồ kính yêu trong những giờ phút có ý nghĩa của lịch sử dân tộc, bộ óc thiên tài của Bác soi sáng cho tôi con đường đi lên phía trước; trái tim vĩ đại của Người truyền cho tôi biết bao tình cảm cách mạng.

Tôi nguyện giữ mãi tình cảm cao quý đó, trọn đời ghi nhớ và làm theo những lới dạy bảo ân cần của Bác.

(Trích trong “120 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

Tâm Trang (tổng hợp)


 24. Sự giản dị của Bác Hồ

Qua bao năm tháng bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, Hồ Chủ tịch tích lũy được vốn kiến thức rất uyên thâm, kết tinh tinh hoa trí tuệ loài người, nhưng khi đến với cán bộ, quần chúng nhân dân, Bác đã chuyển hóa những kiến thức đó thành những câu chuyện nhẹ nhàng, dễ hiểu, rất bình dị và gần gũi.

Đầu năm 1946, có cuộc họp cán bộ từ Trung ương đến các địa phương. Bác đến thăm và nói chuyện, khi giải thích mối quan hệ giữa chính sách của Chính phủ với nhân dân thông qua đội ngũ cán bộ địa phương, Bác dùng một tấm bìa hình tam giác cân. Bác quay đáy tam giác lên trên, hướng đỉnh xuống dưới và nói, đây là chủ trương của Chính phủ (vừa nói Bác vừa chỉ tay dọc đáy trên của tấm bìa) có nhiều vấn đề lớn.

Rồi Bác chỉ tay xuống đỉnh tam giác phía dưới và nói, nhưng những chủ trương đó qua nhiều cấp, nhiều cán bộ yếu kém đến khi xuống dân thì bé lại chỉ còn chừng này. Sau đó, Bác lật tấm bìa đáy xuống dưới, đỉnh lên trên và giải thích, chiều đáy là nguyện vọng của nhân dân, có rất nhiều, rất phong phú được phản ánh từ cơ sở nhưng khi qua nhiều cấp, nhiều cán bộ thì chỉ còn bé chừng này, Bác chỉ tay vào đỉnh trên, xong Bác kết luận: “Vậy thì chúng ta phải làm gì để cho Chính phủ gần dân”. Ai dự họp cũng đều thấm thía lời dạy của Bác và tự tìm ra câu trả lời đúng với công việc của mình.

Cũng trong năm 1946, Nhà nước cách mạng non trẻ phải đối phó với nhiều kẻ thù trong giặc ngoài, bọn Việt cách, Việt quốc gây cho ta bao khó khăn, gian nan. Nhiều người lên yêu cầu Bác cho quét sạch chúng đi, Bác cười bảo: “Các chú giữ sức đánh Tây?”, rồi Bác giải thích “dòng nước đang chảy có cây gỗ chắn ngang, làm rác rưởi, lá cây đọng lại, các chú cứ vứt từng cái rác, từng cái lá thì không xuể mà phải tìm cách gạt cây gỗ đi thì dòng nước sẽ thông thoát”.

Trong thời kỳ kháng chiến nhiều cán bộ đi tuyên truyền về đường lối “trường kỳ kháng chiến”, khi nhân dân chất vấn “kháng chiến khi nào thành công?” nhiều người không giải thích được bèn về hỏi Bác. Bác bảo: “Các chú biết rằng đồng bào ta phần lớn là nông dân thì phải lấy hình ảnh cụ thể, để đồng bào dễ hiểu, các chú lấy chữ nghĩa, nào là “phụ thuộc”, “khách quan”, “chủ quan” thì dân ít người hiểu, mà phải lấy những ví dụ cụ thể như muốn có khoai ăn, lúa ăn cũng phải chờ đến 3 tháng hoặc 6 tháng mới có thu hoạch, người phụ nữ có thai cũng phải hơn 9 tháng mới sinh con. Khi đến với nhân dân, với đồng chí, Bác ở bên họ như người thân, không có sự cách biệt giữa lãnh tụ với dân. Con người Bác, phong cách Bác, tư tưởng Bác toát lên một chân lý dễ hiểu: dân dã mà thanh cao, cụ thể dễ hiểu mà uyên bác, tinh tuý.

(Thường San, đăng trên báo Hậu Giang số 382, ngày 28/2/2007)

25. Bác Hồ với gương người tốt, việc tốt

Một buổi sáng tháng 5 năm 1968, lãnh đạo của một số Nhà xuất bản ở Trung ương được Bộ Văn hóa - Thông tin báo tập trung lên gặp Bác Hồ. Ai nấy rất hồi hộp, sung sướng, song vẫn chưa rõ có chuyện gì.

Khi được đồng chí Hà Huy Giáp kể lại mọi người mới hay: Thì ra mới hôm trước, đồng chí Lê Văn Lương (lúc đó là Bí thư Trung ương Ðảng - vào thăm Bác, thấy Người đang cặm cụi ngồi viết bên một chồng tài liệu, liền hỏi:

- Thưa Bác, Bác đang làm gì đấy ạ ?

Bác chỉ chồng tài liệu, đáp:

- Ðã hơn mười năm nay, Bác thường xuyên theo dõi gương người tốt, việc tốt trên các báo... Họ đều là những người bình thường, làm những việc bình thường cho xã hội. Những việc bình thường ấy, ai cũng có thể làm được nếu cố gắng một chút. Và nếu ai cũng làm theo người tốt thì cái tốt sẽ thành phổ biến và xã hội ta sẽ tốt lên. Từ bấy đến nay, Bác đã tặng Huy hiệu cho gần bốn nghìn người. Bây giờ, Bác định viết lại những tấm gương này, in thành sách để giáo dục đạo đức mới cho nhân dân ta. Bác đang xem lại những tấm gương mà Bác đã chọn và cắt dán từ báo ra đây.

Ðồng chí Lê Văn Lương xúc động, thưa với Bác:

- Xin phép Bác giao việc này cho các nhà xuất bản.

- Thế thì được. - Bác vui vẻ đáp. - Vậy những ai làm việc này xin mời đến đây để Bác giao trực tiếp và dặn dò cho rõ.

Sau khi thăm hỏi từng người, Bác chỉ vào một chồng vở đã đóng sẵn để trên bàn:

- Ðây là những tập bài viết về người tốt, việc tốt mà Bác đã tặng Huy hiệu từ đầu năm 1956 tới nay. Các chú đem về chọn lọc và thẩm tra lại cho chính xác, rồi viết lại cho ngắn gọn, trong sáng, hấp dẫn, nhưng không hoa hòe, hoa sói. Sách soạn ra cần có đủ mọi thành phần trong nhân dân, như một vườn hoa nhiều hương sắc... Một vườn hoa mà toàn hoa hồng cả, dù rất đẹp, nhưng đơn điệu, phải không? Chú ý là phải in đẹp và bán rẻ, phải chọn người biên tập có đạo đức, có trình độ.

Nói xong, Bác để 18 tập vở có dán các bài báo người tốt, việc tốt vào một cái hòm gỗ cũ, trao cho mọi người. Trở về, ai nấy hăm hở bắt tay vào việc. Ðược vài hôm, đã thấy Bác điện hỏi: "Các chú dự định bao giờ xong bản thảo?" Ðồng chí Hà Huy Giáp thưa với Bác là đến tháng 7. Ðúng hẹn, đầu tháng 7, Bác điện nhắc mang bản thảo để Bác xem... Bác cầm tập của Nhà xuất bản Lao động, mở giữa tập, chỉ vào một bài, rồi bảo đồng chí Hà Huy Giáp:

- Chú đọc bài này xem sao.

Ðồng chí Hà Huy Giáp vừa đọc cái "tít", Bác đã giơ tay, ngắt:

- Sao lại "Người thủ kho liêm khiết"? Sao không viết: "Người giữ kho trong sạch"?

Bác nghe hết bài, lại nói tiếp:

- Có một số chữ trong bài như "dược phẩm", "xuất nhập" sao không viết là vị thuốc và mua vào, bán ra?... Thôi, đọc sang tập của Nhà xuất bản Quân đội xem thế nào?

Ðồng chí Hà Huy Giáp tìm đọc chuyện một anh bộ đội, chiến đấu bị thương nặng thủng bụng. Khi phẫu thuật (Bác nhắc: Sao không viết là "mổ") chiến sĩ nọ vẫn ngẩng đầu động viên bác sĩ... Bác nhận xét:

- Bị thương nặng thủng bụng còn ngẩng đầu động viên bác sĩ, liệu có đúng thế không? Có lẽ hư cấu, hoặc chưa đến nỗi thủng bụng, nói quá lên. Phải nói sao cho chính xác, hợp lý thì người ta mới tin, mới có tác dụng giáo dục. Còn cái đoạn anh bộ đội phất cờ để ra hiệu bắn, anh bị thương tay nọ sao không phất cờ bằng tay kia, mà lại đi buộc cờ vào tay gãy, có vẻ vô lý đấy... Nào, chú đọc sang bản thảo của Nhà xuất bản Kim Ðồng đi.

Ðó là chuyện hai em bé gái chăn trâu, mặc dầu máy bay Mỹ bắn phá, vẫn xông ra cứu trâu. Bác góp ý:

- Các cháu dũng cảm thì đều đáng khen, nhưng phải thấy con người là qúy nhất. Vậy, không những phải sự việc có đúng thế không, mà còn phải cân nhắc xem có nên thế không. Một hành động tốt để riêng ra có thể biểu dương, nhưng nếu đặt thành vấn đề chung, nêu thành sách, thì cần cân nhắc lợi hại, trước mắt và lâu dài... Nào, chú đọc tiếp xem nào.

Bác nghiêng nghiêng đầu, chăm chú nghe, có khi đợi đọc xong cả bài, có khi mới đọc một đoạn, Bác đã nhắc ngay, nào: "Viết còn dài, chưa tập trung, tô vẽ thêm làm mất tự nhiên"; nào: "Nhân vật hay suy nghĩ nội tâm quá, như trong tiểu thuyết ấy"... Qua đọc thử mấy bài, được Bác chỉ ra ngay những thiếu sót. Nghe Bác nói, mọi người thấy cần phải quán triệt nhiều hơn nữa ý kiến chỉ đạo của Bác. Phải chọn lại, tìm lại những chuyện tiêu biểu nhất, điển hình nhất. Nhưng thế nào là tiêu biểu nhất. Có người thưa với Bác và được Bác giải thích:

- Như "Nhị thập tứ hiếu" ấy!

Sau này về nhà, ai nấy tìm đọc lại "Nhị thập tứ hiếu", thì mới rõ là phải tìm những gương tiêu biểu cho đạo đức của ta... Bác nhắc "Nhị thập tứ hiếu", cũng là gợi cả ý nên học lối viết theo cách kể chuyện dân gian cho thích hợp với những gương này, dễ nhớ và làm theo được.

Cuối buổi làm việc, Bác hỏi đồng chí Hà Huy Giáp:

- Các chú định bao giờ thì xong?

- Xin Bác đến ngày 02-9-1968 để mừng Quốc khánh ạ!

- Ðược! Các chú nhớ đúng hẹn!

Thế rồi, các nhà xuất bản tập trung sửa chữa bản thảo. Anh em ở Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phấn đấu rất cao, đúng ngày 02-9, đem 200 cuốn Vì nước, vì dân mới in xong lên biếu Bác. Bác xem và khen đúng hẹn thế là tốt. Bác góp ý: "Giá sách còn đắt". Bác chỉ giữ lại một cuốn và dặn:

- Từ nay về sau sách mới in không biếu nữa, vì sẽ ảnh hưởng đến giá thành, giá sách sẽ cao, nhân dân không mua được nhiều.

Tính ra suốt trong hai tháng, từ tháng 7-1968 đến tháng 9-1968, khi tập sách ra đời, Bác Hồ đã trực tiếp chỉ thị cho đồng chí Hà Huy Giáp mười lần về việc làm loại sách này.

(Nguyễn Phúc Ấm, biên soạn theo cuốn "Bác Hồ với sách người tốt, việc tốt" của Trần Kư - Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998).

26. Từ kỷ niệm tuổi thơ

Những năm học ở bên Pháp, tôi vẫn luôn luôn hướng về Tổ quốc. Một đêm giao thừa, tất cả anh chị em người Việt Nam tụ tập tại trụ sở đón Tết của quê hương trên đất Pháp…

Tối hôm đó, Bác gặp Việt kiều ở Pari. Anh chị em Việt kiều quây quần xung quanh Bác như những người con tụ lại bên cha già. Trong tình cảm thương yêu rộng  lớn, Bác dặn dò tất cả mọi người thế này: “Các cô, các chú phải cố gắng mỗi người học giỏi một nghề, sau này trở về giúp nước nhà, góp phần làm cho dân ta giàu, nước ta mạnh”. Lời dạy của Bác đã trở thành bó đuốc soi đường cho tôi suốt những năm học tập ở xa quê hương.

Giữa năm 1959, tôi thi đỗ bằng thạc sĩ toán học. Nhớ lời Bác, tôi tình nguyện xin về nước phục vụ.

Trong những năm công tác ở Hà Nội, tôi được gặp Bác ba lần, một lần Bác đến thăm Trường Đại học Sư phạm của chúng tôi. Lần thứ hai, vào dịp Tết, tôi được gặp Bác. Trong buổi liên hoan đón năm mới hôm ấy Bác rất vui. Tôi lại được ngồi gần Bác. Bác cười chỉ vào tôi và nói với các đồng chí lãnh đạo ngồi bên cạnh:

- Sao ít phụ nữ thế? Bác muốn phong trào phụ nữ tiến bộ mạnh hơn nữa…

Tôi nghĩ trong đời tôi lúc bé đã được một lần Bác dạy cho cách học, những năm sống xa quê hương, hình ảnh Bác là nguồn động viên tôi khắc phục khó khăn để học tập. Khi trưởng thành lại được Bác săn sóc từ bữa ăn. Tôi là một trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam đã được Bác, Đảng, Cách mạng giải phóng và trở thành người có ích, được đem sức lực của mình phục vụ nhân dân, đất nước. Đối với tôi, không có gì sung sướng hơn là giữ gìn những kỷ niệm về Bác - cái vốn quý báu mà Bác đã trao cho tôi từ khi còn bé. Cái vốn quý đó mỗi ngày càng được nhân lên gấp bội, như cuộc đời tôi, được Bác, Đảng dìu dắt mãi mãi đi trên con đường sáng…

(Trích lời kể của nữ Giáo sư, Tiến sĩ Toán học Hoàng Xuân Sính)

27. Tình thương của Bác

Hà Tĩnh - vùng "cán xoong" của khu 4 cũ - những ngày tháng 3 nǎm 1966, chia lửa với miền Nam, phải chịu đựng bao ác liệt đánh phá của không lực Hoa Kỳ.

Dã man nhất, chúng rải thảm bom B.52 vào các làng mạc hiền hòa, bệnh viện, chùa chiền, nhà thờ và trường học... Trường cấp 2 Hương Phúc thuộc huyện Hương Sơn là mục tiêu đánh phá của chúng.

Vào một ngày trung tuần tháng 3-1966, hàng đàn quạ Mỹ lồng lộn ném bom "tọa độ" vào trường. Buổi sáng, chỉ mỗi lớp 6A, vừa vào tiết học vǎn, 45 học sinh chỉ có một em sống sót. Hôm ấy, học trò gái Nguyễn Thị Mão vì có việc nhà xin phép đến muộn, nên em thoát khỏi bị vùi lấp dưới hố bom của bầy quỷ dữ.

Bác Hồ được tin đau thương này, đã cho mời Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Vǎn Huyên lên cho Bác biết tình hình cụ thể giặc Mỹ leo thang hủy diệt các trường học.

Đoàn chúng tôi gồm: Em Nguyễn Thị Mão, học sinh lớp 6; thầy giáo chủ nhiệm Thái Vǎn Nhậm, cô Trương Thị Vi, đại diện gia đình học sinh và thầy trưởng ty giáo dục Lê Sĩ Nghĩa, cấp tốc về Hà Nội để gặp Bác theo lệnh của Bộ. Bác bận trǎm ngàn việc lớn của đất nước, mà không quên một lớp học nhỏ đau thương - nơi thâm sâu xa vời - trong trǎm ngàn trường lớp khác. Chúng tôi theo Bộ trưởng vào Ba Đình báo cáo với Bác sự việc tàn bạo của giặc Mỹ ở Hương Sơn vừa xảy ra. Lúc chúng tôi đến, Bác chờ sẵn ở sảnh đường phòng khách Phủ Chủ tịch. Thầy trò chúng tôi có ngờ đâu Người lại trân trọng và chu đáo với anh chị em chúng tôi như vậy!

Bác thân mật hỏi thǎm từng người. Tôi thay mặt đoàn thưa cùng Bác giặc Mỹ đã trút bom hủy diệt toàn bộ ngôi trường. Hôm ấy, may là các lớp khác học buổi chiều. Lớp sáu chỉ còn mỗi một em sống sót là em Mão. Bác bảo Mão đến ngồi kề Bác. Bác nhẹ nhàng vuốt tóc cháu gái bé bỏng, như ông ngoại vỗ về an ủi cháu. Mấy lần câu chuyện tôi kể phải dừng lại vì Bác rút khǎn tay lau mắt.

Đến lượt cô Trương Thị Vi, người thân của học sinh bị nạn, đứng lên:

- Thưa Bác, cháu đại diện cho phụ huynh học sinh, em ruột cháu bị lấp vùi trong cǎn hầm, ngạt thở chết. Cha già không đi được, cháu đi thay.

Bùi ngùi lặng im một lúc, Bác hỏi:

- Cháu có biết phụ huynh là gì không?

- Thưa Bác, phụ huynh là cha mẹ ạ!

Bác ôn tồn giảng giải thêm:

- Phụ huynh là cha anh. Ngày xưa phong kiến trọng nam khinh nữ, nên chỉ nói đến cha anh, xem nhẹ vai trò của mẹ. Hôm nay, Bác dặn chú Huyên là ta có từ cha mẹ thì cứ gì phải dùng phụ huynh. Còn học sinh thì ta dùng học trò cũng được. Từ nào ta thiếu thì hãy mượn. Bộ trưởng Nguyễn Vǎn Huyên đỡ lời thưa Bác:

- Chúng cháu đã bắt đầu dùng "Hội cha mẹ học sinh".

Còn phụ huynh học sinh thì dùng cha mẹ học trò, hoặc gia đình học trò... ạ?

Nghe đến từ gia đình, Bác nhắc nhở và nhấn mạnh:

- Nhân đây Bác nhắc các thầy cô giáo là, giáo dục ở nhà trường phải biết kết hợp với gia đình. Vì gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội, nhà trường mới tốt, mới dạy tốt, học tốt được? Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Gia là nhà, đình là sân. Theo nghĩa cũ thì gia đình chỉ giới hạn hẹp hòi trong nhà, ngoài sân thôi. Nghĩa là chỉ lo cho những người trong nhà mình ấm no, yên ổn. Ngoài ra ai nghèo khó mặc ai. Như thế là chưa đủ. Theo nghĩa mới thì gia đình rộng rãi hơn, tốt đẹp hơn. Thí dụ: Những người lao động trong một nhà máy, một cơ quan, trường học... đều phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em trong một gia đình. Rộng hơn nữa, thì có đại gia đình các dân tộc Việt Nam và "công nông thế giới đều là anh em".

Rồi Bác quay sang hỏi cháu Mão:

- Cháu làm được những việc gì giúp cha mẹ, gia đình?

- Thưa Bác, cháu gánh nước, gánh lúa, cấy hái được ạ.

- Cháu gánh được bao nhiêu cân?

- Dạ thưa, được ba mươi ạ!

- Cháu gặt hái, cấy được là giỏi. Bác khen cháu vừa học vừa giúp gia đình. Nhưng tuổi nhỏ làm việc nhỏ, cháu đừng gánh nặng quá. Mười một tuổi như cháu gánh ba mươi cân là không nên!

Bác lại hỏi đồng chí Nghĩa, Trưởng ty Giáo dục:

Hà Tĩnh của chú được bao nhiêu thầy cô, học trò giỏi?

Anh Nghĩa không chuẩn bị, hơi lúng túng. Bác nhìn sang đồng chí Bộ trưởng, Bộ trưởng cũng chưa được báo cáo, nhưng nhanh trí lấy chân khều nhẹ vào chân tôi - có ý nhờ tôi trả lời hộ vì gần đây tôi được Vǎn phòng Bác chuyển đến sáu Giấy khen, Huy hiệu Hồ Chủ tịch và sáu phần quà tặng giáo dục Hà Tĩnh, nên tôi mạnh dạn thưa:

- Thưa Bác, Hà Tĩnh có hai giáo viên và bốn học trò được tuyên dương và thưởng Huy hiệu Bác.

- Hà Tĩnh có 82 vạn dân mà chỉ có chừng ấy thầy cô dạy giỏi, học trò giỏi là quá ít. Bác nhắc các cô chú về phải nhân rộng ra toàn ngành, thi đua với Bắc Lý dạy tốt, học tốt nhiều hơn nữa. Rồi Bác dặn dò phải có kế hoạch đào hầm, che chắn và phân tán các trường đại học về nông thôn bảo đảm an toàn cho thầy trò.

Chúng tôi quyến luyến không dám chia tay Bác. Bác chia quà cho từng người một và bảo gói đem về. Duy chỉ có Bộ trưởng Nguyễn Vǎn Huyên không dám nhận. Bác nhắc phần chú Huyên sao để lại.

- Thưa Bác, cháu không còn con nhỏ, chúng ra riêng cả.

- Thì chú mang về cho thím vậy?

Cả buổi họp giờ mới dám cười, và chúng tôi đã biến đau thương thành hành động, thi đua với Bắc Lý "dạy tốt, học tốt".

(Đào Huy Hi kể, trích trên Báo Nhân Dân ngày 16-5-1997)

Tâm Trang (tổng hợp)


 28. Một lần nhớ mãi

Đầu năm 1967, Bác về Thái Bình. Ô tô đưa Bác đến bến Triều Dương thì phải sang phà. Mấy đồng chí ở Tỉnh ủy đến đón, một cán bộ định giới thiệu với Bác. Bác nói:

- Thôi, thôi đi về cho sớm.

Ca nô mắc cạn loay hoay mãi vẫn chưa cập được bến.

Trời chiều, không thể để Bác chờ lâu nên đành phải đưa thuyền nan ra đón Bác vào bờ. Bác trèo lên đê, hỏi cô Định, Thường vụ Tỉnh ủy:

- Có còn lối nào đi lý thú hơn nữa không? Cô Định thành thật thưa:

- Bác phải đi xe, chứ về chúng cháu còn xa lắm. Anh cán bộ đi theo Bác cười:

- Bác phê bình khéo đấy! Rồi nói khẽ "tưởng bở".

… Về xã Tân Hòa, cán bộ địa phương mời Bác ngồi ghế giữa ưu tiên. Bàn kê thì chật, Bác lựa mãi mới đứng lên được.

Bác mở đầu như một vế đối:

- Ghế ưu tiên nên người không nhúc nhích... Anh chị em chỉ biết cười trừ.

… Đến bữa cơm, Bác giở cơm nắm ra ăn. Cô Định cứ năn nỉ mãi, mời Bác dùng cơm nóng, Bác bảo:

- Bác dùng cơm này đã quen rồi...

Trong bữa cơm có bát dưa. Cô Định cứ gắp mãi dưa, Bác hỏi:

- Dưa có ngon không? Cô Định nói một mạch:

- Ngon lắm ạ. Tỉnh chúng cháu năm nay trồng dưa thừa ăn còn đem bán cho các tỉnh bạn. Bác tủm tỉm cười:

- Dưa này không phải dưa Thái Bình đâu. Dưa Bác đem từ Hà Nội về đấy...

Sau này, cô Định nói: Chỉ một lần ấy mà tôi nhớ đời. Học được bao nhiêu điều.

(Lê Văn, trích trong Bác Hồ - con người và phong cách)

29. Đánh nó xong rồi ta phải làm gì

Trong cuộc mít tinh, có chút vốn nào tôi đều đưa ra cả (từ việc phát xít Đức đã bị đánh gục, tới sự suy vong của phát xít Nhật, mâu thuẫn Nhật - Pháp v.v. ..).

Đang đà thao thao bất tuyệt, tôi bỗng thấy chị Chi hồi hộp ghé tai tôi thầm thì: - "Đồng chí già" đang đứng nghe đấy. Chắc đồng chí ấy đến từ đầu.

Tôi giật thót mình, tự nhiên khắp người nóng ran lên.

Bỗng "đồng chí già" từ trong đám đông bước ra. Người vẫn mặc bộ quần áo chàm như mọi khi. Dùng tiếng địa phương, Người hỏi:

- Đồng bào nghe cán bộ nói có hay không?

- Hay lớ!

- Đồng bào có biết cán bộ nói cái gì không?

- Á dà... à, cán bộ nói cái hay, nói cái tốt mà, nói dài mà, không nhớ hết đâu?

Điếng người, tôi tưởng đất dưới chân mình có thể bị sụt. Quay lại nhìn chị Chi, thì mặt chị cũng đỏ như gấc chín, từng giọt mồ hôi đang lấm tấm nơi tóc mai.

Cũng may, "đồng chí già" không hỏi chúng tôi câu nào. Đồng chí chỉ yêu cầu đồng bào đừng về vội, để đồng chí nói lại cho dễ nhớ thôi. Được đồng bào ưng thuận, đồng chí liền hỏi:

- Nhật và bọn quan lại của nó bây giờ so với Pháp và bọn quan lại của Pháp ngày trước, thế nào?

- Pháp như con hổ, con báo thì Nhật cũng như bọn con báo con hổ thôi.

- Bọn quan của Pháp trước là bọn quan của Nhật đấy mà.

- Rắn lột xác vẫn là rắn thôi.

- Không phải rắn lột xác đâu. Chó săn đổi chủ đấy!

"Đồng chí già" lại hỏi:

- Dân ta có thể để cho con rắn, con hổ ăn thịt mình không?

- Không! - Đồng bào cùng cất tiếng trả lời.

Rồi từ các cụ già tới các thanh niên nam nữ thi nhau kể chuyện giặc giết người, tù đày, thuế nặng, bãi lính, bắt phu, v.v.. Những điều họ kể ra còn sâu sắc, cay đắng hơn những điều tôi vừa nói, vì nó đều là những sự việc ngay trong địa phương, nhân dân đã mắt thấy tai nghe và chính họ kể lại.

Chờ cho đồng bào ngớt lời. "Đồng chí già" kết luận:

- Ta phải quyết tâm đánh Nhật, quyết tâm trừ bọn quan lại của chúng để cứu lấy nước mình. Đồng bào đồng ý không?

Tiếng hô "đánh" vang lên. "Đồng chí già" lại chỉ một thanh niên rất khỏe, hỏi:

- Một người khoẻ như anh này, đánh được không? Đồng bào cười ồ lên. Một người nói:

- Không đánh được đâu! Nó đông đấy, lại có súng to, súng nhỏ nhiều mà.

- Thế cả nước một lòng, Kinh, Thổ, Mán, Mèo cũng đứng dậy đánh có được không?

- Được, đánh được! Mọi người cùng một lòng thì sợ gì Nhật, sợ gì Tây. Thầy nó chết thì bọn quan tay sai của nó cũng chết thôi!

- Đánh nó xong rồi ta phải làm gì?

Đồng bào ngơ ngác nhìn nhau. Lúc ấy "Đồng chí già" mới nói thêm:

- Đánh xong rồi ta không lập lại cái quan nữa, vì ta biết nó ác lắm! Đồng bào đều nói:

- Phải, phải!

- Ta xem trong dân ta, ai tốt và giỏi thì mình chọn người ấy để giúp dân, lo làm ăn, sao cho dân có cơm no, áo ấm, ai cũng được học hành. Mọi dân tộc, mọi người thương nhau như anh em ruột một nhà.

Tất cả cất tiếng reo lên:

- Ái dà, được thế thì sướng chết mất thôi!

Mắt mọi người đều sáng lên, ngắm nhìn "Đồng chí già" như muốn uống từng lời . "Đồng chí già" lại hỏi:

- Đồng bào nhớ chưa?

- Nhớ rồi, nhớ rồi.

"Đồng chí già" còn dặn thêm về việc phòng gian, chống giặc, cách giữ "ba không" (không nghe, không thấy, không biết).

Cuộc mít tinh kết thúc, "Đồng chí già" cùng tôi và chị Chi trở về. Dọc đường "Đồng chí già" bảo tôi:

- Lần sau nói chuyện ở đâu, phải hiểu rõ trình độ dân nơi ấy, phải nói sao cho thiết thực, để đồng bào dễ hiểu, dễ nhớ thì đồng bào mới theo mình được.

Tôi và chị Chi đều vâng lời. Tới chỗ rẽ, chờ cho "Đồng chí già" đi khuất, tôi mới bảo chị Chi:

- Được một bài học thấm thía. Không rõ "đồng chí già" người Kinh hay người Thổ?

(Trích trong  Kể chuyện Bác Hồ)

30. Thanh niên phải gương mẫu trong đoàn kết và kỷ luật

Lần nào gặp Bác, câu đầu tiên Bác thường hỏi là: "Thế các cháu có đoàn kết không, có thương yêu nhau không?", rồi Bác dặn: "Thanh niên phải gương mẫu trong đoàn kết và kỷ luật".

Cả chi đoàn đã lấy lời nói đó của Bác làm nội dung tu dưỡng. Mỗi khi có gì va chạm, kém gắn bó với nhau, anh chị em lại rất ân hận là chưa xứng đáng với lời Bác dặn, có anh chị em khóc nức nở vì hối hận chưa thực hiện được theo đúng lời Bác.

Có lần Bác hỏi tôi: "Trong chi đoàn cháu, có đoàn viên nào có tư tưởng muốn làm "ngôi sao" không?".

Tôi còn đang lúng túng, Bác đã bảo: "Biểu diễn thật hay để phục vụ nhân dân được nhiều là tốt. Nhưng nếu có tư tưởng muốn làm "ngôi sao" thì ngôi sao có khi tỏ, có khi lặn, lúc ngôi sao lặn thì lại buồn. Trong đoàn cháu có thanh niên nào có tư tưởng muốn làm "ngôi sao" thì cháu phải giúp đỡ".

Lần cuối cùng tôi được gặp Bác là vào tháng 7... Sau khi đi diễn ở Pháp, Ý, Angiêri, Liên Xô, Trung Quốc... về, cả đoàn lại được quây quần quanh Bác. Tôi là Phó trưởng đoàn, nên cũng được gặp Bác và báo cáo với Bác là ở Angiêri cũng như ở Pháp, ở Ý..., cứ mỗi lần tiết mục của ta hay, họ vỗ tay đến vỡ nhà hát và hô: Việt Nam - Hồ Chí Minh, Việt Nam - Điện Biên Phủ.

Bác vui vẻ bảo:

- Thế là người ta hoan nghênh các cháu, các cháu có hếch mũi lên không? (Bác đưa tay đẩy mũi lên).

Cả đoàn cười rộ và ai nấy đều hiểu đó là Bác có ý răn bảo.

Xong Bác bảo: "Người ta hoan hô các cháu, hay hoan hô Bác là người ta hoan hô cả dân tộc mình, cả dân tộc Việt Nam anh hùng"...

Thúy Quỳnh - Diễn viên múa kể, trích trong Kể chuyện Bác Hồ)

31. Trong Đại hội Anh hùng chiến sỹ thi đua chống Mỹ cứu nước

Đại hội năm ấy, có sáu thiếu nhi đi dự, được Bác rất quan tâm. Hôm cuối Đại hội, các cháu rất vinh dự được lên ghế Đoàn Chủ tịch với Bác. Sướng quá, các cháu chạy ùa lên. Bác Hồ và Bác Tôn kéo ghế ra cho các cháu đứng vào cạnh hai Bác.

Trong đoàn thiếu nhi có Hoa Xuân Tứ bị cụt cả hai tay. Bác Hồ chăm chú nhìn Tứ, kéo Tứ lại gần. Bác giới thiệu với Đại hội:

- Dân tộc ta rất anh hùng, người lớn anh hùng, thiếu nhi cũng rất anh hùng. Như cháu Hoa Xuân Tứ này cụt hai tay mà vẫn học giỏi.

Rồi chỉ vào Đinh Thị Lê Kim, cô bé "Ba đảm đang", Bác bảo: - Cả cô bé hạt mít này cũng học lớp 6 rồi đấy.

Bác bắt nhịp cho Đại hội hát bài "Giải phóng miền Nam", Bác không hát nhưng vỗ tay theo nhịp, mắt Bác nhìn trìu mến.

Sau đó tất cả đại biểu anh hùng và tập thể anh hùng cùng các cháu thiếu nhi được chụp ảnh chung với Bác.

Bác đứng giữa, các cháu thiếu nhi vây quanh.

... Bác lại cho đoàn đại biểu thiếu nhi được gặp riêng Bác.

Ngồi quây quần quanh Bác, các cháu được Bác hỏi tên từng người. Bác chia cho mỗi cháu một cái bánh, Bác hỏi:

- Về dự Đại hội, các cháu muốn nói gì nữa không?

Đinh Thị Lê Kim kể với Bác Hồ ở Thái Lan, Kim không được học phải đi bán bánh, bị cảnh sát đánh. Kể đến đây, Kim khóc, Bác vỗ vai an ủi Kim, rồi Bác kể chuyện Bác hoạt động ở Thái Lan, Bác khen thiếu nhi ta rất anh hùng, dù là ở trong nước hay nước ngoài.

... Các cháu lại được chụp ảnh chung với Bác, hát cho Bác nghe bài “Nguyễn Bá Ngọc, người thiếu niên dũng cảm".

Khi các cháu thiếu nhi ra về, Bác Hồ đứng trông theo cho đến khi xe của các cháu rời bánh.

(Trích trong Bác Hồ với thiếu nhi)

32. Bác Hồ với hai nữ nghệ sĩ quân đội

Nghệ sĩ Kim Ngọc - một giọng ca vàng của Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị - đã nhiều lần được gặp Bác Hồ. Một lần, chị và hai diễn viên Thùy Chi, Xuân Đức được vào hát cho Bác nghe. Hát xong, lúc trở về, Bác chia kẹo cho từng người và thơm lên trán mỗi người. Bác nói: “Các cháu chỉ được thơm một cái thôi, Bác còn để dành cho các chiến sĩ của Bác”.

Năm 1957, Đoàn Ca múa Quân đội sang biểu diễn ở Triều Tiên đúng dịp Bác đang thăm nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên. Bác tìm ra chỗ Đoàn ở, trên một quả đồi cao. Bác đến để thăm hỏi và động viên đoàn.

Năm 1959, nghệ sĩ Kim Ngọc sinh cháu đầu lòng, thật là một tin vui cho gia đình nghệ sĩ. Sau khi sinh cháu, chị lại được gặp Bác. Vì vừa sinh con nên sức còn yếu, có lúc thấy giọng hát chị đuối dần.

Bác nói với chị: “Cháu vừa sinh nở, người gầy lắm, phải chú ý bồi dưỡng cho mau lại sức”. Chị thưa với Bác là do sức khoẻ kém nên tiếng hát không được như trước. Bác lại bảo: “Thế thì cháu phải đi học thêm về ca nhạc dân tộc… chân không đến đất, cật không đến trời, thì không ứng dụng được đâu... ”. Vâng lời Bác, sau đó chị đã xin đi học một lớp dân ca và nhờ đó sức hát lại lên.

Nghệ sĩ Tường Vi - một giọng ca được nhiều người yêu mến - kể lại vinh dự được gặp Bác nhiều lần. Chị kể:

“ - Tôi cũng có hạnh phúc được gặp Bác nhiều lần. Không phải chỉ gặp Bác mỗi khi vào biểu diễn phục vụ chiến sĩ ở tuyến lửa, ở nơi xa về. Những lần ấy Bác đều gọi và vào cho quà. Bác thường hỏi: “Nơi các cháu đi qua, đồng bào có bị đói không” và “Đơn vị các cháu đến, bộ đội có bị ghẻ không?”. Nghe câu hỏi của Bác, tôi càng thấm thía sự quan tâm của Bác đối với mọi người...

Nhiều lần ấy, Bác thường hỏi một câu mà nghệ sĩ Tường Vi và mấy bà mẹ trẻ là diễn viên của Đoàn ca múa Tổng cục Chính trị không thể ngờ tới: “Thế các cháu đi diễn dài ngày thì gửi con cho ai?” Câu hỏi ấy làm cho các chị cảm động đến ứa nước mắt.

Nghệ sĩ Tường Vi kể một câu chuyện rất riêng của mình:

- Lần tôi sinh cháu đầu lòng, không may cháu bị mất. Tôi đau buồn quá đến phát ốm. Không rõ ai đã nói chuyện này với Bác, Bác cho gọi tôi vào. Được Bác gọi, tôi mừng quá, vội vào ngay. Bác nhìn tôi hồi lâu rồi bảo: “Thôi, “thua keo này, bày keo khác”. Trông cháu thiếu máu quá, nghỉ hát, bồi dưỡng đã…”

Lần gặp Bác này, tôi càng cảm nhận sâu sắc một điều: Bác quan tâm đến mọi người, đặc biệt là đối với các bà mẹ và trẻ em.

(Tạ Hữu Yên, trích trong Mênh mông tình thương Hồ Chí Minh)

33. Hành lý đáng kể nhất

Cuối năm 1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trong nước có việc sang Côn Minh. Bác sống ở nhà tôi trong mấy tháng. Mãi mãi sau này tôi còn nhớ những ngày được gặp Bác lần ấy. Bây giờ ngồi kể lại, tôi cứ bồi hồi như đang nâng niu trong tay vật gì thiêng liêng quý báu lắm, chỉ sợ sểnh tay không giữ được trọn vẹn. Tôi chỉ sợ nhớ không được hết, ghi không được đúng hình ảnh Bác trong những ngày đầy ánh sáng ấy của đời tôi.

Bác tới vào một buổi chiều mùa đông. Cảm giác đầu tiên của tôi là thấy Bác gầy quá. Đôi mắt Bác vẫn trong sáng, hiền từ như thế, nhưng đôi gò má của Bác cao lên. Da Bác không được đỏ đắn, tóc Bác đã bạc nhiều... Bác mặc một bộ quần áo nhuộm chàm phai màu; trời rét, Bác khoác thêm một cái áo bông ngắn sờn vai. Lúc tới, Bác đi đất, đầu đội một cái mũ vải cũng nhuộm chàm.

Nhà tôi là một tiệm cà phê. Hồi ấy tôi chưa được tham gia tổ chức, mới còn là một người cảm tình, nhà tôi là một cơ sở  hoạt động của Đảng ở Côn Minh. Tôi thu xếp mời Bác nghỉ trong một căn buồng trên gác, một căn buồng chật hẹp chỉ đủ kê một cái giường Bác nằm và một cái bàn Bác làm việc, nhưng có một khung cửa sổ. Thu xếp xong chỗ nghỉ cho Bác, chúng tôi soạn lại hành lý của Bác. Việc này phải nhờ mấy anh cùng đi với Bác - anh Phùng Thế Tài và một đồng chí người dân tộc thiểu số lúc ấy tên là Minh. Thực ra cũng chẳng có gì mà soạn. Hay nói cho đúng, những thứ Bác mang theo đều nên bỏ, đều nên thay cả, kể từ cái khăn mặt đến cái ống đựng thịt muối. Cái khăn mặt của Bác nhuộm chấm bạc thếch đã rách gần hết. Đôi giầy của Bác mang theo càng rách hơn, Bác đi đến nỗi lòi cả chân ra. Còn ống thịt muối? Hai anh Phùng Thế Tài và Minh ngày ấy còn rất trẻ. Các anh mở nắp ống thịt muối ra, lắc đầu kể lại cho chúng tôi nghe về "món thịt" ấy dọc đường. Các anh bảo đúng ra phải gọi là "muối thịt", vì thực tình đến chín phần muối mới có một phần thịt. Dọc đường vượt biên giới, mỗi ngày đi bộ, đến nơi phải nấu ăn, người nấu niêu cơm, người đi hái rau rừng, muối ấy và vài miếng thịt bỏ vào nấu canh. Ăn được nhiều, ít, Bác vẫn theo kịp hai anh đường trường, dốc núi. Hành lý của Bác, đáng kể nhất chính là ống thịt muối ấy. Nhưng cả ống thịt muối, chúng tôi cũng muốn bỏ  đi, khi nào Bác về sẽ làm ống khác.

Bác không cho làm thế, không cho vứt bỏ thứ gì cả, Bác bảo: Đồng bào, các đồng chí ở nhà còn khổ, những thứ ấy còn dùng được. Nhất là ống thịt muối, không nên phí phạm. Cùng lắm, Bác mới cho mua cái khăn mặt, và, vì công việc cần thiết, Bác mới cho mua đôi giày vải. Lúc nhà tôi đi mua, Bác còn dặn mua đôi ít tiền bằng vải thường thôi. Chiếc khăn mặt mua về, Bác lại đem nhuộm xanh, còn đôi giày vải, Bác phê bình nhà tôi đã mua một đôi loại kha khá.

Đường xa lâu ngày, lại lội suối, leo núi, Bác tới nơi thì mệt. Bác không cho đưa đi bệnh viện, sợ có những việc bất trắc. Bác chỉ cho nhà tôi mua vài ống thuốc tiêm; rồi hàng ngày tiêm cho Bác. Cũng may sao, chỉ một tuần sau, Bác bình phục và bắt tay vào công việc.

Thời gian Bác lưu lại Côn Minh khoảng gần ba tháng. Suốt ba tháng ấy, sinh hoạt hàng ngày của Bác rất nền nếp, đều đặn. Chúng tôi bảo nhau có thể có xem lúc nào Bác làm gì là biết mấy giờ, không cần phải xem đồng hồ .

(Tống Minh Phương kể, trích trong Bác Hồ sống mãi với chúng ta)

Tâm Trang (tổng hợp)


 34. Chuyện người sửa đôi dép Bác Hồ

Mỗi người dân Việt Nam đã từng nghe, ngắm nhìn đôi dép cao su của Bác Hồ. Đôi dép cao su giản dị, "đôi hài vạn dặm" từng theo Bác cả cuộc đời, theo sát cuộc kháng chiến trường kỳ của cả dân tộc. Ông Đàm Cần, nguyên Phó phòng Phòng Tự vệ biển Hải Phòng kể lại lần mình được trực tiếp sửa đôi dép cao su của Bác Hồ với niềm tự hào và cảm xúc thật sâu sắc.

Ngày 12/3/1962, lúc đó tôi đang là Phân đội trưởng Phân đội 4, Đoàn 135 Hải quân. Trời mùa Xuân ấm áp, khoảng 10 giờ sáng, Bác đến đảo Vạn Hoa (Quảng Ninh) bằng máy bay trực thăng. Như mọi lần, Bác về không báo trước, chuyến đi đó có cả ông Nguyễn Lương Bằng, ông Lê Trọng Tấn. Lúc này, lãnh đạo đơn vị đã sang Hải Phòng họp hết. Được tin Bác đến, chiến sỹ ta xúm xít chạy tới đón Bác nhưng ngại nên cứ đứng ở xa. Thấy vậy, ông Lê Trọng Tấn bảo: "Các đồng chí cứ lại gần Bác cũng được". Thế là chẳng ai bảo ai, cả đội mấy chục người vây quanh, ai cũng muốn được gần Bác. Bác xuống thăm bếp ăn, hỏi chuyện chị nấu bếp tên Thắm, lấy chồng miền Nam tập kết ra Bắc. Chị Thắm thấy Bác đến, sợ Bác thấy tạp dề của mình bẩn, vội quay mặt tạp dề bẩn vào trong. Bác tinh lắm, thế mà Bác cũng phát hiện ra ngay, nhắc chị không cần phải làm thế.

Lúc đó, giữa vị lãnh tụ và chiến sỹ không hề có khoảng cách. Thấy các vị chỉ huy dễ tính, chiến sỹ ta "được thể" cứ bám theo từng bước Bác đi. Trong lúc các chiến sỹ tranh nhau gần Bác, một chiến sỹ, hình như là đồng chí Khởi, người Ninh Bình, lập cập thế nào giẫm ngay vào chân Bác, Bác suýt ngã.

- Chú nào làm dép của Bác đứt quai rồi - Bác trìu mến bảo.

Nói rồi, Bác tựa lưng vào tường nhà máy nổ, định kéo lại đôi dép.

Lúc đó, tôi cũng đang đứng bên Bác, nhanh nhảu:

- Thôi, Bác để cháu đổi cho Bác đôi giày.

Nói rồi, tôi cúi luôn xuống, cởi đôi giày của mình ra.

Bác nhỏ nhẹ nói:

- Không được.

Lúc đó, tôi mới được nhìn Bác. Tôi vẫn nhớ cảm giác lúc chạm vào chân Bác, đôi chân rất gầy, có thể biết rằng sức khỏe của Bác cũng yếu đi nhiều. Bác mặc bộ quần áo lụa Hà Đông mãu nâu sẫm đã cũ, nhiều chỗ vải đã nổ lấm tấm như bèo hoa dâu.

Một chiến sỹ đứng ngoài lại bảo:

- Thế chúng cháu đổi dép mới cho Bác nhé!

- Không được - Bác vẫn ân cần trước sự quan tâm của các chiến sỹ trẻ rồi vui vẻ bảo:

- Đôi dép của Bác vẫn còn dùng được, đôi dép này Bác đã đi khắp Việt Bắc rồi đấy. Đó là kỷ niệm của chiến trường.

Lúc đó tôi chợt ngắm kỹ đôi dép cao su của Bác. Đúng là tôi chưa thấy đôi dép nào như thế. Nó quá cũ, đế cao su làm bằng lốp ô tô đã mòn vẹt, lớp vải bố đã xơ hết. Còn những chiếc quai, chắc đã thay nhiều lần, một quai tuột hẳn ra. Tôi chợt nghĩ "hay là mình sửa dép cho Bác vậy". Nhưng sửa cũng khó chứ đâu dễ, phải có cái rút dép mới làm được, không cẩn thận lại đứt quai. Đang loay hoay, một chiến sỹ cùng đơn vị nhanh trí lấy được cái rút dép ở đâu đó, đưa cho tôi. Tôi cầm dép ngó nghiêng, luồn kẹp vào quai rút một cái là xong. Tôi nói với Bác:

- Dép xong rồi, Bác xỏ vào đi ạ!

Tôi đặt dép xống, Bác xỏ chân, tiếp tục đi thăm đơn vị, vẫn bình thản, nhẹ nhàng.

Đây là lần thứ tư tôi được trực tiếp nhìn thấy Bác Hồ và là lần tôi nhớ nhất hình ảnh của Bác. Bộ quần áo lụa cũ, đôi dép cao su trông thật giản dị nhưng trí tuệ của Bác thì thật tuyệt vời. Bác đi lại nhanh nhẹn, bước đi của Bác rất đặc biệt, dù bước đi rất dài nhưng khoan thai. Tiếng Bác trầm ấm nhưng rõ như tiếng chuông, ứng đối khéo và đầy trí tuệ. Trong lúc vui chuyện, tôi mạnh dạn hỏi Bác:

- Bác là Chủ tịch nước, Bác thiếu gì quần áo mà lại mặc bộ quần áo cũ thế này.

Bác bảo:

- Đây là quần áo của các cụ già tặng Bác nên Bác mặc làm kỷ niệm. Chứ quần áo thì Bác cũng có nhiều lắm.

Bữa ăn của Bác - vị Chủ tịch trên tàu Hải Lâm hôm đó cũng rất đơn giản.

Bác là Chủ tịch nước, thế mà Bác có xa cách gì đâu, cuộc sống riêng tư cũng như mọi người dân bình thường. Tôi nghĩ, người vĩ đại thật sự giản dị. Bác của chúng ta là như thế!

(Việt Anh, trích trong cuốn Phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014)

35. Người công giáo ghi ơn Bác Hồ

Ngày 12/6/1987, tại Hội thảo khoa học "Bác Hồ với Huế - Huế với Bác Hồ" do Thành ủy Huế tổ chức nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày Bác Hồ về thăm Đồng Hới - Quảng Bình, lúc đó thuộc tỉnh Bình - Trị - Thiên, linh mục Nguyễn Văn Ngọc đã kể một kỷ niệm không bao giờ quên của đồng bào công giáo xứ Huế về đức bác ái bao la của Bác Hồ:

Năm 1949, Việt Minh bao vây kinh tế thành phố Huế. Linh mục Nguyễn Văn Ngọc, khi đó, đảm đương công việc ruộng đất của Nhà Chung tại giáo xứ Lương Văn, có trách nhiệm cung cấp lương thực để đài thọ cho 600 linh mục, chúng sinh dòng tu nam, nữ của thành phố. Trong điều kiện Huế bị bao vây, linh mục không có cách nào chở được số lúa gạo vào thành phố cho Nhà Chung ăn tiêu.

Linh mục rất lo lắng, đem chuyện này thưa lại với đồng chí Quế, lúc đó là cán bộ Việt Minh của mặt trận Thừa Thiên - Huế, vẫn có liên lạc với giáo xứ Lương Văn. Sau một hồi suy nghĩ, đồng chí Quế khuyên linh mục Ngọc nên viết thư xin phép Bác Hồ, đồng chí sẽ cố gắng tìm cách chuyển giúp.

Không còn cách nào khác, linh mục Ngọc đánh bạo viết thư lên Cụ Chủ tịch, thực lòng cũng không dám hy vọng sẽ đến được với Bác Hồ trong hoàn cảnh chiến tranh, Người lại ở quá xa và đang bận rộn trăm nghìn công việc lớn lao của đất nước.

Thật bất ngờ, một tháng sau, đồng chí Quế chuyển đến cho linh mục Ngọc một cái thiếp có chữ ký và dấu của Cụ Chủ tịch. Nội dung gồm hai điểm:

1. Cho phép linh mục Nguyễn Văn Ngọc được phép chở 9000 thúng lúa lên thành phố Huế trong vòng một tháng để trợ cấp cho Nhà Chung.

2. Linh mục Ngọc được tự do đi lại trong tỉnh Thừa Thiên để coi sóc ruộng đất của Nhà Chung, tiếp tục trồng cấy, không được để ruộng đất bỏ hoang.

Nhờ có giấy phép đặc biệt của Bác Hồ, linh mục Ngọc đã hoàn thành được nhiệm vụ, chở được lương thực lên thành phố, cứu nguy cho hơn 600 con người đang trong cảnh nguy ngập. Ai cũng mừng rỡ và hết lòng ca tụng Bác Hồ, vị Chủ tịch có lòng bác ái mênh mông của Chúa, tất cả vì lợi ích và cuộc sống của con người, không phân biệt lương hay giáo. Bác Hồ đúng là hiện thân của chính sách đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết tôn giáo.

Để kỷ niệm và ghi ơn Bác Hồ, vị giám mục người Pháp địa phận Huế đã gửi tấm thiếp của Người về Pari và hiện nay tấm thiếp đó vẫn đang được trang trọng lưu trữ tại Hội Thừa Sai Pari.

(Nguyễn Văn Ngọc kể, trích trong cuốn Bác Hồ - con người và phong cách)

36. Ai có trách nhiệm trồng người

Theo quy chế của Bộ Ngoại giao ta, khi có đoàn đại biểu trong nước đến nước nào thì vị đứng đầu Đại sứ quán Việt Nam tại nước đó phải đến sớm nhất để báo cáo với đoàn tình hình thế giới, trong nước, nước sở tại và kế hoạch làm việc hôm đó.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dậy đúng 5 giờ 30, tập thể dục 30 phút rồi tắm. Bác hẹn tôi đúng 6 giờ 15 phút đến báo cáo với Bác. Thật hạnh phúc cho tôi, suốt 8 ngày ở Cộng hòa Dân chủ Đức, ngày nào tôi cũng được làm việc với Bác vào 6 giờ 15 phút. Sáng 27-5, tôi vào đã thấy Bác ngồi chờ. Sau khi nghe tôi báo cáo thật tóm tắt, Bác đẩy bao thuốc lá sang phía tôi và hỏi:

- Cuộc hội đàm hôm qua chú thấy vấn đề gì bổ ích nhất cho ta?

- Thưa Bác, cháu cho rằng chiến lược trăm năm trồng người rất bổ ích cho ta.

- Chú nói đúng.

Tôi chưa dám hút thuốc lá.

Bác lấy thuốc đưa tôi, hỏi tiếp:

- Chú quê ở xã nào?

- Thưa Bác, nhà cháu cùng xóm với Cụ Phan Bội Châu, làng Đan Nhiễm, gần Kim Liên.

Bác tỏ thái độ rất vui, hỏi con cháu Cụ Phan ai còn ai mất, làm ăn ra sao. Sau đó, Bác nhìn tôi và hỏi:

- Ở cương vị chú, chú sẽ làm gì để góp sức với đất nước về sự nghiệp trồng người?

- Thưa Bác, ở bên này cháu cố gắng học hỏi kinh nghiệm và đi thực tế để xem các đồng chí làm như thế nào rồi thường xuyên báo cáo đầy đủ về Trung ương Đảng và Bộ Ngoại giao.

Nói xong, tôi tự nghĩ "chắc Bác bằng lòng". Không ngờ Bác nghiêm mặt:

- Chú cũng quan liêu giấy tờ đến thế?

Thấy tôi đỏ mặt cúi đầu, Bác hạ giọng:

- Bác và Trung ương giỏi lắm thì đánh xong giặc. Xây dựng con người là trách nhiệm nặng nề của thế hệ chú và con chú. Chú còn làm gì nữa?

- Thưa Bác, cháu chăm sóc 149 thiếu nhi đang học tại Cộng hòa Dân chủ Đức.

Nói xong tôi tưởng Bác hài lòng, vì Bác luôn hỏi về việc các cháu học tập, sức khỏe và đạo đức ra sao. Lần này Bác phê bình nhẹ nhàng:

- Cách làm của chú chưa đúng. Muốn đi xa, phải bắt đầu đặt chân gần nhất. Trước hết chú phải giáo dục con chú, anh chị em trong Đại sứ quán, các cháu sinh viên, từ đó cả tập thể cán bộ, nhân viên Đại sứ quán và sinh viên chăm lo cho các cháu thiếu nhi. Một mình chú dù giỏi cũng không làm tốt. Rèn luyện các cháu về đạo đức phong cách, lối sống của dân tộc ta không phải chỉ bằng lời, mà phải bằng hành động gương mẫu của tập thể người lớn ở bên này. Người lớn thiếu gương mẫu thì không ai theo.

(Song Tùng trích trong cuốn Bác Hồ sống mãi với chúng ta)

37. Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Tôi còn nhớ hồi ấy, Già Thu còn làm việc ở một hòn đá kê bên bờ suối ngay dưới hang. Nhưng khi trời chiều, ánh mặt trời bị bóng núi và những tán cây rậm rạp che khuất, đồng chí thường chuyển chỗ làm việc sang bên kia bờ suối cách cửa hầm mấy chục mét. Bàn làm việc là một phiên đá phẳng kê trên mấy hòn đá nữa cho với tầm ngồi, ghế cũng là một phiến đá nhỏ và nhẵn. "Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng". Chính nơi đây, Người đã dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô. Bàn đá kê ngay cạnh suối nên mỗi khi rỗi rãi sau những giờ làm vệc căng thẳng, Người thường ra suối vứt cơm thừa để câu cá. Người đặt tên cho con suối ấy là suối Lênin và ngọn núi cao đối diện, có vóc dáng sừng sững, là núi Các Mác.

Người sống rất giản dị và kham khổ. Nước lá ổi thay chè, cải soong là thức ăn chủ yếu. Ngày ấy đồng bào quanh vùng ăn độn bắp, mọi người trong cơ quan cũng ăn độn bắp. Riêng "Đồng chí già" tuổi cao, sức yếu, chúng tôi mua gạo nấu riêng cho Người ăn, nhưng Người không đồng ý. Có lần bắp non xay để lâu mới ăn đến, bị chua, chúng tôi lại đề nghị Người ăn cơm gạo không, Người vẫn không nghe. Suy nghĩ rất nhanh, Người hỏi bọn tôi:

- Có cách nào làm cho bắp non khỏi bị chua không?

Chúng tôi thưa:

- Nếu rang lên thì có thể ăn được, nhưng không ngon...

- Không ngon cũng được. Thế thì rang lên mà ăn, không nên bỏ phí. Một hạt bắp lúc này cũng quý. Về sau nên phơi khô, rồi hãy xay.

Từ đấy mỗi khi thu hoạch bắp về nhà chúng tôi thành lệ phơi khô rồi mới cho vào cối, do đó bắp để lâu vẫn ăn được.  Câu thơ "cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng" chính là ra đời trong thời kỳ này, gian khổ nhưng đầy lạc quan.

Ở đâu, Người cũng luôn luôn tìm mọi cách tự cải thiện đời sống. Thời kỳ ở Pắc Bó không dài, nhưng một vườn rau quả nho nhỏ đã bén rễ, có cả cà chua và ớt (dân vùng chúng tôi trước đó chưa bao trồng ớt). Người còn cùng anh em trong cơ quan câu cá, mò ốc suối. Năm thỉnh mười thoảng, anh em mới ra chợ mua cua nấu bát canh rau ngót rừng, rau cải, hoặc mua một, hai cân thịt lợn, chỗ béo thì lạng riêng rán lấy mỡ ăn dần, còn chỗ nạc thì kho mặn, cô lại như mắm khô để dự trữ  gọi là món ăn chiến lược".

(Dương Đại Lâm, trích trong cuốn Bác Hồ sống với mãi chúng ta)

38. Ba chiều trách nhiệm

Báo Cứu quốc số 69, ngày 17-10-1945 có đăng "Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng". Bác viết:

 "Tôi vẫn biết trong các bạn có nhiều người làm theo đúng chương trình của Chính phủ, và rất được lòng nhân dân. Song cũng có nhiều người phạm những lầm lỗi rất nặng nề. Những lầm lỗi chính là:

1. Trái phép - những kẻ Việt gian phản quốc, chứng cớ rõ ràng thì phải trừng trị đã đành, không ai trách được, nhưng cũng có lúc vì tư thù, tư oán mà bắt bớ và tịch thu làm cho dân oán thán. 

2. Cậy thế - cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng muốn sao được vậy, coi khinh dư luận không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân.

3. Hủ hóa - ăn uống cho ngon, mặt muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử hỏi tiền bạc ấy ở đâu ra? 

Thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Ông uỷ viên đi xe hơi, rồi bà uỷ viên, cho đến các cô các cậu uỷ viên, cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu?

4. Tư túng - kéo bè, kéo cánh, bà cô bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì để ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai.

5. Chia rẽ  - bênh vực lớp này, chống lại lớp khác, không biết làm cho các từng lớp nhân thương lẫn chau, hoà thuận với nhau...

6. Kiêu ngạo - tưởng mình ở trong cơ quan chính phủ là thần thánh rồi. Coi khinh dân gian, nói phô, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt "quan cách mạng" lên. Không biết rằng, thái độ kiêu ngạo đó sẽ làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến oai tín của Chính phủ". 

Bác cho rằng: "Những kẻ tham ô, lãng phí là quan liêu thì phá hoạt tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám". Mặt khác, Bác ân cần nhắc dạy chúng ta rằng: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến".

 Đối với những cán bộ sai lầm, trong sách "Sửa đổi lối làm việc", Bác nêu "một không sợ", "hai sợ". 

- Không sợ có sai lầm, khuyết điểm.

- Sợ thứ nhất "không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm...". 

- Sợ thứ hai "và càng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm". "Trừ những người cố ý phá hoại, ngoài ra không ai cố ý sai lầm, sai lầm là vì không hiểu, không biết. Vì vậy, đối với cán bộ bị sai lầm, ta quyết không nên nhận rằng họ muốn như thế... Sự sửa đổi khuyết điểm một phần cố nhiên là trách nhiệm của cán bộ đó. Nhưng một phần cũng là trách nhiệm của người lãnh đạo. 

Sửa chữa sai lầm, cố nhiên dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng".

Trong công tác xét xử, Bác nhắc nhở "Không vì công mà quên lỗi - không vì lỗi mà quên công", thuyết phục giáo dục là hàng đầu, nhưng phải có kỷ luật rất nghiêm. Phải phân tích rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng". "Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm". "Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư, tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa, v.v.. Những thói xấu đó đã có từ lâu, nhất là trong 80 năm lô lệ. Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng. 

Cũng như những người hàng ngày lội bùn, mà trên mình họ có hơi bùn, có vết bùn. Như thế thì có gì là kỳ quái?"

"Cũng như một nhà có rể khờ, dâu dại, không thể cấm họ gặp gỡ bà con. Đảng ta dù muốn giấu những người và những việc không tốt kia, cũng không thể giấu. Quần chúng luôn luôn liên lạc với Đảng ta... Họ chẳng những trông thấy những người tốt việc tốt, mà họ cũng trông thấy nhóm người xấu, việc xấu trong Đảng. Họ sẽ ngơ ngác mà hỏi "Đảng này là Đảng tốt, đảng viên đều là người tốt, vì sao lại có những người vu vơ, những việc mờ tối như thế nhỉ?".

Bốn hai năm đã qua, ngày nay, đọc lại những lời dạy bảo chí tình, chí nghĩa, tri ân ấy của Bác mà chúng ta giật mình thấy nhức nhối trong tim.

(Trích trong cuốn Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh)

Tâm Trang (tổng hợp)


 39. Nhớ lần được vào chúc Tết Bác

Vào dịp Tết năm 1962, đúng vào buổi chiều 30 Tết, chúng tôi đang tấp nập chuẩn bị đón mừng Xuân mới, bỗng được tin: Sáng mai mùng một Tết đơn vị được cử một số cán bộ, chiến sỹ vào chúc Tết Bác. Tin đến thật bất ngờ và truyền đi rất nhanh. Tiếng hỏi nhau, tiếng trả lời, tiếng hoan hô thật là náo nhiệt. Nhiều đồng chí vui sướng quá, miệng hoan hô, tay chân thì nhảy múa trông rất ngộ nghĩnh.

Với những bộ quân phục mới nhất, tất cả chúng tôi đã tập trung ở địa điểm quy định. Sáu giờ sáng chúng tôi đã đến trước cửa một ngôi nhà nhỏ trong Phủ Chủ tịch. Lúc ấy các đồng chí trong cơ quan, các đơn vị bạn cũng có mặt để vào chúc Tết Bác.

Từ phía ngoài nhà sàn nhỏ, chúng tôi đã nhìn thấy Bác, vẫn bộ kaki bạc màu, đôi dép cao su quen thuộc với dáng đi nhanh nhẹn. Bác đang đi về phía chúng tôi. Mọi người sung sướng hồi hộp quá nên khi Bác tới gần ai cũng chỉ nói được mỗi câu: Bác, Bác, Bác... Phần vì quá xúc động, nên đồng chí phụ trách lúng túng chưa kịp hô đơn vị để chào Bác, thì Bác đã thân mật hỏi ngay:

- Các chú vào chúc Tết Bác phải không?

Nghe giọng nói ấm áp của Bác, thấy Bác tươi cười hiền hậu, chúng tôi cảm thấy bớt phần hồi hộp, chúng tôi trả lời khá đều:

- Thưa Bác vâng ạ!

Đồng chí K. thay mặt anh em đứng ra chúc Tết Bác. Vừa nghe xong, Bác hỏi:

- Còn gì nữa không?

Chúng tôi lúng túng nhìn nhau chưa biết nói thế nào, may sao đồng chí H. đứng ở hàng đầu đã mạnh dạn thưa:

- Thưa Bác, Bác còn cho chúng cháu ăn Tết nữa ạ!

Bác cười, chỉ tay về phía đồng chí H. nói:

- Chú kia nói đúng.

Tiếng vỗ tay lại vang lên. Tiếp đó Bác đến thăm hỏi từng người về tình hình sức khỏe, tình hình gia đình, việc tổ chức ăn Tết ở đơn vị có vui không. Bác sắp đến chỗ tôi, tôi vừa vui sướng vừa hồi hộp, tim đập mạnh quá khiến tôi cứ run rẩy người lên. Vui vì được nhìn rõ Bác, được Bác sắp hỏi han nhưng lại lo khi Bác hỏi thì trả lời sao đây. Thế rồi Bác đã tới trước mặt tôi, tôi bỗng thấy mắt mình như nhòa khi nghe tiếng Bác.

- Chú có bộ quần áo đẹp thế.

Tôi lúng túng thật sự, chưa biết trả lời Bác ra sao, thì được Bác hỏi tiếp:

- Chú đi bộ đội từ bao giờ, sao chú nhiều huân chương thế?

Bác hỏi và tay chỉ vào ngực tôi, rồi Bác lại chỉ luôn vào ngực Bác, Bác nói:

- Bác chẳng có cái nào.

Tôi ấp úng đáp lời:

- Dạ... dạ thưa Bác, đây là huân chương của Bác, Bác để dành cho chúng cháu ạ.

Bác cười và chỉ tay vào đồng chí bên cạnh hỏi tiếp:

- Chú có huân chương không?

- Thưa Bác có ạ!

Chúng tôi hết sức xúc động và sung sướng được sự chăm sóc động viên của Bác. Chúng tôi thầm nghĩ mình phải làm gì để thực sự xứng đáng với tình thương yêu của Bác.

Sau đó Bác căn dặn chúng tôi:

- Năm nay các cô, các chú ăn Tết phải tổ chức thật tốt thật vui nhưng phải tiết kiệm, không nên tiêu những thứ chưa thật cần thiết. Nước ta còn nghèo, cần phải dành dụm để xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Bác còn dặn thêm:

- Sang năm mới các cô, các chú phải chịu khó học tập tốt, công tác tốt để đạt được nhiều thành tích hơn nữa.

Sau đó Bác cho chúng tôi chụp ảnh chung với Bác. Chúng tôi ai cũng muốn được gần Bác hơn. Trong lúc đồng chí nhiếp ảnh đang chuẩn bị, Bác nhìn quanh một lượt, thấy tôi, Bác vẫy tay và bảo:

- Chú vào đây ngồi với Bác.

Tôi sung sướng và xúc động quá, vội vàng chạy lại bên Bác mà người cứ run lên, trống ngực đập thình thịch.

- Chú chuẩn bị xong chưa?

Bác hỏi đồng chí nhiếp ảnh.

- Thưa Bác xong rồi ạ.

- Khi nào chụp chú phải hai, ba để các chú ấy cười lên.

Chụp ảnh xong, chúng tôi được Bác cho phép vào ăn Tết với Bác. Trong căn phòng nhỏ xinh xắn, một dãy bàn trải khăn trắng muốt có các món ăn đã được bày sẵn. Thấy chúng tôi vẫn đứng chung quanh các dãy bàn, Bác đưa tay ra hiệu và nói:

- Các chú ngồi xuống.

Chờ chúng tôi ngồi đâu vào đấy, Bác đi quanh dãy bàn xem xét một lượt, rồi trở về chỗ ngồi, Bác âu yếm bảo chúng tôi:

- Các chú ăn đi!

Chúng tôi ngồi ăn, thỉnh thoảng lại liếc nhìn Bác. Trong bữa ăn Bác đi đến từng bàn và luôn giục chúng tôi:

- Các chú ăn bánh chưng của Bác xem có ngon không?

- Các chú là bộ đội sao ăn chậm thế?

Thấy chúng tôi ăn uống vui vẻ, Bác tỏ ý hài lòng. Bữa ăn sắp xong, thấy Bác đứng dậy, chúng tôi đều đặt đũa xuống và hướng nhìn Bác. Với giọng ấm áp đầy yêu thương. Bác nói:

- Hôm nay Bác cháu ta vui Tết nhưng đồng bào miền Nam ta còn phải chiến đấu, chịu đựng mọi gian khổ hy sinh...

Giọng Bác nghe trầm hẳn, Bác tiếp:

- Các chú, các cô ăn Tết với Bác hôm nay cơm thì được ăn no, nhưng thịt thì chưa đủ no.

Chúng tôi hiểu rằng Bác vui Tết với con cháu nhưng Người vẫn luôn nhớ đến đồng bào miền Nam. Lúc nào Bác cũng chỉ có một ý nguyện làm cho nước nhà thống nhất để toàn thể nhân dân ta ai cũng được no cơm và no thịt nữa.

Đồng chí K. thay mặt anh em xúc động nói:

- Năm mới chúng cháu kính chúc Bác mạnh khỏe và xin hứa với Bác quyết tâm thực hiện bằng được lời Bác dạy cùng nhân dân cả nước giải phóng miền Nam để đồng bào miền Nam sớm được đón Bác vào ăn Tết...

Đồng chí K. dứt lời, chúng tôi thấy Bác mỉm cười. Bác vỗ tay hoan hô, chúng tôi cùng vỗ tay theo. Có tiếng ai hô: Năm mới kính chúc Bác mạnh khỏe! Tất cả chúng tôi đồng thanh hô lại rõ từng tiếng một... Tiếng vỗ tay lại vang lên tưởng như không dứt.

Mọi người ra về, lòng đầy phấn khởi. Được vào chúc Tết Bác là một niềm vinh dự, một hạnh phúc lớn lao, là phần thưởng vô giá đối với mỗi chúng tôi.

(Xuân Giao, nguyên Cục phó Cục Cảnh vệ, Bộ Công an kể, trích trong cuốn "Cận vệ Bác Hồ")

40. “Làm cán bộ là làm đầy tớ nhân dân, không phải làm quan”

 Năm 1956, tôi được cử về Hà Nội tham gia đoàn đại biểu các dân tộc thiểu số đi thăm Trung Quốc bốn tháng. Hết thời gian tham quan, về nước, hôm sắp sửa trở lại Đồng Văn, tôi được tin sẽ được đến thăm Bác ở Phủ Chủ tịch. Tin ấy làm tôi vui như người đói được ăn, người khát được uống. Rồi chúng tôi được đưa đến Phủ Chủ tịch. Bước chân lên thềm nhà cao rộng, đẹp đẽ, tôi hồi hộp vô cùng. Gặp Bác, người tôi nóng ran lên vì xúc động, tôi nhìn Bác không chớp mắt. Hôm ấy, tôi được tận mắt nhìn thấy Bác. Bác tươi cười hỏi thăm sức khỏe mọi người, rồi Bác hỏi ngay đến đời sống và tình hình làm ăn của các dân tộc miền núi. Bác hỏi:

- Đất đã cho ngô khoai tươi tốt, nuôi sống các cô, các chú, thế ngô khoai ăn xong, bây giờ các cô, các chú lấy cái gì mà trả lại cho đất nào?

Tất cả chúng tôi im lặng trước câu hỏi của Bác, lúng túng không biết trả lời thế nào cho phải. Thấy vậy, Bác nói: “Phải chăm bón, làm cho đất tốt thì người mới no, phải cải tiến kỹ thuật”. Bác cũng căn dặn chúng tôi phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không được xa rời quần chúng; mình là đại biểu của các dân tột ít người đã khổ cực nhiều rồi, nay được cách mạng, được Đảng dắt ra khỏi cuộc đời tăm tối, được quần chúng tin yêu cử ra làm việc, thì không lúc nào được xa rời quần chúng; làm cán bộ là làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan... Tôi nhớ rất kỹ lời dạy này của Bác. Tôi nghĩ mình làm việc cho quần chúng thì ít, ngược lại, quần chúng có thể giúp mình nhiều. Tôi nghĩ đơn giản thế này: “Giá như bây giờ mình thiếu ăn, mỗi nhà cho một ống thì thừa ăn ngay, nhưng mình bắt tay vào làm giúp quần chúng thì có được là bao!”. Tôi thấy những lời Bác dạy thật chí lý, chí tình, càng áp dụng vào thực tế càng thấy thấm thía.

(Vừ Mí Kẻ kể, trích trong cuốn “Những mẩu chuyện về phong cách Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Thanh Niên, 2016)

41. “Các chú phải nhớ công nhân trẻ tốt lắm"

Trong cuộc đời của mỗi người, có biết bao kỷ niệm vui buồn sâu sắc.

Nhưng trong tâm hồn chúng tôi chưa bao giờ có những tình cảm đặc biệt khó tả lạ lùng như khi gặp Bác Hồ ngày 18-7-1969.

Hôm ấy, chúng tôi dạy sớm, đến trước giờ. Đúng giờ hẹn, Bác xuất hiện đột ngột bên cửa phòng khách. Chúng tôi đứng sững, lặng ngắm từ mái tóc trắng, chòm râu bạc rung rung trên khuôn mặt hồng hào, bộ quần áo vải cũ đã bạc màu đến đôi tất sợi dưới chân và chiếc gậy nhỏ của Bác. Bác tươi vui thân mật bắt tay từng người, nhắc chúng tôi ngồi, bảo chúng tôi uống nước. Nhanh nhẹn, thân mật, Bác đã gây không khí cởi mở ngay từ phút đầu gặp gỡ. Hơi ấm trong tay Bác chuyển nhanh sang người chúng tôi.

Chúng tôi rất mừng thấy Bác vẫn khỏe mạnh. Tâm trí bị hút vào từng cử chỉ, lời nói của Bác. Chúng tôi muốn quan sát thật kỹ, ghi nhớ tất cả. Thấy chúng tôi ít nói, Bác thân thiết hỏi thăm gia đình từng người rồi Bác chuyển sang công việc chung rất tự nhiên. Bác căn dặn nhiều điều, đại ý là:

- Bác đã nhiều lần gặp công đoàn, hôm nay lại gặp các chú. Bác mong muốn các chú làm tốt công tác vận động, tổ chức, giáo dục quần chúng công nhân, viên chức làm tròn vai trò tiên phong cách mạng trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bác vừa nói vừa lấy trên bàn làm việc một tập báo đã cắt dán sẵn, bên cạnh có chữ của Bác ghi bằng bút chì đỏ. Bác đưa cho chúng tôi xem và nói tiếp:

- Bác xem báo Lao động có bài viết về chuyện một số công nhân nào đó mỗi ngày chỉ làm rất ít giờ. Bác rất đau lòng. Luật Nhà nước quy định mỗi công nhân, viên chức phải làm việc 8 giờ. Nếu có người chỉ làm việc ít giờ thì rõ ràng là người đó không làm tròn trách nhiệm với Nhà nước, với nhân dân. Bác hỏi về tình hình cảng Hải Phòng. Chúng tôi báo cáo:

- Thưa Bác, phần đông anh chị em công nhân ở đây về mặt dũng cảm bốc dỡ hàng và đưa hàng vào kho, kể cả lúc địch đánh phá ác liệt là rất tốt. Nhưng về phần bảo quản hàng hóa chống hư hỏng, mất mát thì còn có chỗ chưa tốt. Bác tỏ vẻ không hài lòng:

- Như thế là các cô, các chú công nhân ở đây cũng có người chưa thấy hết trách nhiệm của mình và ý nghĩa việc mình làm. Hàng hóa đó đều là của giai cấp công nhân làm ra giúp ta để ta đánh Mỹ xâm lược và xây dựng kinh tế, cho nên chúng ta không được phép làm mất mát, hư hỏng. Nếu cứ để như thế thì một số hàng viện trợ ấy không sử dụng được vào mục đích đánh Mỹ và xây dựng kinh tế, như vậy cũng là không làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với bạn.

Bác hỏi thêm về tình hình giáo dục công nhân. Bác góp ý là công đoàn làm công tác giáo dục nhiều nơi còn chung chung, chính trị suông, chưa biết nắm công tác chính trị thúc đẩy sản xuất, động viên mọi người làm tròn trách nhiệm trong lao động sản xuất. Làm chung chung thì dễ, làm cụ thể phải chịu khó. Cho nên công tác giáo dục phải gắn liền với nhiệm vụ cụ thể. Phải kiên quyết thực hiện đấu tranh trong nội bộ công nhân, viên chức để gạt bỏ những thói hư tật xấu của giai cấp bóc lột cũ còn rớt lại. Tiếp đó, Bác lại đưa cho chúng tôi xem một bài báo cắt trong tờ Hà Nội mới ra ngày 16-7-1969, ở mục “sinh hoạt công đoàn” nêu vấn đề “công đoàn cửa hàng thực phẩm Chợ Hôm thành lập ban kiểm tra quản lý vật tư hàng hóa”. Từ bài báo cụ thể ấy, Bác căn dặn chúng tôi: Công nhân phải nâng cao vai trò làm chủ tập thể, phải mạnh dạn đấu tranh. Lập ban kiểm tra là đúng, nhưng ban kiểm tra phải dựa vào quần chúng mà tiến hành công tác. Giai cấp công nhân có quyền bầu ra thì cũng có quyền bãi miễn họ, nếu họ không chịu sửa chữa khuyết điểm.

Bác vừa nói, vừa cho chúng tôi xem thêm một bài cắt trong báo Nhân Dân ngày 16-7 viết về công nhân mỏ phê bình một số cửa hàng bách hóa ở Mạc Khê phân phối hàng chưa tốt và đoàn xe Cọc 6 làm ăn luộm thuộm, thiếu vệ sinh. Bác bảo: Các báo đăng bài của công nhân phê bình thế là tốt. Báo Lao Động nên mở rộng mục này cho quần chúng phê bình trên báo. Như vậy, vừa bảo đảm quyền dân chủ của công nhân, vừa nâng cao tính chiến đấu của tờ báo. Rồi Bác hỏi sang đời sống công nhân. Chúng tôi báo cáo:

- Thưa Bác, mặc dù trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, Nhà nước vẫn cố gắng đảm bảo cuộc sống về ăn, mặc, chữa bệnh cho công nhân. Tuy thế, đời sống công nhân còn khó khăn. Bác cho rằng, quần chúng rất thông cảm hoàn cảnh thiếu hàng, quần chúng chỉ phàn nàn việc phân phối không công bằng. Vẫn còn một số cán bộ lạm dụng chức quyền, quan liêu, xa rời quần chúng, thiếu trách nhiệm trước quần chúng. Ngay trong công đoàn cũng có cán bộ mắc thiếu sót trên, làm cho đời sống quần chúng thêm khó khăn. Một số cán bộ còn thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa thật sự quan tâm đến đời sống quần chúng. Vì thế, cán bộ, công nhân, viên chức, nhất là cán bộ công đoàn, phải ra sức vận động công nhân, viên chức cố gắng lao động sản xuất, đi đôi với thực hành tiết kiệm, cùng nhau vượt qua khó khăn để chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bác nói với tất cả những tình cảm thân thiết của một người cha lo lắng cho đời sống của các con. Chúng tôi vừa thấy ân hận về những thiếu sót của mình, vừa kính thương Bác. Bác muốn lo cho tất cả chúng ta sung sướng. Bác đã dạy chúng tôi bao lần về những bài học cụ thể ấy. Nhưng chúng tôi chưa hiểu thấu đáo, chưa quán triệt trong ý thức, tư tưởng, trong hành động, trong chỉ đạo cụ thể. Rõ ràng, chúng tôi còn phải cố gắng rất nhiều để làm tròn trách nhiệm. Mỗi khuyết điểm Bác nhắc đến, chúng tôi đều thấy đó là khuyết điểm của chính mình. Mỗi bài học Bác dạy, chúng tôi thấy chính là bài học vỡ lòng mà Bác đã dạy chúng tôi từ lâu nhưng chúng tôi chưa thấm và làm chưa được tốt. Qua những sự việc cụ thể trên, Bác đã nêu lên cho chúng tôi thấy những điều cần phải làm trong thời gian tới.

Bác nhấn mạnh vai trò của công nhân tham gia quản lý. Công đoàn cần tập trung vào việc phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ tập thể của công nhân, viên chức trong việc tham gia quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước để thực hiện tốt ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách mạng tư tưởng - văn hóa.

Bác cũng chỉ bảo cặn kẽ về vai trò của tổ chức công đoàn. Cán bộ công đoàn không những phải giỏi về chính trị mà còn phải thạo về kinh tế; không thể lãnh đạo chung chung. Phải biết dựa vào quần chúng, phát huy sức sáng tạo của quần chúng, học tập kinh nghiệm của quần chúng tạo điều kiện cho họ nắm được những hiểu biết khoa học - kỹ thuật.

Được ngồi bên Bác, nghe Bác căn dặn, chúng tôi đều hiểu là Bác lo lắng cho công nhân và tổ chức công đoàn rất nhiều. Chúng tôi thầm nghĩ xin cố gắng làm tốt lời Bác dạy để Bác vui lòng. Bác cười và nói tiếp: Các chú phải nhớ công nhân trẻ tốt lắm. Họ nghe và làm theo Đảng, công đoàn và đoàn thanh niên. Nhưng chúng ta phải tôn trọng họ, tin tưởng vào họ, thông qua những việc làm cụ thể mà giáo dục, bồi dưỡng họ về phẩm chất, đạo đức cách mạng, về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của giai cấp công nhân. Bồi dưỡng văn hóa, khoa học - kỹ thuật và kiến thức quản lý xí nghiệp cho họ, tạo điều kiện cho họ phát huy vai trò làm chủ xí nghiệp là yếu tố quan trọng để đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật. Làm cho họ vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là nhiệm vụ trước mắt và cả lâu dài nữa. Trước khi kết thúc, Bác lại nhấn mạnh: Các chú nhớ là phải làm cho cán bộ thật đoàn kết nhất trí, không xa rời quần chúng. Phải thấy trách nhiệm vì lợi ích giai cấp, vì lợi ích cách mạng mà làm, chứ không phải vì cá nhân. Phải làm đúng lời dạy của Lenin vĩ đại: Giữ gìn sự thống nhất của Đảng như con ngươi của mắt. Phải hết lòng tôn trọng tập thể, phát huy dân chủ nội bộ.

(Nguyễn Đức Thuận kể, trích trong cuốn "Phong cách Hồ Chí Minh", Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014)

Tâm Trang (tổng hợp)


 39. Bài học đầu tiên về phương pháp đấu tranh với kẻ thù

Khoảng cuối tháng 5/1945, Bác rời nhà ông Tiên Sự xuống ở lán Nà Lừa. Trong căn lán đơn sơ nhỏ bé này, Bác đã cùng Trung ương họp bàn những vấn đề quan trọng quyết định vận mệnh của nước nhà. Chúng tôi cũng được xuống gần để phục vụ Bác. Lúc đó tôi được giao nhiệm vụ quản lý, chuyên lo việc ăn uống của Bác và các đồng chí Trung ương về họp.

Một hôm tôi thấy anh Lợi và anh Đài Toàn dẫn về hai tên lính Tưởng. Thật ra trong nhận thức của chúng tôi lúc ấy chẳng ai ưa gì nhũng tên lính phương Bắc mà ông cha chúng đã từng  ngạo mạn đem quân xâm lược nước ta. Vì thế thái độ của tôi đối với hai tên lính Tưởng vẫn còn nghi hoặc và con mắt nhìn quả là thiếu thiện cảm. Được tin họ đến. Bác cho gọi chúng tôi đến dặn:

 - Các chú hãy bố trí nơi ăn nghỉ cho họ chu đáo.

Mặc dù băn khoăn, nhưng Bác đã bảo, chúng tôi phải chuẩn bị ngay. Trong lúc Bác và chúng tôi còn phải ở căn lán bằng tranh tre dựng tạm, chúng tôi đã dành cho họ một căn lán mới sạch sẽ và quang đãng. Sau chúng tôi được biết họ là điệp báo viên đến trước để liên lạc với quân đồng minh chuẩn bị vào giải giáp quân Nhật.

Sau khi giành chính quyền, bọn Tưởng đại diện quân đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật. Chúng vào nước ta ngày càng thể hiện là một đội quân ô hợp, chúng giở đủ trò quấy nhiễu và hạch sách ta đủ điều. Nhìn cách chúng ức hiếp nhân dân và khiêu khích ngay cả anh em trong đơn vị vũ trang bảo vệ Bắc Bộ phủ là nơi Bác làm việc, chúng tôi rất bất bình nên thường nói với nhau phải tiêu diệt hết bọn giặc Tưởng cho hả giận. Biết chuyện này, Bác hỏi chúng tôi:

- Các chú thấy ruồi nhặng có đáng ghét không?

Anh em cùng trả lời:

- Thưa Bác, có ạ!

Bác nhìn chúng tôi như thấu hiểu rồi nói giọng ôn tồn:

- Chúng ta mới giành độc lập ví như được chiếc bình quý mà bọn chúng như ruồi nhặng đang làm bẩn bình. Nếu không đuổi khéo, lỡ tay ta tự đập vỡ bình. Cho nên các chú phải bình tĩnh, khéo léo.

Chúng tôi hiểu ý nghĩa lời khuyên của Bác, từ đó không còn băn khoăn khi gặp phải sự khiêu khích của địch.

Trong những ngày đầu Chính phủ mới thành lập Bác rất bận, hàng ngày Người phải tiếp nhiều khách, khách là người đại diện cho các tổ chức hoặc cá nhân đến gặp Bác với những mục đích khác nhau. Tuy bận rộn Bác vẫn dành thời gian tiếp đón. Nếu là nhân dân, cán bộ hay nhân sĩ trí thức thì Bác chăm chú lắng nghe ý kiến và giải thích cặn kẽ, còn đối với bọn Pháp, Mỹ, Tưởng v.v... Bác vẫn cho gặp nhưng Bác dặn chúng tôi:

- Khi họ vào gặp Bác một lát thì các chú đưa chiếc "các" của khách mời đến báo cho Bác biết.

Các là do Bác bảo chúng tôi làm. Chính việc làm đó để dành được nhiều thời gian vàng ngọc cho Bác giải quyết công tác cách mạng và khiến những kẻ đến gặp Bác với ý đồ riêng không thể ngồi ỳ và không có cớ gây khó dễ cho ta.

Đầu năm 1947, giặc Pháp gây hấn, chiến sự đã lan ra vùng Hà Đông, Sơn Tây. Các cơ quan Trung ương lại chuyển vào vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang. Tuy đời sống khó khăn gian khổ, nhưng Bác vẫn làm việc say sưa. Mỗi lần thay đổi chỗ ở, sau khi sắp xếp công việc xong, Bác đưa chúng tôi vào chương trình học tập văn hóa, chính trị, nhiều lần Bác trực tiếp phổ biến cho chúng tôi hiểu biết tình hình thời sự.

Một hôm, chúng tôi đang trao đổi với nhau về chủ trương trường kỳ kháng chiến của Đảng, đúng lúc đó Bác đi tới. Người hỏi chúng tôi đã thông suốt chủ trương của Đảng chưa? Ai chưa rõ thì cứ hỏi. Một đồng chí trong chúng tôi mạnh dạn:

- Thưa Bác, sức ta yếu mà đánh trường kỳ chắc sẽ hại người hại của lắm. Chúng cháu nghĩ mãi mà chưa hiểu tại sao.

Bác nhìn chúng tôi rất cảm thông, giọng Bác ấm áp:

- Ta như thanh niên mà giặc như lão già quỷ quyệt ta cậy sức trẻ đánh bừa sẽ không thắng giặc, vì vậy ta vừa dành vừa nuôi cho sức mình lớn lên khi giặc yếu ta mới lựa thế quật nó ngã.

Chừng như thấy chúng tôi đã hiểu, Bác kết luận:

- Như vậy trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi.

Sau đó Bác bảo chúng tôi:

- Các chú tên gọi khác nhau, dễ lộ bí mật, nên để thể hiện quyết tâm kháng chiến của ta, từ nay Bác đặt cho các chú tên mới theo câu Bác vừa nói. Các chú có đồng ý không?

- Đồng ý! - Chúng tôi phấn khởi đồng thanh trả lời.

Chúng tôi có 8 anh em làm công tác bảo vệ, phục vụ Bác. Người đặt tên cho chúng tôi lần lượt: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi. Chúng tôi vinh dự mang tên mới Bác đặt cho từ ấy.

Quá trình công tác chúng tôi được Đảng giáo dục nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin và phương pháp cách mạng, nhưng bài học đầu tiên Bác dạy đã để lại trong chúng tôi ấn tượng sâu sắc

(Hoàng Hữu Kháng, nguyên Cục trưởng Cục Cảnh vệ, Bộ Công an kể, trích trong "Cận vệ Bác Hồ")

40. Mừng cho các cháu, Bác càng thương nhớ mẹ

Một lần trên đường đi thăm hợp tác xã trồng cây giỏi ở huyện Quảng Oai (Hà Tây) Bác Hồ đã nhắc đến mẹ Bác.

Hôm ấy khi xe ô tô đến Quảng Oai, một đoàn các em bé gái cổ quàng khăn đỏ, em mặc áo hoa xen em mặc áo trắng, tay cắp sách vừa ở trong trường ra, líu ríu như chim sổ lồng. Nhìn thấy các cháu vui, Bác Hồ cũng vui theo.

Người nói với chú Vũ Kỳ và các chú ngồi cùng xe:

- Này! các chú thấy không, các cháu được ăn mặc đẹp, được đi học, cháu nào cũng vui vẻ phấn khởi, Bác mừng cho các cháu.

Rồi giọng Bác bỗng trầm hẳn xuống.

- Lúc này Bác rất nhớ mẹ của Bác. Mẹ Bác rất thông minh, lại là con gái ông đồ nho. Thế mà mẹ Bác lại không được đến lớp, đến trường đâu các chú ạ. Cũng như phụ nữ ngày xưa, từ nhỏ mẹ Bác đã phải lo việc nhà.

Mọi người cùng đi không nén nổi cảm xúc trước tình cảm của Bác đối với mẹ Bác là cụ Hoàng Thị Loan.

(Vũ Kỳ, trích trong "Bác Hồ với thiếu nhi và phụ nữ")

41. Không như đến cửa quan ngày trước

Nhiều buổi Bác mải tiếp khách, quá bữa mới xuống nhà ăn. Thấy Bác mệt và bận quá, có lần anh em chúng tôi đề nghị với Bác bớt những cuộc gặp gỡ không thật cần thiết. Bác nói:

Chính quyền ta mới thành lập. Đồng bào, cán bộ có nhiều điều muốn biết, cần hỏi. Đây cũng là dịp để nói rõ chủ trương, chính sách của Chính phủ, của đoàn thể cho mọi người rõ. Ta không nên để đồng bào cảm thấy gặp những người trong Chính phủ bây giờ cũng khó khăn như đến cửa quan ngày trước.

Các chiến sỹ quân giải phóng làm nhiệm vụ cảnh vệ ở Bắc Bộ phủ, các đồng chí lái xe ở gần Bác là những người được hưởng nhiều sự chăm sóc. Đối với anh em, Bác không chỉ là đồng chí Chủ tịch nước. Bác còn là một người cha. Anh em đều thấy phần mình giúp đỡ được cho Bác quá ít so với phần Bác đã dành cho mình.

Mặc dù bận, Bác vẫn dành thời giờ chuyện trò, hỏi han anh em, từ bữa ăn có đủ no không, đến những vui buồn trong gia đình. Bác hay chú ý đến trật tự nội vụ và việc giữ vệ sinh của các chiến sỹ.

Buổi tối, cơ quan không làm việc. Thấy các chiến sỹ nằm dưới nhà nóng, Bác bảo lên gác ngủ cho mát. Một hôm, anh em vật nhau làm vỡ chiếc mặt bàn đá. Đồng chí quản trị bực mình, bắt tất cả xuống dưới nhà. Bác về thấy vậy, lại gọi anh em lên. Bác nói:

- Các chú là bộ đội, là thanh niên, phải sinh hoạt cho vui, cho khỏe. Chơi vật cũng tốt. Nhưng muốn vật nhau phải tìm bãi cỏ, chỗ rộng. Người ngã không đau và không làm đổ vỡ, thiệt hại đến của công. Lần này đã lỡ phải rút kinh nghiệm cho lần sau. Hôm nào các chú có chơi vật dưới vườn, nói Bác đến coi cho vui.

Đồng chí lái xe ít xem sách báo. Những buổi anh rỗi việc Bác gọi lên, bảo ngồi ở buồng bên, rồi đưa sách báo cho đọc. Thỉnh thoảng, Bác qua kiểm tra. Có lần Bác vào, thấy tờ báo mở trên bàn, đồng chí lái xe tựa lưng vào ghế ngủ. Bác nhẹ nhàng đi ra. Lúc khác, Bác nói: “Mới đọc chưa hiểu, dễ buồn ngủ. Đọc ít lâu, hiểu rồi sẽ ham. Ham rồi sẽ không buồn ngủ nữa”.

Mùa Đông tới, đoàn thể phụ nữ nhiều nơi đã nghĩ tới tấm áo ấm của Bác trong những ngày gió lạnh. Những cô gái Hà Nội, các chị phụ nữ cứu quốc ở Quảng Yên… mang đến Bắc Bộ phủ những chiếc áo len dày dặn. Lần nào cũng vậy, Bác đều cảm ơn và bảo hãy mang hộ về cho một người già nhất và nghèo nhất ở địa phương.

Một buổi sớm, trời rét. Một đồng chí đến làm việc với Bác chỉ có chiếc áo mùa hè phong phanh. Bác vào buồng, lấy chiếc áo len của mình, đem ra đưa cho đồng chí cán bộ.

Về Hà Nội ở Bắc Bộ phủ, trong cương vị Chủ tịch nước, cuộc sống của Bác vẫn giản dị, thanh đạm như những ngày hoạt động bí mật ở chiến khu.

Võ Nguyên Giáp, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

42. Kỷ luật phải nghiêm với bất kỳ ai

Gặp cán bộ ngoại giao Bác thường dặn: “Các cô, các chú phải luôn rèn luyện phẩm chất chính trị, giữ gìn tư cách, phẩm chất của người làm công tác đối ngoại”. Bác đặc biệt quan tâm đến vấn đề nhân sự, nhất là việc bổ nhiệm các đại sứ. Chúng tôi nhớ về một việc đã làm Bác không vui. Một đồng chí vụ trưởng, cán bộ lâu năm, đã được quyết định giữ chức đại sứ tại một nước ở Đông Âu. Trước ngày lên đường đi trình Quốc thư, Bác nhận được báo cáo về việc đồng chí đó đã tổ chức một bữa tiệc “khao” linh đình. Sau khi xác minh sự việc đó là đúng, Bác xót xa và rất buồn khi dân và nước đang khổ, thì đồng chí này đã lãng phí như vậy. Vì vậy, Bác quyết định đình chỉ công tác đại sứ của đồng chí này. Bác phê bình, kiểm điểm để làm gương cho mọi người. Trong việc này, Bác tỏ ý không vui, Bác nói: “Kỷ luật phải nghiêm với bất kỳ ai!”.

(Lê Trang kể, trích trong Bác Hồ sống mãi với chúng ta)

43. Nướng sắn

Ông cụ bóc vỏ được củ sắn nào lại đưa cho Bác và chúng tôi hơ nhựa, rồi vùi xuống tro nóng để nướng.

Nhìn Bác hơ củ sắn khô mà vẫn trắng, và khi vùi tro, sắn chín vàng rất đều, còn chúng tôi hơ củ nào cũng bị dính bụi củ ấy, ông cụ cười bảo:

- Các đồng chí phải học cái ké bộ đội này! Trông cầm củ sắn là biết ngay người có quen núi hay không đấy!

Đang ăn, chợt ông cụ hỏi một câu rất đột ngột:

- Ké bộ đội à, thấy người ở núi Hồng qua đây, nó kể chuyện Cụ Hồ, nghe họ nói thì Cụ Hồ tốt lắm, giỏi lắm vớ! Có thật Cụ Hồ như vậy không?

Chúng tôi phải cố giữ vẻ tự nhiên cho khỏi lộ. Bác vẫn nghe một cách chăm chú, rồi trả lời:

- Tôi cũng nghe nói, chắc là có.

Ông cụ vẻ hả hê sung sướng, mắt sáng lên, tay đập vào vai Bác mà nói:

- Con tôi nó viết thư về, nó cũng bảo thế! Nhiều cái tôi tin còn nhiều cái tôi chưa tin! Bác hỏi:

- Cụ chưa tin điều gì?

Ông cụ nuốt một miếng sắn, chiêu một ngụm nước chè rồi thẳng lưng, cất tiếng nói sang sảng rất cởi mở.

- Nói Cụ Hồ dạy dân phải đánh Nhật, đuổi Tây dân mới khỏi khổ, cái này tôi tin đấy! Nói Cụ Hồ bảo phải đoàn kết Kinh, Thổ, Mán, Mèo, Nùng lại mới đánh được Tây, đánh được cái tụi quan của nó, cái này tôi cũng tin đấy! Nói Cụ Hồ bảo phải làm ra nhiều gạo, nhiều ngô, sắn giúp bộ đội đánh Tây, tôi cũng tin đấy! Còn nói Cụ Hồ đi nhiều nước lắm - ông cụ ấy khoanh tay tròn trước mặt ra hiệu là nhiều, nhiều lắm, rồi tiếp - tôi già thế này mà ra đến Bắc Kạn, về Thái Nguyên thôi! Con tôi nó giỏi hơn, nó đi theo bộ đội đi Nam tiến. Nam tiến xa hơn, nhưng cũng chỉ trong nước ta thôi! Thế Cụ Hồ là người, sao đi được nhiều thế? Cái này không tin đâu, người mình sao tài thế?

Nghe ông cụ nói, chúng tôi cố giữ nét mặt bình thản, nhưng cũng không nhịn được cười. May ông cụ vui chuyện, cười nói sang sảng, nên cũng tưởng chúng tôi vui chuyện hưởng ứng mà thôi.

Bác cũng cười vui vẻ và giải thích cho ông cụ hiểu thêm:

- Cụ Hồ cũng là người mình thôi, nhưng đi nhiều nơi, học được nhiều cái hay ở mỗi nơi một ít, rồi được nhân dân trong nước góp vào mỗi người một ý, lại cùng nhân dân thực hiện ý ấy, nên câu nói Cụ Hồ mới đúng và việc đánh giặc cứu nước, sản xuất, học tập mới thắng lợi được. Cụ với tôi già thế này có thấy ai là người trên trời rơi xuống đâu.

Nghe Bác nói, ông cụ gật gù khen phải. Lúc ấy có đồng chí đi với tôi, ngồi hơi nghiêng trước ánh lửa. Cụ già chợt nhìn thẳng vào hai mắt đồng chí ấy, thấy nổi lên hai đốm lửa trông như hai con ngươi, ông cụ reo lên:

- Ái dà, thấy rồi, biết rồi ! Mắt Cụ Hồ là thế này đây!

Tôi giật mình, tưởng là ông cụ nhận ra Bác, nhưng nghe cụ giải thích, chúng tôi mới hiểu. Còn ông cụ tỏ vẻ sung sướng, lẩm bẩm trong miệng:

- Cụ Hồ là có thật rồi! Bây giờ thì tôi tin cả rồi! Ông cụ gật gù nói tiếp :

Nó đánh mình, nó giết mình, mình không đánh lại nó thì mình cũng chết. Đánh thì hả cái lòng mình chứ! Thấy thằng Tây có cái máy bay, cái súng lớn mà mình không có, nên lúc đầu cũng thấy sợ! Nhưng bây giờ biết có Cụ Hồ thật rồi, thì tin lắm! Nhất định mình thắng thôi!

Nói tới đây ông cụ bỗng im lặng, đăm đăm nhìn vào Bác và bảo:

- Cái mắt ké bộ đội này, cũng giống mắt Cụ Hồ, ké là người nhà Cụ Hồ phải không? Bác và chúng tôi gật đầu cười vui vẻ.

Ông cụ cũng cười, tự mình trả lời:

- Các đồng chí là bộ đội Cụ Hồ, thì là người nhà Cụ Hồ hẳn rồi, với lại con tôi cũng là bộ đội Cụ Hồ. Tôi cũng là người nhà Cụ Hồ. Rồi ông cụ hỏi: "Bộ đội có ảnh Cụ Hồ không cho xin một cái?".

(Trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

Tâm Trang (tổng hợp)


 44. Đời đời nhớ ơn Bác

Hàng năm, nhân Ngày sinh của Bác, cán bộ, chiến sỹ Đoàn Tân Trào lại tập hợp đông đủ đến thăm phòng truyền thống của đơn vị. Nơi đây đã ghi lại một số hình ảnh hiện vật biểu hiện sự quan tâm dạy dỗ chăm sóc của Bác đối với cán bộ, chiến sỹ trong toàn đoàn.

Bước vào phòng đầu tiên chúng tôi đứng lặng hồi lâu trước bức tượng Bác bằng thạch cao trắng nổi trên nền cờ đỏ. Trong lòng chúng tôi trào lên một niềm thương nhớ vô hạn. Chúng tôi đặt tay lên và đứng nghiêm trang tưởng niệm Bác.

Phía bức tượng Bác là một lẵng hoa được đặt trong tủ kính trong suốt mang dòng chữ: "Lẵng hoa Bác Hồ tặng đơn vị nhân dịp 2.9.1968" với những cánh hoa lay ơn trắng muốt. Còn đây là những tấm Huy hiệu của Bác mà hàng năm Người đã giành phần thưởng cao quý này cho các đơn vị để tặng những cán bộ, chiến sỹ có nhiều thành tích xuất sắc nhất. Năm 1965, Bác đến thăm Hội nghị mừng công của toàn đoàn, Bác đã tặng Huy hiệu của Người cho 5 cán bộ, chiến sỹ. Tận tay Bác đã trao huy hiệu cho từng đồng chí trong số đó có đồng chí Trần Văn Nhã, nay là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Bác không những luôn chăm lo động viên giáo dục chúng tôi khi lập thành tích mà Người còn quan tâm chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sỹ. Những con cá rô phi béo, mập mạp này là giống cá của Bác cho đơn vị nuôi. Bác cho chúng tôi cả từng hạt giống cây rau để trồng. Nhìn những hạt rau để trong phòng truyền thống, chúng tôi lại càng nhớ đến những lúc tự tay Bác trồng rau, tưới nước trong vườn. Bác dạy từ cách trồng rau, bắp cơ, trồng thưa cây mới to được, cách tỉa từng quả đu đủ để quả chóng to, mau lớn. Có lần được đọc tờ báo khoa học, Bác lấy bút chì đỏ gạch những đoạn nêu tên kinh nghiệm trồng rồi gửi cho đơn vị.

Còn những quả lê, quả táo này khi đến thăm địa phương, Bác được nhân dân kính biếu, Người cũng mang về làm quà cho các đồng chí phục vụ bảo vệ Bác.

Quả vải này Bác đã dành cho đồng chí Nhuận. Đồng chí Nhuận đã giữ gìn trân trọng, coi đó là kỷ vật quý giá nhất trong đời mình. Khi chuyển công tác, đồng chí gửi lại làm lưu niệm trong Phòng truyền thống của đơn vị.

Trong dịp Tết Kỷ Dậu, đội văn nghệ của đơn vị được vinh dự vào phục vụ Bác. Bác khen ngợi và căn dặn đội phải cố gắng luyện tập và công tác không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt tốt hơn nữa. Sau cùng Bác đã dành thưởng cho mỗi đồng chí một quả cam và một lá thư chúc Tết. Quả cam này là do tự tay Bác trồng và chăm bón. Giống cam quý của Bác được anh em giữ gìn mang về quê hương ươm trồng thành những vườn cam tươi tốt. Hạt giống cam cũng được lưu lại đặt trong Phòng truyền thống của đoàn.

Chúng tôi không khỏi bùi ngùi thương nhớ Bác khi nhìn lại những hình ảnh và hiện vật kỷ niệm cùng Bác đi chiến dịch trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Những cái bếp, cái nồi nấu cơm và cái hộp sắt chúng tôi thường dùng để thức ăn cho Bác, được Bác đặt tên là "muối Việt Minh", trong hộp thường có 1/3 thịt, 1/3 muối 1/3 ớt mà tổ đồng chí L. đã mang theo để phục vụ Bác. Hình ảnh những bữa cơm trên đường đi. Bác cháu ngồi quây quần bên nhau trên những tầng đá nhẵn hay lùm cây ven suối, trải tàu lá chuối rừng, giở cơm ăn, lại hiện lên trong tâm trí tôi. Trong bữa ăn, Bác thường nhường cơm và thức ăn cho chúng tôi.

Còn tấm ảnh này Bác đang cùng tổ đồng chí A. ngồi trên chiếc "lầu" bằng nứa vượt sông trên đường đi chiến dịch. Nhớ lại có lần Bác cùng đồng chí L. ngồi thuyền qua sông, Bác bảo đồng chí ngồi gần bên Bác cho khỏi ngã. Đồng chí L. cảm động quá không nói được câu nào.

Cây cột gỗ này chúng tôi đã kiếm để làm hầm bảo vệ Bác. Chiếc cầu thang còn in dấu chân Bác lên xuống ngày nào trên chiếc nhà sàn ở núi rừng Việt Bắc, còn những cây tổ quạ này, trên đường đi chúng tôi tìm kiếm trong những hang đá, khe suối mang theo ngụy trang cho mái lán của Bác. Cây tổ quạ đó Bác chỉ cho chúng tôi làm, nhờ sống vào cây khác nên nó luôn xanh tốt giúp cho việc ngụy trang thật kín đáo.

Ai từng chịu đựng cái rét như cắt của núi rừng Việt Bắc mới có thể hiểu hết nỗi băn khoăn lo lắng của chúng tôi. Là thanh niên chúng tôi cũng rét không ngủ được, thế mà Bác đã già lại làm việc tới khuya. Đứng gác bên lán nhà Bác nghe gió lùa lạnh thấu xương. Nhìn lại nhà vẫn thấy ánh đèn Bác làm việc, chúng tôi thương Bác quá. Đây là những hòn than của chúng tôi đã từng đốt để Bác sưởi. Bác không cho chúng tôi làm thế. Thương Bác già, trời lại rét chúng tôi không thể yên tâm nên có những đêm đợi Bác đi ngủ chúng tôi mới đốt lửa sưởi ấm cho Bác. Thật cảm động biết bao, Bác thấy chúng tôi đứng gác ngoài trời rét, Bác đã lo cho chúng tôi từng chiếc áo ấm trong khi đó Bác vẫn dùng chiếc áo bông cũ.

Mặc dù hàng ngày Bác bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn dành thời giờ tăng gia sản xuất và tập luyện thể dục thể thao. Đây là hình ảnh Bác đánh bóng chuyền với chúng tôi, Bác mặc một chiếc áo lót, quần cụt. Người chuyền bóng nhanh nhẹn, khỏe như một thanh niên... Bác còn cùng chúng tôi tập bơi và câu cá ngoài suối nữa.

Đây là hình ảnh Bác nói chuyện thời sự với cán bộ, chiến sỹ cảnh vệ. Nhìn ảnh lại nhớ lần chúng tôi sinh hoạt thì Bác xuống thăm, nhìn thấy tấm bản đồ Đông Phương, Bác hỏi đồng chí P, một đồng chí trẻ nhất của quân đội:

- Cháu có biết đất nước ta từ đâu đến đâu không?

Đồng chí P. không biết nên lúng túng chỉ lên tận nước Lào... Bữa đó Bác chỉ cho chúng tôi thấy rõ vị trí và hình dáng nước ta trên bản đồ Đông Phương. Bác giảng cho chúng tôi sự giàu có của đất nước Việt Nam, truyền thống anh hùng của nhân dân ta chống ngoại xâm từ xưa tới nay và tội ác tày trời của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Giảng xong dừng lại một chút, Bác hỏi:

- Các chú ở gần Bác mà để các chú chưa hiểu thì Bác cũng có khuyết điểm.

Sau cùng Bác còn dặn chúng tôi phải chịu khó học tập văn hóa để nâng cao trình độ nhận thức.

Hôm đó chúng tôi đều cảm động, có đồng chí đã khóc, hối hận vì chưa chịu khó học tập, tu dưỡng để Bác bận lòng.

Ngày nay Bác đã đi xa, nhưng những hình ảnh và hiện vật vô giá trong Phòng truyền thống như nhắc nhở Bác vẫn bên cạnh chúng tôi. Mỗi bước đi, mỗi bước trưởng thành của đoàn, của mỗi người đều mang theo hình ảnh vĩ đại và công ơn trời biển cửa Bác Hồ kính yêu.

(Đại tá Xuân Giao, nguyên Cục phó Cục Cảnh vệ - Bộ Công an)

45. Tình thương yêu bao la

Đoàn chuyên gia y tế Cộng hòa Dân chủ Đức chúng tôi sang tới Thủ đô Hà Nội vào ngày 02 tháng 02 năm 1956, sau một thời gian ngót ba tuần đáp tàu liên vận quốc tế từ thành phố Béc lin. Chúng tôi cả thảy gồm 35 người, do Giáo sư Tiến sĩ Kiếc-sơ, nhà giải phẫu xuất sắc làm Trưởng đoàn. Tất cả chúng tôi sang Việt Nam lần đầu và đều tự hào nhưng cũng đều lo lắng, hồi hộp trước nhiệm vụ mà Hội đồng toàn quốc Mặt trận dân tộc đã giao cho là giúp trang bị nhà thương Phủ Doãn, tức bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cộng hòa Dân chủ Đức ngày nay, bằng những máy móc và dụng cụ y tế do nhân dân nước chúng tôi gửi tặng nhân dân Việt Nam anh em. Riêng tôi và một vài anh chị em nữa, trong đó có đồng chí Thít-xkê, Tôn-man, Đvê-sơ, Vít-xtu-ba có nhiệm vụ hoàn thành xưởng làm chân tay giả cho các đồng chí thương binh Việt Nam.

Tôi còn nhớ, những ngày đầu tới Việt Nam, thời tiết khá lạnh và Tết Nguyên đán cũng sắp đến. Cả một không khí nô nức chuẩn bị Tết. Chúng tôi đã được sống với các bạn Việt Nam trong không khí ấy và đã không bao giờ quên các món ăn dân tộc, các phong tục, các trò vui trong Tết cổ truyền. Riêng đồng chí trưởng đoàn của chúng tôi còn được hưởng một vinh dự đặc biệt cùng một số bạn quốc tế ăn Tết với Bác Hồ. Đi dự về, đồng chí đã kể cho chúng tôi nghe nhiều mẩu chuyện lý thú trong dịp vui hiếm có ấy và chúng tôi đều hy vọng rằng trong thời gian công tác ở Việt Nam sẽ có dịp được trông thấy Người. Và, không ngờ là chúng tôi đã không những được trông thấy vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam mà còn được thưa chuyện với Người, được ở bên Người nhiều lần.

Lần thứ nhất là tối mùng 9 tháng 6, chúng tôi được Bác mời đến dự cuộc vui trong vườn Phủ Chủ tịch do Người tổ chức riêng cho các chuyên gia các nước xã hội chủ nghĩa ở Châu Âu. Tôi nhớ đêm ấy Bác rất vui, coi chúng tôi như người quen thân đã lâu và chính vì vậy, ngay từ giờ phút đầu, chúng tôi hoàn toàn không cảm thấy những ngăn cách giữa vị lãnh đạo tối cao của một Nhà nước với những công dân bình thường. Bác đã kể cho chúng tôi nghe về những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, về những đau thương, mất mát mà nhân dân Việt Nam phải chịu dựng để giành cho được nền độc lập, tự do chân chính của mình. Bác nói: Bác thay mặt Chính phủ và nhân dân Việt Nam chào mừng những người anh em xã hội chủ nghĩa đã từ những phương trời xa sang đây chung sức, chung lòng giúp đỡ nhân dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng lại đất nước. Bác cứ nói có thế, không đọc diễn văn trang nghiêm gì cả, cũng chính vì vậy mà chúng tôi càng thấm thía những điều Bác mong muốn. Bác đã đi gặp, nói chuyện với từng đoàn chuyên gia. Với đoàn chúng tôi, Bác cũng hỏi rất kỹ về công việc của từng nhóm, từng người. Biết tôi phụ trách nhóm chỉnh hình, Bác dừng lại hỏi khá kỹ nội dung công việc và dặn nếu có yêu cầu gì thì cứ cho Bác biết. Thấy chúng tôi còn rất trẻ, Bác hỏi thăm tình hình gia đình, vợ con ra sao. Tôi có thưa với Bác là tôi chưa xây dựng gia đình, người yêu của tôi đang công tác ở Thủ đô Béc-lin. Chúng tôi hứa hẹn với nhau là sẽ làm lễ thành hôn sau chuyến đi công tác này. Bác vỗ vai tôi thân mật nói: "Cho tôi gửi lời thăm người bạn gái thân yêu của đồng chí và mong hai người viết thư đều cho nhau". Tôi rất sung sướng được chuyển lời thăm của Người tới người yêu của tôi. Trong chín tháng công tác ở Việt Nam, tôi đã viết cho cô ấy những bức thư và điều thú vị là cho đến nay, những bức thư ấy vẫn còn giữ được cả. Bác cũng có hỏi thăm đồng chí Ác-nô Brốc, người vừa mới cưới vợ được ba tháng thì nhận được lệnh đi công tác ở Việt Nam. Đồng chí Ác-nô Brốc báo cáo với Bác rằng, lúc đầu người vợ ấy cũng buồn, nhưng khi hiểu rõ ý nghĩa công việc mà chồng sẽ làm thì lại vui vẻ ngay...

Cũng trong cuộc vui ấy, Bác đã đề nghị từng đồng chí chuyên gia hát một bài dân ca của nước mình. Mở đầu là tiếng hát êm dịu của một nữ văn công Việt Nam. Chúng tôi thấy gay quá, bởi vì làm thầy thuốc chúng tôi đâu có tài hát. Mà các chuyên gia nước khác cũng chẳng hơn gì chúng tôi! Nhưng rồi ai cũng hát. Đoàn chúng tôi rất ân hận là không thuộc một bài dân ca nào cả, cho nên đã xin phép Bác hát bài "Lữ đoàn Ten-lơ-man", một bài hát quen thuộc của những người đã từng chiến đấu ở Tây Ban Nha. Và Bác cũng gật đầu khen.

Nhờ có lần gặp ấy, được Bác Hồ quan tâm, khuyến khích, tôi càng tự tin trong công việc của mình. Chẳng hạn việc mở rộng xưởng chỉnh hình lúc đầu không phải là đã được nhiều đồng chí Việt Nam tán thành. Tôi đã trình bày ý kiến của tôi với một đồng chí cán bộ cao cấp của Việt Nam và không ngờ Bác cũng biết chuyện này. Cuối cùng ý kiến của tôi đã được Bác, đồng chí Trường Chinh hồi ấy là Tổng Bí thư Đảng và đồng chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng ủng hộ.

Ngày 28/7/1956, nhân khánh thành bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cộng hòa Dân chủ Đức, Bác Hồ đã tới thăm, mang đến cho cán bộ, công nhân viên Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức niềm phấn khởi đặc biệt. Tiếc rằng, tôi không có mặt hôm đó vì bận đi công tác địa phương. Nhưng ít lâu sau, vào ngày 12/8, tại cuộc chiêu đãi tiễn Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc nước Cộng hòa Dân chủ Đức do đồng chí Smít-xlơ dẫn đầu đang ở thăm Việt Nam, tôi sung sướng được gặp lại Bác và có điều kiện báo cáo với Người về công việc của chúng tôi. Tôi cũng không quên bày tỏ niềm xúc động của mình về sự quan tâm của Bác. Bác bảo: "Chúng tôi cảm ơn các đồng chí mới đúng chứ!". Bác tỏ ý quan tâm đặc biệt với vấn đề làm chân tay giả và công tác thương binh xã hội nói chung. Qua những điều Người hỏi, tôi nhận thấy rất rõ tình cảm yêu thương của Bác đối với anh em thương binh. Thật ra, tôi đã nhận thấy điều đó ngay từ khi một đồng chí bác sĩ Việt Nam cho tôi xem bức thư của Bác Hồ gửi anh em thương binh, bệnh binh năm 1948. Lá thư ngắn, nhưng tràn đầy tình thương yêu của vị cha già đối với những người con ưu tú của Tổ quốc, đồng thời thể hiện nội dung hết sức đúng đắn đối với công tác thương binh. Tôi nhớ mãi một câu trong lá thư đó: "Tôi cùng đồng bào luôn luôn nhớ đến các đồng chí". Vừa qua, tôi đã được đi nghiên cứu tình hình công tác thương binh trên toàn miền Bắc, vào đến tận khu giới tuyến ở Vĩnh Linh, cho nên đã có thể báo cáo với Bác Hồ một số suy nghĩ của tôi. Bác từng nói "Thương binh tàn chứ không phế” tôi nghĩ đó là một ý kiến hết sức quan trọng, bởi vì nó động viên mạnh mẽ anh em thương binh luôn luôn nhìn thấy triển vọng của đời mình, nghĩa là có thể trở thành người có ích cho xã hội. Bác Hồ rất chú ý nghe những điều tôi thưa với Người.

Sau đó, Bác nhìn tôi với vẻ trầm ngâm:

- Đồng chí Ô-đơ, đồng chí có vui lòng viết thành văn bản cho tôi những ý kiến đồng chí vừa nói không?

Tôi sung sướng đáp:

- Dạ, thưa Bác, được ạ!

Bác tỏ ý hài lòng. Một lát sau Người lại nói:

- Hay thế này vậy: Tôi sẽ đề nghị một nhà báo của chúng tôi đến ghi lại những ý kiến của đồng chí và cho đăng lên báo.

Tôi không ngờ điều tôi nói lại có thể có ích như vậy. Ít hôm sau, có một đồng chí ở báo Nhân dân đến tìm gặp tôi và chúng tôi đã làm việc với nhau trong hai giờ liền theo chỉ thị của Bác. Dĩ nhiên, tôi có thể nói tỉ mỉ hơn là khi thưa chuyện với Bác, và đã nói thêm về tầm quan trọng của thể dục thể thao đối với sức khoẻ của anh em thương binh - thật tình là nó còn quan trọng hơn cả đối với người thường - nó giúp anh em vững tin ở sức lực mình, tự thấy làm chủ được sức khoẻ của mình, không bị lệ thuộc vào thương tật hay trở ngại vì thương tật. Tôi cũng trình bày một số kinh nghiệm về việc dạy nghề cho thương binh ở Cộng hòa Dân chủ Đức và báo Nhân dân cũng giới thiệu lại.

Là một thầy thuốc, tôi rất xúc động trước sự quan tâm của Bác đối với thương binh, một mối quan tâm chứa chan tình thương yêu. Chính tình cảm đó của Người đã động viên tôi nhiều trong những ngày công tác ở Việt Nam cũng như trong suốt quá trình công tác sau này của tôi. Có thể nói: Chúng tôi đã làm việc với tất cả trái tim mình.

(Trích trong “Bác Hồ như chúng tôi đã biết”)

46. Thi đua về lòng yêu nước thì ta thắng

Những bức ảnh Bác Hồ chúng ta biết được đến ngày nay, thường là không thấy Bác mặc com-lê, thắt cà vạt. Nhớ lại khoảng tháng 10 năm 1945, khi đi thăm tỉnh Thái Bình, Bác gặp một đội viên bảo vệ chân đi giầy ghệt, thắt lưng to bản (bấy giờ gọi là xanh-tuya-rông...) và thắt cả cà vạt nữa. Bác dừng lại nói:

- Chú mà cũng phải thắt cái này à?

Trong Bắc bộ phủ, thấy có một số cán bộ từ chiến khu mới về đã "xúng xính", Bác nhẹ nhàng:

- Trông các chú ra dáng người thành phố rồi...

Bác bao giờ cũng mong đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được học hành. Rồi Bác còn mong các cháu có áo đẹp, cụ già có khăn lụa... Bác không bao giờ lấy ý của mình áp đặt người khác, không bắt ai cứ phải theo mình.

Lần sang thăm một nước bạn, một cán bộ ngoại giao xin phép Bác ra phố. Bác bắt cán bộ đó mặc quần áo, thắt cà vạt nghiêm chỉnh rồi mới cho phép đi.

Bác nói:

- Đời sống khá hơn thì ăn mặc cũng được khá lên. Nhưng phải tùy cảnh, tùy thời.

"Thời" và "cảnh" năm 1945 là đa số đồng bào ta vừa qua 80 năm bị áp bức nô lệ, qua cơn đói Ất Dậu, vừa bị lụt bão, miếng cơm, củ khoai chưa đủ ăn, áo không đủ mặc. Thế mà các cán bộ - là những đầy tớ của nhân dân, như lời Bác dạy - lại mặc những bộ quần áo sang trọng, đắt tiền, không phải lúc, thì "khó coi". Khi Bác đi thăm đồng bào nông dân, Bác đi dép, tới ruộng, Bác bỏ dép, xắn quần lội ruộng, tát nước với bà con. Trong khi đó có anh cán bộ đi giầy bóng loáng, chỉ có thể dừng trên bờ hỏi thăm.

Báo Nhân Dân ngày 18 tháng 5 năm 1994, có đăng một bài, nội dung tóm tắt như sau:

Chuyện rằng vào khoảng cuối tháng 4 năm 1946, do tình hình thực dân Pháp không chịu từ bỏ ý đồ xâm lược trở lại Việt Nam, để tạo điều kiện, thời gian chuẩn bị kháng chiến, Bác và phái đoàn do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, sang thăm Pháp điều đình với Chính phủ Pháp.

Trước ngày ra đi, vẫn thấy Bác làm việc theo đúng thời gian biểu đã định, chẳng thấy Bác "sắm sửa gì''. Trong khi đó, một số cán bộ trong phái đoàn lo tìm hiểu "mốt'' Pa-ri, lo may mặc những bộ com-lê, sơ mi, cà vạt, đóng giầy mới và có người còn lo cả khoản nước hoa.

Việc làm ấy của các cán bộ cũng là điều tốt. Nhưng có điều chắc là các "vị" đi hơi xa hay có thể hơi “ồn ào”, có vẻ như một cuộc thi đua may sắm. Chuyện đó đến tai Bác.

Thương yêu, bình đẳng, nhưng không thể không nhắc nhở, Bác nói:

- Các chú muốn thi đua với Tổng thống, Thủ tướng nước ngoài về ăn mặc thì thua họ thôi. Bác cháu ta thi đua với họ về lòng yêu nước, thương dân thì ta mới thắng.

(Nguyễn Việt Hồng kể, trích trong "Bác Hồ - con người và phong cách")

Tâm Trang (tổng hợp)


 47. Phê bình mà thành câu chuyện tâm sự

Hằng ngày, Bác dậy rất sớm. Nhà chật, gác lụp xụp, Bác vẫn tập thể dục, vươn vai, thở hít. Vận động xong thì Bác dọn dẹp trong nhà. Căn nhà tối tăm, bề bộn của một người nghèo như tôi bỗng trở nên ngăn nắp, quang quẻ, dễ thở hơn, như mới có thêm ánh sáng.

Ban ngày tôi bận cắt tóc. Bác hay xuống bếp chẻ củi, thổi cơm. Anh Kiên nhặt rau. Người vợ cũ của tôi làm ăn vất vả, hóa ra khó tính mà cũng rất hài lòng. Vợ tôi buôn gạo. Kỳ nào có gạo về, Bác cũng ra vác hộ.

Một lần có gạo về, tôi đang bận học, không có người khuân vác. Vợ tôi bực tức gắt gỏng. Tôi giận quá, từ tên gác xuống, rút guốc đánh máy cái. Vợ tôi chưa kịp bù lu bù loa thì Bác đã xuống rồi. Bác phê bình tôi: Sao anh lại làm như thế? Rồi Bác rủ anh Kiên và tôi cùng ra vác gạo. Bác bảo: Vác gạo cũng quan trọng. Không vác gạo thì không có ăn ngay. Được nghe Bác nói, vợ tôi chừng cũng hả lòng, không mè nheo dai dẳng như mọi khi. Buổi tối, Bác lại phê bình tôi một lần nữa, Bác phân tích tại sao người đàn bà nghèo khổ phải gắt gỏng, truy đến gốc nỗi khổ của những người bị bóc lột, Bác hỏi tôi đã là một đảng viên sao còn hành động như thế? Bác nói: Về việc đoàn thể thì rất có thể chỉ vì hành động sai lầm cỏn con như thế mà lộ bí mật. Bác nói rất thấm thía. Tuyệt nhiên Bác không gắt gỏng hay bực bội, nên tôi nghe ra ngay. Bác phê bình mà thành câu chuyện tâm sự, thấu vào tận ruột, tận gan.

Nhớ lại lúc đầu gặp gỡ, Bác không vồ vập nhưng Bác đi sâu vào đời sống gia đình giúp đỡ mọi việc thực tế, quan tâm thực sự đến đời sống vật chất và tinh thần của chúng tôi, nên Bác cảm hóa được mọi người trong nhà, tạo được một nếp sống khác hẳn. Nhất là đối với cháu Hải, Bác săn sóc thật chu đáo, hơn cả tôi là bố nó. Nó ngủ nghẹo đầu thì Bác sắp gối, nhẹ nhàng đặt nó nằm thẳng lại. Đêm Bác dậy mấy lần để đắp lại chăn cho nó. Bác luôn luôn lo cho nó ấm, đề phòng nó sưng phổi. Bác sờ bụng nó thấy ăn no mà giải rút buộc chặt thì lại nới ra. Nhiều lần Bác tắm cho nó, dặn nó phải ở sạch. Ngồi ăn cơm tuy chúng tôi là chủ nhà, Bác vẫn giục chúng tôi gắp thức ăn. Bao giờ Bác cũng gắp thức ăn cho cháu Hải trước.

(Hoàng Quang Bình kể, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

48. Bác dạy nghiệp vụ bảo vệ

Nhiệm vụ của chúng tôi là phải đảm bảo an toàn cho Bác, nhưng chính Bác lại rất quan tâm chỉ bảo cho chúng tôi những kinh nghiệm về phương pháp bảo vệ. Trước đây ở chiến khu phần lớn hoạt động của Bác bí mật nên lực lượng bảo vệ cũng ít lộ liễu. Hòa bình lập lại, vẫn chưa quen hoạt động ở thành phố, lại ít kinh nghiệm nên chúng tôi làm việc còn sơ hở, thiếu sót. Những lần như vậy chúng tôi đều được Bác nhắc nhở và chỉ bảo tận tình.

Khi về Hà Nội, chúng tôi đã cố gắng nghiên cứu bố trí lực lượng canh gác và bảo vệ tiếp cận Bác nhưng vẫn còn có những sơ hở và nhiều chỗ chưa hợp lý. Một hôm đang ở trong xe trên đường đi công tác, Bác nói với tôi:

- Trước đây khi còn ở nước ngoài, Bác thấy họ thường dùng lực lượng bí mật bảo vệ, các chú thử nghiên cứu xem có áp dụng được không?

Vâng lời Bác dạy chúng tôi đã suy nghĩ trao đổi và xin phép Bộ cho thành lập một đơn vị bảo vệ lấy tên 40, nhiệm vụ của đơn vị này là hóa trang bảo vệ trên đường và địa điểm Bác đến công tác. Từ ngày đơn vị thành lập, chúng tôi đã đảm bảo được phương án bảo vệ khá chặt chẽ. Có những lực lượng bí mật giám sát hoặc phòng ngừa ở những nơi xung yếu. Tuy nhiên do trình độ còn non kém lại ít kinh nghiệm nên việc bố trí lực lượng còn lộ tiễu. Những lần đó Bác phê bình và góp ý tận tình.

Tôi còn nhớ lần Bác về thăm Hợp tác xã Yên Duyên. Chiều hôm trước khi Bác đến, chúng tôi cử cán bộ đến nắm tình hình và tìm hiểu việc thu hoạch mùa màng của xã viên. Ban quản trị cho biết hiện nay Hợp tác xã rất thiếu người, nhân đó chúng tôi nhận lời sẽ cử một số anh chị em trong cơ quan đến gặt giúp một buổi.

Sáng hôm sau chúng tôi cho lực lượng xuống Hợp tác xã Yên Duyên nhận liềm hái ra đồng cùng gặt với bà con xã viên. Khoảng 7 giờ Bác đến, nhân dân đang gặt trên đồng trông thấy Bác đến chạy ùa về phía Người. Lực lượng của chúng tôi xen kẽ trong quần chúng. Bác ân cần thăm hỏi bà con xã viên về việc đồng án, kỹ thuật cấy lúa giăng dây, việc tổ chức gặt... Bác rất hài lòng. Năm nay lúa chiêm ở Hợp tác xã Yên Duyên đạt 4,5 tấn/ha. Bác vui vẻ nói với mọi người:

- Như thế là tốt.

Bà con đang hướng về phía Bác, chăm chú lắng nghe những lời dạy bảo của Người, chợt tôi thấy Bác chỉ tay về một cô gái hỏi:

- Cháu có phải lính của chú Kháng không?

Cô gái bỗng đỏ mặt, ấp úng mãi mới nói được:

- Thưa Bác, cháu là học sinh đến gặt lúa giúp Hợp tác xã ạ.

Bác lắc đầu cười đôn hậu. Trên đường về Bác nói với chúng tôi:

- Các cô, các chú không giấu được Bác đâu. Bà con xã viên mặc áo nâu già nhưng các cô, các chú mặc áo nâu non. Quai nón của nữ xã viên bằng vải đen, hoặc vải đỏ, các cô, các chú thì quai nón ni lông, vậy là các cô, các chú xã hội hóa chưa tốt.

Chúng tôi lại được Bác chỉ dạy một bài học về cách hóa trang và bố trí lực lượng.

Sau những lần được Bác chỉ bảo chúng tôi đã nghiên cứu đặc điểm nơi Bác đến thăm, chú ý bố trí anh em hóa trang cho phù hợp nên Bác phê bình ít hơn trước. Nhưng chúng tôi khắc phục được sơ hở này thì lại mắc thêm thiếu sót khác. Một năm vào ngày mùng Hai Tết, Bác đến thăm cán bộ, công nhân Nhà máy hoa quả Hà Nội. Sau khi thăm nhà máy xong, trên đường về Bác ghé vào một gia đình nông dân chúc Tết. Niềm vui và hạnh phúc lớn lao ấy đến với gia đình này thật đột ngột. Tin Bác đến chẳng mấy chốc lan ra. Nhân dân quanh đó ùa ra đứng quanh Người. Lực lượng cảnh vệ chúng tôi cũng hòa mình trong số quần chúng. Thấy một thanh niên đứng cạnh Bác mặc bộ com lê thắt cà vạt, Người hỏi:

- Cháu ở đâu?

Người thanh niên đó trả lời:

- Thưa Bác, cháu học ở trường Đại học Bách Khoa ạ.

Bác hỏi tiếp:

- Tình hình học tập và giảng dạy ở trường thế nào? Ai là hiệu trưởng?

Lần này thì anh thanh niên tỏ ra lúng túng, ấp úng mãi không trả lời đúng câu hỏi của Bác. Bác cười rồi vỗ nhẹ vào vai tôi, lúc đó đang đi bên Bác:

- Lính của chú phải không? Thế là bị Bác bao vây rồi.

Tôi không giấu được Bác, đành phải báo cáo thật và xin lỗi Bác. Chúng tôi lại được Người dạy thêm bài học về nội dung và hình thức hóa trang phải ăn khớp với nhau. Việc làm của chúng tôi vừa rồi chẳng khác nào trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.

Bác quan tâm chỉ bảo chúng tôi nhiều việc bổ ích và thiết thực trong công tác cảnh vệ, nhưng điều Bác nhắc chúng tôi nhiều nhất là phải biết dựa vào quần chúng nhân dân.

Năm 1969, Bác đi bỏ phiếu bầu cử Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội, lúc đó sức khỏe Bác đã yếu đi lại rất khó khăn, mặc dù vậy Bác vẫn thực hiện nghĩa vụ của người công dân. Yêu cầu đặt ra là phải tìm một địa điểm xe có thể vào tận nơi bầu cử, Bác đi đến nơi bỏ phiếu không phải qua nhiều bậc lên xuống. Khảo sát một số nơi, chúng tôi đã tìm được hòm phiếu ở nhà thuyền Hồ Tây thuộc khu Ba Đình đạt yêu cầu đi lại. Còn thời gian Bác đến chúng tôi cũng tính toán chu đáo. Có ý kiến cho rằng để Bác bỏ phiếu trước giờ khai mạc nhưng không được vì như vậy trái với quy định thể lệ bầu cử. Hay bố trí lực lượng cảnh sát giữ trật tự khi Bác đến hòm phiếu? Suy đi tính lại thấy đều không ổn, sau cùng chúng tôi bố trí Bác đi vào buổi chiều. Lúc đó cử tri không đông như buổi sáng. Kết quả gần như chúng tôi mong muốn, Bác tiếp xúc được với nhân dân và khi Người bỏ phiếu không mất trật tự. Về đến Phủ Chủ tịch, Bác xuống xe. Tôi vừa đến gần Bác hỏi ngày:

- Chú có biết tại sao Nguyễn Hải Thần bị nhân dân ta ghét không?

- Dạ, vì chúng phản nước hại dân ạ.

Bác bảo:

- Không chỉ có thế mà còn bố trí bảo vệ lố lăng lắm.

Tôi chợt nhớ lại thời kỳ năm 1945, mỗi lần đi đâu Nguyễn Hải Thần thường ngồi xe có lính bảo vệ, lưỡi lê tuốt trần và còn đặt bốn khẩu đại liên diễu võ dương oai.

Tôi băn khoăn không biết Bác phê bình với cách bố trí lực lượng như thế nào, sau hỏi lại những đồng chí cùng ngồi xe với Bác được biết Bác nhìn quang cảnh nơi bỏ phiếu đã biết được ý định của chúng tôi bố trí lực lượng bảo vệ không muốn để nhân dân gần Bác.

Bác lại dạy chúng tôi một bài học về quan điểm và thái độ với nhân dân.

Ngoài những vấn đề nghiệp vụ, Bác còn khuyên chúng tôi nên học văn hóa, chính trị. Đặc biệt Người thường nhắc chúng tôi phái tích cực tập luyện võ thuật để có sức khỏe phục công tác. Bác là tấm gương sáng về tập luyện cho chúng tôi học tập.

Tôi còn nhớ cuối tháng 9/1945, tôi đang công tác ở Đại Từ (Thái Nguyên) thì nhận được lệnh về Hà Nội nhận công tác mới. Anh Cả cho biết tôi được Trung ương giao nhiệm vụ phục vụ bảo vệ Bác. Buổi trưa anh Cả dẫn tôi đến chào Bác, nghe tiếng tôi chào. Bác vui vẻ nói:

- Chú đã về đấy à.

Rồi Người ân cần thăm hỏi sức khỏe tôi và anh em còn công tác tận chiến khu, Bác cũng không quên hỏi thăm đồng bào vùng Tân Trào. Sau đó Bác nói đại ý:

- Ta đã giành chính quyền, nhưng tình hình còn khó khăn, phức tạp. Chú về cùng các chú khác giúp cho Bác một số việc. Anh em phải đoàn kết cảnh giác, giữ bí mật, cố gắng công tác tốt.

Tuy bận nhiều việc lớn của đất nước nhưng thỉnh thoảng buổi tối sau bữa cơm trước giờ đi ngủ, Bác vẫn dành ít phút chuyện trò thân mật với chúng tôi. Một hôm nhân lúc vui chuyện Bác hỏi tôi:

- Nghe nói chú giỏi võ phải không?

Tôi thưa với Bác:

- Thưa Bác, cháu ham thích võ nghệ và có học được chút ít.

Chú biết những môn gì?

- Thưa Bác cháu biết côn, quyền, kiếm mỗi thứ một ít.

Bác nhìn chúng tôi rất độ lượng:

- Trước đây ở nước ngoài Bác cũng học võ để rèn luyện sức khỏe, nhưng lâu ngày nên quyền Bác quên. Chú xem có bài nào dễ thì hướng dẫn Bác cùng tập.

Tôi suy nghĩ một lúc rồi trả lời:

- Thưa Bác có bài Mai hoa quyền hợp với sức khỏe của Bác.

-  Vậy sáng mai Bác cháu ta cùng tập nhé.

Tôi thật xúc động, Bác tuổi cao, sức yếu mà vẫn chăm tập luyện. Hôm sau 5 giờ sáng Bác đã gọi tôi dậy lên sân thượng nhà Bắc Bộ phủ tập quyền. Tôi làm động tác trước, Bác tập sau. Bài tập khá nhanh, chỉ vài buổi sáng đã thuộc cả bài. Tôi không thể quên có những đêm trăng thanh gió mát, trên mặt bằng ngôi nhà lớn, giống như trên một sàn tàu sóng biển xanh bao la, tôi thấy Bác múa quyền. Trong bộ bà ba giản dị, động tác của Bác khoan thai, mềm đẹp. Nhìn Bác tôi tưởng như ông tiên giáng trần, tuyệt đẹp.

Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Bác trở lại chiến khu Việt Bắc. Tuy cuộc sống khó khăn gian khổ, Bác vẫn khuyên chúng tôi phải siêng năng tập luyện để giữ gìn sức khỏe. Mỗi khi xây dựng nhà ở, Bác nhắc chúng tôi nên làm một cái sân nhỏ, kín đáo để Bác cháu có nơi tập luyện. Ở một vài nơi chúng tôi đã cố gắng làm được sân bóng chuyền. Ở rừng có được sân chơi bóng chuyền thì quả thật không phải dễ tìm. Phải có những cây to, tán lá giao nhau che kín được khoảng trống của sân, phòng khi máy bay trinh sát, mặt đất bằng phẳng và dọn sạch các gốc cây con. Chiều chiều sau giờ làm việc, Bác cháu vui vẻ ra sân. Bác tuy tuổi cao nhưng khi ra sân Người vẫn nhanh nhẹn không kém một cầu thủ thực sự, tuy nhiên những lúc quá say sưa anh em hay bỏ bóng vào chỗ Bác.

Bác rất vui, Người nói vui:

- Có giỏi thì tung vào "Tủ" đây này.

Bác cháu cười vang, trận đấu càng sôi nổi.

Bác cũng thích bơi. Những buổi chiều nếu không tăng gia, chơi bóng chuyền thì Bác bảo chúng tôi tắm suối. Mỗi lần Bác bơi, chúng tôi đều chú ý phân công đội hình xung quanh Bác để phòng những gì bất trắc xảy ra. Chúng tôi nói vui: Bác như chiếc máy bay Đa-cô-ta, còn chúng cháu như những chiếc bè vanh-xít đi theo bảo vệ. Bác cười vui với những câu nói đùa của chúng tôi.

Hòa bình lập lại, về Hà Nội trong điều kiện công tác và sinh hoạt có thay đổi, Bác vẫn luôn nhắc chúng tôi tập luyện. Một lần chúng tôi đang hướng dẫn cho anh em cảnh vệ mới tập võ thuật, Bác đi ngang qua thấy chúng tôi đang tập, Người đứng lại xem. Bác hỏi chúng tôi phương pháp tập luyện và chế độ ăn uống thế nào. Nghe xong, Bác nói:

- Các chú tập luyện như thế là tốt, nhưng không nên lệ thuộc vào bãi sẵn có, mà tập những chỗ không có bãi để quen với tình huống thực tế. Kẻ địch đánh ta nó không chờ nơi có bãi tập.

Vâng lời Bác dạy chúng tôi đã hướng dẫn cho anh em làm quen với những địa hình và tình huống thực tế. Năm 1969, được Bác cho phép chúng tôi đã biểu diễn võ thuật để Bác xem. Bác khen "các chú dã có tiến bộ nhưng cần cố gắng hơn nữa".

Điều Bác dạy bảo chúng tôi nhiều là phương pháp tập luyện. Có lần chúng tôi tập nhảy cao, Bác cũng dừng lại xem. Nhiều anh em chưa quen, có người co cả hai chân, có người lao cả người qua, có đồng chí sợ thì chui qua dây, Bác cho gọi chúng tôi lại, Người nói:

- Các chú muốn tập nhảy cao thì phải tập từ thấp lên cao và phải tập kiên trì thường xuyên.

Dừng một lát Bác nói tiếp:

- Ngày mai các chú hãy trồng hàng râm bụt ở lối đi này, mỗi lần đi ngang qua các chú nhảy qua theo độ lớn lên của nó. Như vậy các chú nhảy sẽ cao hơn.

Anh em chúng tôi bảo nhau thực hiện lời dạy của Bác. Hàng râm bụt mới trồng xinh xắn chả mấy bữa đã đâm chồi non xanh biếc, mỗi sáng chúng tôi nhảy qua 5 lượt. Hễ đi đâu về chúng tôi cũng phải nhẩy qua để vào đơn vị. Nhờ kiên trì tập luyện theo lời Bác dạy, hầu hết anh em đều nhảy qua 1,2m dễ dàng, nhiều đồng chí còn nhảy cao hơn nữa.

Ngày nay phong trào tập luyện của cán bộ chiến sỹ cảnh vệ lập được nhiều thành tích. Mỗi lần nhắc tới thành tích ấy, chúng tôi thường nói với nhau có thành tích vẻ vang này là nhờ lời dạy bảo năm xưa của Bác.

(Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, nguyên Cục trưởng Cục Cảnh vệ - Bộ Công an)

49. Đời sống của dân quan trọng hơn

Năm 1951, hai nhà quay phim chiến sỹ miền Nam Nguyễn Thế Đoàn, Lê Minh Hiền được tham gia vào đoàn cán bộ miền Nam ra Việt Bắc.

Đoàn đã được Bác Hồ tiếp thân mật và tổ chức đón tiếp long trọng tại Văn phòng Chủ tịch nước. Riêng mấy anh em điện ảnh miền Nam còn được Bác mời đến trong một cuộc liên hoan lửa trại đầm ấm. Anh em đề nghị Bác cho phép "quay" một số cảnh làm việc, sinh hoạt của Bác. Bác đồng ý. Với chiếc máy quay phim "cổ lỗ sỹ" và một số mét phim ít ỏi, Lê Minh Hiền đã ghi được một số hình ảnh quý giá - cho đến ngày nay là vô giá - về Bác Hồ.

Đồng chí Hiền và đồng chí Đoàn vẫn còn áy náy là Bác mặc quần áo giản dị quá, sợ mang về miền Nam chiếu lên, đồng bào có thể là quá xúc động hoặc là chê trách người quay phim. Đồng chí Đoàn bàn với đồng chí Hiền là đề nghị Bác mặc bộ ka ki đại cán, kiểu Tôn Trung Sơn, bộ độc nhất của Bác để quay ''cho đẹp".

Tưởng Bác đồng ý, nào ngờ Bác nói:

- Bác như thế đấy, có thế nào các chú cứ thế mà quay.

- ''Thua" keo này, lại bày keo khác. Lâu lâu hai anh em lại "xin" Bác mặc bộ đại cán "cho". Thấy các nghệ sỹ năn nỉ mãi, Bác cũng đành mặc "cho" đôi ba lần, những khi cần thiết... Tổ làm phim còn quay được một số cảnh Bác đánh máy chữ, trồng rau xanh, đi công tác lội suối, cưỡi ngựa. Anh em còn định xin quay một số cảnh nữa về đời sống hằng ngày của Bác.

Bác nói: - Thôi! Đời sống của Bác lúc này không quan trọng bằng đời sống của nhân dân.

(Trích trong “Bác Hồ với chiến sỹ”)

Tâm Trang (tổng hợp)


 50. Phiên họp Hội đồng Chính phủ đầu tiên

Sáng mồng 03-9, một ngày sau lễ ra mắt, các vị Bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời tới dự phiên họp Hội đồng Chính phủ đầu tiên.

….

Đúng giờ làm việc, Hồ Chủ tịch từ căn phòng bên đi ra.

- Chào các cụ, chào các chú.

Lời chào của Bác đã mở đầu một không khí thân mật cho phiên họp.
Sớm nay, Bác đi một đôi giầy vải màu chàm đem từ chiến khu về. Đôi giày này, đồng bào Nùng đã khâu tặng Bác và được Bác dùng trong nhiều buổi tiếp khách nước ngoài. Bác nhanh nhẹn đi đến bên bàn làm việc. Bằng một cử chỉ cởi mở quen thuộc, Bác giơ rộng hai tay mời các đại biểu cùng ngồi. Cuộc họp không có diễn văn khai mạc. Bác lấy trong túi ra một mảnh giấy nhỏ ghi những ý kiến đã chuẩn bị. Phá bỏ những nghi thức thông thường, Bác đi ngay vào nội dung của cuộc họp.

- Thưa các cụ và các chú,

Sau tám mươi năm bị áp bức, bị bóc lột, và dưới chính sách ngu dân của thực dân Pháp, các bạn và tôi, chúng ta đều chưa quen với kỹ thuật hành chính. Nhưng điều đó không làm cho chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm vừa học, vừa học vừa làm. Chắc rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm sửa chữa khuyết điểm.

Với lòng yêu nước và yêu nhân dân sâu sắc, tôi chắc chúng ta sẽ thành công.

Hiện nay những vấn đề gì là vấn đề cấp bách hơn cả. Theo ý tôi có sáu vấn đề...

Vẫn với những lời lẽ rất giản dị như vậy, Bác nêu lên trước Hội đồng Chính phủ những vấn đề cấp bách nhất. Bác nói:

Một là phải phát động một phong trào tăng gia sản xuất để chống nạn đói. Trong khi chờ đợi thu hoạch ngô, khoai khoảng ba bốn tháng, sẽ mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại phát cho người nghèo.

Thứ hai là mở một phong trào chống nạn mù chữ.

Thứ ba là tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do, dân chủ cho nhân dân.

Thứ tư là mở một phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ những thói hư tật xấu do chế độ thực dân để lại.

Thứ năm là bỏ ngay ba thứ thuế: Thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tuyệt đối cấm hút thuốc phiện.

Thứ sáu là ra tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết... Tất cả mọi vấn đề được Bác nêu ra trong vòng nửa tiếng. Những khó khăn chồng chất, phức tạp của chế độ thực dân để lại suốt tám mươi năm, những vấn đề sinh tử, cấp bách của dân tộc đã được Bác nêu lên một cách ngắn gọn, rõ ràng, cùng với những phương hướng, đôi lúc cả những biện pháp để giải quyết. Những đồng chí đã có dịp gần Bác đều thấy đây là nếp làm việc quen thuộc của Người.

Các Bộ trưởng thảo luận những điều Bác đã nêu lên và đều vui vẻ tán thành. Có những điều Bác nêu ra từ phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời hôm đó đến nay vẫn là những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta.

Phiên họp đã kết thúc trong buổi sáng.

Không khí giản dị, tự nhiên, thân mật của buổi họp đã rất mới lạ và gây một ấn tượng sâu sắc với một số người lần đầu làm việc với Bác.

(Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

51. Bác vẫn sinh hoạt với chúng tôi

Năm nào cũng vậy, cứ đến cuối năm Bác Hồ đều dành thời gian để họp với tổ cảnh vệ một lần. Trong các cuộc họp đó không khí rất trang nghiêm, nhưng ai cũng rất vui, trước giờ họp anh em trong tổ đều tập trung đông đủ.

Đúng giờ Bác đến. Chúng tôi đứng dậy chào Bác. Bác ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống rồi nói "Ta bắt đầu".

Tôi thay mặt anh em báo cáo tóm tắt với Bác về tình hình các mặt công tác của tổ trong một năm.

Nghe xong, Bác hỏi:

- Thế tổ ta năm nay tiến bộ hơn năm ngoái ở những mặt nào?

Tôi báo cáo thêm với Bác những điểm tiến bộ hơn và nêu những điểm còn yếu để đề ra phương hướng khắc phục. Bác khẽ gật đầu rồi nói: "Điểm kém ngày càng ít đi như vậy là tốt", rồi Bác bảo đồng chí phục vụ về nhà đưa sang một ít kẹo và một lẵng hoa hồng. Bác đứng dậy rút từng bông hồng và lần lượt tặng chúng tôi mỗi người một bông và nói: "Bác tặng mỗi chú một bông hồng". Chúng tôi sung sướng nhận hoa Bác tặng rồi cài lên áo, ngồi quây quần bên Bác liên hoan. Vừa liên hoan Bác vừa hỏi thăm tình hình gia đình từng đồng chí, rồi Bác căn dặn: "Các chú phải tranh thủ học tập chính trị nghiệp vụ, văn hóa, mỗi người học một năm phải lên một lớp. Bắn súng và nghiệp vụ phải giỏi". Rồi Bác nói:

- Các chú làm được không?

- Thưa Bác chúng cháu làm được ạ.

Trước lúc ra về, Bác tặng thêm chúng tôi một gói kẹo. Đồng chí nào có con nhỏ, Bác đưa hai gói rồi bảo: "Gói này phần chú, còn gói này Bác gửi cho các cháu ở nhà".

Chúng tôi nhìn nhau cười sung sướng tiễn Bác về. Nay Bác Hồ kính yêu của chúng ta không còn nữa, nhưng cuộc họp hàng năm của tổ cảnh vệ vẫn còn. Và khi đến những ngày cuối năm, chúng tôi quyết báo cáo nhiều thành tích của tổ mình với Bác như hồi Bác còn sống, vì chúng tôi hứa quyết tâm làm đúng di chúc thiêng liêng của Bác.

(Đồng chí Đĩnh, cán bộ đội bảo vệ Bác Hồ)

52. Bác nắm bàn tay THAN BỤI của chúng tôi

Hôm ấy, Bác đáp tàu từ Hà Nội lên thăm tỉnh Lào Cai. Anh Tư được phân công phục vụ toa có Bác. Thoạt đầu, anh đứng trên toa, nhìn xuống sân trông rõ Người. Anh đứng lên xoay mãi quả đấm cửa mà không mở được. Ngày thường anh chỉ “xoạch” một cái là đẩy rộng cửa ra. Bác đưa tay ra hiệu bảo Tư cứ từ từ, bình tĩnh. Anh thật không ngờ hôm nay được dịp thuận lợi nhất để tỏ lòng kính yêu Bác. Theo thói quen, anh đã chăm sóc toa xe sạch sẽ, bóng lộn. Cả bàn ghế cũng đã sáng loáng như gương. Thế mà anh vẫn thấy mình chưa tròn nhiệm vụ. Tư mời Bác nghỉ lưng, Bác ôn tồn bảo:

- Chú cứ để mặc Bác.

Tàu vẫn chạy như thường mà sao Tư thấy lắc lư nhiều. Tư lo cho Bác không được yên tĩnh. Mặt trời từ từ vén sương núi ngoi lên vàng chóe. Bình minh ở miền trung du thật đẹp đẽ, dịu dàng. Bác từ trong toa bước ra vui vẻ hỏi anh trật tự viên:

- Chú có thể cho Bác đứng ở đầu toa ngắm phong cảnh chứ?

Anh trật tự vâng một tiếng nhẹ và cúi xuống đóng chấn song cửa cẩn thận. Tàu chạy nhanh. Vẻ mặt Bác hồng hào. Gió lùa chòm râu bạc bay lướt qua trên các cánh đồng xanh mướt và núi rừng trùng điệp. Chiếc áo nâu giản dị bay phấp phới. Bác xoay qua Tư hỏi:

- Chú đi tập kết có gia đình đi cùng không?

- Dạ thưa Bác, không ạ!

- Có nhớ vợ con không?

- Dạ có.

- Nhớ nhiều không?

- Dạ nhiều.

- Thế là tốt. Càng nhớ càng cố gắng làm việc nhé?

Bác hỏi đến cô Thọ, nhân viên trên tàu:

- Quê cháu ở đâu?

- Thưa Bác, cháu ở Hồng Quảng.

- Công tác ngành đường sắt được bao lâu rồi?

- Dạ cháu đã làm hơn ba năm...

Bác cười:

- Ở ngành nào cũng đều có mặt các cháu gái, thế là tốt.

Khi tàu đỗ, Bác đi thoăn thoắt lên đầu máy. Anh Thị lái tàu và anh em đốt than, phụ việc tay còn dầu mỡ, lấm lem, thấy Bác đến thì luống cuống. Tất cả đứng thẳng mà hai bàn chân cứ nhấp nhổm. Bác chìa tay ra. Có anh vì tự thấy tay mình bẩn quá không dám bắt tay Bác. Bác ôn tồn bảo:

- Chính là có than bụi bám bàn tay các chú thì Bác và bà con đây mới được ngồi thảnh thơi mà vẫn đi đến nơi về đến chốn được.

Thế là mọi người đều mạnh dạn đưa bàn tay đen sạm nắm lấy tay Bác. Anh Thị cảm động quá giữ bàn tay Bác một hồi lâu. Bác chúc anh em kéo hàng vượt mức và đạt kỷ lục tiết kiệm than cao hơn nữa.

Ở Lào Cai, Bác lên tàu rất đúng giờ. Tàu bắt đầu chạy mà còn hai anh làm công tác báo chí và điện ảnh đến muộn, xách cặp, vác máy chạy theo vẫy gọi tàu. Bác đồng ý đề nghị của anh em công nhân đỗ tàu lại vài phút đợi. Khi hai người leo được lên tàu yên ổn, Bác mới phê bình:

- Báo chí, điện ảnh thì phải đi trước chứ. Các chú đừng để phải chạy theo sau đoàn tàu nữa nhé!

Hai anh ngồi vào toa đưa mắt nhìn nhau bẽn lẽn. Bác đi thăm nhiều nơi: Lào Cai, mỏ A-pa-tít, cầu Làng Giàng, thị xã Yên Bái. Nơi nào cũng đông nghịt đồng bào và công nhân nghe Bác nói chuyện. Nhất là thiếu nhi thì nhanh tay, nhanh chân hơn cả. Các em vừa hoan hô vừa đổ về phía Bác như làn sóng nhỏ cuốn vào bờ. Bác về đến Hà Nội lâu rồi mà dư âm của chuyến đi còn truyền mãi...

 (Trích trong “Hồ Chí Minh - Một huyền thoại kỳ vĩ”)    

53. Người Pháp, người Mỹ

Tuần báo "Đây Paris" ra ngày 18/6/1946 là một trong những bài viết sớm nhất, tương đối đầy đủ nhất về phong cách của Bác Hồ.

"Chủ tịch nước Việt Nam là một người giản dị quá đỗi. Quanh năm ông chỉ mặc một bộ áo ka ki xoàng xĩnh và khi những người cộng tác quanh ông để ý, nói với ông rằng với địa vị ông ngày nay, nhiều khi cần phải mặc cho được trang trọng, thì ông chỉ mỉm cười trả lời: "Chúng ta tưởng rằng chúng ta được quí trọng vì có áo đẹp mặc, trong khi bao nhiêu đồng bào mình trần đang rét run trong thành phố và các vùng quê".

Sự ăn ở giản dị đến cảm động, như một nhà ẩn sĩ, đó là một đặc tính rõ rệt nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một tuần lễ ông nhịn ăn một bữa, không phải là để hành hạ mình cho khổ sở mà là để nêu một tấm gương dè xẻn gạo cho đồng bào đặng làm giảm bớt nạn đói trong nước. Hết thảy mọi người xung quanh đều bắt chước hành động đó của ông.

Trong những ngày thường, ông dùng cơm ở Bắc Bộ phủ, ngồi chung với hết thảy mọi người. Người ta thấy quây quần xung quanh bàn ăn: Các bộ trưởng, những thư ký và cả những cậu thiếu niên phục vụ bàn giấy. Nhờ có đức tính giản dị của ông mà khi ngồi ăn với mọi người ông không làm ai phải giữ kẽ nhiều quá, mà trái lại, không khí chung lộ ra, lúc nào cũng thân mật, cũng vui vẻ, gây cho bữa ăn một vẻ gia đình.

Tính giản dị và thân mật của ông còn biểu lộ ra trong những bài diễn văn. Không bao giờ ông tỏ vẻ thông thái, vốn rất rộng của ông. Ông thông thạo bảy thứ tiếng khác nhau và nói được rất nhiều tiếng thổ âm, trái lại ông chỉ dùng những câu nôm na, khiến cho một người dù quê mùa chất phác nghe cũng hiểu ngay được. Ngày ông viết xã luận cho báo Cứu Quốc, trước khi đem bài cho nhà in, bao giờ ông cũng đem đọc cho một số người không biết chữ, ông già, bà già cùng nghe. Nếu ông thấy thính giả tỏ vẻ không hiểu mấy những ý tưởng trong bài viết lập tức ông viết lại ngay bài khác. Tất cả đức tính Hồ Chí Minh bao gồm trong một cử chỉ bé nhỏ đó.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất ghét lối nói khoa trương, văn vẻ. Mỗi bài diễn văn của ông là một bài học nhỏ kết luận bằng một ý kiến đạo đức. Bởi những ý tưởng hết sức giản đơn ấy mà bài diễn văn của ông có một tiếng vang lớn trong giới trí thức và dân chúng".

Hai mươi lăm năm sau bài viết trên, năm 1971 - sau khi Bác Hồ đã mất, một người Mỹ - nhà báo, nhà văn Đây-vít Han-bơc-stơn trong cuốn sách "Hồ" của mình, do Nhà xuất bản Răng-dôm Hao-sơ ở Niu-Óoc ấn hành đã viết:

"… Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này - hơi giống Găng-đi, hơi giống Lê nin, hoàn toàn Việt Nam. Có lẽ hơn bất kỳ một người nào khác của thế kỷ này, đối với dân tộc của ông, và đối với cả thế giới ông là hiện thân của một cuộc cách mạng. Thế nhưng đối với hầu hết nông dân Việt Nam, ông là biểu tượng của cuộc sống, hy vọng, đấu tranh, hy sinh và thắng lợi của họ. Ông là một người Việt Nam lịch sự, khiêm tốn, nói năng hòa nhã, không màng địa vị, luôn luôn mặc quần áo đơn giản nhất - cách ăn mặc của ông không khác mấy người nông dân nghèo nhất - một phong cách mà Phương Tây đã chế giễu ông trong nhiều năm, cười ông thiếu nghi thức quyền lực, không có đồng phục, không theo thời trang. Cho đến một ngày họ mới tỉnh ngộ và nhận thấy chính cái tính giản dị ấy, cái sùng bái sự giản dị ấy, cái khả năng hòa mình vào nhân dân ấy là cơ sở cho sự thành công của ông.

Trong một nước khi mà dân chúng đã thấy những người cầm đầu đạt tới một địa vị nào đó rồi trở thành "Tây" hơn là "Việt Nam", bị quyền lực, tiền bạc và lối sống phương Tây làm thối nát; trong một nước khi những người đó đã ngoi lên khá cao thì không làm gì cho dân chúng cả, lập tức bị bán mình cho người nước ngoài, tính giản dị của ông Hồ là một sức mạnh. Địa vị càng cao sang, ông càng giản dị và trong sạch. Hình như ông luôn luôn giữ được những giá trị vĩnh cửu của người Việt Nam: Kính già, yêu trẻ, ghét tiền của. Ông Hồ không cố tìm kiếm cho mình những cái trang sức quyền lực vì ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của ông với nhân dân, với lịch sử đến nỗi không cần những pho tượng, những cái cầu, những pho sách, những tấm ảnh để chứng tỏ điều đó cho mình và cho thiên hạ biết. Việc ông từ chối sự sùng bái cá nhân là đặc biệt đáng chú ý trong cái xã hội kém phát triển...".

(Nguyễn Việt Hồng, trích trong "Bác Hồ, con người và phong cách")

  1. Thầy học của Bác là nhân dân

Một lần, Bác từ chiến trường Tây Bắc về, tạt vào cơ quan Hội Phụ nữ. Ta vừa chiến thắng, Bác rất vui, Bác nói: Các cô ở nhà có tiến bộ không, Bác đi công tác ở mặt trận, tiến bộ nhiều lắm. Thầy học của Bác là bộ đội, là dân công, là nhân bản. Bác bảo Bác có quà cho các cô, nhưng phải đoán đúng thì Bác mới cho. Chúng tôi, người đoán là kẹo, người đoán là bánh, có người lại đoán là nước hoa... Bác chỉ cười. Cuối cùng Bác đưa ra, mới biết đó là mấy hộp dầu cao. Bác bảo mùa rét sắp tới, Bác cho các cô để dùng cho khỏi bị cảm lạnh. Hồi ấy, tiết trời đã sang đông, chị em mới học đan được kiểu mũ người đi núi, đội ấm cả đầu và cổ, nhiều người đã đan gửi cho chồng. Trông thấy Bác đầu trần, chị Thanh Hương hỏi Bác đã có mũ chưa, Bác trả lời có rồi. Chị Thanh Hương xin xem rồi lại xin Bác đội lên. Quả tình cái mũ vừa cũ vừa không đẹp. Chị Thanh Hương chê là xấu lắm! Bác bảo: "Chẳng biết các cô đan đẹp thế nào mà chê mũ của Bác xấu". 

Tối hôm ấy, chị em bàn nhau phải đan biếu Bác một cái mũ thật đẹp. Chị Mỹ Hảo, người khéo tay nhất bấy giờ được chị em giao cho công việc ấy. Chị đan một mạch đến khuya thì xong. Vốn biết Bác có vật gì quý đều đem thưởng bộ đội hoặc biếu các cụ phụ lão, chúng tôi lo rằng cái mũ cũng sẽ không được Bác dùng.

Chúng tôi bàn nhau là phải viết thư gửi theo thưa với Bác là cái mũ này các cháu mỗi người đan mươi hàng, biếu Bác, mong Bác giữ mà dùng, may ra Bác nể tình mà giữ lại. Bẵng đi một thời gian, một hôm chị Thanh Hương và tôi lại được dự một cuộc họp. Bác đến, tất cả đại biểu nữ, như thường lệ, được gọi lên ngồi ở hàng ghế đầu. Chúng tôi nhìn lên chủ tịch đoàn thấy Bác rút trong túi ra cái mũ len chúng tôi gửi biếu, chúng tôi rất sung sướng.

Một hôm, Bác đem đến cho ba cái áo len. Chị Hoàng Thị Ái bấy giờ phụ trách cơ quan không dám nhận và thưa là để Bác cho các chiến sĩ có công. Bác bảo: "Bác có cho các cô đâu mà các cô từ chối. Đây là Bác cho các cô để bảo các cô biết cách trọng người già. Một cái các cô biếu Bác Tôn, một cái các cô biếu mẹ liệt sĩ Bùi Thị Cúc, còn một cái để dành đấy, khi cần thì có tặng phẩm mà dùng".

Tất cả sự săn sóc của Bác động viên chúng tôi phấn đấu vươn lên. Cơ quan dần dần được tổ chức ngăn nắp, vườn rau xanh tốt quanh năm và có cả một ruộng ngô. Nhưng tôi nghĩ đối với tất cả cán bộ nữ được Bác quan tâm chăm sóc lúc bấy giờ, điều quý báu nhất mà chị em giữ được là: Lòng thiết tha đi sâu vào thực tiễn đấu tranh cách mạng. Tìm ở đấy những bài học cho công tác, chị em luôn luôn suy nghĩ chăm nom đời sống phụ nữ, nhi đồng cũng như luôn nghĩ tới các bậc phụ lão đáng kính.

(Như Quỳnh, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

Tâm Trang (tổng hợp)


 54. Bác Hồ với dân tộc Phù Lá

Tháng 8-1958, hai đồng chí người Thái ở châu về báo cho biết tôi được cử trong Đoàn đại biểu nhân dân các dân tộc Tây Bắc đi dự lễ Quốc khánh ở Thủ đô Hà Nội. Tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì sẽ được gặp Bác Hồ, được tham quan Thủ đô, sẽ được thấy nhiều cái mới lạ; lo vì người Phù Lá chưa đi đâu hết Châu Mường Tè bao giờ mà nay lại đi đến tận đâu đâu… Tôi đi bộ thật nhanh, năm ngày về đến Lai Châu, được ngồi ô tô về khu, về Hà Nội. Sau đó, lại được ngồi ô tô về xem các thành phố Hải Phòng, Nam Định… Đến đâu chúng tôi cũng được đón tiếp niềm nở, được biết nhiều cái mới lạ mà trong đời mình chưa được thấy bao giờ. Sáng ngày thứ bảy, chúng tôi được tin là sắp được lên gặp Hồ Chủ tịch. Cả đoàn phấn khởi. Riêng tôi, tuy phấn khởi nhưng lại rất lo không biết mình sẽ phải làm gì. Tôi bồn chồn gặp các anh em đã từng đi Hà Nội, đã được gặp Bác để hỏi xem cách chào hỏi, đi đứng như thế nào.

Sáng hôm ấy, Đoàn đại biểu Tây Bắc ai cũng ăn mặc rất đẹp, rồi lên ô tô đến Phủ Chủ tịch, và được dẫn vào phòng họp, ngồi vừa yên chỗ thì Bác đến. Mọi người chào. Bác giơ tay chào lại rồi ai nấy ngồi vào ghế. Bác hỏi đến dân tộc nào thì đại biểu dân tộc ấy đứng lên cho Bác thấy. Các dân tộc khác đều có hai hoặc ba đại biểu, riêng dân tộc Phù Lá thì chỉ có mình tôi. Tôi chưa biết tiếng phổ thông nên phải nhờ người dịch ra tiếng Quan Hỏa mới hiểu được. Bác hỏi thăm sức khỏe các đại biểu. Ăn ngủ ra sao? Bác khen đoàn có nhiều đại biểu các dân tộc, nhưng lại phê bình là đoàn ít đại biểu nữ quá… Bác hỏi thăm tình hình sức khỏe, làm ăn, đoàn kết, trị an của các dân tộc anh em, Bác nói đại ý: Các dân tộc dù ít người dù nhiều người đều là anh em bình đẳng như nhau. Ngày xưa các dân tộc ít người bị thiệt thòi nhiều nhất, bây giờ cần cố gắng để tiến kịp các dân tộc anh em để được sống ấm no hạnh phúc, cần học văn hóa và tham gia các mặt công tác”.

Nói chuyện một lúc rồi Bác mời mọi người ăn kẹo, uống trà, phòng họp thật vui vẻ. Tôi ngồi im khoanh tay, không dám nhìn thẳng vào Bác, cũng không dám ăn uống gì. Bỗng có bàn tay khẽ vỗ vào vai tôi. Tôi ngẩng lên, bàng hoàng cả người: Bác Hồ! Chính Bác đang đứng sát bên tôi. Bác mỉm cười gật đầu hiền từ, thân mật khiến tôi bình tĩnh trở lại. Bác cầm tay tôi, chỉ vào phần chuối, kẹo vẫn còn nguyên vẹn trước mặt, Bác đưa tay làm hiệu, bày cách cho tôi ăn và bỏ cả kẹo vào túi tôi. Trước cử chỉ ân cần của Bác, tôi xúc động và chỉ biết làm theo.

Trước lúc chia tay, Bác ân cần chúc các đại biểu khỏe mạnh, Bác dặn các đại biểu về địa phương phải nói lại với bà con những điều mắt thấy tai nghe trong dịp về thăm Thủ đô. Bác nhờ các đại biểu chuyển lời Bác hỏi thăm đồng bào các dân tộc, hỏi thăm các cụ già, các chị em phụ nữ và cả các cháu thanh niên, thiếu niên, nhi đồng.

Khi Bác ở phòng họp sắp ra, một đại biểu nói: Được gặp Bác thì mừng; xa Bác về địa phương lại nhớ Bác”. Bác cười: “… Nhớ Bác thì nhớ lời Bác dặn các dân tộc phải thật sự đoàn kết giúp nhau tiến bộ, phải chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ…”.

Chúng tôi bảo nhau: Bác luôn luôn kêu gọi các dân tộc đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để cùng được ấm no, học hành. Bác ở Thủ đô đó mà biết đến tận người Phù Lá, nên đại biểu người Phù Lá được gặp Bác, mắt nhìn rõ Bác, nghe lời Bác. Bác thương người Phù Lá như cha mẹ thương con vậy.

(Phàn Phí Giá kể, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

55. Được vẽ và nặn tượng Bác

Từ cách mạng đến nay, tôi may mắn được gặp Bác nhiều lần, lần nào cũng để lại trong tôi nhiều kỷ niệm sâu sắc. Tôi chỉ xin kể lại một vài mẩu chuyện nhỏ:

 Năm 1958, chúng tôi xin được gặp Bác để vẽ và nặn tượng Bác. Mãi chúng tôi mới được tin lên chỗ Bác ở. Hôm ấy quả là một ngày vui đáng ghi nhớ. Cùng đi với chúng tôi có anh Diệp Minh Châu, anh Trần Văn Lắm và một nhà điêu khắc người Đức. Từ một đất nước xa xôi sang, anh bạn đồng nghiệp của chúng tôi chỉ mong mỏi được gặp và trực tiếp nặn tượng Bác.

 Được toại nguyện, anh bạn người Đức và cả chúng tôi xiết bao mừng rỡ.

Có điều hôm đầu, Bác ngồi thấp mà anh bạn của chúng ta vừa cao lớn vừa đứng nặn theo tư thế và công việc của một nhà điêu khắc. Vì vậy, anh bạn luôn phải khom người.

 Sau buổi hôm đó, chúng tôi nghĩ ra một cách để giải quyết cái khó khăn nghề nghiệp của anh bạn. Chúng tôi mang bục gỗ và đặt bàn làm việc của Bác lên đấy. Ngắm nghía thấy vừa tầm nặn, chúng tôi thích thú lắm, nhất là anh bạn người Đức.

 Sáng hôm sau, chúng tôi đến thật sớm nhưng khi bước vào, chúng tôi thấy Bác đã ở đấy rồi. Một chân Bác đứng dưới đất, còn chân kia đặt lên bục. Vừa trông thấy chúng tôi Bác đã vui vẻ hỏi:

- Các chú có biết ngày xưa người ta xưng với vua như thế nào không?

Bị hỏi bất ngờ, chúng tôi bỗng nhiên lúng túng nhìn nhau, nhưng rồi cũng mạnh dạn trả lời:

- Thưa Bác, người ta xưng là “tâu bệ hạ” ạ!

 Bác bèn trỏ vào cái bục, châm biếm:

- Thế các chú muốn Bác làm vua hay sao mà lại mang cái bệ này đến?

Biết Bác đùa, chúng tôi ai nấy đều im, Bác lại nói tiếp:

- Các chú nên nhớ rằng Bác làm Chủ tịch, Chủ tịch cũng là đầy tớ của nhân dân, phải phục vụ nhân dân vô điều kiện.

 Chúng tôi đang lo Bác không lên bục, ngồi vào bàn làm việc. Nhưng đoán được tâm trạng đó, Bác vui vẻ bảo:

- Nói thế thôi chứ bây giờ Bác cũng “thượng bệ” cho các chú vui lòng...

 Đúng là Bác Hồ kính yêu của chúng ta lúc nào cũng thanh thản, ung dung. Vẽ và nặn tượng Bác cho được cái thần thái ấy quả không phải dễ. Cho đến nay chúng tôi cảm thấy tranh mình chưa thể hiện và lột tả được hết những nét riêng đáng quý đó của Bác, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

 Lúc Bác còn sống, Bác thường đến thăm các cuộc triển lãm nghệ thuật. Lúc không đi được thì Bác có thư. Thư Bác gửi cho giới họa sỹ chúng tôi năm 1951 là một văn kiện lịch sử quan trọng, là kim chỉ nam hành động quý báu và thiết thực cho giới chúng tôi nói riêng, cho ngành văn nghệ nói chung, vì đến nay mỗi khi đọc lại bức thư ấy, chúng tôi càng thấy đúng và trong sáng, vẫn thấy phải cố gắng rất nhiều nữa mới mong có thể đạt được phần nào lời khuyên dạy của Người.

 Năm 1963, Bác có đến thăm Triển lãm nghệ thuật tạo hình trưng bày ở phố Tràng Tiền. Sau khi xem, Bác có nhận xét:

- Các chú làm việc tốt đấy. Tranh, tượng thế là có tình người.

Sau đó, Bác hỏi chúng tôi về phong trào mỹ thuật, về đội ngũ sáng tác mỹ thuật (có bao nhiêu nữ, bao nhiêu anh chị em người dân tộc, bao nhiêu anh chị em trẻ), rồi Bác bảo:

- Các chú là lớp người đi trước, nên dìu dắt anh chị em lớp trẻ, có kinh nghiệm gì thì phải tận tình bày vẽ cho anh chị em. Nhưng cũng phải cẩn thận, chú ý đừng để mất khiếu sáng tạo của họ.

 Xem tranh sơn mài, Bác khuyên chúng tôi nên nghiên cứu sao cho chất liệu này giữ được bền hơn nữa. Về nghệ thuật khảm trai, Bác cũng có ý kiến:

- Các chú cần cố gắng duy trì loại này. Nó quý lắm. Nó là cái vốn nghệ thuật cổ truyền của cha ông ta xưa, phải phát triển nó lên.

 Trước khi rời khỏi phòng triển lãm, Bác nhắc nhở chúng tôi phải cố gắng làm tốt hơn, phải đem nghệ thuật phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.

(Trần Văn Cẩn kể, trích trong "Bác Hồ với văn nghệ sỹ")

56. Cách ứng đáp mẫn tiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Năm 1946, một nhà văn là Ủy viên thường trực Ban Vận động Đời sống mới đến gặp Hồ Chủ tịch để xin ý kiến Người về nội dung cuộc vận động. Bác Hồ nói nên vận động nhân dân thực hiện mấy chữ: Cần, kiệm, liêm, chính.

- Thưa cụ, mấy chữ ấy rất hay nhưng nghe có vẻ cổ. Cụ có thể thay bằng mấy chữ khác không ạ?

- Thế cơm ông cha ta đã từng ăn hàng ngàn năm trước, hiện nay chú và tôi hằng ngày vẫn ăn, chú thấy có cổ không? Không khí ông cha ta đã từng hít thở, ngày nay chúng ta vẫn tiếp tục hít thở, chú thấy có cổ không?

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mấy chục vạn quân Tưởng kéo vào tìm cách khiêu khích để lấy cớ tiêu diệt cách mạng Việt Nam. Bác Hồ triệu tập các vị lãnh đạo cao cấp để xử lý một vấn đề "hệ trọng", Bác nói:

- Tướng T.V của quân đội Trung Hoa dân quốc có gửi cho tôi một bức công văn, nội dung như sau:

“Kính thưa Cụ Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Yêu cầu Cụ cho mượn một cái nồi nấu cơm?"

Không cần phải nói, ai nấy đều có thể hình dung không khí tức giận bao trùm lên cuộc họp. Có những ý kiến đòi đánh.

Với phong thái bình tĩnh, ung dung, Bác Hồ nói: "Nền độc lập ta vừa mới giành được giống như một chiếc bình ngọc. Nay có những con kiến bò trên miệng bình, nếu ta dùng gậy đập kiến, chưa chắc kiến đã chết mà bình ngọc vỡ. Nếu ta lấy một cái que bắc cầu cho chúng xuống thì kiến sẽ đi hết, như vậy có hơn không? Còn trong sự việc vừa đem ra bàn, họ mượn cái nồi nấu cơm thì ta cho họ mượn, việc gì các chú phải nổi nóng như vậy?

Khoảng giữa năm 1949, một nhà báo Thái Lan trực tiếp phỏng vấn Hồ Chủ tịch để thăm dò xem Việt Nam đứng về phía nào trong cuộc chiến Quốc - Cộng ở Trung Quốc.

- Thưa Cụ Chủ tịch, nước Việt Nam của Cụ đứng về phía ông Tưởng hay ông Mao? Xin Cụ miễn cho câu trả lời "đứng trung lập".

- Chúng tôi đứng trung lập. Cũng như Thái Lan của ông đang đứng trung lập giữa Anh và Mỹ!

- Nghe nói quân giải phóng nhân dân Trung Hoa đã gửi cho Cụ súng cối và súng liên thanh. Cụ đã nhận được chưa, nếu chưa thì Cụ có định nhận không?

- Chúng tôi chưa nhận được gì hết. Còn đúng như ông nói là họ có ý định gửi cho chúng tôi thì trong trường hợp này, ông khuyên chúng tôi nên làm như thế nào?

Ngày 05/10/1959, ông Si-ra I-si Bôn, cố vấn biên tập báo A-xa-hi-sin-bun Nhật Bản phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều vấn đề, trong đó có việc Chính phủ Nhật Bản dự định bồi thường chiến tranh, mà phía Nhật lại chọn Việt Nam lúc đó do ngụy quyền Sài Gòn kiểm soát làm đối tác. Câu hỏi và trả lời như sau:

Hỏi: Việc đàm phán về vấn đề bồi thường chiến tranh đã được tiến hành giữa Chính phủ Nhật Bản và Việt Nam. Ngay ở Nhật Bản cũng có người chỉ trích việc đàm phán này và tin tức cho biết Ngài không hài lòng.

Theo ý Ngài, nhân dân Nhật Bản cần được hiểu vấn đề này như thế nào? Theo ý Ngài, vấn đề này cần được giải quyết như thế nào mới đúng?

Trả lời: Trong cuộc Đại chiến lần thứ hai, quân phiệt Nhật Bản đã xâm chiếm nước Việt Nam và đã gây ra nhiều tổn thất cho nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam. Toàn thể nhân dân Việt Nam có quyền đòi hỏi Chính phủ Nhật Bản tiến hành đàm phán và ký kết bồi thường chiến tranh với chính quyền miền Nam Việt Nam là không hợp pháp.

Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thấy rằng, việc đòi hỏi Nhật Bản bồi thường sẽ là một gánh nặng cho nhân dân Nhật Bản. Vấn đề cốt yếu trong quan hệ giữa hai nước không phải là việc đòi bồi thường, mà tình đoàn kết hợp tác giữa hai dân tộc Việt - Nhật đấu tranh chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình là quý hơn hết.

(Trần Thành - Huệ Chi, đăng trên Báo An ninh Thủ đô, số 562, ngày 20-02-2001)

57. Thường ngày Bác yêu trẻ con một cách lạ

Mọi người chúng ta đều biết Bác Hồ yêu thương trẻ em như thế nào. Chúng ta có thể kể ra biết bao hình ảnh sinh động, những kỷ niệm sâu sắc, nói lên tấm lòng yêu thương thắm thiết của Bác Hồ đối với trẻ em. Nghĩ đến trẻ em, tự nhiên chúng ta nghĩ đến Bác Hồ. Những đồng chí có vinh dự được sống gần Bác đều kể lại rằng, Bác Hồ có cảm tình đặc biệt đối với trẻ em.

Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, Cục Cảnh vệ Bộ Nội vụ: "Có một đêm, Bác ngủ trên gác một căn nhà, tới 4 giờ sáng Người thức giấc. Ngoài trời gió vun vút đập vào cửa kính. Ngồi trong nhà còn thấy lạnh, thế mà đã có tiếng trẻ rao hàng dưới đường phố vọng lên. Bác mở cửa ngó xuống nhìn cho đến khi em bé đi khuất mới từ từ khép cửa lại”.

Nhà thơ Tú Mỡ nhớ lại trong Đại hội chiến sỹ thi đua năm 1952, sau một buổi chiếu bóng, mọi người lục tục đứng dậy ra về, Bác vội đứng lên đưa tay ra lệnh trật tự và nói to:

"Hãy khoan đã, để cho cháu bé ra trước, kẻo lộn xộn các cháu sẽ lạc đấy". Đồng chí Tú Mỡ thốt lên: "Chao ôi! Óc sáng suốt của Bác thật lạ kỳ hiếm có! Bác chăm lo hàng vạn việc lớn mà không quên sót một việc nhỏ mà người khác thường không nghĩ tới. Ai chú ý chăm sóc các cháu nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh".

"Chuyện thường ngày của Bác Hồ" do đồng chí Hoàng Quốc Việt viết đã khẳng định:

"Bác yêu trẻ con một cách lạ! Đang trò chuyện, đọc báo mà nghe trên đài có tiếng trẻ em bé hát là Bác dừng lại nghe. Đã nhiều lần Bác thi với đồng chí phục vụ đoán xem em bé vừa hát xong mấy tuổi. Rồi Bác bảo đồng chí ấy, lúc nào tiện, hỏi bên đài phát thanh xem. Mặc dù đồng chí ấy thường ngày về nhà vẫn chăm sóc con nhỏ mà lại hay đoán sai, còn Bác thường là đoán trúng. Bác bảo một đồng chí ở gần Bác thỉnh thoảng đưa cháu nhỏ năm tuổi đến chơi với Bác. Nhưng vì Bác bận, phải chọn thời gian vào buổi sáng sớm. Cháu bé sắp được đến với Bác Hồ thì thích lắm, tự mình thức dậy rất sớm, giục bố đi từng phút một. Có lần đến thấy trên nhà sàn chưa bật đèn, bố con chưa dám lên. Khi Bác bật đèn bố con lên nhà thấy Bác đã cầm sẵn trên tay mấy bông hoa cho cháu, Bác hỏi chuyện cháu rồi bảo hai bố con ngồi chơi đợi Bác tập thể dục. Bác tập xong vào nhà, thấy đồng chí ta không dám lấy kẹo bánh Bác bày sẵn cho ăn, Bác không bằng lòng và bảo:

- Ở nhà, cháu nó là con của cô chú, nhưng đến đây cháu là khách của Bác, chú có nhiệm vụ giúp Bác đãi khách chứ".

(Trích trong "Kể chuyện Bác Hồ", Nxb Giáo dục)

58. Bác Hồ với chiến sỹ người dân tộc

Bác của chúng ta yêu quý mọi chiến sỹ. Đối với các chiến sỹ giỏi, chiến sỹ người dân tộc, Bác còn chăm sóc hơn vì đây là những người làm cách mạng khó khăn hơn chiến sỹ trai, chiến sỹ người Kinh nhiều.

Anh hùng La Văn Cầu, dân tộc Tày mãi mãi không quên bữa cơm của Bác "đãi" với rau, thịt gà... những "sản phẩm" do chính Bác nuôi, trồng. Bác hỏi thăm mẹ Cầu, gửi quà cho mẹ, dặn cán bộ tạo mọi điều kiện để Cầu về thăm mẹ, giúp đỡ gia đình.

Nhiều chiến sỹ người dân tộc đã lấy họ Hồ cho mình như Hồ Vai, Hồ Can Lịch, Hồ Văn Bột...

Mùa Thu năm 1964, chị Choáng Kring Thêm - chiến sỹ người dân tộc Cà Tu, tham gia Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được ra miền Bắc, gặp Bác Hồ. Chị Thêm kể:

“Đoàn chúng tôi vừa bước xuống xe thì đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân.

Bác ôm hôn thắm thiết các thành viên trong đoàn. Chúng tôi theo Bác đến dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa và nắng. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc, Bác nói:

- Cháu đúng là con gái dân tộc Cà Tu giữ được tính chất của dân tộc mình. Chị Ngân, chị Cao gặp Bác, mừng quá khóc lên. Bác dịu dàng bảo:

- Các cháu gái đừng khóc. Gặp Bác phải vui chứ. Hai cháu hãy kể cho Bác nghe bà con ta tiền tuyến đánh Mỹ như thế nào?

Tôi thưa:

- Thưa Bác, cháu thương, cháu nhớ Bác. Tất cả đồng bào dân tộc miền Nam đều thương nhớ Bác.

Sau đó tôi kể Bác nghe một số chuyện chiến đấu của mẹ Giòn, anh Bên, em Thơ...

Bác nói:

- Cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ta là toàn dân, toàn diện. Trẻ, già, gái, trai, Kinh, Cà Tu, Cà Tang và đồng bào các dân tộc khác đều sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi".

Tôi hiểu đó là Bác dành tình thương mênh mông của Bác cho tất cả chúng ta.

(Trích trong cuốn "Tấm lòng của Bác")

Tâm Trang (tổng hợp)


 59. Gặp Bác ở Tân Trào

Vào một buổi sáng tháng 5-1945, đồng chí Văn (tức Võ Nguyên Giáp) đến giao cho tôi nhiệm vụ nấu nướng để tiếp bộ đội. Nhận việc, tôi nghĩ bộ đội hành quân xa, vừa đói, vừa khát, nên tôi bàn với anh chị em nên nấu cháo loãng cho bộ đội ăn. Chiều đến. Xong việc, tôi tranh thủ rang ít chè. Vừa rang chè tôi vừa suy nghĩ về những công việc sắp tới của Hội Phụ nữ.

Và sao gần chiều tối rồi mà vẫn chưa thấy bộ đội đến. Tôi nhìn ra ngoài sân bỗng thấy một đoàn người đi vào. Đi trước là một Ông Cụ già mặc quần áo người Nùng. Cụ đi giầy vải, bước đi nhanh nhẹn. Đoàn người lên nhà tôi. Thấy tôi, Ông Cụ tiện cất tiếng chào hỏi. Tôi đáp lại:

- Bẩm ngài, không dám.

Ông Cụ liền nói:

- Không phải bẩm ngài đâu, đồng chí ta cả, đi đánh Tây, đuổi Nhật thôi!

Cơm nước đã sẵn sàng. Tôi dọn mâm lên, mời mọi người. Ông Cụ già cùng ngồi mâm với đồng chí Văn và mấy đồng chí khác nữa. Nghĩ đến người già có tuổi, đi đường xa, tôi lấy mấy quả trứng gà đặt vào mâm và mời Cụ. Cụ bèn từ chối:

- Gà đẻ ấp lấy con, sao lại đem mời chúng tôi.

Thấy tôi mời mãi, Cụ đành phải nhận và mời mọi người cùng ăn.

Bữa cơm đơn giản đã xong. Mọi người ngồi quây quần uống nước, hỏi thăm chuyện gia đình và công tác của tôi. Đồng chí Văn giới thiệu cho tôi biết người ngồi cạnh Ông Cụ già là đồng chí Đại Toàn: "Việc cần liên hệ với các đồng chí ở đây thì cứ trao đổi với Đại Toàn". Còn Ông Cụ có vầng trán cao rộng, đôi mắt tinh nhanh, giọng nói ấm áp và rất đỗi hiền từ là ai, tôi không được biết. Song Ông Cụ là người nhiều tuổi mà vẫn tham gia cách mạng nên tôi rất tôn kínhĐối với các đồng chí khác, sự tôn kính còn được thể hiện trong một quan hệ công tác.

Ông Cụ cùng đồng chí Đại Toàn và hai đồng chí nữa ở nhà tôi. Cụ mang theo một cái máy chữ, hành lý của Cụ rất đơn giản.

Các đồng chí khác có cả điện đài. Gia đình tôi dành cho Ông Cụ và các đồng chí một gian để làm việc và nghỉ ngơi. Thời gian ở nhà tôi, Ông Cụ và các đồng chí đều ăn cơm chung với gia đình. Lúc đầu tôi sắp cơm một mâm riêng cho Ông Cụ và các đồng chí. Nhưng Cụ nhất định không chịu, và mời cả gia đình tôi ngồi chung. Ông Cụ ăn được ít cơm lắm, mỗi bữa chỉ ăn được non hai lưng bát thôi. Ăn được ít, nhưng làm nhiều, tôi rất lo cho sức khỏe của Cụ.

Ở nông thôn dạo ấy, rau xanh rất hiếm. Thấy tôi băn khoăn, hiểu ý, Ông Cụ liền hỏi:

- Nhà ta có vừng không? Có chè xanh không?

Tôi trả lời:

- Vừng cũng có, còn chè xanh thì nhiều lắm.

Rồi Cụ nói:

- Thế thì không lo. Ta dùng măng chấm muối vừng, dùng chè xanh nấu canh là nước chan cơm thế là ngon rồi.

Ông Cụ còn vận động gia đình tôi trồng rau muống. Cụ nói với nhà tôi (khi ấy là Chủ nhiệm Ban Việt Minh xã Tân Trào):

- Chủ nhiệm phải vận động bà con đi chạy giặc, nhưng cũng phải khẩn trương làm mùa, không thì chết đói, cần trồng nhiều rau muống để ăn và nuôi bộ đội nữa. Sắp tới bộ đội sẽ còn về đông hơn.

Ở nhà tôi, Ông Cụ làm việc liên tục, rất ít khi nghỉ ngơi, thường thường cứ 4 giờ sáng là Ông Cụ dậy và đánh thức mọi người dậy tập thể dục. Ông Cụ rất năng tập thể dục buổi sáng. Tập xong, Ông Cụ vào nhà lấy khăn ra khe suối rửa mặt, sau đó về nhà ngồi vào chỗ làm việc. Tôi thấy lúc thì Cụ đọc, khi thì viết, khi thì đánh máy, lúc thì hội ý, v.v. không phút nghỉ ngơi. Thấy vậy, tôi muốn đỡ việc giặt giũ cho Cụ. Tôi thưa chuyện đó với Đại Toàn. Nhưng Ông Cụ từ chối, vì Cụ không muốn làm phiền nhân dân. Hôm sau, tôi lại nói, lần này, Cụ không nỡ từ chối. Tôi đem áo của Cụ đi giặt, phơi khô, rồi khâu vá lại những chỗ bị rách và đứt chỉ.

Làm việc suốt từ sáng đến trưa, cơm nước xong, không nghỉ, Ông Cụ lại đi. Có lúc thì Cụ đi dạo quanh làng một tí. Nhiều khi lại vào các gia đình để xem việc ăn uống và nghỉ ngơi của bộ đội. Khi quay về, Cụ lại tiếp tục ngồi vào chỗ làm việc cho đến lúc gia đình dọn cơm chiều. Trong ngày cũng có lúc Ông Cụ đi xem việc luyện tập của bộ đội. Có lần bộ đội đi lấy củi, có một số ít đồng chí không đi, Ông Cụ liền hỏi:

- Sao các đồng chí này không đi lấy củi?

Có đồng chí trả lời:

- Thưa Cụ, chúng cháu không có dao.

Ông Cụ liền nói:

- Không có dao thì lên rừng dùng tay kéo, bẻ, rứt lấy, ngày nắng phải đi lấy củi, lúc mưa thì mới có củi để đun.

Tối đến, Ông Cụ làm việc tới khuya mới chịu đi nghỉ. Tuy bận nhiều việc, nhưng Ông Cụ vẫn dành thì giờ để nói chuyện với gia đình và bà con trong bản. Cụ thường gợi lên cảnh khổ của nhân dân ta dưới ách Nhật, Tây. Và Người nêu lên muốn thoát khỏi vòng nô lệ của Nhật, Tây thì chỉ có cách là đứng lên đánh đuổi bọn chúng, để giành lấy độc lập, tự do.

Bộ đội đến đông, để cung cấp đủ gạo cho bộ đội, tôi vận động chị em thanh niên đến nhà tôi xay giã hai ngày liền. Ông Cụ thấy chúng tôi xay giã như vậy, nhân lúc nghỉ ngơi, Cụ mời chị em lên nhà và hỏi chuyện:

- Chị em xay giã gạo để làm gì?

Chúng tôi trả lời:

- Để cho bộ đội ăn, đánh Tây, đuổi Nhật.

Ông Cụ gật đầu và nói:

- Đúng. Xay giã gạo nuôi bộ đội cũng tức là chị em chúng ta đã tham gia đánh Tây, đuổi Nhật.

Mọi người sung sướng, cảm động trước những lời động viên của Ông Cụ. Chúng tôi không biết nói chuyện gì, chỉ nhìn Cụ một cách trìu mến và kính trọng. Cụ lại hỏi tiếp chúng tôi:

- Chị em có đồng bạc trắng thường giữ bằng cách nào để khỏi mất?

Có chị nói:

- Thưa Cụ cất vào trong hòm ạ.

Lại có chị nói:

- Thưa Cụ cất vào trong bao vải rồi buộc vào lưng ạ.

- Các chị đều nói đúng cả, cất giấu bí mật cẩn thận như vậy là đồng bạc trắng không sao mất đi đâu được. Bây giờ, cán bộ, bộ đội đến đông, chị em chúng ta phải giữ bí mật bảo vệ cán bộ, bộ đội như thế nào cho cẩn thận như cất giấu đồng bạc trắng vậy. Muốn thế, ai hỏi gì cũng ba không: Không biết, không thấy, không nghe...

Cụ tươi cười nhìn chúng tôi và hỏi tiếp:

- Bây giờ ta còn có vua quan không?

Nghe Ông Cụ hỏi, tôi nhớ ngay đến câu nói của Ông Cụ hôm mới đến nhà tôi "Không phải bẩm ngài đâu, đồng chí ta cả, đi đánh Tây, đuổi Nhật thôi". Tôi thấy mình chưa hiểu gì lắm về cách mạng. Là cán bộ trong Ban Chấp hành Phụ nữ Cứu quốc đấy, nhưng tôi chỉ biết làm những công việc cụ thể của Đoàn thể thôi. Sự hiểu biết còn nông cạn và ấu trĩ. Tuy vậy trả lời câu hỏi của Ông Cụ đối với tôi cũng không khó lắm. Được Ông Cụ khuyến khích, sau giây phút im lặng, mọi người phát biểu sôi nổi. Chị thì nói rằng có, người nói rằng không, v.v..

Ông Cụ liền giảng giải:

- Ta bây giờ làm cách mạng, thay cũ đổi mới, sẽ không có vua, quan nữa, nhân dân ta tự làm chủ xã hội ta.

Rồi Cụ nói tiếp:

- Muốn vậy, chúng ta phải đoàn kết, cùng một lòng đánh đuổi giặc Nhật, ví như nhiều chiếc đũa nếu đem bó lại thì khó có thể bẻ gãy đấy, nhưng rời từng chiếc một thì rất dễ bẻ.

Được gần gũi Cụ, nghe Cụ giảng giải, tôi càng hiểu thêm nhiều điều mới lạ.

Tôi được đồng chí Lý (tức Kháng) giao nhiệm vụ quản lý và phân phát gạo cho các đơn vị bộ đội.

Tôi không biết chữ, không thể ghi chép được. Tôi rất lo, sợ nhầm lẫn, nhưng cũng vui lòng nhận lời. Không có cân, tôi đong bằng ống. Tôi lấy một sợi lạt dài, cứ phát một ống, tôi lại gập một khúc lạt. Đồng chí Kháng trông thấy liền hỏi tôi:

- Cái gì đấy chị?

Tôi nói:

- Con số của em đấy.

Đồng chí phá lên cười. Tôi ngượng đỏ mặt và tủi cho mình vì không biết chữ nên phải làm như vậy.

- Phải đi học thôi chị ạ. Chiều nay chị đi vận động mọi người, nhất là chị em trẻ về đây họp bàn về việc học tập văn hóa, không có văn hóa, không có chữ thì làm việc gặp nhiều khó khăn lắm.

Nghe đồng chí Kháng nói, tôi cũng nghĩ như vậy nhưng bây giờ nhiều tuổi rồi, không biết có học được không. Tôi hơi lo và nói ngay:

- Học chữ khó lắm, em sợ không học được.

Ông Cụ đang làm việc nghe thấy tôi nói vậy, Cụ nói luôn:

- Học chữ dễ thôi. Đan dậu khó thế mà các chị còn đan được nữa là học.

Tôi nói:

- Thưa Cụ, nhưng mà đan dậu có hàng có lối của nó...

Cụ nói tiếp:

- Học chữ cũng như học đan dậu ấy. Học vài hôm sẽ thấy hàng lối của nó. Phải học mới biết, không học thì biết sao được, là người cách mạng thì phải học.

Được Ông Cụ dạy bảo, khuyên nhủ, được đồng chí Kháng giao nhiệm vụ, tôi vận động chị em về họp bàn việc học tập. Có cách mạng chị em mới được đi học, ai cũng muốn học. Nhưng chỉ băn khoăn là nhiều tuổi rồi sợ không học được. Tôi nhắc lại lời dạy bảo của Ông Cụ, chị em thêm phấn khởi, tin tưởng và quyết tâm học. Hôm sau lớp học đã được khai giảng ở Nhà Cứu quốc, hơn hai mươi chị em đã vui vẻ đến lớp.

Nói đến việc học tập, Ông Cụ rất khéo động viên, dạy bảo. Một hôm, nhân lúc nghỉ ngơi, Ông Cụ hỏi nhà tôi bao nhiêu tuổi rồi. Nhà tôi nói là 38 tuổi. Tuy chưa già nhưng yếu.

Ông Cụ liền nói:

- Ông Chủ nhiệm chưa già đâu, còn khoẻ lắm. Tôi nhiều tuổi hơn ông nhưng tôi còn làm cách mạng, còn phải học... Ông Chủ nhiệm này, càng già càng phải hăng hái tham gia mọi việc cách mạng: Phải học tập văn hóa, học kinh nghiệm công tác, học ở mọi người, mọi lứa tuổi để làm việc được tốt hơn, không khôn hết được đâu.

Rồi Cụ kể:

- Có một lần tôi đi công tác, dọc đường trời mưa đường trơn lầy lội. Ba em bé thấy tôi chúng nói với nhau: "Chà cái ông già này, trời mưa đường trơn mà không chống gậy, không sợ ngã nhỉ". Từ đấy về sau khi trời mưa hoặc đường trơn lầy, tôi đều chống gậy, thấy dễ đi hơn và không ngã.

Cả nhà cười vang! Còn chúng tôi, rất thấm thía những lời dạy bảo của Ông Cụ.

Ông Cụ còn đưa giấy bút cho cháu Khoái - con trai duy nhất của hai vợ chồng tôi để đi học.

Ở nhà tôi được một thời gian ngắn thì Cụ chuyển lên lán Nà Lừa. Gia đình tôi muốn giữ Cụ ở lại, nhưng sinh hoạt ở trong bản và của gia đình tôi không tiện cho Cụ làm việc. Nhà tôi lại đông người ra vào, cũng có người biết được ở nhà tôi có ông già mặc quần áo người Nùng, hiểu sâu, biết rộng, được mọi người kính trọng nên tò mò đến thăm. Do vậy, tôi cũng không dám ngăn. Nhà tôi đã dẫn Ông Cụ cùng đồng chí Đại Toàn và bốn đồng chí nữa đi tìm khu đất và làm nhà cho Ông Cụ.

Nhà của ông Cụ chỉ là một cái lán nhỏ rất đơn giản, nhưng gọn gàng, xinh xắn, ở trên đồi Nà Lừa, gần suối nước, không xa bản bao nhiêu.

Hôm ra đi, cháu Khoái cứ níu áo theo sau. Cụ liền nói với tôi để cho cháu ra ở với ông Cụ vài hôm cho vui. Tôi đồng ý, mà cũng không ngăn được, vì trẻ con được người già yêu thì nó cứ theo. Nhưng ở với Ông Cụ được hai tối, nhớ tôi, cháu lại về.

Tết tháng 5 đến (Tết sâu bọ), nhà tôi làm bún, làm bánh, thịt gà... Tôi lên mời Cụ, nhưng Cụ bận việc không đến được. Hôm ấy, tôi và cả cháu Khoái mang quà lên cho Cụ. Có người ở trong làng thấy vậy, cũng bắt con gà sống mang theo, lên biếu Cụ. Ông Cụ rất trân trọng tấm lòng của nhân dân, nhưng Cụ từ chối:

- Tôi có phải là thầy cúng đâu mà ông mang gà sống lên. Ông mang về nhà đi.

Ở trên lán, tuy bận nhiều việc, nhưng thỉnh thoảng, Cụ vẫn ra ngoài bản thăm các gia đình, đi mừng đám cưới, xem việc luyện tập của bộ đội...

Nhân dân Tân Trào hăng hái tham gia mọi vệc như khuân vác đồ đạc, vũ khí, ủng hộ bộ đội mọi mặt. Để động viên mọi người, Ông Cụ nhờ chị Minh Châu mang quà tặng của Ông Cụ cho bà con. Mỗi gia đình được một hộp cá hoặc hộp thịt, hay hộp mứt... (những thứ đó do ta lấy được của một đơn vị quân Đồng minh thả dù xuống ngay khu vực Tân Trào). Các cháu nhỏ mỗi cháu được một cây bút chì hay quyển vở để đi học. Ông Cụ lên lán được một thời gian thì bị ốm, bị sốt cao. Được tin, nhà tôi liền ra tận Ngòi Thia (gần xã Hồng Thái) lấy râu ngô về nấu nước cho Cụ uống để giải nhiệt. Tôi giã ngô non và lấy nước cho Cụ uống, nhưng Cụ ăn được rất ít. Trông người Cụ gầy đi nhiều. Tôi biết Cụ ốm nặng, nhưng không có một thứ thuốc gì chữa cho Cụ được. Các đồng chí Văn, Đại Toàn, v.v. hết sức lo lắng, tìm thuốc men để chạy chữa. Tôi lên thăm luôn, mang theo gạo để nấu cháo cho Cụ. Bệnh vẫn chưa đỡ, thấy tôi, Cụ gượng dậy bảo tôi hãy về nhà làm việc, đừng lo cho Cụ. Sức khỏe của Cụ dần dần được phục hồi. Ai cũng mừng cho Cụ.

Sau Đại hội Quốc dân ở ngoài đình Tân Trào thì bộ đội ở trong làng cũng rút dần đi hết để tiến về tỉnh, về xuôi giành chính quyền. Đồng chí Văn và nhiều đồng chí cán bộ ở gần Ông Cụ cũng đã đi.

Vào một buổi chiều cuối tháng 8, Ông Cụ cho người xuống báo tin mời nhà tôi lên chơi. Sáng hôm sau, Ông Cụ và các đồng chí đã ra đi...

Biết tin, tôi cứ bùi ngùi, nhớ thương, một con người đáng kính, hết lòng vì nước, vì dân...

Nước nhà giành được độc lập, tin vui tràn khắp núi rừng, bản làng. Ở huyện, không khí nhộn nhịp vui tươi náo nức đi rước ảnh Chủ tịch nước do huyện tổ chức. Nhìn thấy ảnh, tôi mới biết Ông Cụ già mà gia đình tôi đã có dịp gần gũi, người mà tôi thường lên thăm ở lán Nà Lừa chính là Chủ tịch nước Việt Nam ta.

Lòng tôi tràn ngập sự xúc động và niềm vui sướng tự hào...

(Lương Thị Khanh kể, nguyên cán bộ Phụ nữ Cứu quốc xã Tân Trào)

60. Giáo dục các cháu tiến bộ nhiều hơn nữa

Ngày 14-6-1969, Bác lại cho mời chúng tôi đến gặp Bác tại nhà. Chúng tôi vừa mừng vừa lo; mừng vì được gặp Bác, nhưng lo không biết Bác gọi về việc gì. Chúng tôi bồi hồi xúc động nghe Bác căn dặn về việc giáo dục các cháu miền Nam đang học tập ở miền Bắc. Bác biết rõ đầy đủ tình hình các trường học sinh miền Nam. Bác nêu tên một số cháu ngoan và một số cháu còn chậm tiến bộ. Bác bảo chúng tôi: Các cháu miền Nam ra đây xa gia đình, xa quê hương, các cô, các chú phải quan tâm đến tình cảm của các cháu và có trách nhiệm giáo dục cho các cháu tiến bộ. Ngoài việc nuôi dưỡng, dạy dỗ các cháu còn cần phải có tình cảm thật sự thương yêu các cháu. Vì kháng chiến chống Mỹ mà các cháu phải sống xa quê hương, xa gia đình. Bác còn căn dặn chúng tôi phải đem hết tinh thần trách nhiệm cùng với các cơ quan, đoàn thể, các ngành và địa phương có liên quan ở miền Bắc giáo dục cho các cháu tiến bộ nhiều hơn nữa. Chúng tôi hứa với Bác cố gắng làm đúng những lời Bác chỉ bảo để Bác vui lòng.

 Nghe những lời dạy bảo ân cần của Bác, chúng tôi càng thấm sâu tấm lòng yêu thương của Bác đối với miền Nam, đối với thế hệ tương lai của đất nước. Chúng tôi xúc động hẳn khi biết Bác gọi chúng tôi đến căn dặn việc giáo dục các cháu miền Nam sau ngày 10-5 là ngày Bác viết Di chúc để lại cho toàn dân ta. Kể làm sao cho hết tấm lòng của Bác đối với đồng bào, chiến sỹ, thanh thiếu nhi miền Nam!

 Tình cảm của Bác đối với miền Nam sâu rộng hơn biển Đông. Công ơn của Người đối với miền Nam cao dày hơn dãy Trường Sơn. Nhân dân miền Nam đời đời ghi nhớ công ơn của Bác!

(Song Tùng, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

61. Phải chăm chỉ học tập

Ít lâu sau, tôi được sang làm việc bên Bác. Hàng ngày, Bác làm việc ở nhà riêng. Thường Bác tự đánh máy lấy. Hết giờ làm việc, Bác cùng sinh hoạt chung với anh em. Vui nhất là sau giờ làm việc buổi chiều, Bác thường cùng anh em trong cơ quan đánh bóng chuyền. Bác già, tay cứng nên búng bóng yếu, “đối phương” muốn gỡ điểm, thường phát bóng vào chỗ Bác, Bác liền nói to:

- A, “truy tủ” hả. Bác vừa nói vừa nhảy lên đỡ bóng.

Có lần đối phương phát bóng “ác” quá, Bác biết không đỡ được, liền kêu:

- Trường, Kỳ, Kháng, Chiến đâu? Cứu bóng! Người đánh lẫn người xem cười vui vẻ.

Bây giờ theo chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, cơ quan chọn cử một số cán bộ trẻ ra nước ngoài học. Tôi cũng ở trong số đó. Nhưng tôi không muốn đi.

Biết được điều đó, Bác liền gọi đến. Bác hỏi, tôi trả lời Bác:

- Dạ, thưa Bác, cháu muốn được công tác ạ.

- Thế cháu muốn công tác thật tốt không?

- Có ạ.

- Có muốn phục vụ nhân dân được không?

- Có ạ.

- Thế thì phải đi học. Bây giờ có điều kiện thì phải học tập. Học tập để hiểu nhiều, biết nhiều. Có hiểu nhiều biết nhiều, mới phục vụ nhân dân tốt được.

Sau khi giảng giải và khuyên tôi đi học là cần thiết, Bác dặn:

- Đi học thì phải chịu khó, chăm chỉ học tập. Chưa hiểu thì hỏi, không được giấu dốt, đã hiểu rồi thì bảo lại cho bạn cùng hiểu.

Rồi Bác lấy cái hộp thuốc lá của Bác đưa cho tôi. Bác nói:

- Bác cho cháu cái hộp này để đựng kim chỉ, ngoài giờ học thêu, thùa, vá, may. Con gái phải biết làm những điều đó.

Tôi sang nước bạn ở khu học xá, rồi vào trường sư phạm. Tốt nghiệp xong, tôi về nước, dạy học ở Việt Bắc cho đến ngày chiến thắng thực dân Pháp, tôi mới về Thủ đô.

(Hiền Đức, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

Tâm Trang (tổng hợp)


 62. Đi làm ruộng với nông dân

Bác sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà Nho, nhưng là nhà Nho có nguồn gốc nông dân. Thời gian dài từ tấm bé đến tuổi học trò Bác sống ở quê giữa những người nghèo khổ, một nắng hai sương ngoài đồng nên Người thấm thía nỗi khổ, nỗi vất vả của người nông dân. Những việc của nghề nông đối với Bác cũng không có gì xa lạ. Thời kỳ hoạt động cách mạng ở nước ngoài, khi Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân, có người thắc mắc hoài nghi vì Bác khai trong lý lịch là xuất thân nhà Nho, trí thức, nghề nghiệp chính lại là thủy thủ, họ e rằng Bác sẽ không có điều kiện để am hiểu các vấn đề về nông dân. Sau khi bế mạc Đại hội Nông dân, các đại biểu đi thăm một nông trang, thấy nông dân đang lao động, Bác cũng xắn quần xuống giúp một nông dân đang làm ruộng, việc nhà nông đối với Bác không gì khó khăn, trong khi các đại biểu nhiều người đang lúng túng, thì Bác làm nhanh nhẹn như một nông dân thực thụ, trước con mắt thán phục của mọi người. Có ai biết một thời Bác ra đồng cùng người dân quê làng Sen làm lụng, hay những lúc đi trồng nho cùng những người nông dân nghèo khổ ở Bruklin nước Mỹ. Trên mặt trận báo chí công luận, Bác là người viết nhiều về nông dân, tố cáo, vạch mặt sự bóc lột sức lao động người nông dân của địa chủ cường hào phong kiến, đẩy nông dân vào con đường bần cùng bằng sưu cao thuế nặng. Bác đã tìm ra và chính Người đã thực hiện cương lĩnh giải phóng người nông dân bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử. Người đã để lại một di sản có một không hai trong lịch sử loài người chân dung một lãnh tụ bên người nông dân...

Ngay sau khi giành được chính quyền, tuy bận trăm công nghìn việc, Bác vẫn dành nhiều thời gian, không chỉ nhắc nhở các địa phương đắp đê chống bão lụt, mà còn trực tiếp xuống tận các xã để đôn đốc, kiểm tra công việc. Biết tin đê sông Hồng ở khu vực Hưng Yên, Thái Bình bị vỡ, Bác đích thân xuống kiểm tra việc khắc phục hậu quả để có biện pháp kịp thời cùng chính quyền địa phương vận động giúp đỡ nhân dân vượt qua khó khăn. Bác hỏi cặn kẽ số người bị nạn, trước hết phải lo cái ăn để họ khỏi đói bữa, sau đến nơi ở và ổn định sinh hoạt cho mọi người, tập trung nhân tài vật lực để đắp lại chỗ đê bị vỡ. Bác hứa khi nào đắp xong Bác sẽ xuống thăm. Thế rồi giữ đúng lời hứa, bốn tháng sau Bác xuống cắt băng khánh thành chỗ đê vừa mới đắp. Bác đi kiểm tra một lượt, nhìn chỗ giáp ranh đê mới đê cũ, Người nhắc nhở phải tăng cường gia cố mới an toàn. Bác vừa đi vừa nhún thử độ lún, khen đắp nhanh nhưng chưa lèn chặt, cần tăng cường thêm lực lượng để đầm thật kỹ mới bảo đảm lâu dài.

Thay mặt "Ban đời sống mới" nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đến báo cáo với Bác là hoạt động của Ban dựa trên ba nguyên tắc: Dân tộc, dân chủ và khoa học. Nghe xong, Bác bèn nói: "Trong đồng bào ta chưa mấy người hiểu những từ chú nói mà hiện nay họ cần là cần cái này'', vừa nói Bác vừa chỉ tay vào bụng, "phải có cái ăn đã nếu không có ăn không làm gì được. Hoạt động của "Ban đời sống mới" cũng phải tập trung cái đó đã, vận động bà con "lá lành đùm lá rách", "tăng gia sản xuất, cứu đói".

Hậu quả nạn đói năm 1945 như một bóng ma ghê rợn phủ lên cuộc sống đói rách của người nông dân, càng làm không khí ảm đạm khó khăn thêm. Trên cương vị Chủ tịch nước, Bác đi xuống các địa phương như Ninh Bình, Thái Bình... để đôn đốc việc cứu đói, tổ chức tăng gia sản xuất, đắp đê phòng chống thiên tai... Một lần trong cuộc họp, bàn chống đói, Bác nói: ''Các chú biết không, người xưa nói: Dân vĩ thực vi thiên''. Có đồng chí tưởng Bác nói nhầm bèn chữa lại: Thưa Bác: "Dân dĩ thực vi tiên chứ ạ". Bác cười và giải thích: "Bác nói "Dân dĩ thực vi thiên" là người xưa dạy ''Dân lấy cái ăn làm trời", Đảng, Chính phủ phải lo cái ăn cho dân không được để dân đói". Đó là Bác lấy lời của Lục Sinh nói với Hán Cao Tổ: "Nhà vua lấy dân làm trời, dân lấy cái ăn làm trời". Bác dạy thật chí lý. Năm 1955, nghe tin lũ lụt lớn ở Kiến An gây thiệt hại lớn về người và của cho nhân dân, Bác cho gọi đồng chí có trách nhiệm lên hỏi cụ thể. Bác hỏi: Xã Hòa Nghĩa mấy người chết, nhà cửa, trường học, bệnh xá bị đổ bao nhiêu. Khi nghe báo cáo con số thiệt hại cụ thể. Bác rất lo lắng và rơm rớm nước mắt, nhất là biết có nhiều gia đình chết người và trôi nhà cửa. Bác căn dặn phải có phương án tỷ mỉ khắc phục hậu quả thiệt hại. Người chỉ thị Tỉnh ủy phải trực tiếp chỉ đạo và dặn đi dặn lại: "Trước hết phải lo để không một người bị đói". Cứ đến mùa nước lũ, hay kỳ hạn hán Bác thường trực tiếp xuống địa phương tham gia "chống trời" cùng nhân dân. Nhớ lần về công trường Đại thủy nông Bắc - Hưng - Hải, Bác xuống công trường tham gia lao động như một người dân. Trên đường đi, thấy một chị đang đẩy xe cút kít nặng nề lên dốc, Bác vội chạy đến đẩy giúp chị...

Lần Bác về Hải Hưng tham gia chống hạn với nông dân, nghe tin Bác về các đồng chí cán bộ tỉnh tổ chức đón Bác long trọng. Bác không hài lòng, phê bình ngay: "Bác về là đi chống hạn chứ có phải đi chơi đâu mà đón tiếp" Bác ăn mặc quần áo như một lão nông thực sự. Người đi rất nhanh đến chỗ nhân dân đang đào mương, xắn quần, xắn tay áo xuống cùng đào đất với bà con, để lại phía sau các "quan cách mạng" trong những bộ quần áo bảnh bao đang lúng túng hổ thẹn trước dân chúng. Cuối cùng tất cả cùng ào xuống đào đất với bà con theo gương Bác. Bác không nói, không hô hào, nhưng Người đã làm cuộc "cách mạng" cho "các quan" trước muôn dân. Bác ăn cơm chung với mọi người tại nơi đang đào mương. Thấy người xới cơm xới bát nào cũng vơi Bác nói vui: "Chú xới cơm thế này thì công việc làm sao cho đầy được" Bữa ăn có Bác vui hẳn lên. Bác hỏi chuyện: "Các chú có biết nấu nướng không?" Mỗi người kể theo cách hiểu của mình. Bác thừa hiểu chẳng có ai ở nhà thực sự giúp vợ nấu ăn cả nên nghe nói nấu nướng sao thì kể vậy. Rồi Bác kể chuyện hồi xưa Bác làm phụ bếp thế nào nên biết nấu nướng, Bác nói nghề nấu ăn ai biết nấu kể là biết ngay, còn ai chỉ nghe hoặc nhìn thì không thể bịp được người khác, vì kỹ thuật nấu ăn quan trọng là chỗ này. Bác chỉ vào mũi, chứ không phải chỗ này - Bác chỉ vào mắt và tai. Bác nói tiếp, vì sao mọi người phải biết nấu ăn là vì vừa giúp được “cô ấy” có thời gian học tập và nuôi dạy con cái vừa rèn luyện mình, chữa cái bệnh hão, bệnh sĩ, bệnh gia trưởng thâm căn cố đế, cho việc bếp núc là của đàn bà. Hơn nữa khi tự mình nấu thì mình ăn ngon hơn, thích ăn món nào thì làm món ấy. Chuyện vui, nhưng Bác giáo dục đạo đức con người, đạo đức cộng sản trong cán bộ. Bác lo lắng quan tâm đến sự tiến bộ của cán bộ từ những việc làm bình thường nhất nhưng chính đó là những xuất phát điểm của đạo đức chân chính, mà mọi người cán bộ muốn dân tin thì soi vào để tự xem xét rèn luyện hoàn thiện mình.

Bác về Hà Đông chống hạn, khi đến một con mương chắn ngang đường, đồng chí Chủ tịch tỉnh mời Bác đi vòng đến chỗ dễ qua hơn. Nhìn xuống thấy đồng chí Chủ tịch tỉnh đi đôi giày bóng lộn. Bác bảo: "Chú cứ đi đường ấy"; nói rồi, Bác cởi dép lội tắt qua cho nhanh để đến với nông dân đang tát nước chống hạn. Sang bờ bên kia, Bác bảo mọi mười cùng tát nước giúp dân. Bác chỉ một thanh niên ăn mặc bảnh bao cùng tát nước với Bác, nhưng đồng chí này không biết tát nước, đồng chí Bí thư tỉnh đỡ lời: "Thưa Bác, đồng chí này là nhà báo ạ". Bác cười và nói: "Nhà báo của nông dân thì phải biết lao động như nông dân thì viết mới đúng được".

Mỗi người dân chúng ta ai cũng được xem hình ảnh Bác đang đạp nước trên guồng chống úng, ghi nhận trong ta hình ảnh Bác hòa mình với nỗi vất vả một nắng hai sương của người nông dân. Khắc sâu trong ta tâm niệm Chủ tịch nước cũng là một công dân, một người lao động trong triệu triệu người không có gì cách biệt. Đó là hình ảnh được ghi lại vào năm 1960 khi Bác về chống úng tại xã Hiệp Lực. Vừa đạp guồng nước, Bác vừa nhắc nên lắp ổ bi vào trục để người đạp đỡ vất vả, mà năng suất cao hơn. Bác hỏi các cô thanh niên có biết hát đối không, rồi Bác lẩy Kiều: "Trăm năm trong cõi người ta, chống úng thắng lợi mới là người ngoan". Bác bảo các cô lẩy tiếp, các cô vì mải nhìn Bác nên không chuẩn bị không lẩy tiếp được chỉ biết vỗ tay, và xin mắc nợ với Bác. Bác nói: ''Muốn lao động đỡ mệt và có sức mạnh thanh niên nên tổ chức văn nghệ".

Năm 1958, Bác về Nam Định dự Hội nghị "Bàn về sản xuất nông nghiệp". Bác chăm chú lắng nghe các bản báo cáo thành tích của các đơn vị. Bác chú ý bản báo cáo nói về cách làm các loại phân bón. Bác đứng lên nhìn khắp hội trường và hỏi to: "Chú nào gánh bùn đổ cho hai sào lúa có đây không?". Không có ai đứng dậy. Một đồng chí cán bộ tỉnh ủy báo cáo là người nông dân đó không thuộc diện tham dự hội nghị này. Bác phê hình và yêu cầu cho người đó đến dự hội nghị ngay. Bác hỏi, chị em phụ nữ ở đây có đội phân nữa không? Các đồng chí cán bộ tỉnh chưa dám báo cáo với Bác ngay, may có chị đại biểu nữ đỡ lời: "Thưa Bác, chị em ở đây không quen gánh nên cái gì cũng đội ạ". Bác dặn: "Nên tìm cách cải tiến vận chuyển bằng xe để đỡ cho chị em về lâu dài".

Năm 1968, Bác về chống hạn ở Nghiêm Xuân (huyện Thường Tín); hôm đó Bác đến sớm, đồng bào còn vắng, tiện đường Bác xuống khu dân cư, hỏi thăm bà con. Bác vào một nhà dân hỏi Tết vừa qua gia đình đón Tết có vui không? Có cụ già 60 tuổi thưa với Bác là ăn Tết không vui. Bác hỏi vì sao, cụ kể lại gia đình từ xưa có ngôi nhà gần đường, vừa qua huyện có lệnh đuổi bà đi để mở đường, không bồi thường, cũng không chỉ cho gia đình chuyển đi đâu, vì thế gia đình ăn Tết không vui, người ra lệnh ấy là ông chủ tịch huyện. Bác lắng nghe mà vẻ mặt không vui, Bác bảo, làm người cán bộ như vậy là không xứng đáng, không khác gì cường hào xưa. Sau đó Bác chỉ thị phải điều tra làm rõ ngay. Vị Chủ tịch kia bị kỷ luật. Lòng dân rất phấn khởi và nhắc mãi chuyện đó như làm gương cho cán bộ đối với dân phải làm gì. Hôm đó Bác tham gia chống hạn với dân, trời nắng to có đồng chí cầm ô che cho Bác, Bác bảo: "Dân chịu được thì Bác cũng chịu được, chú làm như Bác là ông quan thời xưa". Trên đường đi chống hạn giúp dân, thấy phía trước có xe công an còi inh ỏi dẹp đường, Bác cho dừng xe và lệnh cho xe công an dừng lại, Bác mới đi tiếp. Bác phê bình: "Bác xuống với dân để chống hạn mà các chú làm cho dân họ sợ thì xuống làm gì?"...

Những năm tháng cuối đời, tuy sức khỏe yếu nhưng Người đã dành nhiều thời gian làm việc với các đồng chí phụ trách nông nghiệp. Họp Bộ Chính trị hay trong các buổi làm việc về nông nghiệp Bác thường nhắc đến Điều lệ Hợp tác xã. Bác bảo công nhân có ngày kỷ niệm, nên lấy ngày ban hành Điều lệ Hợp tác xã làm ngày kỷ niệm cho nông dân. Bác dặn viết bản Điều lệ sao cho nông dân ít học cũng hiểu được. Sau khi đọc bản dự thảo, Bác nói đây là bản dùng cho cán bộ, còn đối với xã viên thì viết phải tóm tắt hơn, dễ hiểu hơn. Bác đọc và sửa chữa rất kỹ, có chỗ nào chữ nghĩa cầu kỳ khó hiểu Bác đều sửa lại. Số thứ tự các chương đánh số La Mã, Bác sửa lại "chương Một... Hai...". Sau đó Bác yêu cầu chuyển nội dung bản Điều lệ sang diễn ca phát trên đài phát thanh cho dân dễ thuộc, dễ nhớ, để làm theo.

(Trích trong “Hồ Chí Minh - chân dung đời thường”)

63. Tặng Thủ tướng bó hoa này thì tốt lắm!

Chúng tôi vừa tới phòng đợi thì Người từ phòng riêng bước ra. Thấy chúng tôi, Người tươi cười nói:

- A! Năm mới Bác mừng các chú thêm một tuổi! Bác gửi các chú lời chúc mừng năm mới được mạnh khoẻ, sản xuất, tiết kiệm tốt tới các cụ, các thím, các cháu ở nhà!

Rồi Bác khen:

- Năm mới có khác, trông chú nào cũng đẹp trai! Thấy đồng chí đại biểu cầm bó hoa bước ra, Bác bảo ngay:

- Các chú thật khéo vẽ chuyện! Bác với các chú sống bên nhau hằng ngày, việc gì phải hoa!

Người ngừng lại, cùng chúng tôi cười vui rồi nói tiếp:

- Dáng chừng Bác cho ăn cỗ Tết mà đến tay không thì ngại, phải không? Các chú trồng được nhiều rau tốt, sao không chọn những cây nào đẹp, tốt, trồng vào chậu cảnh mang tới biếu Bác. Bác sẽ đặt nó ở trước phòng khách. Khách tới Bác sẽ giới thiệu là các chú trồng, hết Tết các chú lại mang rau về dùng. Thế là Bác có quà tặng, các chú được tuyên truyền, mà lại chẳng mất gì cả! Như vậy có tốt hơn không?

Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, thật là ngượng ngập. Để đại biểu tặng hoa Bác lúc này cũng dở, mà mang về cũng dở…

May sao Bác gỡ thế bí cho chúng tôi, Người bảo:

- Các chú mua được hoa đẹp đấy! Ta mang sang chúc Tết Thủ tướng đi! Tặng Thủ tướng bó hoa này thì tốt lắm!

Mừng quá chúng tôi reo lên, theo Người sang chúc Tết đồng chí Thủ tướng. Gần tới nhà đồng chí Thủ tướng, Bác vui vẻ nói to lên:

- Năm mới, các chiến sỹ, cán bộ tới chúc Tết Thủ tướng. Chúc Thủ tướng mạnh khỏe, cùng nhân dân giành nhiều thắng lợi mới!

Đồng chí Thủ tướng nghe thấy giọng nói của Bác, vội vàng từ trong nhà bước ra đón, nét mặt Thủ tướng vui vẻ, sung sướng, đáp lễ lại lời chúc mừng của Bác. Và, kể từ năm ấy, cứ 30 Tết là chúng tôi lại chọn bốn cây bắp cải, bốn cây su hào, loại to nhất, đẹp nhất trong vườn, đưa tới chúc Tết Bác. Bác đem đặt ở hai bên bậc lối vào phòng khách, xen lẫn với những gốc quất, gốc đào.

Ai nhìn thấy quất đỏ, đào hồng bên cạnh những cây su hào, bắp cải xanh mơn mởn cũng khen là đẹp.

(Trích trong cuốn "Kể chuyện Bác Hồ")

64. Phải quan tâm đến mọi người hơn

Hội trường Đảng Nguyễn Ái Quốc còn ở căn cứ kháng chiến Việt Bắc, một lần Bác Hồ đến dự lễ bế giảng của trường. Xuống thăm nhà bếp, Bác thấy làm cỗ có vẻ linh đình, Bác nói với đồng chí phụ trách trường: "Này, bế mạc, chứ không phải "bế bụng" đâu nhé! Kháng chiến còn khó khăn lắm đấy, các chú ạ".

Đến bữa ăn, thấy mâm cơm chỉ có một bát, một đôi đũa, Bác hỏi: "Thế Bác ăn với ai?". Đồng chí phụ trách gãi đầu gãi tai: "Dạ, xin để Bác ăn riêng cho tiện...". Bác ngắt lời: "Không tiện gì cả. Thế ra các chú muốn cho Bác ăn trên ngồi trước à?". Và Bác đòi phải bê các món ăn của cán bộ, nhân viên nhà trường lên cho Bác xem, rồi Bác bảo kê thêm bàn ghế cho mọi người cùng ăn với Bác. Bố trí xong xuôi cả rồi, Bác mới vui vẻ, bảo mọi người: Ngồi cả vào đây, ăn chung với Bác, ăn một mình thì Bác ăn sao được? Khi Bác lên nói chuyện với các học viên, đồng chí phụ trách trường giới thiệu: "Bác Hồ sẽ huấn thị cho chúng ta". Bác cười mà bảo rằng: “Tôi nói chuyện với các đồng chí thôi chứ có ''huấn thị" gì đâu”.

Buổi tối, Bác ở lại trường để làm việc. Các đồng chí mang đến cho Bác một chiếc đèn tọa đăng rất sáng. Khoảng 9 -10 giờ tối, Bác cầm đèn đó xuống Văn phòng trường và bảo rằng: Đèn này to, tốn dầu lắm! Bác còn làm việc khuya, một chiếc đèn con thôi cũng đủ. Các đồng chí đổi cho Bác chiếc đèn khác".

Sáng sớm hôm sau, trước khi Bác chia tay trường, đồng chí phụ trách hỏi Bác có điều gì căn dặn thêm về công việc của trường. Người nói: "Tôi chỉ mong là các đồng chí đừng quan tâm đến tôi quá mà phải quan tâm đến mọi người hơn".

(Trích trong "Bác Hồ với chiến sĩ")

Tâm Trang (tổng hợp)


 65. Bữa cơm gia đình

Khoảng cuối năm 1951, trong một lần đến thăm và nói chuyện với học viên lớp chính trị của quân đội ở Việt Bắc, Bác bảo anh Phương - chồng tôi là cán bộ phụ trách lớp:

- Chiều nay, chú cho Bác ăn bữa cơm, vì nói chuyện xong, tối, Bác còn phải đi họp với một chi bộ ở Định Hóa.

Bấy giờ tôi cũng làm văn thư ở Hiệu bộ, nên anh Phương cử người nhắn tôi chuẩn bị.

Công việc của Bác xong xuôi, Bác về đến cơ quan thì cơm nước cũng đã sẵn sàng. Sinh hoạt ở rừng còn thiếu thốn, kham khổ. Anh em muốn "bồi dưỡng" cho Bác, để Bác khỏe, nhưng lại sợ. Nhưng rồi cũng quyết định thịt một con gà "tăng gia" kiếm ít măng rừng làm cơm mời Bác.

Bác ngồi vào bàn ăn, bảo anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp), hai vợ chồng tôi và đồng chí cảnh vệ cùng ăn. Tôi cứ một mực từ chối:

- Thưa Bác cháu ăn rồi. Mời Bác và các anh, các chú xơi cơm đi...

Mãi sau, Bác mới đồng ý và bắt đầu dùng cơm. Vào bữa cơm Bác nói:

- Cô cho Bác xin quả ớt. Tôi vội thưa:

- Thưa Bác, trong bát măng có ớt rồi đấy ạ. Nhưng khi ăn, Bác tìm mãi không thấy ớt. Tôi ngại quá, bèn nói thật:

- Thưa Bác, chúng cháu sợ Bác ăn ớt có hại sức khỏe nên không dám cho vào măng nấu ạ. Bác quay sang anh Phương:

- Chắc chú lệnh cho cô văn thư chứ gì. Thế là chú quan liêu rồi...

Anh Văn chỉ tủm tỉm cười nói thêm: - Ớt là "vi-ta-min ơ" của Bác đấy.

Bữa cơm của Chủ tịch nước giản dị, vui vẻ, thân mật như bữa cơm trong một gia đình ấm cúng.

Cơm nước xong Bác hỏi tôi:

- Cô thư ký được mấy cháu, tên là gì? Anh Phương đỡ lời tôi:

- Thưa Bác, được ba cháu gái đặt tên là Thu Thủy, Thu Thảo, Thu Vân. Bác cười hiền từ, nói:

- Tôi có hỏi chú đâu! Sao đặt tên "văn chương" thế! Gọi là "Thu Ngô, Thu Khoai, Thu Sắn" có hay không? Mọi người cũng cười vui vì biết Bác liên hệ với phong trào tăng gia sản xuất, trồng thêm màu ngô, khoai, sắn... sản xuất nhiều lương thực đóng thuế nông nghiệp, nuôi bộ đội đánh giặc, mà Chính phủ mới phát động.

Lát sau, Bác lại bảo:

- Bác nói vui thế thôi. Những cái tên Việt Nam ấy rất đẹp.

Chưa kịp nghỉ ngơi, Bác đã chuẩn bị lên đường, Bác đeo balô đi trước, hai đồng chí cảnh vệ, anh Văn tiếp bước sau Bác. Mới đông mà sương chiều Việt Bắc đã xuống rất nhanh tụ thành những đám mây lụa mỏng trắng bìa rừng.

Chúng tôi nhìn theo Bác, ung dung, khoan thai như đi dạo cảnh thiên nhiên hùng vĩ, ngỡ ngàng như vừa được qua một giấc mơ đẹp trong một bữa cơm gia đình.

(Trích trong "Bác Hồ - con người và phong cách")

66. Bác Hồ ở Pác Bó

Ngày mồng 3 Tết, năm Tân Tỵ, tức ngày 08 tháng 02 năm 1941 Bác về đến Pác Bó. Pác Bó thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng. Nơi đây núi rừng trùng điệp và địa thế hiểm trở rất có lợi cho hoạt động bí mật của cán bộ Việt Minh, nhiều cơ sở cách mạng ở vùng Pác Bó đã được xây dựng vững chắc. Gia đình cụ Máy Lỳ là một trong những cơ sở chúng tôi chọn làm nơi để Bác ở và làm việc. Gia đình chỉ có ba người, cụ ông, cụ bà và cô con gái. Nhà không được rộng nhưng thoáng mát, ngay bìa rừng và kín đáo, đi lại rất thuận tiện. Gia đình đón tiếp Bác và chúng tôi rất thân mật.

Sau bữa cơm Tết chiều mồng 3, Bác đã chỉ thị chúng tôi phải nghiên cứu từng nơi ở và làm việc cho thích hợp và kín đáo hơn. Bác nói đại ý: “Ở đây dựa vào dân thì có nhiều thuận lợi nhưng cũng có cái không lợi cả cho yêu cầu hoạt động bí mật của ta mà cũng không tiện cho sinh hoạt của dân, nên phải "sáu sán" thôi...". "Sáu sán" tiếng địa phương có nghĩa là vào núi. Mà đã vào núi thì phải ở hang hoặc dựng lán... Và ngay tối hôm đó bên bếp lửa nhà sàn, Bác hỏi cụ Máy Lỳ ở đây có chỗ nào mưa không hắt tới không? Như vậy chúng tôi hiểu ý Bác là phải ở hang. Chúng tôi bàn cách tìm hang. Cụ Máy Lỳ cho biết, gia đình cụ có một cái hang sâu và rất kín dùng lánh nạn khi có biến (có phỉ về cướp, giết). Sáng hôm sau (ngày mồng 4 Tết), chúng tôi mời Bác đi. Xem hang nhà cụ Máy Lỳ, Bác ưng ngay. Chúng tôi quyết định tiến hành công tác chuẩn bị vào hang. Anh Phùng Chí Kiên giao cho tôi liên hệ với cơ sở để chuẩn bị các thứ. Anh Cáp, anh Lộc được phân công trở lại hang nghiên cứu thêm lối vào, đường ra và tình hình cụ thể trong hang.

Cụ Máy Lỳ cho chúng tôi mượn 5 tấm ván gỗ nghiến. Ván hơi ngắn nên khi kê để ngủ phải nằm hơi co mới đủ chỗ cho 5 người. Chúng tôi chặt cây làm một cái giá trên có tiếp nứa để Bác và anh em đặt túi đựng quần áo.

Ngày 5 Tết thì Bác và chúng tôi dọn vào hang. Cùng ở hang với Bác có anh Phùng Chí Kiên, Hoàng Sâm, Thế An, anh Cáp, anh Lộc và tôi. Nhóm công tác của chúng tôi do anh Phùng Chí Kiên phụ trách, còn các anh Quốc Vân, Đức Thanh (tức Đàm Minh Viễn) là đường dây liên lạc đồng thời phụ trách lực lượng vũ trang bảo vệ vòng ngoài.

Ở hang được ít lâu, chúng tôi thấy trong người rất mệt. Sức khoẻ của Bác lúc đó cũng không được tốt lắm. Người gầy, nước da xấu, ăn uống kham khổ mà Bác lại làm việc căng thẳng nên chúng tôi rất lo.

Tuy nói là bảo vệ Bác, nhưng thực chất Bác lại là người dạy chúng tôi rất nhiều trong công tác bảo vệ. Bác quan tâm giáo dục chúng tôi chi li từng việc rất bổ ích. Những việc tiếp xúc với dân trước hết phải được nhân dân quý mến, tin tưởng nhưng đồng thời phải có câu chuyện hóa trang hợp lý đảm bảo giữ bí mật công việc cách mạng đang làm. Và thực tế chúng tôi đã làm tốt lời Bác dạy. Những cơ sở cách mạng ở vùng Pác Bó ngay cả như anh Đại Lâm cũng chỉ biết có cán bộ Trung ương quan trọng về nhưng không biết có bao nhiêu người, cụ thể là ai và hiện nay ở đâu.

Còn chuyện nhận lương thực do dân giúp đỡ, Bác dạy mỗi lúc phải có giờ giấc, cách làm, cách đi lại khác nhau không để địch nắm được quy luật hoạt động của ta, ngày nhận lương thực chuyển đến phải luôn thay đổi; mang lương thực trên đường phải hóa trang hợp lý và đường đi phải có hướng thay đổi luôn. Gạo và muối do các cơ sở vận động quyên góp không nên tập trung để ở một nhà, phải phân tán một nơi một ít. Đồ dùng cho hậu cần mượn của dân phải mỗi nhà một thứ, thậm chí có thứ phải mượn nhiều nhà... Bác kể cho chúng tôi nghe rất nhiều những mẩu chuyện về đời hoạt động của Bác khi còn ở nước ngoài, nội dung mỗi chuyện tuy xảy ra ở các nước khác nhau nhưng đều nhằm giáo dục chúng tôi ý thức giữ bí mật. Cuối cùng Bác dạy: "Trong điều kiện và hoàn cảnh cách mạng nước ta hiện nay, bí mật phải được coi là nguyên tắc trong mọi hoạt động của Đảng...".

Tuy nói lúc đó Pác Bó là khu vực an toàn hơn các khu khác trong vùng, nhưng lại là nơi kẻ địch luôn dòm ngó, tìm kiếm, tổ chức phục kích các ngả đường nghi có cán bộ ta đi qua. Cách nơi Bác về phía bản Lũng 10 cây số, chúng dựng đồn với hơn một trung đội lính dõng do Pháp chỉ huy tổ chức tuần tra, kiểm soát, bắt bớ hoặc càn quét những bản nghi có cán bộ ta hoạt động. Đồng thời hoạt động của bọn phỉ lúc này cũng rất táo tợn nên chúng tôi càng lo lắng, trăn trở về nhiệm vụ bảo vệ Bác.

Hằng ngày sau giờ làm việc buổi chiều, Bác thường đi dạo leo núi, nhưng thực ra là Bác đi nắm tình hình khu vực, phần lớn anh em chúng tôi hoạt động ở vùng này lâu nay quen với lội suối trèo đèo nhưng đôi lúc phải vừa đi vừa chạy mới theo kịp Bác. Có nhiều việc rất đơn giản nhưng khi Bác hỏi anh em chúng tôi không trả lời được. Cũng có việc chúng tôi đã làm nhưng khi nghe Bác giảng giải mới biết mình còn đơn giản và khờ dại quá. Ý thức cảnh giác có nghĩ đến nhưng cách giữ bí mật còn tuỳ tiện, non kém. Bác dạy chúng tôi hoạt động ở vùng núi, dân thưa, khi đi công tác tốt nhất là phải đem theo cơm nắm. Như vậy vừa được việc mà không gây phiền hà cho dân. Kẻ địch lại rất tinh quái, ở đâu mà chúng chẳng cài người vào. Những bang tá, trưởng bản,... và ngay cả những gia đình người dân tộc sống ven đường đi, địch thường dùng vật chất như bạc hoa xòe, muối, vải để mua chuộc làm chỉ điểm. Mình phải sâu sát giáo dục ý thức ủng hộ cách mạng cho đồng bào, nhưng phải chú ý phát hiện tay chân của chúng. Trên đường đi, khi ăn cơm phải tìm nơi suối sạch sẽ, ăn xong lá đùm cơm phải chôn sâu, tiện khi rửa tay khoát cho nước dội hết những hạt cơm vãi xuống suối, cá được ăn mà ta lại xoá được dấu vết làm cho kẻ địch có mắt cũng như mù. Hoạt động bí mật phải "lai vô ảnh, khứ vô hình". Chúng ta đến địch không biết mà rút đi chúng cũng không hay, thì mới bảo vệ được mình và có nhiều thuận lợi diệt địch.

Tới đây lực lượng cách mạng sẽ phát triển. Kẻ địch lại đang tìm mọi cách tiêu diệt lực lượng cách mạng. Tình hình sẽ căng thẳng và phức tạp hơn nhiều. Chúng ta phải vừa chiến đấu vừa tăng gia sản xuất và làm nhà ngoài rừng để ở. Tăng gia hoặc làm nhà cũng phải biết giữ bí mật. Trồng rau hay gieo bắp cũng phải làm đúng kiểu cách của dân tộc nơi mình ở. Làm lán ở cũng phải giống kiểu lán của đồng bào. Nếu ta làm khác đi là địch và bọn xấu sẽ phát hiện được ngay. Khi làm lán cũng phải biết tính toán sao cho có lợi đôi đường. Mỗi lán chỉ nên làm đủ cho 1 đến 2 người ở là cùng. Nơi làm lán phải xem xét vừa lợi cho việc quan sát phát hiện địch từ xa nhưng đồng thời phải có đường rút khi bị vây. Liếp che chung quanh lán không nên dùng nứa đan vững chắc mà nên lấy cỏ tranh tết nẹp lại thành tấm để thưng. Trường hợp bị địch vây hoặc đến gần mới phát hiện thì chỉ việc lách nhẹ qua liếp tranh cho dễ dàng. Muốn bảo vệ Đảng, trước hết mỗi đảng viên phải suy nghĩ tự bảo vệ mình. Nghĩ lại những năm trước đây, khi Đảng bị khủng bố, nhiều đồng chí bị bắt bớ tù tội và hy sinh, anh em chúng tôi càng thấm thía lời Bác dạy.

Ở hang đến tuần thứ hai, chúng tôi thấy tình hình sức khoẻ của Bác có hiện tượng mệt mỏi hơn. Chúng tôi ai nấy đều lo lắng cho sức khoẻ của Bác. Có hôm dọn vệ sinh, anh Hoàng Sâm phát hiện thấy rắn độc chui vào hang, nằm dưới tấm phản ngay chỗ Bác. Hàng ngày Bác vẫn mải miết làm việc, ít khi thấy Bác rảnh rỗi. Mỗi buổi đi dạo, chúng tôi vẫn thấy Bác nhanh nhẹn, vui vẻ hoạt bát nên cũng yên lòng. Cứ dăm ba ngày cụ Máy Lỳ lại đem lương thực vào một lần. Bác tiếp cụ rất thân mật và chuyện trò thật vui vẻ. Ngay cả cụ Máy Lỳ cũng không biết Bác là ai. Một lần trong câu chuyện vui, cụ hỏi tên Bác, Bác cười rồi chậm rãi giải thích: "Sáu sán" là vào núi còn có nghĩa là "Thu Sơn". Tên tôi là "Thu Sơn". Từ đó mỗi lần gặp cụ Máy Lỳ thường chào Bác bằng câu chào ké Thu Sơn (Già Thu). Chúng tôi và một số anh em khác cũng từ đó dùng cái tên "Già Thu" để giải thích cho các đồng chí khác khi bị hỏi về Bác mà theo nguyên tắc không được nói rõ hơn.

Chúng tôi có ý định làm lán để Bác ở, đảm bảo sức khoẻ hơn. Khi báo cáo ý định đó, được Bác đồng ý, chúng tôi rất mừng. Công việc chuẩn bị được khẩn trương tiến hành. Việc tìm một địa điểm để làm lán theo ý Bác dạy cũng rất khó. Một hôm sau giờ làm việc buổi chiều Bác đi dạo đến một đoạn suối cách cửa hang không xa. Bác dừng lại quan sát và gợi ý chỗ này nếu làm lán ở thì tiện nhất. Nơi Bác chỉ là một khoảng đất bằng ngay cạnh bờ suối. Con suối nước rất trong và ngay bờ có nhiều tảng đá to và đẹp. Phải đi ngược theo dòng chảy mới vào được cửa hang nơi Bác ở. Nhưng đứng ở đây nhìn lên thì lại không thấy được cửa hang. Khi có biến, có thể theo dòng suối rút vào hang hoặc lên triền núi có rừng cây rậm cũng rất tiện.

Thế là chúng tôi bắt tay vào công việc dựng lán ngay. Lán rộng chỉ vừa chiếc chiếu đôi. Cửa lán hướng xuống con đường mòn dưới thung lũng. Chung quanh cũng dùng cỏ tranh thay liếp nứa như lời Bác dạy, nhưng bên ngoài có treo thêm một số tàu lá cọ trông giống như những cái lán canh nương của đồng bào. Anh Lộc hướng dẫn chúng tôi vào rừng lấy nứa tép (loại nứa chỉ lớn bằng ngón chân cái), vót nhọn làm hàng rào chung quanh. Anh giải thích đây là kinh nghiệm của đồng bào dân tộc thường dùng loại cây này để rào vườn nhà vì con hổ trông thấy rất sợ.

Lán làm xong, chúng tôi mời Bác ra xem. Bác rất ưng và ngay ngày hôm sau anh Kiên mời Bác xuống lán ở và làm việc. Bác đồng ý và chỉ ban ngày xuống lán làm việc, ăn nghỉ, còn ban đêm lại vào hang.

Lương thực do đồng bào giúp đỡ thường là gạo ngô (bắp bẹ) xay nhỏ và muối. Có hôm thấy gạo gần hết, Bác bảo chúng tôi nấu cháo ngô (cháo bẹ) ăn thay bữa. Còn rau xanh chủ yếu là măng tự kiếm trong rừng. Có hôm câu được con cá hoặc hái được ít rau lớn (loại giống cây dương xỉ mọc ven bờ suối) thì bữa ăn được cải thiện và ngon miệng hơn. Một hôm Bác và chúng tôi đang ăn cháo ngô, có người nói đùa đây là bánh đúc, thì Bác ung dung đọc mấy câu thơ:

Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang...

Thơ Bác làm hiện thực với cuộc sống quá, chúng tôi mỗi người đọc lại một câu và giải nghĩa luôn. Đến lượt anh Hoàng Sâm đọc câu "Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng" thì tất cả ai cũng cười vang.

Thật vậy, tôi chen vào: Đúng hòn đá chông chênh thật, nhưng vững lắm đấy. Thế mà có hôm anh Kiên thấy Bác ngồi làm việc lại sợ Bác ngã.

Chúng tôi vui vẻ tranh nhau và đọc đi đọc lại những câu thơ của Bác. Bác nhìn chúng tôi cười hiền hậu và với giọng ấm áp, Bác nói:

- Thôi các chú ăn tiếp đi kẻo cháo bẹ nguội mất!...

Từ Xuân Tân Tỵ năm ấy, đến nay thấm thoát đã ngót gần nửa thế kỷ trôi qua. Thế mà có dịp gặp lại, thấy như mới hôm qua. Bác đã đi xa, nhưng biết bao kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời người chiến sĩ bảo vệ Bác mãi mãi là những bài học truyền thống vẻ vang không bao giờ phai.

(Lê Quảng Ba kể, trích trong "Những chuyện vui và cảm động về Hồ Chủ tịch")

67. Chú làm như thế là không được

Vào khoảng năm 1947, bác sĩ Chánh được giao nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe Bác Hồ. Lần đầu tiên đến gặp Bác; bác sĩ thấy Bác đang nằm trên võng ở cửa đình Hồng Thái. Thấy bác sĩ đến, Bác ngồi dậy hỏi:

- Chú đi đâu đấy?

- Thưa Bác, cháu là bác sĩ được phân công sang phục vụ Bác.

- Bác không ốm đâu. Chú xuống văn phòng, chỗ chú Phan Mỹ mà ở và chăm sóc sức khỏe cho các chú ở dưới đó...

Ngày kháng chiến ở với Bác, đồng chí Chánh thấy Bác ít bị ốm đau. Lần Bác bị sốt rét. Bác mời bác sĩ Chánh lên thăm bệnh cho Bác. Khi thấy Bác bị sốt cao, bác sĩ đang tính xem nên dùng thuốc gì thì Bác đã bảo:

- Bác "ra lệnh" cho chú chữa hai hôm là phải hết sốt. Bác sĩ Chánh lo quá. Bác sốt cao như thế chữa hai ngày thì khỏi hẳn làm sao được. Sau khi bác sĩ tiêm cho Bác, cơn sốt hạ dần... Bác cười nói:

- Đấy chú xem, Bác "ra lệnh" chữa hai ngày phải khỏi thế mà đúng như thế đấy!

Một lần, nghe tin vợ bác sĩ đến công tác ở vùng gần đấy. Bác cử bác sĩ đi công tác đến vùng vợ bác sĩ đang làm việc, có ý cho 2 vợ chồng gặp nhau. Vì thời gian gấp, xong công việc bác sĩ về ngay, không ghé vào thăm vợ. Khi về tới cơ quan, bác sĩ Chánh gặp Bác, chưa kịp báo cáo công việc thì Bác đã hỏi ngay:

- Thím ấy có khỏe không?

Khi biết bác sĩ Chánh không gặp được vợ, Bác tỏ ý không vui, Người nói:

"Bác cử chú đi công tác là để cho cô chú gặp nhau. Đã tới đó mà không vào thăm và động viên thím ấy, chú làm như thế không được !".

(Minh Hiền kể, trích trong “Bác Hồ với chiến sỹ”)

67. Tấm lòng của Bác

Trong những ngày ra thăm miền Bắc, Đoàn anh hùng, dũng sỹ miền Nam được Bác chăm lo, ân cần như cha đối với con. Bác bảo tôi (vì tôi được phụ trách theo dõi sức khoẻ và đời sống của đoàn):

- Cô Bi phải chăm sóc các cô, các chú ấy thật tốt, đừng để các cô, các chú ấy ốm. Một bữa, đồng chí em Huỳnh Văn Đảnh bị sốt rét, Bác biết được, gọi tôi lên hỏi:

- Chú Đảnh bị sốt ra sao?

Tôi báo cáo tình hình của đồng chí Đảnh cho Bác. Bác nhắc:

- Cô phải cho các cô, các chú ấy ăn uống đầy đủ, chú ý các món ăn của địa phương để các cô, các chú ấy ăn được nhiều, sức khỏe mới tốt.

Một hôm khác, Bác chỉ vào Trần Dưỡng và hỏi tôi: - Cô Bi, tại sao chú Dưỡng hơi gầy?

Bác nghe anh hùng Vai kể chuyện quê hương miền núi nghèo khổ của mình. Bác cảm động nói:

Thống nhất Bác vô Nam, thế nào cũng về thăm quê hương cháu Vai.

Trong những ngày sống bên Bác, tôi càng thấm thía hơn tình cảm của Bác đối với đồng bào miền Nam. Chị Tạ Thị Kiều nói với tôi:

- Càng được gần Bác, càng thấy Bác thương yêu dân miền Nam ta quá chị à.

Nói xong, hai chị em lại khóc vì sung sướng và cảm động trước tấm lòng của Bác Hồ.

(Hồ Thị Bi kể, trích trong “Bác Hồ với chiến sỹ”)

Tâm Trang (tổng hợp)


 68. Bác cho tôi chiếc áo trấn thủ

Mỗi ngày sống bên Bác là mỗi ngày tôi được thêm những bài học vô cùng quý báu. Bác chỉ bảo từng ly từng tý. Một kỷ niệm mà mỗi khi nhắc lại tôi thường bồi hồi xúc động, đó là chuyện Bác cho tôi chiếc áo trấn thủ. Mùa Đông năm ấy, Việt Bắc rét hơn mọi năm. Chúng tôi sống trong hang đá, lại càng rét. Sáng ra sương muối xuống dày đặc, làm cóng buốt chân tay. Khi mới về công tác với Bác, tôi chỉ có một bộ quần áo vải mộc. Mấy hôm liền, tôi đi công tác, ngực bị lạnh, làm tôi ho luôn.

Hôm ấy vào đưa thư cho Bác. Tôi đã cố nhịn ho nhưng không sao chịu được.

Thấy tôi ho, Bác hỏi:

- Chú ốm à, chú Thắng?

- Thưa Bác, không ạ!

Bác nhìn tôi:

- Sao trông người chú khác thế?

- Không ạ. - Chưa nói xong tôi đã ho rũ ra…

Bác liền đứng dậy:

- Chú không có áo rét à?

Bấy giờ cán bộ còn nghèo. Tôi ngần ngừ định không nói thật, nhưng rồi không dám dối Bác. Trả lời xong, tôi quay ra thì Bác gọi lại và đến đầu giường lật tấm chăn mỏng, lấy ra chiếc áo trấn thủ màu ngả vàng, Bác vẫn thường mặc, đưa cho tôi, Bác nói:

- Chú mặc tạm cái này cho đỡ lạnh. Mùa Đông cốt nhất phải giữ ngực cho ấm.

Tôi không dám cầm. Mùa rét, Bác cũng chỉ có một chiếc áo trấn thủ và một chiếc áo khoác ngoài. Mà Bác đã già rồi, ít chịu được rét. Thấy tôi chần chừ, Bác bảo:

- Chú mặc đi, cho đỡ rét.

- Thưa Bác...

- Chú cứ mặc vào.

Nhìn đôi mắt trìu mến của Bác, tôi không dám từ chối nữa. Bác giúp tôi cài cẩn thận từng cúc áo một. Có chiếc áo của Bác, ngực tôi ấm dần. Ấm bằng hơi ấm của bông và cả bằng tình thương của Bác. Nhờ có chiếc áo trấn thủ tôi dần dần khỏi ho.

Tôi giữ gìn chiếc áo Bác cho rất cẩn thận. Chỉ những lúc thật rét mới mặc.

Tôi có ý định giữ chiếc áo đó làm kỷ niệm, nhưng tôi không thực hiện được ý định. Một năm, tôi về nhà ăn Tết, dân tộc Dao chúng tôi sống du canh du cư, làm ăn thất thường, nên đời sống đói khổ. Trời rất rét, bố tôi vẫn chỉ có một manh áo mỏng. Thương bố quá, tôi đã biếu bố chiếc áo trấn thủ. Chiếc áo trấn thủ đã sờn, nhưng là chiếc áo ấm đầu tiên trong đời bố tôi được mặc. Bố tôi vui lắm. Nếu biết là chiếc áo của Bác Hồ cho, chắc bố tôi sẽ vui sướng biết chừng nào! Nhưng vì nguyên tắc bí mật, tôi không dám nói.

Bố tôi mặc được mấy năm chiếc áo vẫn còn tốt.

Theo phong tục người Dao, khi chết, người ta chôn theo tất cả những đồ quý giá của người đó lúc sống đã dùng. Bố tôi chết, gia đình cũng đã bỏ chiếc áo trấn thủ chôn theo. Chiếc áo trấn thủ Bác cho đã làm ấm ngực tôi, sưởi ấm ngực bố tôi, nay bố tôi đã mất, chiếc áo lại theo xuống suối vàng mãi mãi sưởi ấm cho linh hồn bố tôi. Phải chăng đó cũng là một niềm vinh hạnh cho gia đình chúng tôi.

(Triệu Hồng Thăng, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

69. Cá không xương

Cuộc hội đàm giữa đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta với các vị đại diện nước bạn diễn ra suốt cả ngày 26-7-1957. Đoàn ta thông báo ngắn gọn. Phía Cộng hòa Dân chủ Đức thông báo thành quả mọi mặt trong mấy năm qua. Do thời gian cách nhau sáu tiếng, 15 giờ chiều ở Béclin thì ở Việt Nam đã 21 giờ đêm, lại phải làm việc căng thẳng nên các đồng chí trong đoàn đại biểu ta ai cũng mệt mỏi và buồn ngủ. Khi phía bạn báo cáo năng suất cao của việc nuôi một loại cá chép lai giống, Bác hỏi: Các đồng chí có loại cá không có xương không? Thưa không. Ở Việt Nam có loại cá không xương hay sao? Thủ tướng Đức hỏi với vẻ ngạc nhiên. Bác Hồ của chúng ta nói nghiêm nghị: Vâng, có (các thành viên đoàn Việt Nam tỉnh ngủ).

- Thưa Chủ tịch, có thể xuất khẩu loại cá ấy cho chúng tôi được không? - Thủ tướng đề nghị. Bác nghiêm trang trả lời: Chúng tôi sẵn sàng. Loại cá này ở quê hương đồng chí Song Tùng. Thủ tướng hướng về tôi: Đồng chí nhớ chuyển cho chúng tôi nhé?

Tôi lúng túng, biết là loại cá gì, nhưng không thể trả lời. Thế là Bác kể về câu chuyện “con cá gỗ” của người xứ Nghệ. Các đại biểu được một trận cười thoải mái. Mọi người tỉnh táo hẳn. Đồng chí Tổng Bí thư Đảng Xã hội thống nhất Đức kết luận hóm hỉnh:

- Bây giờ tôi mới tìm ra nguyên nhân vì sao nhân dân Việt Nam chịu đựng biết bao gian khổ đã đánh bại mọi kẻ thù xâm lược suốt mấy nghìn năm.

(Sơn Tùng, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

70. Không nên đao to búa lớn

Những người tiếp cận với Bác đều thấy rõ Bác Hồ làm việc hàng ngày theo một chương trình rất chặt chẽ. Bất kỳ lúc nào từ giờ giấc tiếp khách đến sinh hoạt, hội họp, Bác không bao giờ trễ một phút. Từ phong cách làm việc đó, Bác có lúc đã nghiêm khắc phê bình hiện tượng vi phạm kỷ luật lao động.

Ở Vụ Thông tin báo chí, Bộ Ngoại giao, trong một ngày Chủ nhật, đồng chí Th. được phân công trực. Văn phòng Bác gọi điện thoại nhiều lần về một bài trả lời phỏng vấn của Bác phải làm ngay nhưng không có hồi âm.

Ngay hôm sau, đã có một cuộc kiểm thảo. Điện thoại của đồng chí Vũ Kỳ tới Bộ và Vụ đã dặn: "Sự việc tác hại không lớn, nhưng cần nghiêm túc kiểm điểm cán bộ này, giúp đỡ sửa chữa khuyết điểm tránh đao to búa lớn". Có đồng chí lãnh đạo của Bộ yêu cầu phải nghiêm khắc và đề xuất hình thức kỷ luật đồng chí Th. để làm gương cho cán bộ khác. Khi kiểm tra, được biết đồng chí Th. vốn là một người xưa nay có ý thức tổ chức kỷ luật, nhưng không may lúc đó bị "Tào Tháo đuổi" và phải đến phòng y tế xin thuốc.

 Lại có thêm một cú điện thoại nữa từ Văn phòng, Bác căn dặn: Không nên đao to búa lớn việc này. 

Có lẽ mọi diễn biến đã được báo cáo lên Bác. Chỉ một sự việc nhỏ như vậy, của một cá nhân thôi mà Bác đã trực tiếp quan tâm. Kết quả là hình thức xử lý đã được điều chỉnh một cách ôn hòa có lý, có tình. Mọi người chúng tôi đều cảm động về phong cách kiểm tra, giúp đỡ phê bình nghiêm túc và đầy lòng nhân ái của Bác.

(Lê Trang, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

71. Một ngày Thu không thể quên

Một chiều Thu tháng 8/1942, bầu trời xanh ngắt, gió nhẹ thổi, không gian thoang thoảng mùi hương của đồng lúa sắp chín. Kim Đồng xách ống nước ở dưới suối lên, thấy anh Ngự Mạn đã đợi ở dưới chân cầu thang. Với nét mặt rạng rỡ, anh Ngự Mạn ghé sát vào tai Kim Đồng nói nhỏ:

- Có một cán bộ cao cấp vừa đến, cho gọi em lên gấp đấy!

- Anh có biết ai không?

- Suỵt! Nguyên tắc bí mật cơ mà.

Kim Đồng hồi hộp bước theo anh Ngự Mạn lên ngọn núi sau bản. Đến trước cửa hang Nục Én, anh ra hiệu cho Kim Đồng đợi một chút. Lát sau Kim Đồng thấy anh Đức Thanh bước ra, vẫn đôi mắt lúc nào cũng dịu dàng âu yếm, anh đưa Kim Đồng vào trong hang. Trống ngực Kim Đồng bỗng đập rộn lên khi nhìn thấy một "ông Ké" ngồi trên một tảng đá, dựa lưng vào thành hang, chòm râu và mái tóc đã điểm bạc. Trên khuôn mặt gầy, hơi xanh, sáng rực một đôi mắt như hai vì sao ấm áp. "Ông Ké" nhìn Kim Đồng trìu mến. Vẫn còn đang lúng túng chưa kịp chào, Kim Đồng bỗng thấy "ông Ké" hỏi:

- Cháu là Kim Đồng, Đội trưởng Đội Thiếu nhi cứu quốc phải không?

- Vâng ạ!

- Lại đây với Bác nào!

"Ông Ké" vẫy Kim Đồng lại gần và kéo vào lòng, đưa tay xoa đầu âu yếm:

- Cháu có ghét bọn Tây không?

- Dạ, có ạ!

- Vì sao nào?

- Vì bọn Tây sang cướp nước ta làm cho dân ta khổ.

"Ông Ké" khen Kim Đồng và đề nghị Kim Đồng kể về hoạt động của Đội cho mọi người cùng nghe. Nghe kể xong, "ông Ké" khen Đội đã có nhiều hoạt động phong phú, mưu trí và dũng cảm.

"Ông Ké" còn khuyên Kim Đồng nói đúng và các đội viên vừa hoạt động, vừa phải học văn hóa, học chính trị để mai này nước nhà độc lập, có đủ tài sức xây dựng đất nước.

Buổi chiều đó, Kim Đồng được "ông Ké" giữ lại ăn cơm. Chờ đêm xuống, Kim Đồng được cử theo ba anh đưa "ông Ké" vào Pác Pó an toàn. Do nguyên tắc bí mật, ngày đó, Kim Đồng chưa được biết rằng "ông Ké" đó chính là Bác Hồ kính yêu.

(Trích trong "Bình minh Nà Mạ, Bác Hồ kính yêu")

72. Ba lần được gặp Bác Hồ

Hồ Thị Thu kể:

Khi cháu ở trong Nam, cháu được nghe các chú đọc lời dạy của Bác Hồ, cháu càng thương nhớ Bác nhiều. Cháu và các bạn cháu mong sao nước nhà thống nhất, cùng đồng bào miền Nam đón Bác vào thăm. Qua thời gian chiến đấu, cháu được Đảng, Mặt trận cho ra miền Bắc để học tập, cháu vinh dự được gặp Bác.

Lần đầu cháu được gặp Bác, Bác hỏi cháu đã biết chữ chưa. Cháu vòng tay trả lời Bác mà cháu nói không nên lời, vì cháu cảm động quá. Sau, cháu cố gắng trả lời để Bác nghe:

- Dạ thưa Bác, cháu chưa biết chữ nào ạ. Vì gia đình cháu nghèo, ba má cháu mất sớm, cháu đông em nên không được đi học.

Vừa nói xong, cháu ngước lên nhìn Bác. Hai hàng nước mắt Bác rưng rưng làm cho cháu càng thêm cảm động.

Lần thứ hai cháu được gặp Bác. Bác hỏi cháu:

- Đồng bào miền Nam đấu tranh và chiến đấu như thế nào? Cháu liền đứng lên vòng tay lại:

- Dạ, thưa Bác, đồng bào miền Nam đấu tranh không sợ gian khổ, chiến đấu không sợ bị thương, không sợ hy sinh, mà chỉ sợ mù hai mắt, sau này nước nhà thống nhất, Bác vào thăm không nhìn thấy Bác.

Cháu ngước nhìn lên lại thấy Bác rưng rưng nước mắt. Bữa ấy Bác cho cháu ăn cơm. Cháu ngồi bên Bác, Bác gắp thức ăn cho cháu...

Lần thứ ba, cháu được gặp Bác ở Hội trường Ba Đình. Cháu mừng rỡ chạy lại ôm và hôn Bác. Bác hỏi cháu:

- Kỳ này cháu có ăn được cơm không, ăn được mấy bát? Cháu đáp:

- Dạ, thưa Bác, cháu ăn được hai bát ạ!

Ăn thế là ít đấy! Cố ăn nhiều cho khỏe vào.

Bác dặn thêm cháu phải giữ gìn sức khỏe cho thật tốt, học tập văn hóa, chính trị, lao động cho thật tốt, đoàn kết tốt, thương yêu đồng đội tốt, phải nghe lời các cô, các chú dạy bảo.

Sau những giờ phút quý báu ấy cháu ra về, không muốn rời Bác, chỉ mong sao gần Bác luôn luôn.

Ngày tháng qua đi, bệnh của cháu lại phát triển, nên các chú đưa cháu vào viện. Được tin ấy, Bác điện vào thăm cháu. Lúc ấy bệnh cháu quá nặng, đến khi cháu tỉnh dậy, các chú nói lại, cháu vô cùng xúc động, vì Bác bao nhiêu là công việc mà Bác còn quan tâm đến sức khoẻ của cháu. Thời gian sau cháu xa Hà Nội về trường học, hàng ngày cháu luôn thực hiện lời Bác dạy.

(Hồ Thị Thu - Dũng sĩ thiếu niên miền Nam, trích trong "Đời đời ơn Bác")

73. Hồ Chí Minh với thiếu nhi Đức

Ai cũng biết Chủ tịch Hồ Chí Minh rất yêu quý thiếu nhi. Nhưng có lẽ chưa bao giờ và chưa có bất cứ ai thể hiện tình cảm đối với thiếu nhi như Bác. Dưới đây là một trường hợp đặc biệt.

Khi đoàn xe đón đoàn đại biểu nước ta đi từ sân bay về Béclin bỗng nhiên đường bị tắc nghẽn.

Bác đi ô tô với Tổng Bí thư và vợ chồng Thủ tướng Cộng hòa Dân chủ Đức. Xe vừa vào thành phố, học sinh một trường mẫu giáo sắp hàng đón đoàn. Bác đề nghị cho ô tô dừng lại. Người bước ra, Tổng Bí thư và vợ chồng Thủ tướng nước bạn cùng xuống xe. Xe Đại sứ đi sát sau xe Chủ tịch. Tôi lo lắng không biết chuyện gì xảy ra., bỗng thấy Bác tiến lại các cháu thiếu nhi. Các cháu và cô giáo vây quanh Bác và các vị lãnh đạo. Bác bế một em bé lên và hỏi chuyện các em bằng tiếng Đức. Không khí thật đầm ấm vui tươi. Bác hỏi một người:

- Chú có kẹo không?

Thế là bà Thủ tướng cho người đi mua kẹo. Bác lần lượt chia kẹo cho các cháu.

Đoàn xe dừng lại 20 phút, Bác chia kẹo cho các cháu xong mới trở về ô tô. Sự kiện đặc biệt này, được dư luận nước bạn xôn xao bàn luận khá lâu, mọi người đều ca ngợi tình cảm tốt đẹp của Bác dành cho các cháu thiếu nhi.

(Song Tùng, trích trong "Bác Hồ sống mãi với chúng ta")

74. Bác quan tâm đến nữ phóng viên

Trong Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ ba, tôi là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam được vào Phủ Chủ tịch chụp ảnh, đưa tin và viết về cuộc gặp gỡ giữa Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ trong và ngoài nước.

Đại biểu tỉnh nào cũng muốn chụp ảnh chung với Bác, nhưng Bác dành ưu tiên cho các đại biểu miền núi và đại biểu quốc tế. Vừa lúc Bác đang cầm điếu thuốc chưa kịp hút thì các chị đại biểu dân tộc vừa tập hợp nhau, quần áo đủ màu sắc xin chụp ảnh chung với Bác.

Tôi sung sướng được bấm một "Pô" ảnh chụp Bác đang đứng nói chung với các chị. Riêng phần mình, tôi vẫn thầm mong được chụp một ảnh chân dung Bác đứng một mình.

Các chị em đại biểu ra về, tôi tần ngần mãi giữa vườn cây. Tiễn đoàn đại biểu cuối cùng xong, Bác quay gót lại, bước chân lên mấy bậc cầu thang trước Phủ Chủ tịch.

Tôi vội giơ chiếc máy ảnh Pralike, nhưng chưa kịp bấm thì Bác đã bước nhanh lên thềm. Tôi đang loay hoay với chiếc máy ảnh chưa nghĩ ra cách nào để chụp được ảnh Bác, thì Bác trông thấy, Bác hiểu ý, mỉm cười đứng lại, trong vài giây kịp cho tôi bấm "tách".

(Nguyệt Tú, trích trong “Bác Hồ với thiếu nhi và phụ nữ”)

Tâm Trang (tổng hợp)


 75. Quây quần bên Bác

"Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng. Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu nhi Việt Nam"...

Đó là tiếng hát của các em học sinh thuộc hệ sơ trung của Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Nhạc viện Hà Nội) vang lên sôi nổi trong ngày 01/6/1969 khi các em được vinh dự biểu diễn báo cáo thành tích học tập với Bác Hồ kính yêu lần cuối cùng trước khi Bác mất.

Hôm ấy, tuy sức khỏe Bác đã yếu nhưng Bác rất vui khi thấy các cháu biểu diễn đàn vĩ cầm, đàn dương cầm rất giỏi và các cháu còn biểu diễn rất hay, rất say sưa những loại đàn dân tộc cổ truyền như: Sáo, nhị, bầu...

Bác gọi các cháu là "những nghệ sĩ tí hon", "những nghệ sĩ tương lai" rồi Bác hỏi:

- Các cháu phải học giỏi để sau này phục vụ nhân dân. Bác ôm các cháu vào lòng, hỏi han từng người:

- Cháu chơi đàn gì?

- Bố mẹ cháu làm gì?

Khi các em giới thiệu với Bác cây đàn thập lục và tam thập lục Bác cười và bảo:

- Ta có tiếng ta, sao các cháu không gọi là đàn 16 dây và đàn 36 dây có hơn không?

Từ đó hai cây đàn này đã được mang một cái tên đơn giản bằng ngôn ngữ dân tộc mà Bác Hồ đã chỉ bảo và mỗi lần nhắc đến cái tên này các em đều nhớ tới Bác.

Sau mỗi tiết mục biểu diễn, Bác vỗ tay thật to và nói:

- Các cháu vỗ tay to lên để hoan nghênh bạn đánh đàn hay chứ! Khi chia kẹo cho các cháu, Bác bảo:

- Cho cháu này thêm một cái vì bé nhất và đánh đàn hay.

Quây quần bên Bác có các cháu ở thành phố, ở nông thôn, là con em cán bộ, công nhân, nông dân, các dân tộc miền núi, ở cả hai miền Nam Bắc.

(Trích trong "Bác Hồ với các mầm non nghệ thuật")

76. Những ngày ở Tân Trào

Cuối tháng 4/1945, sau khi khu giải phóng Tân Trào được thành lập, Trường Quân chính kháng Nhật liền được xây dựng.

Chúng tôi - những người Giải phóng quân được đoàn thể lựa chọn về học, đang gấp rút làm doanh trại, ai cũng mong chóng tới ngày khai mạc.

Giữa lúc ấy, vào một buổi sáng, chúng tôi đang tập trung để phân công làm việc thì đồng chí Văn tới.

Tôi đoán chắc sẽ có việc quan trọng xảy ra.

Đúng vậy, sau khi nói chuyện về tình hình đấu tranh chống Nhật ở các nơi và nhắc nhở chúng tôi nhiệm vụ học tập xây dựng trường, đồng chí nói:

- Đoàn thể cần một số đồng chí đi công tác, các đồng chí cần nhận rõ học tập hay đi công tác đều là trách nhiệm của đoàn thể giao cho, chúng ta đều phải cố gắng làm tròn.

Chúng tôi ai cũng tha thiết muốn được học, nhưng khi nhắc đến công tác cần thì ai cũng sẵn sàng nhận nhiệm vụ.

Nhận chỉ thị của đồng chí Văn, đồng chí Khang liền tuyển lựa một đội mười người và một tổ ba người. Đội mười người được trang bị vũ khí mới để đi xa ngay. Còn tổ ba người, trong đó có tôi, thì được đồng chí Khang giao nhiệm vụ tới làng Tân Trào tìm liên lạc với đồng chí Đường để nhận công tác.

Đồng chí Đường là một đồng chí công tác lâu năm và đã ra nước ngoài học tập. Từ khi vào Giải phóng quân, tôi được đồng chí đi sát chỉ đạo mọi mặt. Vừa lúc ấy một đồng chí ở cơ quan đón chúng tôi. Đồng chí Đường giới thiệu đó là đồng chí Hồng Thái. Tuy chưa biết nhau nhưng sẵn tình đồng chí, chúng tôi mến nhau ngay.

Trước khi chúng tôi đi, đồng chí Đường căn dặn:

- Đoàn thể rất tin cậy các đồng chí mới giao trách nhiệm này, các đồng chí phải cố làm tròn, ở nơi công tác mới các đồng chí có nhiều điều kiện để học đấy.

Đồng chí Đường còn theo tiễn chúng tôi một quãng và lại dặn riêng tôi: Ba ngày một lần đồng chí về gặp tôi, để tôi giúp đỡ học tập.

Tôi rất cảm động trước những lời dặn dò của đồng chí Đường và đã hứa xin làm đúng.

Trên đường tới cơ quan, vừa đi vừa nghĩ đến sự tín nhiệm của đồng chí Khang và sự săn sóc của đồng chí Đường đối với tôi, tôi cảm thấy công tác của tổ chúng tôi lần này sẽ có tầm quan trọng hơn công tác trước đây nhiều. Đồng chí Hồng Thái đưa chúng tôi đi về phía Bắc đình Tân Trào một quãng xa, rồi tạt xuống lội ngược dòng suối tới nơi có một bụi rậm thì rẽ quặt lên đồi, chúng tôi men theo sườn núi đi mãi cho tới khi qua một vọng gác thì tới đỉnh núi. Cơ quan đóng ở ngay trên đỉnh núi này. Đứng ở đấy, chúng tôi có thể quan sát khắp cánh đồng Tân Trào, dòng sông Đáy, đèo Rẻ, v.v...

Cơ quan là một lán dài ngăn đôi, bên nửa rộng có nhiều người ở, vũ khí để ở đầu chỗ nằm, toàn các-bin và tiểu liên "tôm-sơn". Còn bên nửa hẹp thì đặt điện đài và có một số đồng chí đang làm việc. Cách lán đâu chừng ba mươi thước có một lán nho nhỏ nữa.

Thấy kiểu súng của các đồng chí ở cơ quan, tôi mừng lắm. Ở Giải phóng quân, được thấy đồng chí Quang Trung mang khẩu các-bin và một số đồng chí cán bộ trong trung đội có tiểu liên, tôi rất thèm. Tôi thường ước ao sẽ có ngày được giao sử dụng những vũ khí ấy. Bây giờ đến cơ quan này, tôi hy vọng mình cũng sẽ được trang bị súng tốt như các đồng chí khác... Khi nhìn thấy điện đài, tôi cũng mừng. Tôi nghĩ thầm lực lượng cách mạng của ta đã lớn mạnh nên phải dùng phương tiện khoa học để chỉ huy đi xa, chứ không bó hẹp riêng trong Khu Giải phóng nữa.

Chợt, tôi nghe có tiếng ho từ phía lán nhỏ, rồi một ông cụ gầy, tay chống gậy đi lại. Cụ mặc áo ngắn kiểu người Nùng (hàng cúc giữa bằng vải, cổ cao). Quần và áo đều màu chàm đã bạc. Đầu ông cụ đội chiếc mũ vải kiểu các cụ già người Nùng. Cụ đi thẳng tới chỗ chúng tôi. Thấy cụ đi tới mọi người đều đứng nghiêm chỉnh, và khi cụ tới gần ai thì người ấy đều né ra để nhường bước.

Thấy chúng tôi, ông cụ vui vẻ hỏi:

- Các đồng chí mới đến phải không? Tôi vội trả lời:

- Báo cáo đồng chí, chúng tôi mới đến. Ông cụ gật đầu bảo:

- Tốt, đồng chí Hồng Thái cần giao nhiệm vụ và giúp đỡ các đồng chí ấy công tác. Nói xong, ông cụ đi xuống phía nhà bếp.

Có lẽ ông cụ tuổi khoảng gần sáu mươi, mái tóc đã đốm bạc, người cụ tuy gầy gò nhưng cặp mắt rất sáng, nghiêm nghị, vầng trán cao, giọng nói rõ ràng, ấm áp, tôi vừa gặp lần đầu đã cảm thấy gần gũi ngay được.

Ông cụ đi khỏi, một đồng chí cũ nói như giới thiệu với tôi: - Đấy! ông Cụ đấy!

Giới thiệu như vậy chỉ làm tôi càng thêm bỡ ngỡ và tôi đã biết ông Cụ là ai đâu!

Đêm ấy, sau khi được đồng chí Hồng Thái giao nhiệm vụ cụ thể, lại được sinh hoạt cùng tiểu đội cảnh vệ, chúng tôi mới rõ cơ quan ở đây là rất quan trọng, ông Cụ là cán bộ thượng cấp, ở đây có điện đài và hai lớp học, lớp học điện đài và lớp chính trị, cả hai lớp đều do ông Cụ hướng dẫn. Trách nhiệm của đội cảnh vệ là phải bảo vệ cơ quan cho nghiêm mật. Càng nghĩ tôi càng lạ, không rõ ông Cụ là ai mà thoáng qua đã thấy khỏe người.

Trong suy nghĩ, bỗng nhiên tôi nhớ tới một hôm trước đó mấy ngày, Đội Giải phóng quân của chúng tôi vừa về tới Tân Trào thì đồng chí Quang Trung hỏi tôi:

- Đồng chí quê Chợ Đồn à?

- Vâng - Tôi trả lời.

- Đồng chí có thuộc các đường về đây không?

- Thuộc chứ.

- Đi đón ông Cụ nhé ? Đi cả tiểu đội của đồng chí!

Nghe đồng chí Quang Trung nói, tôi nghĩ bụng: Ông Cụ là ai lại phải mang cả tiểu đội đi đón. Tuy vậy, tôi không dám hỏi kỹ. Đồng chí Quang Trung lại nói:

- Chờ liên lạc sẽ đi, việc này tuyệt đối bí mật đấy! Thấy việc quan trọng nên tôi nói thêm:

- Từ Chợ Đồn về đây có hai đường: Đường Chợ Đồn đi Chợ Chu (tức là đường đồng chí Văn Nam tiến) thì tôi không được rõ. Còn đường Chợ Đồn qua Tông Quận (đường đồng chí Khang Nam tiến) thì tôi thuộc. Đồng chí Quang Trung suy nghĩ rồi bảo tôi:

- Nếu đi đường đồng chí Khang thì đồng chí sẽ đi đón.

Tôi vâng lời, nhưng sau đấy không thấy đồng chí Quang Trung bảo gì nữa.

Giờ đây cơ quan lại có ông Cụ này, có lẽ chính là ông Cụ mà mình suýt nữa được cử đón đây! Chắc Cụ là người đứng đầu Việt Minh đấy!

Ở gần ông Cụ được vài ngày, tôi nhận thấy ông Cụ sao mà làm việc nhiều thế. Suốt ngày, Cụ đọc sách và viết tài liệu, viết báo, dạy chính trị, v.v... Ngoài ra, bất kể ngày đêm, cán bộ các nơi còn về xin chỉ thị. Cả anh Văn, anh Khang cũng thường tới cơ quan xin ý kiến Cụ. Bận như vậy nhưng ông Cụ rất chú trọng chăm sóc chúng tôi. Ngoài việc giáo dục chính trị, ông Cụ còn dạy bảo rất tỷ mỷ về cuộc sống tập thể, như bày cho cách đặt chương trình học tập và làm việc hàng ngày, hàng tuần, cách sắp xếp trật tự trong lán, nhất là cách giữ gìn súng đạn. Cụ thường dạy không nên ngồi chơi rỗi, phải lấy sách báo ra đọc hoặc vá quần áo, v.v... Hồi đó giữa Xuân, nước suối từ trong khe chảy ra còn lạnh, ông Cụ thường dặn chúng tôi không nên tắm lâu dễ bị cảm. Khi tập thể dục, có những đồng chí thường tập chiếu lệ. Cụ ra xem, sửa lại từng động tác và còn làm động tác mẫu và bảo: “Các đồng chí tập theo tôi, tập thể này mới được". Những buổi đi lấy rau rừng, ông Cụ còn hướng dẫn chúng tôi cả cách lấy rau, cách chọn rau ngon.

Hàng ngày, ông Cụ thường xuống suối tắm rửa hoặc giặt lấy quần áo.

Có điểm trái ngược là bọn thanh niên chúng tôi mỗi khi lên núi thường hay ngã, còn ông Cụ tay chống gậy, vai vác ống nước, vai vắt quần áo vừa giặt, chẳng bao giờ bị ngã cả. Thấy anh em ngã nhiều, Cụ bảo:

- Các đồng chí cứ làm theo tôi thì không ngã.

Chúng tôi hay ngã vì sợ đi giữa đường lội, cứ đi tránh sang hai bên, như vậy làm cho đường ngày một to ra và sườn núi dốc trơn. Còn Cụ cứ giữa đường đã đánh bậc sẵn Cụ đi, tuy lội một chút nhưng khi về tới lán, sẵn ống nước xách lên, ông Cụ dùng một nửa rửa chân, còn một nửa để rửa tay trước và sau khi ăn cơm.

Từ khi anh em học ông Cụ cách xuống suối, lên núi thì không ai bị ngã nữa. Đúng quy định của đồng chí Đường, sau ba ngày, tôi ra báo cáo công việc và nghe đồng chí ấy hướng dẫn công tác. Buổi báo cáo đầu, sau khi nghe tôi nói sơ về công tác, đồng chí Đường hỏi tôi:

- Ông Cụ có khỏe không?

- Khỏe!

- Gần ông Cụ, đồng chí thấy thế nào?

- Ở với bố đã mười tám năm rồi, bố cũng dạy mọi điều. Nhưng mới gần ông Cụ có ba ngày mà tưởng như ông Cụ dạy cho còn nhiều hơn.

- Đồng chí có văn hóa, nên đóng một quyển sổ nhỏ, mỗi khi ông Cụ nói câu gì mà đồng chí thích thì đồng chí ghi vào sổ sau này sẽ có một quyển sách quý lắm đấy!

Tôi tuy chưa hiểu nhưng cũng vâng lời.

Công tác được một tuần lễ, có lẽ đồng chí Đường đề nghị, tôi được ông Cụ lấy vào học cùng với anh em học sinh chính trị. Tôi biết anh em đều là cán bộ hoạt động từ lâu về đây học cấp tốc rồi đi công tác ngay. Tôi được đưa vào học có lẽ nhờ sự chiếu cố riêng.

Buổi học đầu của tôi đúng vào bài nói về Mặt trận Việt minh, ông Cụ đưa chúng tôi quyển sách nho nhỏ in thạch bản, trong đó nói về chương trình và điều lệ của Mặt trận.

Tôi vào Giải phóng quân giữa lúc phong trào cách mạng đang lên cao, các đội Giải phóng quân vừa phát triển mạnh nên chưa được huấn luyện kỹ. Tôi chỉ được học đồng chí Khang, đồng chí Quang Trung thiết thực ngay trong mỗi công tác. Có lúc đồng chí Khang hướng dẫn cả bài nói chuyện cho tôi, rồi tôi nhẩm kỹ cho thuộc để khi ra nói chuyện sẽ nói bằng tiếng Tày cho khỏi vấp váp. Các buổi đó thường nói nhiều về chủ trương đánh Pháp, đuổi Nhật của Việt Minh, chủ trương đoàn kết các dân tộc, cách thành lập chính quyền đoàn thể. Cho nên đây là lần đầu tiên tôi được học về tôn chỉ, mục đích, chương trình, điều lệ của Mặt trận Việt Minh có cả Đảng Cộng sản tham gia, tôi bỡ ngỡ không hiểu và cứ tự hỏi thầm: Trong Mặt trận Việt Minh mà lại có cả Đảng Cộng sản tham gia là thế nào.

Vừa may, ông Cụ bảo phát biểu những điều chưa hiểu, tôi bèn giơ tay. Được ông Cụ chỉ định, tôi mạnh dạn nói:

- Thưa Cụ, tại sao trong Mặt trận của ta lại có Đảng Cộng sản?

Tôi vừa dứt lời thì trong lớp đã có nhiều tiếng xì xào. Thấy thế tôi đâm lo ngại. Ông Cụ ra hiệu cho mọi người giữ trật tự rồi lại hỏi:

- Đồng chí hiểu về Đảng Cộng sản như thế nào?

- Thưa Cụ, cháu chưa hiểu, nhưng nghe người ta nói Đảng Cộng sản không tốt. Họ chủ trương cái gì cũng làm của chung cả, ai theo họ thì họ cho vào Đảng, ai không theo họ thì họ giết, như vậy có khác gì phát xít Nhật và đế quốc Pháp?

Nghe tôi trả lời, các đồng chí trong lớp học đều tỏ vẻ ngạc nhiên. Riêng ông Cụ vẻ mặt thoáng nét cười, hỏi thêm:

- Đồng chí nghe ai nói vậy?

- Thưa Cụ nhiều người nói...

Ông Cụ lại hỏi:

- Những người ấy là thế nào với Tây?

- Họ là những người... là những người làm việc với Tây ạ!

Trả lời câu hỏi xong, tôi tự nhiên cảm thấy tất cả những ý nghĩ của mình về cộng sản từ trước tới nay có lẽ là bị tiêm nọc độc. Nhưng cộng sản là thế nào thì thực tình tôi vẫn chưa hiểu.

Thấy vẻ băn khoăn của tôi, ông Cụ liền đặt câu hỏi khác:

- Đồng chí thấy Pháp, Nhật nói về Việt Minh ta thế nào?

- Dạ, nó nói là giặc cỏ, là ăn cướp, giết người ạ.

Ông Cụ lúc ấy mới chỉ một học viên khác bảo trả lời câu hỏi ban đầu của tôi. Đồng chí ấy bèn đứng dậy nói:

- Đế quốc Pháp, phát xít Nhật ghét cộng sản cũng như ghét Việt Minh cho nên chúng dùng mọi điều để nói xấu cộng sản và Việt Minh ta. Những người cộng sản là những người kiên quyết đánh Pháp, đuổi Nhật trong Mặt trận Việt Minh, do đó họ là nòng cốt, là cơ quan tham mưu của Mặt trận ta.

Các học viên khác đồng ý. Ông Cụ lại hỏi tôi:

- Đồng chí đã hiểu chưa? Tôi trả lời:

- Thưa Cụ, cháu đã hơi hiểu.

Lúc ấy, ông Cụ mới dịu dàng giải thích thêm. Mỗi lời ông Cụ nói về cộng sản, về những người cộng sản cứ như những ngọn đèn thắp sáng lên trong óc tôi khi đó.

Sau khi giải thích kỹ càng rồi, ông Cụ lại hỏi thêm:

- Đồng chí đã thấy người cộng sản chưa?

- Dạ, chưa ạ!

Nếu đồng chí Văn, đồng chí Khang là những người cộng sản thì đồng chí có thích không? - Dạ thích ạ!

Nghe tôi nói vậy, các đồng chí trong lớp đều cười một cách vui vẻ.

Ông Cụ chuyển sang giảng bài học khác. Sau buổi học, tôi suy nghĩ mãi về bài học vừa qua, về Đảng Cộng sản và cố đoán xem trong Giải phóng quân ai là đảng viên cộng sản? Cộng sản với Việt Minh khác nhau những gì?

Chiều hôm ấy, chúng tôi đi làm lán. Đồng chí Quang Việt - một học viên trong lớp chính trị - thân mật bảo tôi:

- Này Việt Dũng, cậu đi chẻ lạt với tớ.

Vốn mến đồng chí Quang Việt, tôi bèn theo đồng chí ấy ra một gốc cây, cùng nhau chẻ lạt. Làm được một lát, đồng chí Việt bảo tôi:

- Cậu ở nhà trước làm gì?

Tôi thành thực kể cho đồng chí Quang Việt nghe về gia đình tôi, một gia đình nông dân thuộc loại trung bình. Làng tôi ở sát ngay hồ Ba Bể, tôi được học tới lớp nhất và được đưa đi học y tá ở nhà thương Hải Dương. Tôi nói tiếng Kinh thạo, biết một ít tiếng Pháp, hiểu biết về miền xuôi khá nhiều. Ngày 09/3/1945, Pháp bị Nhật đảo chính, trường y tá tan, tôi và người anh con ông bác về quê thì vừa dịp đồng chí Khang mang một đơn vị Giải phóng quân tới xây dựng chính quyền cách mạng tại địa phương. Hai anh em tôi được giác ngộ và tham gia Giải phóng quân. Chính cái tên Việt Dũng của tôi và anh tôi là Việt Cường đều do đồng chí Khang đặt cho cả.

Nghe tôi kể xong đồng chí Quang Việt cũng kể chuyên gia đình và hoàn cảnh tham gia cách mạng của đồng chí ấy cho tôi nghe. Sau đó, đồng chí nói cho tôi nghe sơ lược về lịch sử Đảng Cộng sản Đông Dương, về những gương anh dũng của các đồng chí tiêu biểu, nhất là gương hy sinh anh dũng của đồng chí Hoàng Văn Thụ.

Câu chuyện của đồng chí Việt đã bổ sung thêm cho tôi những hiểu biết về Đảng sau buổi học, gây cho tôi niềm tự tin và nâng cao thêm ý chí chiến đấu cách mạng của tôi.

Một câu hỏi nổi lên trong tôi lúc ấy: Đồng chí Hoàng Văn Thụ sao tài giỏi, anh hùng như vậy. Mình chả làm gì để xứng đáng với tấm gương ấy? Tôi liền hỏi đồng chí Việt:

- Tôi có thể trở thành người cộng sản được không?

- Sao lại không, nếu cậu chịu khó tu dưỡng và kiên quyết đấu tranh cho quyền lợi của quần chúng lao khổ!

Chúng tôi nắm tay nhau thật chặt.

Ra về, vừa đi vừa nghĩ "Có lẽ ông Cụ bảo đồng chí Việt tới nói thêm để cho tôi hiểu thấu đây. Ông Cụ có lẽ trông thấy lòng mình...".

Công tác và học tập được ít bữa thì một buổi trưa tôi bỗng thấy người mệt. Không thể cùng anh em vào rừng kiếm củi được, tôi đến xin phép đồng chí Hồng Thái ở lại nhà nằm nghỉ. Vừa đặt mình xuống, cơn sốt đã kéo đến. Tôi quấn chặt hai chiếc chăn mà người vẫn run lên bần bật, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Lúc đó, tôi chỉ ước ao có ai đè lên người giữ hộ, hoặc có lò than ở bên cạnh thì mới ghìm cơn rét lại được.

Lát sau, cơn rét lui, cơn sốt lại đến. Người tôi như lò than, đầu nhức buốt. Tôi nghĩ vẩn vơ: "Giá mình ở nhà thế nào bà mẹ, cô em gái lúc này cũng đã đánh cảm và nấu nước xông cho mình rồi. Từ dạo bắt đầu vào Việt Minh, mẹ tôi ở nhà không có ai giúp đỡ liền lấy cho tôi một cô vợ, vừa lấy buổi sớm thì buổi chiều tôi đã đi. Chẳng biết cô ta bây giờ thế nào? Giá ở nhà, thế nào cô ta cũng nấu cho tôi bát cháo gà để sau cơn sốt dậy ăn cho tỉnh người. Nghĩ hết chuyện nhà lại nhớ tới hiện tại: "Ở đây tình đồng chí thì thật là cao nhưng mọi thứ thiếu thốn quá!". Suy nghĩ như vậy tôi mới thấy nhớ nhà da diết. Nhưng hình ảnh ông Cụ và gương anh dũng của đồng chí Hoàng Văn Thụ tại động viên tôi chống chọi với bệnh tật, gian khổ. Tôi đang miên man suy nghĩ thì chợt có người đi nhè nhẹ đến bên rồi ngồi xuống giương. Tưởng đồng chí nào trong đại đội gác về, tôi cứ trùm chăn tiếp theo dòng suy nghĩ của mình. Một bàn tay mát dịu sờ vào trán tôi, tiếp đó là tiếng hỏi thân thuộc:

- Đồng chí nào mệt đây.

Tôi giật mình nhận ra tiếng ông Cụ, vội bỏ chăn ra.

Ông Cụ vẫn đặt tay lên trán tôi, đôi mắt nhìn như muốn hỏi: "Đồng chí sao thế? Có mệt lắm không?".

Cảm động quá tôi vội thưa:

- Thưa Cụ cháu bị sốt rét, bây giờ đỡ rồi. Ông Cụ gật đầu bảo:

- Đồng chí cố ngồi dậy dựa vào vách cho đỡ mệt. Tôi đi lấy thuốc cho đồng chí uống.

Nghe tiếng "thuốc" tôi tỉnh cả người, vì mỗi viên thuốc trong hoàn cảnh lúc bấy giờ rất quý giá, song thấy ông Cụ phải bận mình, tôi lại thấy ngài ngại. Tôi toan thưa lại thì ông Cụ đã đi rồi. Nhìn theo mái tóc đốm bạc, đôi vai gầy của ông Cụ lòng tôi nao nao. Tôi biết giờ này là giờ đọc sách của Cụ. Nhưng sao Cụ lại tới lán của chúng tôi? Có lẽ trong lúc sốt rét, tôi run làm động sàn nứa nên ông Cụ biết. Tôi đã học y tá mà tôi chưa giúp gì cho anh em trong đội, bây giờ chính tôi lại được ông Cụ săn sóc.

Đang nghĩ, ông Cụ đã trở lại. Tôi tưởng như cơn sốt giảm hẳn, liền ngồi dậy, sẵn sàng nhận thuốc uống.

Thấy vậy, ông Cụ cười bảo:

- Đồng chí cố gắng như vậy là tốt, bây giờ đồng chí uống một viên, còn chiều uống viên nữa.

Nói xong, ông Cụ dốc trong chiếc lọ con ra hai viên kí ninh trắng. Thoáng nhìn, tôi thấy trong lọ còn chừng hơn chục viên nữa. Tôi đoán đó là thuốc riêng của Cụ. Sau khi tôi uống thuốc, Cụ dặn thêm:

- Hễ đỡ, đồng chí phải dậy đi lại mới được, nằm nhiều là dễ bị con ma ốm nó quật đấy! Bây giờ tôi về làm việc.

Ông Cụ đi, tôi lặng nhìn theo, không biết nói gì. Còn lại một viên thuốc, tôi đặt giữa lòng bàn tay, hết nhìn viên thuốc, tôi lại nhìn về phía lán ông Cụ ở. Viên thuốc lúc này sao mà quý vậy! Ông Cụ là thượng cấp, vừa là thầy dạy học, vừa là thầy thuốc của mình! Hình ảnh này in sâu vào trí nhớ tôi cũng như ngọn núi Cứu quốc trên quê hương đã in vào trí nhớ tôi từ thuở nhỏ, không bao giờ có thể quên được.

Tôi khỏi bệnh thì ngày 01/5 đã đến. Hôm ấy, chúng tôi cố gắng động viên nhau làm cho xong nhà để có thành tích kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Tôi mới mệt nên được phân công vá quần áo cho anh em. Tôi đang vá, chợt đồng chí liên lạc lên, mang theo một số báo và tài liệu, ngoài ra còn có một hộp gì màu đỏ rất đẹp. Tôi đòi xem nhưng đồng chí liên lạc bảo:

- Không được, đây là quà ở xa gửi biếu ông Cụ!

Sau khi đồng chí liên lạc về, ông Cụ mang cái hộp ấy xuống bếp. Giữa lúc đó, tôi cũng có việc xuống đấy. Tôi thấy ông Cụ đang bảo đồng chí Trần Định (một đồng chí cũ lúc ấy vừa bảo vệ Bác vừa làm cấp dưỡng).

- Đồng chí đổ một nồi nước đủ cho mỗi anh em một bát, có ít gạo nếp ta đem nấu, khi nhừ gạo, đồng chí cho hộp mật này vào.

Đồng chí Định ngần ngừ nói:

- Thưa Bác, cái này để Bác dùng (trong chúng tôi lúc ấy chỉ có đồng chí Định gọi ông Cụ là Bác) vì sức khỏe Bác chưa được tốt.

Ông Cụ bảo:

- Tôi mệt thì anh em cũng mệt. Hôm nay là ngày 01/5 tôi được quà từ ngoài gửi biếu, anh em cũng phải có phần.

Nghe ông Cụ nói, đồng chí Định tỏ vẻ miễn cưỡng vâng lời.

Chờ ông Cụ đi khỏi, tôi vào xem chiếc hộp. Đó là hộp mật ong khô, rất quý. Có lẽ hộp mật đó làm ở một nước nào đó có kỹ nghệ thực phẩm gửi tới, nhãn hiệu không phải chữ Pháp nên tôi không biết. Tôi bàn với đồng chí Định nấu một nửa, còn dành lại cho ông Cụ một nửa.

Đồng chí Định cười bảo rằng:

- Tính Bác vậy, Bác đã bảo là phải làm đúng, nếu bớt lại, Bác bắt nấu lần nữa thì lại mất công.

Trưa 01/5 năm đó, chúng tôi được thưởng thức một bữa chè mật ong đặc biệt. Hương vị thơm ngon của bát chè tưởng như bây giờ vẫn còn nguyên vẹn trong tôi.

Đầu tháng 7/1945, lớp học chính trị đã hết, các học viên đã đi công tác, cơ quan vắng một số người. Sáng hôm ấy, chúng tôi vừa rửa mặt xong, chợt có tin báo: Một toán thổ phỉ và đặc vụ của Tưởng, mượn cớ chống Nhật (thực ra có liên hệ với Nhật) đang tiến vào đèo Re để dò la căn cứ địa của ta. Một bộ phận giải phóng quân đã mai phục đón đánh chúng. Vì trận địa gần cơ quan quá, các đồng chí có trách nhiệm bảo vệ bèn đề nghị ông Cụ tạm lánh. Được ông Cụ đồng ý, đơn vị chúng tôi để lại già nửa bảo vệ cơ quan, nếu phỉ tràn qua sẽ đánh, còn một tổ năm đồng chí do tôi chỉ huy, bảo vệ ông Cụ và tài liệu tạm tránh đi nơi khác.

Trước lúc ra đi, ông Cụ kiểm tra lại việc gói buộc tài liệu, việc bố trí hành quân, chuẩn bị súng đạn của chúng tôi một cách tỷ mỷ, kiểm tra xong ông Cụ dặn:

- Các đồng chí đi phải giữ bí mật, không được gõ vào cây nứa gây tiếng động, không được phát đường bẻ lá. Đồng chí đi sau cùng phải xóa dấu vết của anh em đi trước. Các đồng chí rõ chưa?

Chúng tôi trả lời:

- Dạ, rõ rồi ạ.

Ông Cụ gật đầu nói: - Được, chúng ta đi.

Chúng tôi lên đường, nhằm đỉnh núi cao nhất leo lên. Đường đi dốc đứng, lại không được phát dây leo, cành lá ngáng đường, nên càng khó khăn. Chúng tôi đi chầm chậm để giữ sức cho ông Cụ, vì lúc đó ông Cụ không được khỏe lắm. Trong lúc đi đường, chúng tôi xin đeo hộ ông Cụ chiếc túi dết, nhưng ông Cụ không đồng ý.

Lên đến gần mỏm núi, nơi có một gốc cây to sạch sẽ và có chỗ ngồi bằng phẳng, chúng tôi dừng lại tạm nghỉ. Chúng tôi toan chặt lá để ông Cụ ngồi nhưng ông Cụ không cho. Ông Cụ liền giải thích cho chúng tôi rõ, phải giữ bí mật như vậy để nếu kẻ địch có tiến tới lán, chúng cũng không biết chúng tôi đi về phía nào mà truy tìm.

Giải thích xong, ông Cụ đặt câu hỏi:

- Nếu địch tới đây thì ta đối phó thế nào? Một đồng chí trả lời:

- Thưa Cụ, phải kiên quyết chiến đấu để diệt chúng ạ. Cụ chỉ bó tài liệu hỏi:

- Nếu trong lúc chiến đấu, ta vì lực lượng yếu phải rút đi nữa thì số tài liệu này sẽ làm thế nào?

Chúng tôi mỗi người mỗi ý trả lời:

- Dạ, ta phải đốt đi ạ!

- Không được, tài liệu rất quý. Ta biết phải cất giấu vào rừng hoặc chôn giấu đi, để khi chiến đấu không lo mất, có phải rút lui cũng không ngại. Sau đó ta sẽ quay lại lấy.

Ông Cụ nghe xong liền kết luận:

- Các đồng chí đều nói đúng. Nếu giặc tới, chúng ta phải kiên quyết chiến đấu, tài liệu cũng như sinh mệnh của ta, phải bảo vệ đến cùng. Vậy ta nên tìm cách tạm cất giấy tờ đi để khi xảy ra chiến đấu, ta hoạt động được dễ dàng.

Chúng tôi đào một hố sâu, bỏ hòm tài liệu xuống, lấy lá khô ngụy trang. ông Cụ lại bảo:

- Đừng lấp đất vội, cứ chuẩn bị sẵn, khi nào cần sẽ hay. Bây giờ, các đồng chí nên nghiên cứu cách đánh khi địch tới đây.

Trong lúc chúng tôi để một đồng chí cảnh giới rồi tụm lại bàn bạc cách đánh, ông Cụ lấy sách ra đọc. Khi thấy chúng tôi bàn bạc xong, ông Cụ ngừng đọc, bảo tôi báo cáo lại kết quả. Nghe xong, ông Cụ bảo:

- Được, các đồng chí chuẩn bị như vậy là tốt. Ta nhân việc này mà tập dượt cho quen, có giặc tới ta sẽ đánh!

Khoảng gần chín giờ sáng, từ xa vọng lại một tràng tiểu liên rồi súng trường, lựu đạn liên tiếp nổ. Từ đèo đến chỗ chúng tôi, đường chim bay chỉ khoảng hơn một cây số, chúng tôi lại ở trên núi cao nên nghe rất gần.

Một đồng chí gác chạy tới báo với ông Cụ. Ông Cụ bảo:

- Tôi cũng nghe thấy rồi.

Nói xong, ông Cụ lại tiếp tục đọc sách.

Ngồi nghe súng nổ, tôi rất sốt ruột. Tôi phấp phỏng nghĩ không biết chúng có đông không, ta có thắng không? Nếu chúng tràn vào được, nhân dân ta sẽ thế nào?

Súng nổ dồn dập một chập rồi thưa dần, sau đó im bặt. Ông Cụ đặt sách, vẻ vui mừng hiện trên nét mặt. Chúng tôi thầm thì phán đoán. Như biết được ý nghĩ của chúng tôi, ông Cụ bảo:

- Chắc là thắng rồi, vì những tiếng súng về sau mỗi lúc một xa. Vả lại, trận này ta nắm rõ địch, ta lại chủ động từ đầu.

Đúng vậy, đến quá mười một giờ, có tiếng hú từ dưới cơ quan vọng lên. Đó là mật hiệu liên lạc. Lát sau một đồng chí lên báo cáo là quân ta đã đánh tan cánh phỉ đó và thu được nhiều vũ khí.

Ông Cụ chỉ thị cho chúng tôi trở về, trong lúc về vẫn phải xóa dấu vết để giữ bí mật.

Hôm ấy, chỉ trong mấy giờ buổi sáng mà chúng tôi đã học được ở Cụ nhiều điều về chuẩn bị hành quân, công tác bí mật trong lúc hành quân, cách phán đoán, xử trí tình hình và dân chủ trong công tác quân sự. Ông Cụ đã dạy cho chúng tôi những bài học thực tế sâu sắc.

Chiều hôm ấy, tôi xuống làng để nghe đồng chí Đường hướng dẫn học tài liệu như thường lệ. Tới nơi, một tin làm tôi sửng sốt: Đồng chí Đường đã hy sinh trong trận diệt phỉ vừa rồi. Đau xót quá tôi chạy thẳng về cơ quan và không sao nén nổi cảm xúc. Tôi bỏ bữa cơm chiều, nằm dài trong lán.

Gần tối, đồng chí Định tới thăm, bảo tôi:

- Ông Cụ bảo mình tới kể cho đồng chí nghe về gương chiến đấu của đồng chí Đường đây. Tôi vội ngồi dậy, lắng nghe, đồng chí Trần Định nói:

- Ông Cụ dặn đồng chí là: Thương đồng chí mình thì phải noi gương chiến đấu của đồng chí ấy. Đồng chí là một người cộng sản tốt đấy!

Tôi hứa với đồng chí Định là sẽ học tập, theo gương đồng chí Đường.

Đồng chí Định cũng cho tôi biết là đồng chí sẽ thay đồng chí Đường giúp đỡ tôi về các mặt công tác và học tập. Biết là đoàn thể đã phân công đồng chí Định dìu dắt tôi thay đồng chí Đường, tôi chân thành nhận sự dìu dắt ấy.

Thật không ngờ, mãi tới khi Chính phủ lâm thời thành lập, tôi mới được biết ông Cụ là Hồ Chủ tịch, là Bác Hồ kính yêu của chúng ta.

(Việt Dũng kể, trích trong "Bác Hồ ở Tân Trào")

Tâm Trang (tổng hợp)


 76. Củng Hồ biết thuốc giỏi lắm

Thời kỳ ở Pác Pó, do phải giữ gìn bí mật, Bác Hồ ít tiếp xúc với các cháu thiếu nhi ở bên ngoài mà thường chỉ ra khu nhà đồng chí Dương Đại Lâm.

Nhà đồng chí Đại Lâm rất đông anh em và nhiều cháu bé. Những lần Bác ra chơi, ngoài việc trò chuyện với ông cụ thân sinh đồng chí Đại Lâm, Bác còn chăm sóc các cháu nhỏ, giúp đỡ gia đình đồng chí Đại Lâm.

Do các cháu chơi nghịch đất cát, quần áo lem luốc, bẩn thỉu; mặt khác do đời sống thiếu thốn, khó khăn vì sự bóc lột của bọn thống trị, có cháu đầu bị chốc lở, tanh tưởi mà không có thuốc chữa chạy.

Bác Hồ chữa cho các cháu bằng cách đem nước nóng rửa thật sạch chỗ lở chốc, rồi lấy tro bếp nóng, gói lại ấp lên đầu cho cháu. Bác làm việc này với tất cả sự cẩn thận, tận tình nên chỉ trong một thời gian ngắn, lở chốc trên đầu cháu bé bay đi đằng nào. Cháu lại chơi vui. Nhân dân ở đó kháo nhau "Củng Hồ biết thuốc giỏi lắm (Củng Hồ tiếng địa phương là Bác Hồ). Thực ra, Bác Hồ chữa bệnh cho các cháu không chỉ bằng thuốc mà bằng tấm lòng thương yêu của một người cha, một người ông lúc nào cũng mong cho con cháu khoẻ mạnh, lớn khôn. Chính vì lo lắng đến tương lai hạnh phúc của con em, Bác đã không chỉ quan tâm mà còn rất chú trọng đến việc tổ chức giáo dục nhi đồng. Bác Hồ luôn nhắc nhở cán bộ phải chú ý đến "Hội nhi đồng cứu quốc". Đồng chí Đức Thanh nghe lời dạy của Bác đã tổ chức ra Hội nhi đồng cứu quốc thôn Nà Mạ, trong đó có Kim Đồng, người thiếu niên anh dũng đã cống hiến tuổi thiếu niên đẹp đẽ, bất diệt của mình cho cách mạng.

(Trích trong "Bác Hồ kính yêu")

77. Bác Hồ với việc học tập và sử dụng tiếng nước ngoài

Các Mác, Ăngghen, Lênin - những lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới đều là những người giỏi nhiều ngoại ngữ. Điều đó đã giúp các ông rất nhiều trong hoạt động khoa học, hoạt động lý luận và vận động cách mạng.

Sinh thời, Mác biết thành thạo mười ngoại ngữ, "đã đọc hầu hết các sách quan trọng của thời đại mình", đọc được tài liệu bằng tất cả các thứ tiếng Châu Âu, còn tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh đều viết rất giỏi.

Ăngghen biết đến 21 thứ tiếng trong đó có cả những tiếng cổ như tiếng Pháp cổ, tiếng Tây Ban Nha cổ.

Mác và Ăngghen khi trên 50 tuổi, do yêu cầu phải nghiên cứu những vấn đề về nước Nga mà hai ông đã học thêm tiếng Nga. Chỉ trong thời gian ngắn, hai ông đã đọc được nhiều tài liệu và tác phẩm văn học từ nguyên gốc Nga.

Còn Lênin thì biết thành thạo, đọc và dịch được tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp, đọc được tiếng Ba Lan và tiếng Ý.

Các ông đều là những tấm gương lớn về trau dồi ngoại ngữ, công cụ giao tiếp quan trọng nhất của nhân loại.

Bác Hồ của chúng ta cũng là một tấm gương học tập tiếng nước ngoài thành công trong điều kiện vô cùng gian khổ và thiếu thốn.

Hoàn cảnh có khác nhau nhưng các ông đều có chung một mục đích đấu tranh cách mạng giải phóng loài người khỏi áp bức, bóc lột; vì một xã hội văn minh, vì tình hữu nghị lâu dài giữa các dân tộc. Các ông đều giống nhau ở ý chí tự học không bao giờ ngừng.

Dưới đây là những câu chuyện về tấm gương Bác Hồ học tập và sử dụng tiếng nước ngoài.

Bác Hồ với tiếng Hán cổ và hiện đại

Tháng 8/1942, Bác có việc sang Trung Quốc thì bị bọn Quốc dân đảng bắt. Sau khi bị chúng trói, giải đi suốt mười tám nhà tù, từ trại giam này đến trại giam khác, chúng đưa Bác về giam ở Liễu Châu. Đấy không phải là một trại giam chính cống, mà chỉ là một "cấm bế thất", một phòng giam nhỏ hẹp ngay bên cạnh đội cảnh vệ của tướng Trương Phát Khuê. Chỉ một mình Bác bị nhốt ở đó. Lâu lâu mới có một vài sĩ quan Quốc dân đảng bị phạt vào đó năm bảy ngày. Bác lợi dụng những dịp đó để học tiếng "quan". Trong thời gian 14 tháng bị giam cầm ở Quảng Tây, Bác đã viết "Nhật ký trong tù”. Cuốn sổ nhật ký đó to bằng bàn tay, dày 47 trang. Trên trang đầu ghi bốn chữ Hán “Ngục trung nhật ký", kèm theo bốn câu thơ và hình vẽ người tù hai cổ tay bị xích. Nhật ký gồm hơn một trăm bài thơ chữ Hán bất hủ. Với Bác, đó chỉ là một việc làm bằng "tay trái", là một sản phẩm bất đắc dĩ vì "trong ngục tối biết làm chi đây", nhưng lại là một tác phẩm nổi tiếng trên thế giới. Năm 1960, Nhật ký trong tù chính thức ra mắt bạn đọc trong và ngoài nước. Mấy chục năm qua, tập thơ được in lại nhiều lần ở trong nước, trên thế giới, nó được dịch ra nhiều thứ tiếng như tiếng Anh, Pháp, Nga, Đức, Mỹ, ngày 11/8/1971, một nhà xuất bản chuyên ấn hành loại sách phổ cập đã đặt in 50 vạn cuốn Nhật ký trong tù. Một tập thơ được xuất bản với số lượng lớn như vậy là điều chưa từng thấy ở Mỹ. Nhiều chiến sĩ đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, bị giam trong các nhà tù của Mỹ, cũng đã thuộc lòng một số bài thơ của Bác. Chẳng phải bây giờ người ta mới thuộc mà trước khi chúng ta xuất bản rộng rãi tập thơ đó, một số đồng chí Trung Quốc đã nhớ nhiều bài trong tập thơ đó.

Quách Mạc Nhược, nhà học giả nổi tiếng của Trung Quốc nhận xét: "... Có một số thơ rất hay, nếu xếp chúng vào tập thơ Đường, Tống, e rằng cũng không dễ gì nhận ra". Theo Lỗ Tấn, thơ theo kiểu cổ, đến nay phần nhiều mất hết sức sống, "tất cả những bài thơ hay đến đời Đường đã làm hết rồi", thì đủ thấy trình độ Hán học cũng như thi tài của Bác uyên thâm xuất sắc đến mức nào rồi.

Ngoài “Nhật ký trong tù” ra Bác còn làm nhiều thơ bằng chữ Hán, Bác xen vào nhiều bạch thoại, có khi sửa lại câu thơ xưa cho hợp với hiện thực ngày nay. Điều đó chứng tỏ Bác nhớ nhiều và nhớ lâu văn chương cổ điển của Việt Nam, Trung Quốc và vận dụng độc đáo, sáng tạo, linh hoạt trong tác phẩm của mình. Và cũng như trong nhật ký, ngòi bút của Bác chẳng bao giờ ngừng nghỉ, dù là viết chữ Hán đòi hỏi trí nhớ cao. Có thể nói là Bác đã "xuất khẩu thành thơ"...

Bác đã dịch, biên dịch hoặc biên soạn được biết bao nhiêu tư liệu quý báu nhằm phục vụ kịp thời cho cách mạng. Sau hơn ba mươi năm trời xa đất nước, Bác lại trở về. Trong chiếc va-li mây của Bác (hiện còn ở Viện Bảo tàng cách mạng) chỉ vẻn vẹn có mấy thứ, trong đó có quyển Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô bằng tiếng Hán, Bác lược dịch quyển này làm tài liệu huấn luyện cán bộ. Trên chiếc bàn đá gần suối Lênin, dưới vòm dương xỉ xanh, ngày ngày Bác ngồi cặm cụi dịch quyển này, và từ đấy "Tức cảnh Pác Pó ra đời ":

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang

Khi dịch xong, Bác đã tổ chức "ăn mừng". Bữa ăn hôm ấy có thịt và rau tươi.

Bác còn lược dịch những điểm cơ bản trong tư tưởng chiến lược, chiến thuật quân sự của Tôn Tử, nhà quân sự nổi tiếng 2000 năm trước đây của Trung Quốc, nhằm bồi dưỡng kiến thức quân sự cho mọi người. Và thế là, quyển “Phép dùng binh của Tôn Tử” (Binh thư Tôn Tử) ra đời. Quyển này do Việt Minh xuất bản vào tháng 02/1945, nhưng nó đã được dịch từ trước đó khá lâu.

Bác còn biên soạn quyển "Cách huấn luyện cán bộ quân sự của Khổng Minh". Quyển này có đề ở ngoài bìa: "Hồ Chí Minh biên dịch và bình luận", nói về tiêu chuẩn đức tài, tư cách đạo đức và phép dùng binh cơ bản của một người tướng. Khổng Minh là nhà quân sự nổi tiếng thời Tam Quốc.

Về nghe và nói, Bác cũng thành thạo, cho nên lắm khi ứng đối tài tình với kẻ địch, khiến chúng bối rối. Tiếng Hán (dù là xưa hay nay) ở trong tay Bác đã trở thành một công cụ lợi hại, với kẻ thù là một vũ khí sắc bén "quật vào mặt chúng những làn roi cháy bỏng", như có người nước ngoài đã nhận xét, nhưng với bạn bè, anh em thì đó lại là phương tiện mầu nhiệm, là chiếc cầu hữu nghị để hiểu nhau hơn, cảm thông với nhau hơn, phục vụ nhiều hơn cho sự nghiệp chung của cách mạng.

Bác Hồ với tiếng Pháp

Năm 1923, nhà thơ Xô viết Ô-xíp Man-đen-xtam gặp Bác. Bác nói với nhà thơ: "Vào trạc mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe những từ tiếng Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái... Thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn náu đằng sau những từ ấy", "nhưng trong những trường hợp cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng không cho người nước ngoài chúng tôi xem sách báo. Không phải chúng chỉ không cho đọc các nhà văn mới mà cả Rút-xô và Mông-tét-xki-ơ nữa cũng bị cấm". "Vậy thì phải làm thế nào bây giờ?", Bác kết luận: "Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài".

Dù mới tiếp xúc với "Tây học", với nền văn hóa tư sản và hệ tư tưởng tư sản, nhưng qua những đoạn dẫn trên đây ta thấy Bác đã có cái nhìn sắc bén khác với những người bình thường. Hồi nhỏ, cụ Sắc luôn dạy các con phải "biết mình biết người". Vì thấm nhuần điều "biết mình biết người, trăm trận đánh, trăm trận thắng" nên Bác muốn đến tận sào huyệt của chúng (đến các "chính quốc" Pháp, Anh...) để tìm hiểu. "Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta".

Việc du học bị nghiêm cấm. Thế nhưng Bác vẫn kiên quyết ra đi với hai bàn tay trắng và một vốn tiếng Pháp ít ỏi học được trong nhà trường.

Mùa hè năm 1911, Bác đặt chân lên đất Pháp. Tiếng Pháp là một "trở ngại" trong bước đầu đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Bác. Bác hiểu ngay rằng mình phải giao thiệp bằng tiếng Pháp để làm ăn sinh sống, để học tập và hoạt động cách mạng. Nhờ động cơ học tập đúng đắn và mạnh mẽ đó nên Bác đã nhanh chóng tìm ra được nhiều cách học thông minh, sáng tạo. Ngay trên chuyến tàu sang Pháp, Bác đã tranh thủ lúc rỗi để học đọc và viết tiếng Pháp với hai người lính trẻ được giải ngũ trở về Pháp. Họ cho Bác mượn những quyển sách nho nhỏ bằng tiếng Pháp. Khi đến thành phố Lơ Ha-vơ-rơ, Bác học tiếng với cô Sen. Tóm lại, những người xung quanh dạy Bác học. Muốn biết một vật nào đó tiếng Pháp gọi là gì. Bác chỉ vật ấy rồi hỏi, xong viết vào mảnh giấy, dán vào chỗ hay để ý nhất, để vừa làm việc vừa học được. Có khi viết chữ vào cánh tay. Tối đi làm về, Bác rửa tay rồi lại viết các chữ khác. Học được chữ nào, Bác ghép câu dùng ngay. Giăng Lông-ghê, cháu ngoại Các Mác, là chủ nhiệm báo "Dân chúng", cơ quan của Đảng Xã hội Pháp (hồi ấy Đảng Cộng sản Pháp chưa thành lập), đã khuyến khích Bác viết về Việt Nam. Nhưng bấy giờ, Bác chưa giỏi tiếng Pháp. Muốn viết gì, Bác phải nhờ luật sư Phan Văn Trường. Ông là một nhà trí thức yêu nước, đậu Tiến sĩ luật khoa ở Pa-ri, nhưng ông không muốn ký tên ở dưới và không viết hết điều mà Bác muốn nói, Bác rất khó chịu vì mình kém tiếng Pháp, Bác nghĩ: Muốn tuyên truyền cho nước ta, nhưng không viết được chữ Pháp. Làm thế nào bây giờ? Nhất định phải học viết cho kỳ được, Bác làm quen với chủ bút tờ báo "Đời sống thợ thuyền", Bác ngỏ ý muốn viết bài nhưng ngại vì tiếng Pháp còn kém. Chủ bút bảo: “Điều đó không ngại, có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài cho anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài; năm sáu dòng cũng được.” Viết xong bài, Bác chép thành hai bản, một bản giữ lại. Lần sung sướng nhất trong đời viết văn, làm báo của Bác là bài đầu tiên được đăng trên tờ "Đời sống thợ thuyền”. Năm ấy là năm 1917. Bác đã so lại xem đúng sai chỗ nào, tòa báo sửa cho như thế nào. Sau này, khi thấy đã bớt sai, ông chủ bút lại bảo: Bây giờ anh viết dài một tí, viết độ bảy tám dòng". Rồi cứ thế, Bác viết được cả một cột báo, có khi dài hơn. Lúc ấy, người chủ bút (là bạn thân của Bác) lại bảo viết ngắn lại. Rút ngắn cũng khó như kéo dài. Nhờ kiên trì rèn luyện nên Bác đã thành công.

Lần sung sướng thứ hai là khi mẩu chuyện về Pa-ri của Bác được đăng.

Thường thì suốt ngày làm việc, Bác đọc vài trang tiểu thuyết để trau dồi tiếng Pháp và giải trí một chút. Thấy Tôn-xtôi viết giản dị, rõ ràng, Bác rất thích và cũng viết một bài phóng sự về khu phố công nhân nghèo khổ nơi Bác ở. Sáng nào cũng viết từ năm giờ đến sáu giờ rưỡi. Bảy giờ phải đi làm. Khi viết trời rét buốt. Ngón tay tê cống. Sau một tuần cặm cụi, Bác hoàn thành tác phẩm đầu tiên của mình. Bác nói với các đồng chí trong Ban văn học tòa soạn báo "Nhân đạo" rằng: "Tôi rất sung sướng nếu bài viết này của tôi được đăng, tuỳ các đồng chí đăng hay không đăng, nhưng dù thế nào thì cũng xin các đồng chí sửa lỗi tiếng Pháp cho tôi...".

Cho đến năm 1945, trong đời làm báo, viết văn của Bác có ba lần sung sướng. Hai lần được đăng báo bài viết bằng tiếng Pháp. Lần sung sướng thứ ba là lần thảo bản "Tuyên ngôn độc lập", vì đó là một trang vẻ vang nhất trong lịch sử Việt Nam.

Năm 1922, tờ "Người cùng khổ" (Le Paria) ra đời. Bác làm chủ bút, chủ nhiệm, giữ quỹ, phát hành và bán báo, việc nào cũng đòi hỏi dùng nhiều tiếng Pháp. Bác kể lại: "Các đồng chí người thuộc địa Á Phi viết bài quyên tiền, còn bao nhiêu công việc mình đều bao hết". Trụ sở đầu tiên của Bác ở số nhà 16 phố Giắc Ca-lô, sau chuyển sang số nhà 3 phố Mác-sê đê Pa-tri-ác-sơ ở quận 6, là một nhà cổ xưa ở Pa-ri. Nơi đây, Bác làm việc để ra báo và cũng chính nơi đây là trụ sở của "Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa". Bác là một trong những người có sáng kiến ra tờ báo của hội này. Báo ra cả thẩy được 38 số. Khổ lớn, tên báo bằng chữ Pháp đặt ở giữa, chữ Ả Rập bên trái và chữ Hán bên phải, do Bác viết. Báo này không có ban biên tập làm việc thường xuyên, vì ai nấy phải làm việc, sinh sống hoặc bận các công việc khác. Vì vậy, Bác nhiều lần được tập thể giao công việc sửa chữa bài vở và bán báo. Luật sư Mác Clanh-vin Blông-cua, người đảo Guy-a-đo-lúp, trong Ban biên tập nhận xét rằng: "Anh Nguyễn Ái Quốc đã đóng góp rất nhiều cho tờ báo, anh viết khoẻ, có số viết tới hai, ba bài", "lời văn anh sắc bén, tư tưởng anh rõ ràng và mạnh mẽ", "xem và đọc những bài và tranh đó người ta thấy rõ tác giả có một tinh thần tiến công rất chủ động và rất thông minh".

Người ta thường nhắc đến những bài của Bác trên tờ "Người cùng khổ" với một lòng xúc động, mến phục: Nào là bài "Động vật học" với giọng văn rất Pháp, đả kích sâu sắc bọn thực dân; "Vĩnh biệt vị vua chúa" mỉa Khải Định lúc hắn sang dự đấu xảo ở Pháp, nào là "Con rùa" nói lên sự tham nhũng tàn bạo của một tên quan cai trị Pháp ở Việt Nam; "Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu" mang tính chất một bài bút ký "viễn tưởng"; nào là "Hands off China"... Có kỳ như số ra ngày 01/8/1922 có đến ba bài viết và một bức vẽ của Bác.

Ngoài tờ "Người cùng khổ" ra, Bác còn viết cho nhiều tờ báo bằng tiếng Pháp nữa. Ví dụ, trên báo "Nhân đạo", chúng ta thấy "Vấn đề bản xứ"; lời than vãn của bà Trưng Trắc"; "Con người biết mùi hun khói"; "Vi hành". Riêng bài "Vi hành" (Incognito) đăng ngày 19/02/1923, tác giả nói đây là trích những bức thư gửi cô em họ do tác giả tự dịch bằng tiếng Nam (tiếng Việt), nhưng chúng ta có cơ sở để đoán là truyện này ngay từ đầu đã được viết bằng tiếng Pháp.

Về sách của Bác, chúng ta chú ý đến quyển: Bản án chế độ thực dân Pháp. Đây là tác phẩm kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, nó nêu ra những việc thật, người thật, dùng thuật "Gậy ông đập lưng ông" (trích lời người Pháp viết để làm tang chứng). Sách được viết bằng hình thức tiểu phẩm, làm thiên phóng sự điều tra mở đầu cho một nền văn học mới ở Việt Nam. Là văn kiện lịch sử, nó cũng là tác phẩm văn học lớn bằng tiếng nước ngoài trong văn học sử Việt Nam.

Bác dùng tiếng Pháp rất linh hoạt. Trong quãng đời mười năm ở Pháp, Bác đã diễn thuyết, nói chuyện phát biểu ở nhiều nơi. Nhưng đáng chú ý nhất là lời phát biểu của Bác ở Đại hội Tua (năm 1920) và "Bản tham luận về dân tộc thuộc địa" ở Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 5 (năm 1924). Hai lần phát biểu bằng tiếng Pháp đã chứng tỏ nhãn quang sáng suốt và sâu sắc về chính trị cùng tài năng tiếng nước ngoài của Bác, dường như Bác muốn nói gì, diễn tả như thế nào thì tiếng Pháp lúc đó đủ để phục vụ cho nhu cầu đó (ở Liên Xô còn giữ được bản ghi lời phát biểu bằng tiếng Pháp của Bác ở Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 5 và Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đã chụp lại được bản ấy). Sau này, khi đã trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Bác vẫn còn dùng tiếng Pháp ở nhiều nơi, nhiều lúc, rất có hiệu quả.

Tháng 5 năm 1946, Bác chủ động đến nói chuyện với một số lính Pháp đóng trong thành Hà Nội. Lúc ấy, quan hệ giữa ta và thực dân Pháp khá căng thẳng. Nhiều đồng chí đã đi theo và bảo vệ Bác. Tướng Xa-1ăng giở đủ ngón này ngón nọ ra với ý đồ "tác động tinh thần’'. Thật đúng là Bác đang đi vào nơi hang hùm miệng rắn vậy. Thế nhưng, Bác vẫn thản nhiên, ung dung, dùng thứ tiếng Pháp điêu luyện "rất Pháp" của mình để nói về tình yêu quê hương đất nước, về sự giải phóng nước Pháp khỏi bọn phát xít Đức, về nguyện vọng và ý chí của dân tộc Việt Nam là giành cho được độc lập, tự do... Lính Pháp vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Xa-lăng bị một cú bất ngờ, hắn sợ nguy cơ phản chiến, nên hốt hoảng vội mời Bác nghỉ với lý do là "Sợ Chủ tịch mệt" (!?).

Vài ngày sau, Bác sang Pháp, nhiều người lo cho Bác vì bấy giờ đã có một máy bay Pháp chở một vị lãnh tụ ở Trung Đông đâm vào núi. Thế nhưng, “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, lại cũng vì tin tưởng ở Đảng Cộng sản và các lực lượng cách mạng ở Pháp nên Bác vẫn ra đi. Mấy tháng ở Pháp, Bác đã làm chấn động dư luận Pháp và thế giới, hết sức có lợi cho cách mạng. Có nhiều câu chuyện, ở đây chỉ xin nêu ra một mẩu chuyện có liên quan tới việc dùng tiếng nước ngoài của Bác.

Trong một buổi họp báo của Bác ở Pa-ri có gần một trăm phóng viên các nước đến dự. Một nhà báo tò mò hỏi:

- Thưa ngài Chủ tịch, Ngài là Cộng sản phải không?

- Phải - Chủ tịch Hồ Chí Minh điềm dạm trả lời.

- Ngài đã tham gia phong trào kháng chiến?

- Đã tham gia.

- Bao lâu?

- Gần 40 năm.

- Hình như Ngài đã từng ở tù?

- Ở các nhà tù khác nhau.

- Có lâu không?

          Chủ tịch Hồ Chí Minh mỉm cười. Nhìn thẳng vào mặt nhà báo tò mò, Chủ tịch nói: - Ở trong tù, thời gian bao giờ cũng lâu cả.

Trả lời đơn giản và bất ngờ. Đó là sự chế nhạo kín đáo hay là ý muốn ngắt lời nhà báo thiếu lễ độ nọ? Có một điều rất rõ, người Pháp, người Anh, người Mỹ đã hiểu được rằng con người có chòm râu nhọn ấy có thể mỉm cười ở Pa-ri, Luân Đôn cũng như ở Hà Nội. Đó là nụ cười của một nhà tiên tri biết mở rộng biên giới của hiện tại.

Câu chuyện dưới đây do giáo sư Trần Hữu Tước, Anh hùng Lao động, Viện trưởng Viện Tai - Mũi - Họng Việt Nam kể lại:

Trong thời gian đàm phán ở Pháp, hoạt động của Bác thật phong phú, Bác đọc nhiều báo và các bài nói về Việt Nam để nghiên cứu. Bác còn đi nghe hòa nhạc, xem vũ ba-lê, tham quan cơ sở bảo tàng... Sau khi ký bản Tạm ước vào nửa đêm 14/9/1946, Bác cùng vài người nữa về nước trên một thông tin hạm dài hơn trăm mét của Pháp. Lúc qua vịnh Cam Ranh để về Hải Phong, đô đốc Đác-giăng-li-ơ lúc ấy thay mặt Chính phủ Pháp ở Đông Dương điện ra xin gặp, cho nên tàu ghé vào Vịnh. Thì ra chúng bố trí rầm rộ. Hai thuỷ phi cơ bay lượn quanh chiến hạm bảy tầng lính thuỷ của Đác. Đác kéo hết các loại cờ, giương hết các nòng pháo. Bác chỉ đi với mỗi giáo sư Trần Hữu Tước lên tàu. Đối phó như vậy thật hiệu quả ngay. Khi ra cửa tàu đón, Đác đã phải nói ngay với giọng cáo già: "Thưa Chủ tịch, đến tuổi tôi, tôi lại được học rằng, đi với thầy thuốc là... thượng sách!". Bác chỉ mặc giản dị, thái độ thản nhiên, đường hoàng với phong cách người chủ ở đây, còn sự loè loẹt của chúng lại trở nên xa lạ, ngượng ngùng. Tiệc trên chiến hạm là một cuộc đấu trí. Để lưu ý xỏ xiên rằng Bác đang ngồi giữa hai tướng Pháp lừng danh (tức bị “đóng khuôn” kẹp chặt), giữa một bên là đô đốc thuỷ quân Thái Bình Dương, một bên là thống soái lục quân Viễn Đông, Đác-giăng-li-ơ lưỡi dẻo quẹo, vừa cười vừa nói: "Monsieur le président, vous voi la bién encadre phí I' Aơneé đ la Marinet" (Chủ tịch thật bị "đóng khung” giữa lục quân và hải quân đó!). Hắn cố nói kiểu nhát gừng, tách riêng và nhấn mạnh những tiếng “bién encadre" (thật bị đóng khung). Nói xong, Đác dương dương tự đắc ý cùng đồng bọn cười khoái chí vì câu nói hiểm hóc đó. Nhưng rồi chúng cũng ngồi lịm đi khi Bác mỉm cười, ung dung trả lời ngay: "Mais, vous savez, Mơnsieur I' Amiral, c'est le tableau qui fait la vaieur du cadre!" (Nhưng mà Đô đốc biết đấy, chính bức họa mới đem lại giá trị cho chiếc khung). Hồi tưởng lại, câu nói của Bác như có một ý nghĩa tiên tri: Pháp thua nhưng "vinh dự là thua Việt Nam". Trong bữa tiệc, còn nhiều câu trả lời ý vị bằng thứ tiếng Pháp đồng giọng và điêu luyện của Bác ứng đối với bọn thực dân. Cuối cùng, chúng thấy thực là đau nên phải thôi cái trò chơi chữ ấy. Nhiều câu chuyện của Bác hồi đó nay đã trở thành những giai thoại diệu kỳ.

(Trích trong "Bác Hồ với tiếng nước ngoài")

Tâm Trang (tổng hợp)


77. Bác Hồ với việc học tập và sử dụng tiếng nước ngoài (tiếp)

Bác Hồ với tiếng Anh

Qua tiếng Pháp, Bác học thêm tiếng Anh.

- Tại sao đi Anh?

Bác nói là để học tiếng Anh.

Bác sang Anh có nhiều mục đích, nhưng chắc chắn cũng là để học thêm một thứ tiếng nước ngoài ở ngay trên đất nước nói tiếng đó. Bác muốn học được nhanh hơn, thuận lợi hơn nên sang Anh để có một môi trường tiếng Anh tốt hơn là ở đất Pháp. Tất nhiên, vẫn phải vừa làm vừa học. Ngày nay, đường phố Hây-ma-kít lớn rộng giữa thủ đô Luân Đôn còn ghi dấu vết tiệm ăn khách sạn Các-lơ-tơn (Cariton Hotel), nơi khoảng năm 1914 Bác đã làm phụ bếp ở đấy. Khách sạn lớn nhất nước Anh hồi bấy giờ có ông vua bếp nổi tiếng là Ét-cốp-phi-e được Huân chương vinh dự. Cũng làm ở tiệm này có ông Nam, người đồng hương với Bác.

- Ai đưa anh đến đây, đến nước Anh?

- Tôi đến đây một mình để học tiếng Anh.

Hay đấy, nhưng tiếng Anh rất khó học. Đã hai mươi năm tôi ở thành phố này mà không biết hơn, ngoài hai chữ Yes và No (vâng và không).

- Phải học chứ. Chúng ta sẽ cùng nhau học.

Trước khi đến khách sạn này, Bác đã đi làm công việc đốt lò. "Ở đây thật đáng sợ" vì luôn luôn ở trong cảnh "tranh tối tranh sáng", vì "trong hầm hết sức nóng, ngoài trời hết sức rét". Không đủ quần áo nên Bác bị cảm, phải nghỉ việc luôn hai tuần. Khi Bác trả tiền thuê phòng, tiền bơ, bánh mì và tiền "sáu bài học chữ Anh" rồi, trong túi chỉ còn vẻn vẹn có sáu hào rưỡi! Bác đã phải "thắt lưng buộc bụng" để học tiếng Anh trong một hoàn cảnh khó khăn như thế đấy!

Thường ngày, Bác phải làm từ 8 đến 12 giờ, chiều từ 5 đến 10 giờ. Phương tiện học là vài quyển sách và một cây bút chì. Sớm chiều, Bác đến ngồi ở vườn hoa Hay-đơ, nơi có nhiều cây to, cột đèn cổ xưa để học. Vườn hoa Hay-đơ (Hyde Park) là nơi míttinh thị uy của nhân dân lao động ở Luân Đôn. Thật là một cuộc "gặp gỡ" kỳ thú! Trước kia, Lênin và Cơ-rúp-skai-a cũng đã học tiếng Anh ở vườn hoa này! Có lần, khi đến thăm một lớp học, Bác nói rằng học tiếng nước ngoài phải kiên nhẫn, vượt khó, có lúc Bác phải ra vườn hoa Hay-đơ học vì “ở đấy lạnh không buồn ngủ”.

Quả là như vậy, một ngày làm đến 9, 10 tiếng vất vả, ăn mặc thiếu thốn, tiếng Anh học đã khó lại thêm phương tiện, điều kiện chẳng có gì. Bác phải tự học, không thầy, không bạn, không trường, không lớp. Do đó Bác phải tìm một chỗ học thuận lợi hơn, giúp thêm cho nghị lực quyết tâm và điều kiện học của mình hơn. Đó là điều bình thường thôi. Dĩ nhiên, "hàng tuần, vào ngày nghỉ", Bác vẫn đi học tiếng Anh với một giáo sư người Ý.

- Ở Anh không lâu, thời gian học cũng ngắn, thế nhưng trình độ tiếng Anh của Bác chẳng thua kém gì mấy so với tiếng Hán và tiếng Pháp là những thứ tiếng thành thạo của Bác, Bác học tiếng Anh chủ yếu trong thời gian này. Trong tờ báo "Phong trào", số tháng 10 năm 1969, Rơ-nê Đi-pét có viết rằng: Trên đường đi tìm hiểu thế giới, ở mỗi nơi tàu dừng lại, "đối với anh Ba, đều là một trường đại học", ở đó anh đã trực tiếp thu lượm được những hiểu biết về sự tàn bạo của bọn tư bản. Tuy vậy, Bác cảm thấy cần phải mở rộng kiến thức của mình bằng sách vở.

Ở Luân Đôn, Bác đã làm nhiều nghề khác nhau để có tiền ăn học. Trong thời gian chiến tranh, Bác đã để thì giờ để nghiên cứu lịch sử thế giới, học tiếng Anh và suy nghĩ về tương lai của các dân tộc thuộc địa.

Qua nhiều tư liệu, ta thấy Bác nói giỏi tiếng Anh, thông thạo văn hóa và lịch sử Anh, Mỹ - nhất là Mỹ. Bác đã dịch nhiều đoạn, nhiều câu rút trong báo chí Anh, Mỹ và các nước khác để đưa vào tiểu phẩm của mình. Tài liệu nói về Mỹ của Bác đã lên đến hàng mấy trăm bài với các thể loại khác nhau, đề cập toàn diện và sâu sắc đến nước Mỹ (Bác ký nhiều tên khác nhau).

Qua thăm nhiều thành phố ở Mỹ như Oa-sinh-tơn, Niu Oóc, Bô-stơn... xem nhiều sách báo về Mỹ, những việc đó đã phần nào giúp Bác hiểu tường tận hơn để những dự đoán khoa học, kết luận cách mạng thiên tài hơn. Qua nghiên cứu, ta thấy Bác là nhà lý luận về chủ nghĩa thực dân nói chung cũng như về chủ nghĩa thực dân (kiểu mới) nói riêng. Chính tiếng Anh (của Bác) đã giúp nhiều cho Bác trong hoạt động đó. Bác đã đọc biết bao nhiêu là sách tiếng Anh, nào là Uy-li-am Sếch-xpia (1564 - 1616), nhà viết kịch thời Phục hưng, nào là Sác-lơ Đích-ken (1812 - 1870), nhà văn hiện thực phê phán vĩ đại, nào là Ha-ri-ét-bít-chơ Stao (1811 - 1896)... cho đến đủ loại báo chí tiếng Anh như báo "Bang Oóc-lê-ăng mới", báo tin tức hàng ngày ở Giắc-xơn...

Bản thân Bác cũng là một nhà báo đã từng viết bài bằng chữ Anh. Khi cùng làm việc với Bô-rô-đin, cố vấn Chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ cách mạng Quảng Châu, Bác giữ nhiều nhiệm vụ quan trọng trong đó có việc phiên dịch từ tiếng Hán sang tiếng Anh và ngược lại, Bác đã viết bài và phụ trách mục tuyên truyền cho tờ Quảng Đông ra hằng ngày, báo bằng chữ Anh của Trung ương Quốc dân đảng. Đó là những ngày cuối năm 1924 và đầu năm 1925. Trong thời gian ở Hương Cảng, Bác đã làm cho hãng Thông tấn Rới-sta (Rulcta) của Anh và đã dành dụm tiền lương để nuôi anh em, đồng chí Việt Nam hoạt động ở đấy.

Bài viết chữ Anh của Bác thì nhiều lắm. Hiện nay, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng của ta còn giữ được Bản báo cáo của Bác gửi Quốc tế Cộng sản bằng chữ Anh (tháng 2 năm 1924); Bức thư Bác gửi Quốc tế Cộng sản (tháng 12/1924), bản "Đề nghị" (Proposition) và "Lời kêu gọi" (Appeal) bằng chữ Anh. Đó là những văn kiện lịch sử quan trọng.

Dưới sự chủ tọa của Bác, đại diện cho Quốc tế Cộng sản, Hội nghị thành lập Đảng họp vào ngày 03/02/1930 đã thông qua các văn kiện của Đảng, trong đó có "Lời kêu gọi" này của Bác. Hiện nay ta vẫn chưa sưu tầm được bản gốc bằng tiếng Việt của văn kiện, do đó bản tiếng Anh của "Lời kêu gọi" kèm theo Bản báo cáo của Bác gửi cho Quốc tế Cộng sản (cũng vào dịp đó) có một ý nghĩa quan trọng đối với công việc nghiên cứu lịch sử Đảng ta.

Tiếng Anh còn được Bác dùng nhiều trong việc giao thiệp tiếp xúc họp báo. Qua cuốn sách của Trần Dân Tiên, ta được biết thêm một chuyện lý thú: "Cuối năm 1944, một chiếc máy bay Mỹ lượn trên Cao Bằng và bị hỏng máy. Phi công trẻ tuổi - Trung úy Sao (Shaw) nhảy dù xuống một hòn núi gần tỉnh lỵ. Sao được Việt Minh cứu thoát.

Trước việc này, Việt Minh đã chỉ thị cho các hội viên trong toàn quốc phải cố gắng giúp đỡ đồng minh. Những người Việt Minh Nam Bộ đã liên lạc bí mật với nhiều lính Mỹ, Anh bị giam ở Sài Gòn, nhưng vì không hiểu tiếng của nhau nên họ không thể thảo luận và làm những việc có ích hơn (...) Sao rất vui sướng khi được gặp Cụ Hồ gần biên giới. Từ một tháng nay nhịn nói, Sao bây giờ có thể tha hồ nói. Sao thỉnh cầu Cụ Hồ đi với mình đến Bộ Tổng tư lệnh Không quân ở Côn Minh. Cụ Hồ vui vẻ nhận lời... Hai người chia tay sau năm ngày đi với nhau trên đất Trung Quốc (Tất nhiên là Sao đã được năm ngày tha hồ nói). Bác đến Côn Minh (Vân Nam), người Mỹ gặp Bác để cảm ơn. Sau đó Bác đi Quảng Tây và gặp Tướng Sen-nô (Chennault), Tổng Tư lệnh Không quân Mỹ ở Trung Quốc. Qua nhiều ngày nói chuyện với tướng Sen-nô, với Đại tá Hê-li-oen (Heliwell), với Trung úy Sao,... Bác nắm được nhiều tình hình. Theo Giu-lơ A-sơ trong cuốn Hồ Chí Minh - chuyện thần kỳ của Hà Nội, thì hồi ấy, "trong khi chờ đợi, Cụ đã đồng ý dịch viết và dịch nói cho "Bộ Thông tin chiến tranh của Mỹ" những tài liệu quan trọng lấy được của địch (tức của phát xít Nhật).

Qua tiếp xúc với nhiều hoạt động trên, Bác nắm được rất nhiều tin tức, Bác rất chủ động. Chúng phải tin, phục và kính nể Bác. Việc giúp Sao, việc đi thương lượng với phái bộ đồng minh (Mỹ) ở Trung Quốc, việc nhận giúp đỡ các nạn nhân của đồng minh thoát khỏi nanh vuốt phát xít Nhật… là để thực hiện một sách lược phong phú và linh hoạt hết sức có lợi cho đấu tranh cách mạng. Hồi ấy, Bác thường đến cơ quan đồng minh Mỹ trong một khu rừng ở Việt Bắc, nhờ thạo tiếng Anh nên nghệ thuật “tác chiến” đối ngoại của Bác càng thêm tài tình. Theo R. Sáp-lên, trong điều bí ẩn về Cụ Hồ Chí Minh (Enigma of Hồ Chí Minh) thì tháng 5 năm 1945, một Trung úy Mỹ tên là Giôn nhảy dù xuống Việt Bắc với mục đích nhằm xây dựng một cơ sở giúp các cá nhân của đồng minh thoát khỏi vùng do phát xít Nhật chiếm đóng. Giôn đã sống và làm việc với Bác trong vài tháng. Ngay lúc đó, Bác đã chuẩn bị cho bản "Tuyên ngôn độc lập" vẻ vang của chúng ta sau này. Bác hỏi Giôn có thể nhớ một đoạn văn của bản "Tuyên ngôn độc lập" của Mỹ không? Anh ta trả lời rằng "Tôi là một người Mỹ bình thường, tôi không thể nhớ được. Tôi có thể gọi điện đến Côn Minh và sẽ có một bản thả xuống cho tôi". Sau này Giôn rất khâm phục Bác: "Cụ dường như thực sự biết (về bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ) hơn tôi. Thực tế là, Cụ đã biết hơn tôi về hầu hết mọi thứ". Mãi sau này, Giôn vẫn còn giữ hai lá thư bằng chữ Anh mà Bác đã gửi cho anh ta ở trong rừng ngay sau khi Nhật đầu hàng đồng minh. Trong thư ấy, Bác đã dùng cả những khẩu ngữ, ví dụ Bác dùng chữ Japs (mang nghĩa xấu, có nghĩa là bọn Nhật - phát xít).

Có lần, một vị Tổng thống của một nước bạn đến thăm. Ta đón tiếp nồng nhiệt. Khách cao tuổi đi không vững. Sau khi ôm hôn, Bác dìu khách đi chậm từng bước dọc theo tấm thảm nhung đỏ. Giản dị, chân tình và khiêm nhường Bác đỡ vị khách lên bục. Khách nói tiếng Anh. Dù Bộ Ngoại giao ta đã bố trí người dịch giỏi, nhưng Bác không câu nệ thủ tục ngoại giao, nhằm tranh thủ chính trị nên đã dịch sang tiếng Việt cho mọi người nghe. Không khí gần lại. Giới ngoại giao ngạc nhiên và xôn xao. Việc làm ấy, bình thường, không phải công việc của một Chủ tịch nước, nhưng đã có sức cảm hóa lớn. Người ta thấy ngay vẻ ngạc nhiên, kính cẩn của các vị khách đối với người "phiên dịch" hiếu khách, quý bạn vĩ đại này. Ngày lên đường, trong diễn văn từ biệt, vị khách nhiều hơn Bác đến sáu tuổi và là người đứng đầu của một nước lớn này, đã kính trọng gọi Bác là "người anh cả".

Bác nghe tiếng Anh cũng thạo. Trước cách mạng, hồi còn ở Trung Quốc, Bác đã phải nghe máy thu thanh để theo dõi tin tức quốc tế nhằm phục vụ cho công tác cách mạng. Bác kể lại rằng: Việc nghe ra-đi-ô cũng không dễ, vì lần này là lần đầu tiên mó tay đến cái máy thu thanh, không biết đài nào phát, phát giờ nào và làn sóng nào. Bác thức suốt năm đêm, vặn đi vặn lại tìm nghe. Đến khuya đêm thứ sáu mới nghe được đài Luân Đôn.

Qua một số mẩu chuyện trên, ta thấy Bác giỏi tiếng Anh về nhiều mặt, cũng vì vậy nên không ai lấy làm ngạc nhiên khi trong thiên hồi ký của mình, đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nhắc đến chuyện hồi còn hoạt động bí mật ở Trung Quốc, nhiều đồng chí Trung Quốc ở Quế Dương cứ mong đồng chí Hồ Quang (một bí danh của Bác) đến công tác để dạy họ "nói tiếng Nga và tiếng Anh".

Đồng chí Hoàng Xuân Sính (giáo sư, tiến sĩ toán học) cũng nhớ lại một kỷ niệm xa xưa khi mình còn niên thiếu (khoảng 1945 - 1946).

Bác đến thăm trường nữ trung học ở Hà Nội. Sính đang học bài tiếng Anh thì Bác vào, theo sau là cô Hiệu trưởng. Cả lớp bật dậy vỗ tay nồng nhiệt. Bác ra hiệu cho tất cả ngồi xuống và Sính được tiếp tục đọc bài tập ghép vần. Giọng Sính không được bình thường vì cô bé xúc động trong niềm vui sướng bất ngờ. Vì thế, Sính phát âm sai khá nhiều. Bác đến gần Sính và ôn tồn đọc lại cho nghe những câu trong bài. Sính chăm chú đọc theo Bác, nhưng cảm động nên vẫn đọc sai. Bác kiên trì chữa lại cho từng câu. Hơi nghiêng người về phía Sính, hai tay đưa lên cổ vũ khích lệ, Bác nói dịu dàng: "Cháu đọc thế này mới đúng".

Bác Hồ với tiếng Nga

Bác bắt đầu học tiếng Nga lúc mới đặt chân lên đất nước Liên Xô, đất nước của Lênin vĩ đại. Trải qua bao nhiêu nguy hiểm, gian lao, đến khách sạn sang trọng này bình thường ra mà nói, người ta phải nghỉ ngơi một thời gian, thế nhưng Bác đã tranh thủ học tiếng Nga ngay. Và chỉ trong một thời gian ngắn, Bác đã nghe và nói được một số câu thường dùng trong đời sống hàng này. Đó là một điều làm anh bạn thân của Bác phải ngạc nhiên. Cũng với tinh thần ham học hỏi đó, mà trước sau trong khoảng 5 năm ở Liên Xô, Bác đã có thể nắm được khá thành thạo thứ tiếng thuộc dòng Sla-vơ này, thứ tiếng mà có lần Bác nói là "khó đọc lắm". Ta hiểu rằng tiếng Nga là một thứ tiếng khác xa với tiếng Việt, Hán và cả tiếng Anh, Pháp nữa. Nói chung chẳng có gì gần gũi với tiếng Việt. Có người đã nói vui rằng: Học xong sáu cách thì có một cách thứ bảy nữa là "cách chuồn!" để chỉ những ai đó học tiếng Nga không bền bỉ, thiếu quyết tâm. Nếu cố gắng thì mọi khó khăn đều có thể vượt qua được.

Anh hùng Lao động Đỗ Chanh, người đã vinh dự được gặp Bác đã kể lại rằng:

Cuối tháng 4 năm 1956, khi kết thúc khóa học, anh chị em lớp cán bộ công nghiệp sắp đi thực tập ở nước ngoài vào thăm Bác. Bác hỏi lớp bao nhiêu người, có khỏe không, vui không...

- Các cô, các chú đi Liên Xô thì có được học tiếng Nga không?

- Có ạ.

- Học mấy tháng?

- Thưa Bác, bốn tháng ạ.

- Học có tốt không?

Tất cả ngập ngừng, không ai dám trả lời. Bác chỉ mỉm cười, chỉ một đồng chí ngồi gần: - Chú nói xem nào: "Ăn".

Chả biết lúng túng thế nào, đồng chí đó phát âm sai, tiếng "ăn" gần giống như tiếng "tắm". Tất cả cười. Bác cũng cười vui.

Bác có kinh nghiệm về học và dùng tiếng nước ngoài. Đó là một điều chắc chắn, riêng tiếng Nga chẳng hạn, Bác đều luôn lưu ý học và dùng tiếng Nga trong nhiều lĩnh vực hoạt động. Thời kỳ ở Liên Xô (từ năm 1933 đến 1938) là thời kỳ Bác có điều kiện trau dồi tiếng Nga hơn cả. Bác vào học trường bổ túc các lãnh tụ do Quốc tế Cộng sản mở. Bác lấy tên là Li-nơp, giống với tên gọi Nga. Khi viết bài bằng tiếng Pháp để gửi về nước, Bác lại lấy tên là Lin cho hợp với tên gọi Pháp. Bác cũng làm việc ở Viện Nghiên cứu lịch sử phương Đông của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.

Theo đồng chí Nguyễn Khánh Toàn thì "Bác vào trường Lênin là trường Đảng cao cấp cho các lãnh tụ các nước ngoài", rồi sau chuyển hẳn sang Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời làm việc ở Quốc tế Cộng sản. Bác vào học lớp nghiên cứu sinh Ban Sử học của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Bác cũng đồng thời "nhận phiên dịch ra tiếng Việt tài liệu".

Bác đã từng viết rất nhiều bài cho một số báo chí Liên Xô như "Đời sống công nhân Ba-kin-xki", "Tiếng còi", "Tạp chí Đỏ", "Thời mới", "Sự thật"... Bác cũng từng đi nhiều nơi trên đất nước rộng lớn nhất thế giới này, từng tiếp xúc với nhiều người, nhiều tầng lớp. Vì thế, Bác nói và nghe được tiếng Nga.

Theo nhà báo Thép Mới, người được đi cùng với Bác sang thăm Liên Xô năm 1955, thì một đồng chí ở Mạc Tư Khoa cho rằng: Từ trước đến nay, những người nổi tiếng trên thế giới đến Liên Xô mà nói được tiếng Nga có đồng chí Mô-rít Tô-rê (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp), nhà nghệ sĩ da đen người Mỹ Pơn Rốp-sơn và nay có đồng chí Hồ Chí Minh nữa là ba".

Bác đã sang thăm Liên Xô nhiều lần, đi nhiều nơi, đến đâu cũng nói một ít tiếng Nga. Riêng trường “ngoại ngữ Hồ Chí Minh” ở Iec-kút, Bác đã đến thăm mấy lần. Đây là một học viện dạy tiếng nước ngoài của Liên Xô mang tên Bác vào cuối năm 1969 và là trường kết nghĩa với Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Nhà trường còn giữ lại nhiều kỷ niêm đẹp đẽ về Bác. Các đồng chí Liên Xô vẫn còn nhắc lại với lòng xúc động về những buổi gặp gỡ Bác xưa kia: Chính tiếng nước ngoài mà Bác đã dùng làm tăng thêm bầu không khí ấm cúng trong tình đoàn kết quốc tế đó.

R.Các-men, nhà điện ảnh Liên Xô, người làm bộ phim “Việt Nam trên đường thắng lợi” đã được gặp Bác trong một căn nhà nhỏ ở Việt Bắc. Bác nói chuyện với Các-men bằng tiếng Nga:

- Cụ học tiếng Nga như vậy có khó khăn không?

- Người cách mạng phải biết tiếng nói của Lênin!

M.Giu-láp-xki, nhà văn và là nhà báo Ba Lan sang thăm Việt Nam, được gặp Bác nhiều lần. Lần gặp thứ hai của ông là một ngày thu năm 1954. Giu-láp-xki bước vào một căn nhà lớp rạ, tường quét vôi trắng. Ông chưa kịp uống nước thì Bác bước vào và chào bằng tiếng Nga. Buổi nói chuyện thân mật bắt đầu. Bác ra hiệu cho đồng chí phiên dịch không phải dịch nữa, rồi ngồi nghe đồng chí phóng viên báo Sự thật (Liên Xô) nói chuyện. Đôi khi Bác trả lời lại bằng tiếng Nga. Thỉnh thoảng Bác còn nói chuyện bằng tiếng Ý với phóng viên tạp chí Đoàn kết (Unita), cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Ý; bằng tiếng Anh với phóng viên báo Công nhân (Worker), cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Mỹ. Tất cả những người nước ngoài có mặt hôm ấy đều tỏ vẻ ngạc nhiên, khâm phục. Dường như đoán được điều đó, Bác mỉm cười nói bằng tiếng Pháp:

- Các nhà báo nước ngoài thường hay kể những chuyện phóng đại về tôi. Nhưng cũng có những chuyện đúng. Khi còn trẻ, quả thật tôi có làm bồi bếp trên tàu, có đến Mỹ, Anh, Đức. Tôi cũng đã từng sống ở Pari và bắt đầu hoạt động cách mạng cùng các đồng chí Pháp. Nhiều lần tôi qua Liên Xô, Trung Quốc. Ở đâu tôi cũng được công nhân dạy cho tiếng của nước họ. Tôi sống cùng với công nhân ở Ý rồi cả ở Châu Mỹ nữa...

Đới Hoàng, một nhà văn Trung Quốc, tác giả quyển hồi ký "Ghi lại nhũng ấn tượng về Chủ tịch Hồ Chí Minh" cũng nói lên những cảm tưởng tương tự. Nhưng thời gian xảy ra trước buổi gặp mặt trên ít tháng và không gian là một địa điểm kín đáo trong rừng sâu Việt Bắc. Đó là bữa tiệc liên hoan mừng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Đới Hoàng có nhiều ấn tượng đẹp đẽ về Bác, trong đó việc sử dụng tiếng nước ngoài của Bác là một "ấn tượng" sâu sắc, Bác đã dùng tiếng Nga, tiếng Pháp thăm hỏi tình hình sinh hoạt của các bạn bè quốc tế, hỏi về việc ăn uống, nhà ở, khí hậu ở rừng xứ nóng, đường sá khô ướt ra sao... Lúc nói với Đới Hoàng, Bác lại dùng tiếng Hán.

Bữa tiệc diễn ra trong bầu không khí tưng bừng náo nhiệt. Ai cũng muốn vui chung, muốn nói lên những cảm nghĩ đang rạo rực trong lòng mình, nhưng rồi đành chịu ngồi yên vì vướng phải "hàng rào ngôn ngữ". Dường như đoán được điều đó, Bác nói: "Nào các đồng chí có gì cứ nói hết đi, tôi làm phiên dịch cho các đồng chí". Bác nhắc nhở mọi người ăn, giục "cạn chén", "không được làm khách". Câu nào cũng nói bằng đủ các thứ tiếng Nga, Hán, Pháp...

Trong thiên hồi ký của mình, Đới Hoàng cũng khâm phục nhắc đến việc Bác thường trực tiếp đọc và dịch những tác phẩm của chủ nghĩa Mác - Lênin, và đã dịch cuốn tiểu thuyết "Tỉnh ủy bí mật" của Liên Xô (tiếng Nga) sang tiếng Việt.

Lại nữa, có lần đoàn chuyên gia các nước anh em vào chúc Tết Bác. Vì trường hợp đặc biệt nên lần này không có phiên dịch. Thấy mọi người có vẻ lúng túng, Bác mỉm cười bảo: "Thôi được, Bác sẽ dịch cho!". Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói đến đâu, Bác dịch đến đấy bằng các tiếng Nga, Hán, Anh, Pháp. Các đồng chí chuyên gia nhìn Bác với một vẻ khâm phục, trìu mến. Không khí càng thêm chan hòa, thắm tình hữu nghị anh em. Sau buổi tiếp khách, Bác bảo: Dịch không phải dễ đâu, tiếng nói là phải chính xác. Bác kể có một đồng chí phiên dịch đã dịch câu "Chúc Hồ Chủ tịch mạnh khoẻ sống lâu" sang tiếng Việt là "Chúc Hồ Chủ tịch bách niên giai lão!" (Câu dùng để chúc cô dâu chú rể trong các đám cưới). Tất cả mọi người có mặt đều phá lên cười vui vẻ, đồng thời ai nấy đều hết sức thấm thía những lời khuyên của Bác.

Bác thường dùng tiếng Nga để tiếp khách, nói chuyện và thường chỉ dùng một số câu, nhưng cũng có khi Bác trò chuyện khá lâu với các đồng chí Liên Xô. Hai mẩu chuyện sau đây đã chứng tỏ điều đó.

Tơ-ra-chi-a-cốp, Thuyền phó thứ nhất tàu Giắc-gin-xki (Liên Xô) phát biểu rằng: Ngày 30/5/1957 là một ngày rất vui mừng của thuỷ thủ tàu này, vì đồng chí Hồ Chí Minh đã tới thăm tàu, đặc biệt là "trong cuộc nói chuyện thân mật với anh em thủy thủ, đồng chí Hồ Chí Minh luôn dùng tiếng Nga, mà không cần phiên dịch, chúng tôi rất vui sướng khi thấy Người nói tiếng Nga một cách thông thạo".

Xéc-gây-đô-rốp, Trưởng ban thuộc Viện Nghiên cứu toàn Liên bang về nghề đánh cá biển và bản đồ đại đương của Liên Xô đang công tác ở Việt Nam, đã đến gặp và trò chuyện thân mật với Bác vào một ngày gần cuối năm 1959. Trong thiên hồi ký viết mười năm sau, đồng chí cảm thấy sâu sắc rằng: Dù các buổi gặp gỡ có trôi qua theo năm tháng đi nữa, nhưng đồng chí vẫn nhớ rõ những chi tiết nhỏ nhất của bầu không khí vô cùng ấm cúng và thân thiết mà Người đã tạo nên.

Sáng 25/8/1957, Bác đã trực tiếp nghe được "Tiếng nói của Lênin" khi tới thăm phòng làm việc của Người ở Điện Xmôn-ni, Bác rất chăm chú nghe bài diễn văn của Lênin được thu vào băng đĩa nhan đề: "Chính quyền Xô viết là gì?". Những câu hỏi, những lời nhận xét của Người chứng tỏ rằng hiểu biết rất rõ, rất sâu sắc ngay cả các vấn đề nghiên cứu khoa học về biển, đại dương.

Tiếng nói đó cũng góp phần làm tăng thêm bầu không khí đoàn kết hữu nghị giữa các nước anh em. Nhà báo Úc Man-côm Xan-mơn (đã từng dạy tiếng Anh ở Hà Nội trong 3 năm), khi được tin Bác mất đã nhớ lại quang cảnh tiêu biểu, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, diễn ra hồi 9 năm về trước Xan-mơn thấy Bác tươi cười từ trong hội trường đi ra, hai tay quàng vai hai người đi hai bên, đó là đồng chí Trưởng đoàn đại biểu Liên Xô sang dự Đại hội lần thứ 3 của Đảng Lao động Việt Nam, và đồng chí Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc. “Chủ tịch Hồ Chí Minh rất hoạt bát. Cụ quay sang bên này nói bằng tiếng Trung Quốc, lại quay sang bên kia nói bằng tiếng Nga. Dáng người mảnh dẻ của Cụ có sức hấp dẫn hai vị khách. Cảnh tượng đẹp đẽ ấy diễn ra ngay trong ngày bế mạc đại hội, lúc các đại biểu chia tay nhau ra về”.

(Trích trong "Bác Hồ với tiếng nước ngoài")

Tâm Trang (tổng hợp)


 77. Bác Hồ với việc học tập và sử dụng tiếng nước ngoài (tiếp)

Bác Hồ với các thứ tiếng khác

Trong bản lý lịch đại biểu dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 7, Bác đã ghi: Biết các thứ tiếng Pháp, Anh, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga. Trong bản lý lịch in sẵn bằng hai thứ tiếng Anh, Pháp: "Đồng chí biết những thứ tiếng gì Bác đã viết bằng tiếng Nga để trả lời câu hỏi ấy, dưới ký tên bằng chữ Nga (Au). Như vậy là rõ: Ngay từ năm 1935, ngoài tiếng Hán, Pháp, Anh, Nga được xem là những ngôn ngữ quốc tế thông dụng ra, Bác còn biết cả tiếng Đức và Ý cũng là hai thứ tiếng quốc tế nữa.

Bác học tiếng Đức từ bao giờ?

Năm 1923, trên đường đi công tác, Bác tuy chỉ ghé qua Thủ đô Béclin trong một thời gian ngắn, Bác vẫn học và có học được tiếng Đức. Lúc học, Bác mua báo Đức để tập đọc Bác nói: "Tiền mua một tờ báo lúc đó trải rộng ra bằng cả tờ báo". Chúng ta biết rằng hồi ấy nước Đức đang bị nạn đói nghiêm trọng, nạn lạm phát tồi tệ. Theo Xanh-tơ-ni, một nhà ngoại giao Pháp thì hồi ấy ở Béclin, Bác đã học xong phần cơ bản của tiếng Đức. Nhờ biết nhiều thứ tiếng nên Bác học tiếng Đức cũng nhanh và với việc dùng thường xuyên, với phản xạ nhạy bén mà sau này Bác có thể sửa vài chỗ đồng chí phiên dịch không chính xác. Như khi sang thăm nước Cộng hòa dân chủ Đức chẳng hạn, Bác đến nói chuyện với anh chị em học sinh thực tập sinh Việt Nam cùng các thầy cô giáo Đức. Đồng chí giỏi tiếng Đức nhất lớp được cử ra dịch. Bác giới thiệu có đồng chí Bộ trưởng Bộ Giáo dục cũng đến đây, nhưng đồng chí ấy lại dịch thành Bộ trưởng Bộ Văn hóa. Bác đã chữa lại cho.

Còn nhớ có một lần, một nhà điêu khắc nước Cộng hòa dân chủ Đức tỏ ý mong đắp tượng Bác. Nể lắm Bác mới nhận lời. Trong quá trình làm việc, đồng chí ấy mới biết Bác có thể nói được nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Đức. Nhà điêu khắc tài giỏi này lúc ấy mới thấy mình lãng phí, không điều tra nghiên cứu kỹ tình hình nên đã đưa cả phiên dịch sang.

Về đọc, Bác cũng thành thạo. Khi đoàn Việt Nam đi dự Đại hội Liên hoan thanh niên thế giới ở Đức về, đang tự học quanh đống lửa thì Bác đến. Một người đưa cho Bác một lá thư dài bằng tiếng Đức. Đây là thư của một tù binh Đức trong quân đội lê dương bị bắt trong chiến dịch biên giới năm 1950. Do chính sách khoan hồng nhân đạo của Chính phủ ta nên anh được trao trả về nước. Người tù binh ấy hiểu rõ sự thật, trong thư, anh gửi tặng Bác ảnh hai vợ chồng, anh báo tin là vợ anh có mang, anh xin Bác nhận làm cha đỡ đầu cho đứa trẻ... Bác dịch ngay tức khắc cho mọi người nghe, dịch tới đâu ai nấy đều phá lên cười vui vẻ đến đấy...

Như vậy là, tiếng Đức tuy Bác ít sử dụng và không được thành thạo bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Nga của Bác thế nhưng nhiều người - kể cả người Đức - cũng vẫn kinh ngạc về vốn liếng thứ tiếng của Mác - Ăngghen này của Bác. V.Xan-bao, Ủy viên thường trực Ban Thư ký Ủy ban đoàn kết với Việt Nam của Cộng hòa dân chủ Đức được gặp Bác. Đồng chí cảm thấy "một điều rất lạ là sau 37 năm trời - kể từ năm Bác qua hoạt động bên nước Đức - Bác vẫn nói tiếng Đức một cách chính xác".

Về tiếng Ý, cũng có một mẩu chuyện vui vui. Khi còn hoạt động bí mật ở nước ngoài, trên đường đi công tác, Bác ghé qua nước Ý. Đến biên giới, bọn cảnh sát canh gác biên phòng của bọn phát xít đã giở xem quyển "Tự điển chống cộng quốc tế" dày khoảng 2000 trang, ghi tên tuổi những người cách mạng các nước từ vần A đến vần Z. Khi không thấy tên mới của Bác trong đó, chúng chào lễ phép: "Mời ông cứ đi”. Thế là Bác vào được nước Ý, nơi mà phụ nữ "hát rất hay", "trong như tiếng chuông". Bác đã đến cửa biển Náp-lơ, đi thăm núi lửa Vê-xu-vô, di tích phố Pom-pê-i, Thủ đô Rôm và đến dự hội chợ Mi-lăng. Ở đây có một cái tháp cao, lên tháp xem phong cảnh xung quanh phải mua vé. Bác đã chào cụ già gác tháp và hỏi bằng tiếng Ý: "Sao cụ, đời sống thế nào?", "Ôi, khổ lắm ông ạ! Biết bao giờ sẽ chấm dứt chế độ này". Rời ý, Bác đáp tàu Nhật sang Xiêm.

Về Xiêm (nay gọi là Thái Lan), Bác lấy tên là Thầu Chín, hoặc Chín Thầu nghĩa là ông già Trung Quốc. Bác đóng vai một nhà báo Trung Quốc. Theo đồng chí Lê Mạnh Trình, người xưa kia đã được Bác dạy bảo thì bây giờ "việc tổ chức kiều bào còn mắc bệnh hẹp hòi: Ở đất nước người ta lâu mà tiếng Xiêm, chữ Xiêm cũng không học, vì anh em cho rằng không bao lâu nữa, không đi nước ngoài thì cũng về nước để tuyên truyền, vận động, chứ chẳng ăn đời ở kiếp ở nơi đây. Mặt khác, tình hình có nhiều khó khăn, phong trào trong nước bị khủng bố dữ dội, anh em thấy tiền đồ cách mạng còn đen tối". Trước tình hình ấy, Bác chủ trương làm cho quần chúng Xiêm có cảm tình với cách mạng Việt Nam", "xin phép Chính phủ Xiêm cho lập trường học cho trẻ em Việt kiều, khuyến khích mọi người học tiếng Xiêm". Thầu Chín cổ động mọi người trong cơ quan hợp tác cùng học chữ Xiêm; số người cùng học được mươi người. Khi đặt chương trình, Thầu Chín đề ra trong thời gian đầu, mỗi ngày học 10 chữ, về sau tăng dần lên. Mọi người chê ít, đòi học nhiều hơn.

Thầu Chín chủ trương học 10 chữ thôi. Mọi người cho rằng nhất định mình học được. Chưa đầy 3 tháng, Thầu Chín đã xem được báo chữ Xiêm (còn những người khác thì chỉ hăng hái, vồ vập lúc đầu, về sau dần dần "bữa đực bữa cái". Kết quả "chữ thầy lại theo thầy! ").

Lớp học tiếng Xiêm kể trên là lớp học ngoài giờ làm việc, "lớp không chuyên", thì sức học như Bác đề ra là hợp lý, bảo đảm thành công mà trí nhớ không bị suy yếu vì học quá nhiều, quá khó trong một lúc, nhất là vào thời gian đầu. Sở dĩ Bác học chữ, tiếng Xiêm được nhanh và tốt như vậy, là nhờ mục đích cao đẹp tạo nên sự say mê, hào hứng, thái độ nghiêm túc kiên trì, kinh nghiệm già dặn trong việc học tiếng nước ngoài, cộng với một sự hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ của Bác.

Chính nhờ nhiều nhân tố học tập đó mà trong quá trình học tập, rèn luyện, Bác Hồ kính yêu của chúng ta cũng đã nắm được tiếng Tây Ban Nha. Do thông thạo tiếng Anh, Pháp, Bác học tiếng Tây Ban Nha chẳng lấy gì làm khó khăn cho lắm. Hơn nữa, con người với "đôi bàn chân đã đi khắp thế giới" ấy, từng đặt chân lên nhiều nơi ở vùng châu Mỹ La-tinh như Pa-na-ma, U-ru-goay... là những nước nổi tiếng như Tây Ban Nha, lại còn đến cả Tây Ban Nha nữa, thì chắc rằng cái vốn của thứ tiếng quan trọng đứng hàng thứ ba về số người nói (sau tiếng Hán và Anh) này của Bác cũng không phải là quá ít ỏi. Trước khi trúng cử Tổng thống nước Cộng hòa Chi-lê, ông Xan-va-đo A-gien-đê Gớt-xen đã sang thăm Việt Nam. Tháng 6/1969, A-gien-đê được gặp người tượng trưng cho cả dân tộc Việt Nam: Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vị chính khách được gặp Bác này bày tỏ niềm kính phục vô hạn trước đức độ, tài năng của Bác. Riêng về tiếng nước ngoài, xin trích ra đây một đoạn "băng ghi âm" cuộc nói chuyện giữa Tổng thống và nhà báo Pháp Rê-gi Đơ-bray:

Đơ-bray: Đồng chí Hồ Chí Minh rất giản dị trong cách đối xử.

A-gien-đê: Thái độ của Người giản dị không thể tưởng tượng được. Trong cách đối xử với chúng tôi, Người thân ái một cách đặc biệt! Nổi bật khi Người nói với chúng tôi bằng tiếng Tây Ban Nha: "Cảm ơn các đồng chí!" và bao giờ cũng vậy, Người nói thêm: "Đất nước các đồng chí ở xa quá!". Tôi ngạc nhiên hỏi: “Người học tiếng Tây Ban Nha ở đâu?”. Người kể rằng, trước đây, Người đã từng đi dọc bờ biển châu Mỹ Latinh làm phụ bếp trên những tàu buôn. Con người từng bôn ba ở nước ngoài, từng kiếm sống bằng nghề nấu bếp bình thường ấy đứng trước chúng tôi giản dị như thế mặc dù có một sức hút mạnh mẽ trên thế giới. Đồng chí Hồ Chí Minh hiểu rất rõ thực tế của các dân tộc chúng ta.

Chẳng những Bác hiểu rõ thực tế của các dân tộc Hán, Pháp, Anh, Nga mà còn hiểu cả tiếng nói của các dân tộc ấy nữa. Nhằm phục vụ cho lý tưởng cao đẹp của mình, Bác chẳng nề hà ngần ngại điều gì. Một mặt, Bác học tiếng Hán, Pháp, Anh, Nga... là những thứ tiếng nước ngoài có ý nghĩa "thế giới", "quốc tế" của nó, mặt khác khi cần thiết, Bác cũng học cả một vài thứ tiếng ít được dùng trên thế giới như tiếng Xiêm, Tiệp, và những thứ tiếng của các dân tộc ít người sống trên lãnh thổ Việt Nam, chỉ lưu hành trên với vùng nhỏ hẹp mà thôi. Ở Viện Bảo tàng Cách mạng, chúng ta vẫn còn giữ được bút tích Bác học tiếng Tày hồi ở Việt Bắc như thế nào. Mới về Pác Pó, chẳng bao lâu, Bác đã nói được tiếng Nùng, giao thiệp với đồng bào ở vùng "quê hương thứ hai" của Bác (người Pác Pó nói tiếng Nùng). Chẳng những thế, Bác còn đặt một bài hát bằng tiếng Nùng rồi dạy dần cho các đồng chí ở xung quanh. Đó là “Bài hát thiếu niên cứu quốc hội" theo một điệu dân ca Nùng, một số câu dịch ra tiếng Kinh đại ý như sau:

Thiếu niên ta ở trong cứu quốc hội

Phải học để cứu nước nhà

Theo người lớn đánh Tây đuổi Nhật

Ta tự cứu lấy ta...

Bác đã đi hầu hết các tỉnh miền núi ở miền Bắc, Bác lên vùng cao cũng như xuống vùng thấp, quen biết rất nhiều địa phương. Nhiều khi vào một bản, nhân dân quây quần lại, khi thì Bác nói tiếng Kinh, lúc lại nói tiếng Tày, Nùng... tiếng quê hương của các dân tộc ít người. Bác thường khuyên cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền ngược cần phải học tiếng địa phương, nếu không như vậy thì "nửa câm nửa điếc", "khó gần gũi quần chúng". Bác nói: "Người Kinh lên miền núi công tác phải học cho được tiếng dân tộc. Không học tiếng dân tộc, bà con bảo đau đầu lại cho thuốc đau bụng, thể là bệnh chẳng khỏi mà có khi gây nguy hiểm chết người nữa", "Người dân tộc này phải học tiếng nói của người dân tộc khác để hiểu biết nhau hơn, giúp đỡ nhau học tập dễ dàng hơn và sau này nếu đi công tác ở vùng không phải dân tộc mình, cũng làm việc được tốt hơn".

Anh hùng La Văn Cầu người dân tộc Tày, đại biểu Quốc hội được gặp Bác. Trong câu chuyện đậm đà giữa Bác và người anh hùng đã nhờ đồng đội chặt tay mình để xông lên diệt địch này, Bác có dùng xen vào tiếng dân tộc "Bác phát âm, dùng từ rất đúng". Bác đề nghị anh nói chuyện cho một số người ở cơ quan trung ương nghe. Anh e ngại vì tiếng phổ thông (tiếng Kinh) chưa thành thạo, mà nói tiếng Tày thì người nghe lại không hiểu. Bác động viên: "Cháu biết tiếng phổ thông thế nào thì cứ nói thế ấy!”. Nhờ sự cổ vũ của Bác, anh đã nói chuyện thành công. Sau đấy, Bác lại còn khuyên bảo thêm: Cháu nói được tiếng phổ thông rồi, nhưng muốn nói thạo hơn, thì nên xem nhiều sách báo và mạnh dạn dùng tiếng phổ thông, không sợ sai, sai sẽ sửa, trước lạ sau quen".

Biết bao nhiêu đồng chí ta nhờ vâng theo lời Bác mà đạt được nhiều thắng lợi trong công tác, vừa giỏi chính trị chuyên môn lại vừa giỏi tiếng dân tộc (hoặc tiếng Kinh), tăng cường đoàn kết, giúp đỡ nhau, cùng dắt tay nhau vươn lên, vươn mãi. Và chính Bác cũng là hiện thân của đoàn kết, nguồn gốc của mọi thắng lợi - đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong nội bộ từng dân tộc, giữa các dân tộc với nhau, giữa dân tộc ít người với dân tộc nhiều người, đoàn kết giữa nhân dân ta với nhân dân thế giới.

(Trích trong "Bác Hồ với tiếng nước ngoài")

78. Để các cháu làm chủ

Cũng chính tại ngôi nhà của Bác ở Phủ Chủ tịch có một sự kiện đáng ghi nhớ, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Bác Hồ với thiếu nhi. Từ ngày 22/6 đến ngày 11/7/961, Bác đã dành chỗ đó cho các cháu làm phòng triển lãm "Thiếu nhi với 5 điều Bác Hồ dạy". Trong 20 ngày, có gần 10 vạn thiếu nhi đến xem triển lãm và vui chơi trong dịp hè. Bác Hồ, Bác Tôn đã đến nói chuyện và dự liên hoan với 2.000 thiếu nhi trong buổi bế mạc ngày 11/7/1961.

Đồng chí phục vụ Bác cảm thấy như vẫn còn sôi động khi vào dịp hè năm 1961 các cháu thiếu nhi tổ chức triển lãm "Làm theo 5 điều Bác Hồ dạy" trong nhà khách Phủ Chủ tịch.

Trung tâm triển lãm chính là phòng khách long trọng của ngôi nhà. Nhiều em lần đầu tiên được đến nơi này thích lắm, chỗ nào cũng sờ, sung sướng lăn cả ra nhà, ra bãi cỏ.

Những tiếng hát, tiếng cười nói vang vang, đúng là ngày hội. Có đồng chí sợ tiếng loa làm ảnh hưởng sang các cơ quan xung quanh nên xin Bác bỏ bớt loa đi, nhưng Bác bảo:

- Triển lãm của các cháu phải để loa mới vui.

Bác còn nhắc phải có nhiều kem, xi-rô, nước và bánh kẹo để phục vụ các cháu.

Thỉnh thoảng những khi nghỉ, Bác cũng ra xem các cháu vui chơi. Có hôm Bác đi dạo ở phía dưới, thấy một phòng có kê các ghế băng. Bác hỏi các đồng chí ghế đó để làm gì. Đồng chí phục vụ thưa:

- Thưa Bác để dành cho các cháu bị mệt ạ. Thấy vậy, Bác bảo:

- Sao dành cho các cháu mà lại không có giường?

Ngày hôm sau, các đồng chí phục vụ triển lãm đã liên hệ với Bộ Y tế, và các ghế băng được xếp lại nhường chỗ cho những chiếc giường xinh xắn.

Bác Hồ là như vậy. Khách của Bác, dù là những người nhỏ bé nhất cũng luôn được tôn trọng và quan tâm chu đáo.

(Trích trong "Bác Hồ, người Việt Nam đẹp nhất")

79. Dưới gốc đa Tân Trào

Qua mấy ngày lội suối, tắt rừng, vượt đèo, đoàn đại biểu Hà Nội do đồng chí Hoàng Đạo Thúy dẫn đầu đã tới cây đa Tân Trào, điểm liên lạc cuối cùng.

Toàn đoàn khá mệt, ngồi nghỉ dưới gốc đa, có liên lạc đón và mời nước chè tươi.

Toàn đoàn đang ngắm nhìn chiến khu với sự cảm kích, hào hùng - Bởi rừng già hùng vĩ, núi non trầm mặc. Vừa lúc ấy, từ bản gần đó, một đoàn người đi ra, người quần áo Tày, người quần áo Dao. Dẫn đầu đoàn người là một cụ già mặc quần áo Tày, đội mũ sợi màu chàm, tay chống gậy. Được biết, đó là nhân dân địa phương ra đón đoàn đại biểu Hà Nội.

Đoàn đại biểu Hà Nội vội đứng lên chào mừng nhân dân địa phương. Sau phút chào hỏi vui vẻ, đồng chí Hoàng Đạo Thúy cử đồng chí Nguyễn Tài, Ủy viên dân vận của đoàn ra nói chuyện cùng nhân dân địa phương. Còn cả đoàn xin phép được ngồi nghỉ dưới gốc đa liền đó để chờ thượng cấp.

Được gặp đồng bào ở chiến khu, với niềm tự hào là đại biểu của Hà Nội đi dự Quốc dân Đại hội (8/1945), đồng chí Nguyễn Tài dùng hết khả năng tuyên truyền của mình để nói chuyện với đồng bào: Nào là tội ác của Pháp cùng Nhật xâm lược nước ta, cướp bóc thóc lúa, để hàng triệu đồng bào ta bị chết đói; nào là phát xít Đức đã đầu hàng; Hồng quân Liên Xô đã đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật; nào là lực lượng Việt Minh ta ở Hà Nội rất mạnh, khắp nước cũng rất mạnh. Thời cơ nổi dậy giành độc lập đã tới, v.v... Chúng ta lại có lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo...

Đồng chí Nguyễn Tài vừa nói tới đây thì cụ già - người dẫn đầu đoàn nhân dân địa phương vỗ tay ngắt lời, nhân dân cùng vỗ tay hoan hô theo. Ông cụ ra hiệu, một nữ đại biểu từ trong đoàn nhân dân đứng ra đáp lời: “Nhân dân Tân Trào rất cảm ơn đoàn đại biểu Hà Nội đã về dự Đại hội. Đại biểu vừa rồi đã nói chuyện với nhân dân nhiều ý hay, lời đẹp. Dân ở đây cũng được cán bộ Việt Minh, nhất là ông Ké dạy bảo nhiều. Hợp với ý của đại biểu vừa nói. Như vậy là xuôi ngược một lòng cứu nước. Chúc các đại biểu Hà Nội thu nhiều kết quả”.

Nữ đại biểu phát biểu xong, thì nhân dân trở về bản. Đoàn đại biểu Hà Nội cũng đứng dậy, đôi bên vẫy chào nhau.

Ông cụ vẫy đồng chí Nguyễn Tài lại gần, cầm tay như dắt đi. Vừa đi, vừa hỏi:

- Đồng chí thấy nữ đại biểu nói thế nào?

- Dạ, nữ đồng chí ấy nói ngắn, nhưng thể hiện trình độ khá cao. Cháu đang băn khoăn là mình nói hơi thừa...

Ông Ké tủm tỉm cười, nhẹ nhàng bảo đồng chí Tài:

- Chú cần nhớ là Hà Nội bị địch chiếm trước, trên này bị địch chiếm sau. Bây giờ trên này lại được giải phóng trước, Hà Nội vẫn bị quân giặc cướp nước thống trị. Cho nên người đi sau không nên chỉ đường cho người đi trước.

Đồng chí Nguyễn Tài giật mình nhìn ông Ké: Trời ơi! Ông già miền núi gầy gò, mảnh khảnh kia nói đơn giản nhưng đầy ý nghĩa: "Người đi sau sao lại chỉ đường cho người đi trước". Đồng chí Nguyễn Tài vội nắm chặt tay ông già: "Cháu hiểu ra rồi ạ". Nhìn theo bóng ông cụ bước đi, Nguyễn Tài thầm nghĩ: "Việt Minh mình có những sức mạnh, chính là ở những con người này đây”.

Thấy đồng chí Nguyễn Tài đi theo ông Ké một lát rồi bần thần đứng lại, đồng chí Hoàng Đạo Thúy liền tới gần và hỏi: "Ông Ké bảo gì, mà cậu ngẩn ngơ ra vậy?".

Đồng chí Nguyễn Tài kể lại lời ông Ké. Đồng chí Hoàng Đạo Thúy gật đầu bảo: "Phải nhắc nhở anh chị em mình, trò chuyện với nhân dân vùng giải phóng, phải cẩn trọng". Nhìn theo bóng ông Cụ, rồi đồng chí Thúy thầm thì với đồng chí Tài: "Không khéo ông Ké ấy chính là cụ Nguyễn Ái Quốc đấy!".

Đến ngày khai mạc Quốc dân Đại hội, những băn khoăn đó của hai đồng chí mới được rõ ràng: Ông Ké ấy chính là cụ Nguyễn Ái Quốc.

(Trích trong "Những ngày được gần Bác")

Tâm Trang (tổng hợp)

Bài viết khác: